Phương hướng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010

Lời mở Đầu Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá cùng với sự tiến bộ khoa học công nghệ trong thập kỷ tới sẽ làm gia tăng một cách nhanh chóng sức ép cạnh tranh đối với từng nền kinh tế, kể cả những nước công nghiệp mới và những nước đang phát triển. Tình hình đã đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thử thách mới cũng như cơ hội mới. Để vượt qua thử thách này đồng thời tận dụng được cơ hội, nền kinh tế Việt Nam cần thu hút mọi nguồn đầu tư có thể có trong và ngoài nước nhằm thông qua đó nâng cao khả n

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng cạnh tranh của toàn nền kinh tế. Việc hình thành và phát triển các KCN là tất yếu kinh tế của nhiều quốc gia nhất là các nước đang phát triển như nước ta nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trính hội nhập khu vực và thế giới. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ : " Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các KCN, KCX và coi phát triển KCN là một giải pháp quan trọng mang tính đột phá nhằm tạo thuận lợi thu hút đầu tư, tiết kiệm nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái tạo ra một cục diện mới về công nghiệp tập trung trong một khoảng thời gian dài nhất định." Thực chất công nghiệp hoá ở nước ta cũng như thành phố Hà Nội là chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việc phát triển KCN là giải pháp thực tế để khắc phục tình trạng lạc hậu cả về cơ cấu sản xuất và công nghệ, tình trạng đầu tư dàn trải. Phát triển KCN đặt nền móng cho bước tìm tòi phát triển mô hình kinh tế năng động, làm tác dụng “đầu tầu” có sức lan toả và dẫn dắt đối với sản xuất công nghiệp trong nước. Hà Nội là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của cả nước đã có quá trình phát triển công nghiệp lâu dài nhưng hiện nay đang đứng trước những thử thách trong quá trình hội nhập. Để thực hiện được vai trò trung tâm phát triển cải cách một cách sâu sắc cơ cấu công nghiệp. Khắc phục tình trạng ách tắc về thị trường, công nghệ lạc hậu, về chất lượng và giá cả sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tương lai, Hà Nội cần khắc phục và cải thiện các khu công nghiệp cũ đồng thời hình thành và phát triển các KCN tập trung trên địa bàn. Nhận thức rõ vai trò và vị trí của KCN trong tiến trình hội công nghiệp hoá - hiện đại hoá của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài "Phương hướng và giải pháp phát triển các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010 " làm luận văn tốt nghiệp. Qua đó giúp tôi tìm hiểu sâu hơn về lý luận cũng như thực tiễn của việc phát triển các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội, và tôi cũng mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị có tính chất tham khảo về định hướng phát triển của các KCN nêu trên. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: KCN tập trung và vai trò của nó đối với sự nghiệp CNH-HĐH. Chương II. Thực trạng của các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội. Chương III. Phương hướng và giải pháp phát triển các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010. Nội dung nghiên cứu của đề tài Đánh giá vai trò của các KCN, KCX trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và kinh nghiệm của một số địa phương trong quá trình hình thành và phát triển các KCN có thể vận dụng cho Hà Nội. Đánh giá thực trạng tình hình xây dựng, phát triển các KCN và KCX Hà Nội, khả năng thu hút đầu tư của các dự án trong nước và ngoài nước vào các KCN của Hà Nội trong thời gian sắp tới. Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ và chất lượng các dự án đầu tư vào KCN Hà Nội đến năm 2010. Từ thực trạng nghiên cứu và những giải pháp đã lựa chọn để đưa ra những đề xuất kiến nghị với các cơ quan hữu quan cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích hoạt động đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN của Hà Nội nhanh, có hiệu quả ngày càng cao. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu từ thực tiễn và cơ sở khoa học của thực trạng xây dựng và phát triển các KCN, KCX với những chính sách luật pháp hiện hành trên lĩnh vực đầu tư được áp dụng cho từng KCN, từng địa phương. Nghiên cứu tài liệu, giới thiệu kinh nghiệm và kết quả hoạt động các KCN, KCX của một số tỉnh phía Nam để có tư liệu, phân tích, so sánh và đề xuất những giải pháp hữu hiệu. Nghiên cứu các chính sách và cơ chế quản lý KCN hiện hành. Chương I KCN tập trung và vai trò của nói đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. I. Vai trò của KCN tập trung trong quá trình CNH-HĐH 1. Khái niệm KCN. Nói tới khu công nghiệp tức là đề cập đến một phương thức đặc biệt của một khái niệm chung hơn, trong đó chứa đựng các hình thức tổ chức như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đây là nơi tập trung vốn và các nguồn nhân lực khác tạo nên hạ tầng tốt hơn, áp dụng một chế độ ngoại lệ so với quy định chung để khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực đã đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và được thực thi trên một bộ phận phạm vi lãnh thổ, một khu vực có ranh giới địa lý xác đinh. Mục tiêu của việc thành lập các khu này là để tập hợp các điều kiện thuận lợi cả cứng ( hạ tầng kỹ thuật ) và mềm (cơ chế quản lý) nhằm cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh, nâng cao hoạt động thương mại, công nghiệp. Theo quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ đưa ra khái niệm khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCN), khu công nghệ cao (KCNC) cụ thể: Khu công nghiệp (KCN): là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Khu chế xuất (KCX) : là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất, chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ thành lập. Khu công nghệ cao (KCNC) : là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các dân cư hoạt động phục vụ cho phát triển công nghiệp cao gồm nghiên cứu – triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất. Phân biệt KCN và KCX qua một số đặc điểm đặc trưng cho từng loại hình. - Thứ nhất, KCX xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu, còn KCN mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp, kể cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Do vậy KCN có thể bao gồm cả doanh nghiệp chế xuất. - Thứ hai, Các công ty 100% vốn trong nước có thể được vào KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Thứ ba, Các công ty sản xuất kinh doanh trong KCN sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định. Trong đó đặc biệt ưu đãi đối với những hãng sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những hãng này nằm trong KCN sẽ được hưởng ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng chế độ ưu đãi trong KCN. Thứ tư, xét về lợi thế KCN vừa gắn với mục tiêu xuất khẩu vừa thực hiện nâng cao khả năng sản xuất của thị trường nội địa mang những chức năng hiệu quả cao hơn KCX. Các lợi thế này thể hiện ở chỗ : + Tăng khả năng cung cấp nguyên liệu từ thị trường trong nước. + Tăng khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và quốc tế. + Tăng khả năng sử dụng nhân công với chi phí thấp hơn so với nhân công ở KCX. + Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp đặc biệt là đất trồng cây lương thực, nhằm giữ được an toàn lương thực quốc gia trong chiến lược dài hạn. + Gắn liền phát triển công nghiệp với quy hoạch đô thị và phân bổ dân cư. + Gắn liền phát triển công nghiệp với đảm bảo an ninh quốc phòng. Còn đối với KCNC, đặc trưng cơ bản của khu vực này là nơi sản xuất các sản phẩm có chất lượng công nghệ cao, nơi gắn liền giữa sản xuất ứng dụng và nghiên cứu khoa học. Phần lớn các KCNC được mệnh danh là các thành phố khoa học, công viên khoa học hoặc làng khoa học…So với các KCN, KCX ở đây các sản phẩm được sản xuất theo công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra những đột phá trong phát triển công nghệ và công nghiệp quốc gia. Đôi khi, một số sản phẩm hoặc một số công trình nghiên cứu được sử dụng dưới dạng thử nghiệm. KCNC được xây dựng trên cơ sở hạt nhân là các viện nghiên cứu khoa học đầu đàn, các trường đại học lớn gắn liền với các khu thí nghiệm và các xưởng sản xuất hỗ trợ. KCNC có thể xây dựng mới hoàn toàn ngay từ đầu hoặc là do yêu cầu của các KCX, KCN tập trung. 2. Những đặc điểm chủ yếu và các loại hình KCN. 2.1. Những đặc điểm chủ yếu của KCN. - KCN là khu vực tập trung các doanh nghiệp công nghiệp trong một khu vực có ranh giới xác định, sử dụng chung một kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Vì vậy các doanh nghiệp trong KCN có điều kiện tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng một số quy chế riêng của Nhà nước và của địa phương sở tại. Nhà nước chỉ quy định những ngành và doanh nghiệp loại nào được khuyến khích phát triển và loại nào không được đặt trong khu do yêu cầu bảo vệ môi trường và quốc phòng an ninh. - Khả năng hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp trong khu công nghiệp rất thuận lợi vì nằm trên tiểu vùng. - KCN có ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Riêng KCX có những đặc điểm sau đây: + Có giới hạn địa lý hẹp, khu vực này được khép kín và cách biệt với vùng còn lại của lãnh thổ. + Các doanh nghiệp đầu tư vào KCX được hưởng ưu đãi đặc biệt theo quy định của Nhà nước thông qua thuế, thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh. + Sản phẩm của các doanh nghiệp trong khu chế xuất dùng để xuất khẩu. Với những đặc điểm cơ bản trên đây có thể thấy về thực chất là một KCN đặc biệt thu hút đầu tư nước ngoài, áp dụng công nghệ mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào những ngành và những vùng trọng điểm. 2.2. Phân loại KCN. Mặc dù có những đặc điểm chung, những KCN còn có những nét đặc thù thể hiện tính đa dạng của nó một cách tổng quát có thể chia KCN thành 4 loại: Một là, Các KCN được thành lập trên khuôn viên đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, KCN Khánh Hoà, KCN Liên Chiểu (Đà Nẵng), KCN Bình Dương, KCN Tân Tạo, Bình Chiểu (TP HCM), KCN Sài Đồng B (Hà Nội)... nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KCN theo đúng quy hoạch mới, đồng thời tạo hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt việc phát triển KCN, có điều kiện xử lý chất thải công nghiệp. Đối với KCN thuộc loại này thì vấn đề quan trọng nhất là nhanh chóng nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, nhất là các công trình xử lý chất thải công nghiệp, đồng thời đảm bảo tính phù hợp trong quy hoạch xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thuận tiện cho các doanh nghiệp sử dụng. Hai là, các KCN được hình thành nhằm đáp ứng yêu cầu cho việc di dời các nhà máy, xí nghiệp đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do nhu cầu chỉnh trang đô thị và bảo vệ môi trường, môi sinh mà phải chuyển vào KCN. Hiện nay, do các thành phố phát triển nhanh và quy mô lớn hơn, dân cư tập trung đông hơn nên các cơ sở công nghiệp đã xây dựng trong nội thành chẳng những gây mất mỹ quan cho cảnh quan thành phố mà còn gây ô nhiễm môi trường sống cho dân cư đô thị. Việc mở rộng các cơ sở này đổi mới công nghệ khó thực hiện do không còn diện tích đất và xử lý hạ tầng, bảo vệ môi trường tốn kém. Thuộc diện cần thiết phải di dời có nhiều cơ sở. Do đó việc hình thành các KCN phục vụ nhu cầu di dời là yêu cầu khách quan thực hiện càng sớm càng tốt. Ba là, KCN hiện đại và có quy mô lớn xây dựng mới. Thuộc loại KCN này, hiện nay có 20 trong đó có 13 khu (kể cả KCX) do các công ty nước ngoài đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, như KCN Hải Phòng – Nomura, KCN Singapore, KCN Long Bình – Amator, KCN Bắc Thăng Long... Nhìn chung các KCN này có tốc độ xây dựng hạ tầng tương đối nhanh và chất lượng hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có hệ thống xử lý chất thải công nghiệp tiên tiến, đồng bộ có một số khu vực có nhà máy phát điện riêng, tạo điều kiện hấp dẫn đầu tư đổi mới, các công ty nước ngoài có công nghệ tiên tiến, có khả năng tài chính và làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Khả năng vận động xúc tiến đầu tư có điều kiện hơn do bên nước ngoài tham gia liên doanh rộng ở nhiều nước, có kinh nghiệm tiếp thị. Bốn là, KCN có quy mô nhỏ gắn liền với nguồn nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản được hình thành ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Trung du Bắc Bộ và Duyên Hải Miền Trung. Quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng trong thế kỷ 21 sẽ đặt ra những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, tạo ra những đặc trưng mới cho bộ mặt các KCN. Cách phân loại trên sẽ phục vụ cho việc tạo ra những thông tin phong phú và hữu ích cho các cấp quản lý và hoạch định chính sách. 3. Nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành KCN 3.1. Điều kiện hình thành KCN. Quá trình hình thành các KCN mới, cải tạo mở rộng các KCN cũ phải tuân thủ những điều kiện sau: Một là, trên cơ sở đường lối của Đảng và Nhà nước chiến lược phát triển kinh tế xã hội, yêu cầu phát triển Công nghiệp trong tương lai của thành phố vừa xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các loại hình KCN trên địa bàn phù hớp với định hướng phát triển và phân bố công nghiệp một cách hợp lý. Hai là, xây dựng quy hoạch cụ thể và mặt bằng KCN * Về quy hoạch phát triển cụ thể KCN - Đối với KCN mới: + Xác định diện tích KCN bao gồm khu sản xuất, khu thương mại, khu làm việc. + Số lượng các doanh nghiệp và các ngành nghề chủ yếu. + Xác định nhu cầu lao động, nước điện và khả năng đáp ứng khác. + Sơ đồ mặt bằng KCN: Sơ đồ phân bố các doanh nghiệp trong KCN, các công trình công cộng: công viên, cây xanh. + Tiến độ xây dựng cho từng hạng mục công trình bao gồm dự án khả thi, giấy phép xây dựng và đấu thầu xây dựng, kế hoạch đền bù và giải phóng mặt bằng. + Xác định các hạng mục công trình liên quan đến các hạng mục ngoài hàng rào. Đối với KCN cũ: + Đánh giá thực trạng của từng khu tìm ra những bất hợp lý về thị trường, công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, môi trường. + Xác định những doanh nghiệp có thể cải tạo, những doanh nghiệp phải di dời ra ngoại vi. + Lựa chọn các phương án cải tạo di dời có hiệu quả. Ba là, triển khai xây dưng KCN bao gồm lựa chọn các đối tác xây dựng có uy tín, triển khai xây dựng theo các hạng mục công trình. Bốn là, khuyến khích đầu tư vào KCN thông qua cơ chế hấp dẫn mang tính cạnh tranh so với các tỉnh và thành phố khác. Những nội dung chủ yếu của việc xây dựng phương án KCN là: Những căn cứ xây dựng phương án: + Dự báo nhu cầu sản phẩm trong và ngoài nước. + Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp trong vùng nghiên cứu, vùng có ảnh hưởng. + Khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư (số lượng các nhà đầu tư thuê đất) sau khi xây dựng KCN. + Những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng KCN: vị trí địa lý, môi trường thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực. -Nội dung phương án: + Lựa chọn doanh nghiệp bố trí vào KCN đối với KCN mới; cải tạo mở rộng, thu hẹp đối với KCN cũ. Quá trình này được tiến hành một cách thường xuyên dưới áp lực của thị trường. + Hình thành các biện pháp về mặt kỹ thuật, công nghệ, tổ chức thực hiện phương án hình thành KCN trên cơ sở lựa chọn các phương án tối ưu. + Phân tích mối liên hệ giữa các bộ phận cấu thành KCN (các doanh nghiệp nòng cốt, doanh nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp dịch vụ). 3.2. Mô hình quản lý các KCN ở nước ta. Để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ, ở Trung ương có ban quản lý các KCN Việt nam. Với nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn các ngành các địa phương tổ chức thực hiện. Ban quản lý KCN cấp tỉnh, thành phố là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN, KCX trong phạm vi địa lý hành chính của mình. Các KCN chịu sự quản lý trực tiếp của ban quản lý các KCN cấp tỉnh. Sơ đồ: Mô hình quản lý KCN ở nước ta Thủ tướng Chính phủ Các cơ quan Bộ, ban, ngành TW UBND cấp thành phố, cấp tỉnh Ban quản lý các KCN Việt Nam Ban quản lý các KCN cấp tỉnh KCN - KCX 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành của các KCN. Qua đánh giá tổng kết kinh nghiệm xây dựng KCN, KCX các nhà kinh tế trên thế giới đã rút ra 10 yếu tố quyết định sự thành công của các khu này. Đây cũng là những nguyên tắc cơ bản mà các nước đang phát triển như nước ta cần phải quán triệt và tuân thủ khi hình thành các KCN, KCX của mình. Các yếu tố này bao gồm: + Lao động nhiều giá rẻ nhưng có chất lượng tốt. + Tình hình chính trị xã hội ổn định. + Chế độ giảm thuế rộng rãi và các thủ tục thuế đơn giản. + KCN, KCX nằm gần các tuyến đường giao thông đường bộ, hàng không, đường thuỷ và các điều kiện thuận lợi khác. + Phương tiện thông tin nhanh chóng và giá dịch vụ thấp. + Nguồn điện ổn định. + Nguồn nước công nghiệp đạt tiêu chuẩn được cung cấp đầy đủ. + Các ngành công nghiệp có liên quan hỗ trợ đầy đủ về phụ tùng, linh kiện, bán thành phẩm. + Các quy định và thủ tục đơn giản, dễ hiểu. + Điều kiện ăn ở, giải trí và giáo dục được đảm bảo. Nhìn chung đối với các KCN, KCX mới thành lập đòi hỏi nhất thiết phải thoả mãn yêu cầu cung cấp đầy đủ về số lượng, chất lượng lao động với giá rẻ. Hàng hoá ra vào các khu vực này cần được vận chuyển nhanh chóng chính vì vậy các KCN, KCX nên đặt gần các đầu mối giao thông để tiết kiệm thời gian và chi phí. Đồng thời các dịch vụ và thiết bị viễn thông như điện thoại, fax, telex.. phải được lắp đặt sao cho thuận tiện với giá cả hợp lý, bởi vì trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay việc tiếp cận các thông tin trên thị trường là rất quan trọng quyết định lợi thế của đơn vị so với đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, các KCN có cơ sở hạ tầng tốt như điện, nước ổn định, công trình công cộng, đường xá cầu cống.. sẽ gây sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến giá cả thuê đất, ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, luật lệ và các quy định cũng như thủ tục hành chính đơn giản dễ hiểu đều là những “phần mềm” không mất tiền mà KCN,KCX có thể cung cấp cho các nhà đầu tư. Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, thực hiện cơ chế “một cửa” qua ban quản lý KCN,KCX giúp các nhà đầu tư tiện liên hệ là một đòi hỏi rất quan trọng. Ngoài ra sự đảm bảo đời sống văn hoá và vật chất cho người lao động có tầm quan trọng nhất định. Các hoạt động vui chơi giải trí giúp cho người lao động , các chuyên gia nước ngoài tránh được ý nghĩ bị “cô lập” trong các KCN, KCX. Sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư hiện nay ngày càng trở nên gay gắt. Cũng như các thị trường khác nó bị chi phối bởi quy luật cung cầu. Thị trường KCN, KCX cũng giống như thị trường của người mua có nghĩa là bất cứ nhà đầu tư nào cũng đều có thể chọn KCN, KCX lý tưởng của mình từ thực đơn phong phú. Đối với nước ta, trong giai đoạn đầu thành lập các KCN, KCX mới nên giới hạn dự án trong một phạm vi nhất định, đảm bảo làm đến đâu chắc đến đó tránh tình trạng bỏ vốn xây dựng nhiều KCN, KCX sau đó phải chờ đợi thu hút đầu tư quá lâu gây lãng phí thời gian và tiền của. 4. Vai trò của KCN tập trung trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phần lớn các KCN, KCX tập trung vào các vùng kinh tế quốc gia trọng điểm là thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu - Bà Rịa,Quảng Nam - Đà Nẵng - Quảng Ngãi , Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Các KCN được xây dựng gần mạng lưới giao thông quốc gia gần các nguồn tài nguyên của đất nước để phát huy thế mạnh của từng vùng. Việc phát triển các KCN có vai trò to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là nước đang phát triển như Việt Nam. 4.1. KCN, KCX góp phần thu hút đầu tư , đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng. Trong cuộc đua tranh phát triển kinh tế hiện nay, vấn đề tăng trưởng nhanh và bền vững đang đặt ra gay gắt đối với các quốc gia, đặc biệt là đối với nước ta. Nếu không thực hiện được mục tiêu này thì nước ta sẽ tụt hậu rất xa so với các nước phát triển. Trong chiến lược phát triển, Việt nam đề ra mục tiêu phấn đấu duy trì mức tăng trưởng từ nay đến năm 2005 là 8-10% với số vốn rất lớn. Ước tính trong những năm tới lượng vốn đầu tư trong nước chỉ đạt khoảng 50-60% số vốn đầu tư cần thiết. Như vậy số còn lại phải tạo ra từ đầu tư nước ngoài. Sử dụng vốn nước ngoài để phát triển là sự cần thiết, là cách thuận lợi nhất để rút ngắn thời gian tích luỹ. Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt nam cần thiết phải nâng cấp cơ sở hạ tầng, xoá bỏ dần những cản trở tạo điều kiện cho tự do thương mại, tạo ra môi trường vĩ mô ổn định. Hiện nay những điều kiện đó chưa thể làm ngay được, vì vậy phát triển KCN, KCX là con đường thích hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong chiến lược đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hoá đặc biệt là các KCX. Sản lượng xuất khẩu của các KCN thường chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng xuất khẩu của các ngành công nghiệp. Vì vậy việc phát triển các KCN có tác động rất lớn trong việc tăng sản lượng hàng hoá xuất khẩu. Mục tiêu tăng sản lượng hàng hoá xuất khẩu đây là mục tiêu trực tiếp nhất của việc thiết lập và vận hành các KCN, là mục tiêu thực tế, là căn cứ hàng đầu của Nhà nước và Chính phủ. 4.2. KCN góp phần phát triển các ngành công nghiệp theo đúng định hướng và quy hoạch chung, tạo việc làm cho một bộ phận lớn người lao động. Theo quy hoach lãnh thổ và quy hoạch ngành và bố trí sắp xếp lại cơ sở sản xuất các khu dân cư ở đô thị lớn, hình thành phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn nên việc phát triển các KCN, KCX là thực sự cần thiết. Với cơ sở hạ tầng đảm bảo do các chủ đầu tư xây dựng mới, nguồn lao động dồi dào của địa phương đồng thời các doanh nghiệp công nghiệp nhập thiết bị máy móc dây chuyền sản xuất hiện đại từ nước ngoài. Thêm vào đó chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ ưu tiên khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn trong các KCN, KCX nhằm đảm bảo phát triển đúng định hướng của đất nước. Mặt khác, hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta vẫn còn khá lớn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy để giải quyết vấn đề này cần phải tạo ra một khối lượng việc làm lớn, đặc biệt là các công việc có sử dụng nhiều lao động. Việc phát triển các KCN ở nước ta hiện nay đã góp phần tăng khối lượng công việc, giảm phần lớn tỷ lệ thất nghiệp. Phát triển KCN để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài làm thoả mãn được mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là sử sụng lao động rẻ của các nước chủ nhà, chính mục tiêu này của các nhà đầu tư nước ngoài cũng làm góp phần thực hiện nhiệm vụ toàn dụng nhân lực. Mặt khác nước ta là nước đang phát triển nên giá lao động tương đối rẻ hơn các nước phát triển trên thế giới. Việc phát triển các KCN thu hút các nhà đầu tư càng phát huy được lợi thế về lao động. Hơn thế, việc lao động trong nước được tiếp xúc với kỹ thuật khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới càng làm cho tay nghề, trình độ lao động công nghiệp ngày càng được nâng cao. 4.3. KCN, KCX góp phần hình thành các vùng kinh tế trọng điểm cho cả nước, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội đảm bảo được yêu cầu về quy hoạch vùng và lãnh thổ. Trên cơ sở đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế của từng ngành, từng địa phương, Nhà nước tiến hành xây dựng dự án KCN, KCX ở những địa phương có những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, vị trí kinh tế xã hội nguồn nhân lực dồi dào như Hà Nội, thành phố HCM, Đồng Nai.. kéo theo sự hình thành và phát triển các thành phố vệ tinh cung cấp nguyên liệu dịch vụ cho sự phát triển của KCN. Từ đó hình thành lên vùng kinh tế trọng điểm của cả nước điển hình như vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung là Quảng Nam Đà Nẵng – Quảng Ngãi, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là TP. HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu. KCN là nơi hội tụ rất nhiều các yếu tố lao động, khoa học kỹ thuật và vốn..phát triển KCN sẽ tạo ra mối liên hệ tác động trở lại nền kinh tế và góp phần thúc đẩy sự phát triển của các khu vực kinh tế khác.Thông qua sử dụng nguyên liệu trong nước và các dịch vụ gia công chế biến sản phẩm cho KCN, KCX từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Việt Nam là một quốc gia phong phú về tài nguyên khoáng sản rừng biển, có nguồn nhân lực dào.. đó là một nguồn tiềm năng để cung cấp nguyên vật liệu cho các KCN, KCX . 4.4. KCN và KCX góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá việc hình thành và phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn là rất cần thiết như công nghiệp điện tử tin học, công nghiệp cơ khí, chế tạo... để tạo ra thị trường cho các sản phẩm này, trước hết phải quan tâm đến khâu sản xuất nhằm đảm bảo về chất lượng, mẫu mã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Chính vì vậy các KCN, KCX là nơi các doanh nghiệp công nghiệp thực hiện quá trình sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu có điều kiện khai thác lợi thế phát huy hiệu quả các yếu tố đầu vào của sản xuất như vốn, công nghệ, lao động, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí giúp các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. II. Sự cần thiết phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Hà nội. 1. Quy hoạch phát triển KCN là nội dung không thể tách rời quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Hà nội. KCN được hiểu là một hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành sản xuất trên lãnh thổ, do đó quy hoạch phát triển phải gắn liền với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội trên lãnh thổ. Có nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ sản xuất công nghiệp khác nhau như điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm công nghiệp. Nhiều nước trong đó có Việt nam nhấn mạnh đến việc hình thành các KCN, KCX là một dạng đặc thù của KCN. Để làm tốt vai trò “đầu tầu” trong phát triển kinh tế của vùng trọng điểm Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói chung, thủ đô Hà Nội cần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp đặc biệt là những ngành mà Hà Nội có lợi thế về nguồn lao động kỹ thuật cao, là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước gần cảng biển, hàng không, đường sông. Nhưng việc lựa chon sản xuất theo mô hình nào phải căn cứ theo định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước và quy hoạch của thành phố. áp dụng mô hình KCN phù hợp với luận chứng kinh tế kỹ thuật trong việc phát triển các ngành công nghiệp Hà Nội, là đô thị lớn tập trung dân cư đông, các cơ quan Đảng và Nhà nước các tổ chức quốc tế nên vấn đề bảo vệ môi trường và môi sinh là hết sức cần thiết trong khi đó ở các huyện ngoại thành diện tích đát trống còn nhiều dân cư thưa thớt. Xuất phát từ hai yếu tố trên thành phố Hà Nội đã xây dựng lại quy hoạch phát triển ngành công nghiệp trong đó khẳng định cần phải xây dựng các KCN tập trung có quy mô lớn, hiện đại đáp ứng cho việc di dời các cơ sở sản xuất trong nội đô đồng thời tạo điều kiện cho các huyện ngoại thành phát triển kinh tế. 2. Quy hoạch KCN Hà nội phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống KCN trong cả nước. Trên cơ sở quán triệt định hướng phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ đã được nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng xác định hướng quy hoạch phát triển các KCN thời kỳ 2001-2005 và đến năm 2010, việc hình thành phát triển các KCN Hà nội có thể tiến hành theo hai hướng: một là, dựa vào quy hoạch phát triển của địa phương, của Chính phủ, hai là, chưa có quy hoạch nay đặt vấn đề bổ sung xây dựng mới KCN. Nhưng dù hình thành KCN theo hướng nào cũng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch phát triển của hệ thống các KCN trong cả nước. Việc quyết định chủ trương này là vấn đề lớn, phức tạp nên cần phải xây dựng dự án khả thi và được duyệt một cách thận trọng,vững chắc, trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và trong quá trình xây dựng đầu tư chế xuất : từ vị trí mặt bằng đến định hướng sản phẩm,khả năng tiêu thụ sản phẩm của KCN, khả năng hình thành các khu dân cư mới và xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng. Đây là vấn đề trong thực tiễn ít được địa phương quan tâm từ đầu thường và lúng túng khi quyết định triển khai xây dựng KCN mới. 3. Phát triển KCN – nhân tố quan trọng nhằm tăng năng lực cạnh tranh của công nghiệp Hà nội trong quá trình hội nhập cả nước và khu vực. Việc hình thành và phát triển các KCN là tất yếu kinh tế của nhiều quốc gia nhất là các nước đang phát triển như nước ta nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 là : “ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập với kinh tế quốc tế ” thì việc phát triển KCN là một giải pháp quan trọng làm dây nối hội nhập các bộ phận của nền kinh tế nội địa với nền kinh tế thế giới. 3.1. Phát triển KCN là một trong những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các KCN, KCX và coi phát triển KCN là một giải pháp quan trọng mang tính đột phá nhằm tạo thuận lợi thu hút đầu tư, tiết kiệm nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái tạo ra một cục diện mới về công nghiệp tập trung trong một khoảng thời gian dài. Thực chất công nghiệp hoá ở nước ta cũng như thành phố Hà nội là chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việc phát triển KCN là giải pháp thực tế để khắc phục tình trạng lạc hậu cả về cơ cấu sản xuất và công nghệ, tình trạng đầu tư dàn trải. Về mặt phân bố sự không đồng bộ giữa sản xuất và cơ sở hạ tầng, gom tụ các nguồn lực vào các KCN để nâng cao sức cạnh tranh từng bước mở rộng mức độ hội nhập khu vực và thế giới. 3.2. KCN- mô hình kinh tế năng động. Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, khả năng tài chính có hạn, khả năng tiếp cận thị trường, nhất là thị trường thế giới còn hạn chế, phát triển KCN là giải pháp thích hợp để thu hút đầu tư nước ngoài, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá trong đó có hàng hóa xuất khẩu, mở rộng thị trường. KCN là một công cụ chuyển giao giúp một đất nước hoặc một địa phương tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới khi thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu,mở rộng các quan hệ thị trường, từng bước thích nghi với thông lệ quốc tế. Việc phát triển các KCN đ._.ặt nền móng cho bước tìm tòi mô hình kinh tế năng động, làm tác dụng “đầu tàu” có sức lan toả và dẫn dắt đối với sản xuất công nghiệp trong nước. Xây dựng và phát triển KCN cùng với việc hình thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch sẽ góp phần hình thành các đô thị mới, giảm bớt sự tập trung quá tải ở trung tâm thành phố. Hà nội là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của cả nước đã có quá trình phát triển công nghiệp lâu dài nhưng hiện đang đứng trước những thử thách trong quá trình hội nhập. Để thực hiện được vai trò trung tâm phát triển cải biến sâu sắc cơ cấu công nghiệp khắc phục tình trạng ách tắc về thị trường, công nghiệp lạc hậu về chất lượng và giá cả của sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tương lai. Hiện nay mức độ thay đổi tài sản cố định chỉ khoảng 6-7%/năm, trình độ công nghệ phần lớn là lạc hậu từ 2-3 thế hệ, công nghệ lạc hậu còn chiếm khoảng trên 50%. Hệ thống công nghệ thiết bị từ nhiều nguồn chắp vá. Các chỉ tiêu chủ yếu như mức tiêu hao nguyên vật liệu còn cao, mức độ ô nhiễm môi trường có nơi khá nghiêm trọng nhất là các KCN cũ như : Thượng Đình, Gia Lâm, Giáp Bát, Cầu Diễn..Tiến trình đổi mới sản xuất và công nghệ diễn ra chậm chạp chưa tương xứng với áp lực ngày càng gia tăng của thị trường. Từ thực trạng trên đây càng khẳng định vai trò quan trọng của KCN trong việc cải biến cơ cấu là giải pháp thực tế mang tính đột phá góp phần đầy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá mức độ hội nhập của thành phố với cả nước, khu vực và thế giới. III. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về việc phát triển KCN có thể vận dụng cho Hà nội. 1. KCX Tân Thuận- Thành phố Hồ Chí Minh. 1.1. Quá trình hình thành và phát triển. Sau nghị quyết 322/HĐBT(nay là Chính phủ) được ban hành ngày 18/10/1991, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập KCX đầu tiên của cả nước ở Tân Thuận. KCX này được xây dựng trên một vùng đất nhiễm mặn, năng suất thấp, ít sinh lợi chi người dân địa phương. Chủ trương đúng cộng với những giải pháp thực hiện thiết thực đã và đang biến bán đảo Tân Thuận thành một KCN khang trang, hiện đại với một năng lực sản xuất to lớn hướng vào xuất khẩu. Với tổng diện tích là 300 ha trong đó có 120 ha là đất đủ tiêu chuẩn xây dựng KCN, việc xây dựng cơ sở hạ tầng do công ty liên doanh và khai thác KCX Tân Thuận và công ty Center Trading Development (Đài Loan). Thành phố Hồ Chí Minh chọn bán đảo Tân Thuận để xây dựng KCN đầu tiên là nơi hội tụ các điều kiện thuận lợi mong muốn : có dòng chảy chính của sông Sài Gòn bao bọc 3 phía, kề sát hệ thống cảng thuộc khu vực Tân Thuận cách trung tâm 4 km và cách ga đầu mối 7 km, trực tiếp thừa hưởng hệ thống cơ sở hạ tầng bước đầu hiện có về giao thông đường bộ, đường thuỷ và đường thuỷ và hàng không cùng với hệ thống thông tin liên lạc mới được trang bị hiện đại, thuận tiện cho giao thông và liên lạc trong và ngoài nước. Vì là đơn vị đi trước mở đường cho mô hình kinh tế còn mới mẻ ở Việt Nam nên Nhà nước đã thực hiện một cơ chế thông thoáng. Do vậy tạo cho KCX Tân Thuận bước phát triển đáng khích lệ, hoàn thành một khối lượng công việc vượt lên trên điều kiện vật chất cho phép. Phương thức hoạt động của KCX Tân Thuận là vừa xây dựng cơ sở hạ tầng vừa thu hút tiếp nhận các công ty đầu tư nước ngoài để sớm mang lại hiệu quả kinh doanh trên phần vốn đã đầu tư cơ sở hạ tầng và cũng để đáp ứng yêu cầu của các công ty và các nhà đầu tư nước ngoài. Cuối năm 2001 KCX Tân Thuận đã thu hút được 105 nhà đầu tư từ 9 quốc gia và lãnh thổ trong đó Đài Loan có 62 dự án, Hàn Quốc 6 dự án, Nhật Bản có 51 dự án, Hồng Kông có 7 dự án, Singapo có 3 dự án, Mỹ có 2 dự án, Đức có 1 dự án, Malaixia có 1 dự án và Việt Nam có 2 dự án. Tổng số vốn đầu tư trên 1 tỷ USD. Các doanh nghiệp được đầu tư vào KCX Tân Thuận bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như : dệt, sợi, may mặc, điện tử, sản xuất đồ gỗ, đồ nhựa, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, dụng cụ thể thao.. và các dự án có công nghệ cao như chế tạo khuôn mẫu, máy vi tính, đĩa mềm, đèn điện tử, linh kiện ôtô và linh kiện điện tử.. Kết quả sản xuất kinh doanh đến cuối năm 2001 đạt được tổng kim ngạch xuất khẩu là 2,5 tỷ USD đã xuất sang thị trường 30 nước trên thế giới, bình quân một tháng xuất được 40 triệu USD. Sau một thời gian hoạt động đã có 31 nhà đầu tư tăng vốn đầu tư tổng cộng là 62,99 triệu USD, thuê thêm 10,5 ha đất để xây dựng mở rộng quy mô sản xuất. Các doanh nghiệp đã tạo việc làm cho hơn 60 nghìn lao động. 1.2. Những yếu tố tạo nên sự thành công bước đầu ở KCX Tân Thuận. Trước hết phải nói rằng, sau một thời gian thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta sớm có chủ trương đúng về việc xây dựng các KCN, thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh sớm nắm bắt và thực hiện chủ trương đó một cách năng động, sáng tạo. KCX ra đời đúng lúc, phù hợp với nhu cầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là các đối tác nước ngoài lại có phương thức hoạt động mạnh bạo, sáng tạo, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa chớp thời cơ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đi vào kinh doanh để sớm mang lại hiệu quả, đồng thời thực hiện một loạt biện pháp tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế và tổ chức.. Đây là yếu tố quyết định trước tiên bởi vì nếu bở lỡ thời cơ, các đối tác chuyển hướng đầu tư sang các nước khác, sẽ không có KCX Tân Thuận phát triển như ngày nay. Thứ hai, chọn Tân Thuận để xây dựng KCX là nơi hội tụ đủ các điều kiện về địa lý, cơ sở hạ tầng ban đầu, thuận lợi cho việc hoạt động trước mắt và xây dựng lâu dài của các doanh nghiệp. Điều đó tiết kiệm rất lớn trong chi phí sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, là một nguyên nhân thu hút các nhà đầu tư. Thứ ba, các bước tiến hành xây dựng KCX Tân Thuận được Đảng và Nhà nước, thành uỷ và UBND thành phố trực tiếp chỉ đạo, tháo gỡ các vướng mắc trong cơ chế chính sách, thủ tục hành chính cụ thể đã thành lập ban quản lý trực thuộc Chính phủ, đại diện cho nhà nước tổ chức thực hiện quy chế “một cửa tại chỗ” rất có hiệu quả được các nhà đầu tư hoan nghênh. Cơ chế một cửa tại chỗ đã góp phần làm cho chủ trương của Nhà nước ổn định nhất quán hơn, thủ tục hành chính đơn giản, thủ tục cấp giấy phép đầu tư nhanh chóng, đơn giản nhưng chặt chẽ ( trung bình 10-15 ngày) thủ tục cấp đất nằm trong quy trình khép kín tạo ra sự tiện lợi, nhanh chóng để phục vụ cho nhà đầu tư mà lâu nay bên ngoài khu chưa làm được, đây là một trong những khâu trì trệ làm nản lòng nhà đầu tư, thủ tục cấp giấy phép xây dựng được thực hiện nhanh chóng, chặt chẽ (thời gian khoảng 15 ngày nếu chưa được thẩm định, còn đã thẩm định thì trung bình 3 ngày trong khi ben ngoài thủ tục này vừa kéo dài vừa tốn kém) thủ tục xuất nhập khẩu cũng được thực hiện nhanh chóng trong vài giờ nếu làm đúng theo hướng dẫn. ở đây lợi ích tối đa của nhà đầu tư là giảm tối thiểu thời gian cần thiết để làm thủ tục giấy tờ, từ đó đi đến giảm giá thành sản phẩm. Tóm lại, những yếu tố trên đã góp phần tích cực vào việc phát triển KCX Tân Thuận, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả hơn. Kết quả của KCX Tân Thuận sau 10 năm hoạt động không những cung cấp cho ta một kinh nghiệm và từ đó rút ra những chính sách, những biện pháp thích hợp áp dụng chung cho cả nước mà sự hiện diện của KCN này là nền tảng cho việc phát triển kinh tế xã hội của cả vùng chung quanh. 1.3. Kinh nghiệm KCX Tân Thuận có thể vận dụng cho Hà Nội. Trong báo cáo tổng kết kinh nghiệm 10 năm xây dựng KCX Tân Thuận thì kinh nghiệm nổi bật là chọn địa điểm xây dựng, là khâu quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của KCX, giao thông thuận lợi có nguồn lao động dồi dào, có cơ sở hạ tầng tốt, chi phí giải toả di dời không phải là gánh nặng cho các nhà đầu tư. Các yếu tố trên là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư về mặt địa lợi. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất đưa đến thành công trong việc thu hút đầu tư. Là địa phương đi sau trong việc xây dựng KCN , KCX ; Hà Nội đã nhận thấy được tầm quan trọng của việc lựa chọn địa điểm xây dựng, tính cho đến nay cả 5 KCN trên địa bàn đều đảm bảo được các yếu tố về mặt địa lợi như : cơ sở hạ tầng tốt, gần cảng biển, cảng hàng không, cảng sông. Mặt khác, các KCN đều xây dựng ở các huyện ngoại thành nên chi phí đền bù đất nông nghiệp không cao... Chính vì thế các KCN bước đầu đã hấp dẫn được các nhà đầu tư. Tạo môi trường địa phương thuận lợi cũng là yếu tố không kém phần quan trọng để vận hành phát triển các KCN. Kinh nghiệm của KCX Tân Thuận đã cho thấy, ngay từ khi khởi công xây dựng đã được sự quan tâm của Chính phủ và cấp lãnh đạo địa phương trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cả trong và ngoài hàng rào KCX, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng vừa thu hút tiếp nhận các công ty đầu nước ngoài để sớm mang lại hiệu quả kinh doanh trên phần vốn đã đầu tư cho cơ sở hạ tầng và cũng để đáp ứng yêu cầu của các công ty và các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là chính sách môi trường thông thoáng đã khiến cho mô hình KCN Việt Nam hấp dẫn lại càng hấp dẫn các nhà đầu tư mà bên ngoài không đáp ứng được như việc thực hiện quy chế một cửa tại chỗ, mọi thủ tục, giấy phép đầu tư kinh doanh trong KCN chỉ đến cơ quan duy nhất là ban quản lý KCN, KCX nếu như đáp ứng mọi yêu cầu đối với các doanh nghiệp trong KCN chỉ mất 10-15 ngày. Điều này giúp nhà đầu tư tiết kiệm được thời gian và chi phí, giúp nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả trên. Khi Hà Nội xây dựng các KCN, KCX cũng rất quan tâm đến vấn đề xây dựng hạ tầng cơ sở trong và ngoài hàng rào, KCN Sài Đồng B đã rất thành công khi xây dựng chính sách “cuốn chiếu” vừa xây dựng vừa thu hút đầu tư. Mặc dù chính sách của Hà Nội chưa thực sự thông thoáng, các nhà đầu tư vẫn gặp một số vướng mắc trong thủ tục hành chính, giấy phép đầu tư nhưng hiện nay Hà Nội đang là môi trường thu hút đầu tư nước ngoài mạnh hơn các KCN thành phố Hồ Chí Minh như KCN Thăng Long, Sài Đồng B. Mặc dù đảm bảo được các điều kiện hấp dẫn đầu tư nhưng các nhà đầu tư lại vấp phải một trở ngại là nguồn nhân lực. Việt Nam có lợi thế về lao động rẻ, nhưng về mặt chất lượng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư, dây truyền sản xuất trong KCN hiện đại, công nghệ cao mà lao động phổ thông đơn thuần chưa qua đào tạo thì không thể sử dụng được. Trong khi đó KCX Tân Thuận chưa chú trọng đào tạo nguồn nhân lực tại địa phương để đáp ứng cho KCX , lao động trình độ cao chỉ đạt 15% . Về nguồn nhân lực thì Hà Nội có điều kiện tốt hơn vì Hà Nội là nơi tập trung rất nhiều các Viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng. Rút kinh nghiệm từ KCX Tân Thuận khi xây dựng KCN Sài Đồng B, Nhà nước rất chú trọng xây dựng một trung tâm đào tạo lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Tóm lại, để đảm bảo sức sống cho KCX cần thể hiện rõ vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội cho cả khu vực và cả nước một cách lâu dài, do đó cần có chính sách ưu đãi hơn các KCN. Ngoài ra còn phải có phương thức huy động vốn, tìm đối tác đầu tư thích hợp, sự liên kết các chương trình đầu tư khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng đất và vốn. 2. Các KCN tỉnh Bình Dương. 2.1. Quá trình hình thành và phát triển. Sự thành công của KCX Tân Thuận đã mở đầu cho một mô hình kinh tế mới ở Việt Nam, đây là mô hình hoàn toàn phù hợp nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau khi KCX Tân Thuận ra đời chính phủ đã ra quyết định thành lập hàng loạt các KCN trên cả nước tập trung vào khu vực phía Nam, điển hình là các KCN tỉnh Bình Dương, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá là mục tiêu ưu tiên. Đến nay Bình Dương đã có hệ thống 9 KCN được cấp giấy phép hoạt động trong đó có 6 KCN đi vào hoạt động đó là các KCN : Sóng Thần I, Sóng Thần II, KCN Việt Hương, KCN Đồng An, KCN Việt Nam- Singapore, KCN Bình Đường, 3 KCN là KCN Tân Hiệp Đông, KCN Bình Hoà, KCN Tân Định đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và đang xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. Các KCN Bình Dương đều thuộc địa bàn hai huyện Thuận An, Dĩ An phía Nam tỉnh Bình Dương. Với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, Bình Dương có nhiều mô hình xây dựng KCN bao gồm : 5 KCN do các doanh nghiệp nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như công ty Thanh Lê, 1 KCN do doanh nghiệp nhà nước liên doanh với tư nhân trong nước đầu tư, 2 KCN do doanh nghiệp tư nhân trong nước đầu tư như KCN Việt Hương, công ty Hưng Thịnh,1 KCN do nhà nước liên doanh với nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.Hiện nay diện tích đất trong các KCN cho thuê được 44%. Với phương châm “trải chiếu hoa” để mời gọi các nhà đầu tư đến nay tỉnh Bình Dương đã thu hút được 45 doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và 91 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư trên 700 triệu USD. Các chủ đầu tư vào KCN rất đa dạng dưới nhiều hình thức liên doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài như KCN Việt - Sigapore, công ty trách nhiệm hữu hạn như KCN Việt Hương, các KCN còn lại do nhà nước đầu tư xây dựng. Hiện nay tính chung cho tất cả các KCN của Bình Dương đã thu hút được 88 dự án đi vào hoạt động trong đó nước ngoài có 55 dự án, trong nước có 33 dự án mang lại giá trị sản xuất hàng năm là trên 100 triệu USD. Về cơ cấu đầu tư, phía nước ngoài có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó Đài Loan có 37 dự án, Singapore có 21 dự án, Mỹ 6 dự án, Nhật Bản 4 dự án, Hồng Kông 3 dự án. Nói chung, các KCN của Bình Dương hoạt động có hiệu quả, năm 2001, tổng doanh thu của các KCN tỉnh Bình Dương đạt 129 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 55 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 72 triệu USD, thuế và các khoản nộp ngân sách trên điạ bàn đạt 5 triệu USD đã tạo việc làm ổn định cho 17.000 lao động. 2.2. Những nhân tố tạo nên sự thành công của KCN Bình Dương. Các KCN có được những thành công như vậy là do được sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, một điểm khác so với KCX Tân Thuận trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng là KCN Bình Dương đa dạng hoá các thành phần kinh tế cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà nước, tư nhân, liên doanh, chính điều này khiến cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại các KCN này diễn ra nhanh chóng. Đồng thời chú trọng trong việc thu hút vốn vào các KCN thông qua việc ban hành danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài, thông qua việc giới thiệu tiềm năng của tỉnh trên các lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm, UBND tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo gặp gỡ các nhà đầu tư để xúc tiến gọi thầu. Ban hành quy định về trình tự xét duyệt dự án đầu tư theo cơ chế đầu tư một cửa, đã tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ các nhà đầu tư và đã đạt được kết quả như trên. 2.3. Kinh nghiệm các KCN Tỉnh Bình Dương có thể vận dụng cho Hà Nội. Bài học thành công của Bình Dương là đa dạng hoá các thành phần kinh tế để xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và rất chú trọng trong việc thu hút vốn đây là việc làm rất cần thiết đối với các KCN. Sở dĩ đạt được những kết quả như vậy là do có sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương rất coi trọng công tác quy hoạch, định hướng kêu gọi đầu tư nhất là đầu tư cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, đồng thời ban hành các danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài. Đây là việc làm rất cần thiết đối với các KCN đòi hỏi chính quyền địa phương phải quan tâm. Trong thời gian vừa qua Hà Nội chưa chú trọng đến vấn đề này và đây sẽ là kinh nghiệm quý báu cho các cơ quan chức năng của Hà Nội mà đặc biệt là UBND Hà Nội quan tâm hơn nữa đến việc ban hành các danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài, thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo giới thiệu tiềm năng của tỉnh trên các lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm. Chính nhờ có sự phối hợp chặt chẽ và nhất quán giữa các ngành và điạ phương tạo cho các nhà đầu tư yên tâm, nhất là các khâu nhạy cảm, phức tạp như đền bù giải phóng mặt bằng tranh chấp về lao động.. Hiện nay, ở các KCN Bình Dương giá thuê đất rất rẻ, giá đền bù thấp, chi phí san lấp mặt bằng và giá thuê nhân công thấp hơn so với các tỉnh bạn, cùng với những thủ tục hành chính đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện đã tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ các nhà đầu tư. Đây trở thành nơi thu hút số đông các nhà đầu tư nước ngoài ở trong vùng trọng điểm phía Nam, hơn cả các KCN ở phía Nam. Điều này các KCN Hà Nội chưa làm được, giá thuê đất Hà Nội rất cao, khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng, tới đây Hà Nội cũng có những chính sách bình ổn giá đất nhằm hạ giá thuê đất KCN. 3. Các KCN tỉnh Đồng Nai. Do những lợi thế về vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng Đồng Nai là một trong những tỉnh phát triển mạnh các KCN.Cho đến nay đã có 10 KCN được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt đó là: KCN Biên Hoà I, Biên Hoà II; Gò Dầu, Nhơn Trạch I,II,III; KCN Long Bình (Amata) Loteco, KCN Song Mây, KCN Tuy Hạ, KCN Hồ Nai. Hình thành sau KCX Tân Thuận và một số KCN khác nhưng đến nay Đồng Nai được coi là một trong những nơi hấp dẫn nhất thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động trong các KCN. Chỉ tính riêng năm 2001 Đồng Nai đã thu hút thêm được 41 dự án dẫn đầu so với cả nước, tổng số vốn đăng ký của các dự án là 382,4 triệu USD trong đó KCN Nhơn Trạch I là nơi thu hút được nhiều vốn đầu tư nhất 245 (triệu USD) và cho thuê lại được nhiều đất nhất (trên 100 ha). Để hình thành và phát triển các KCN tỉnh rất coi trọng công tác quy hoạch, đặt các KCN của tỉnh trong mối liên hệ với cả vùng Đông Nam Bộ đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thiện việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tìm cơ chế thích hợp để gọi vốn đầu tư để sớm lấp đầy phủ kín KCN. Cùng với việc hình thành KCN tỉnh đã khẩn trương xây dựng các khu dân cư tập trung, mở rộng đào tạo nghề để phục vụ KCN, xây dựng chế độ quản lý hành chính một cửa, cải tiến thủ tục hải quan, tổ chức các dịch vụ có chất lượng và giá cả hợp lý thuận lợi cho việc triển khai sau khi cấp giấy phép. Chương II Thực trạng các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội I. Thực trạng phát triển các KCN nước ta. 1. Số lượng các KCN và KCX trên cả nước Cho đến nay chúng ta đã hình thành mạng lưới 79 KCN bao gồm 72 KCN, 6 KCX và 1 KCNC, phân bố trên 27 tỉnh, thành phố phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế và lợi thế trên các vùng của đất nước. Trong 79 KCN thì miền Bắc có 19 khu, miền Trung có 16 khu, miền Nam 44 khu. Bảng 1: Tỷ lệ các KCN trong cả nước ( tính đến hết tháng 12/2002 ) Tên miền KCN Tỷ lệ (%) Miền Bắc 19 24,05 Miền Trung 16 20,25 Miền Nam 44 55,70 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Biểu đồ 1: Sự phân bố các KCN, KCX trên phạm vi cả nước Thời điểm thành lập Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000-2002 KCN 1 2 1 4 5 16 20 15 2 13 - Về loại hình KCN: + 15 KCN thuộc loại KCN thành lập trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. + Có 10 KCN phục vụ di dời các doanh nghiệp từ nội đô các đô thị lớn. + Có 25 KCN có quy mô nhỏ ở các tỉnh Đồng Bằng Bắc Bộ, duyên hải miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long phục vụ chế biến nông, lâm, thuỷ sản. + Có 29 KCN mới điện đại trong đó có 13 KCN hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng. * Về ngành nghề và đối tượng thu hút đầu tư - Các KCN ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Bắc được phát triển đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng trong hàng rào đạt tiêu chuẩn quốc tế, gần sân bay quốc tế, cảng nước sâu, tạo lợi thế cho thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển công nghiệp sạch, công nghiệp kỹ thuật cao, công nghiệp nặng gắn với cảng nước sâu. KCNC Hoà Lạc, cách thủ đô Hà Nội 30 Km, nơi sẽ tập trung các nhà khoa học và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hàng đầu của Việt Nam, đang trở thành nơi dấp dẫn thu hút các công nghệ cao, các nhà nghiên cứu khoa học, thực hiện việc nghiên cứu – triển khai khoa học – công nghệ. - Khu vực miền Trung từ Thanh Hoá đến Khánh Hoà thuận lợi cho phát triển các dự án đầu tư trong lĩnh vực hoá dầu, công nghiệp nặng và các lĩnh vực công nghiệp khác liên quan đến khái thác là lợi thế của một mặt bằng công nghiệp rộng, có cảng nước sâu, sân bay, cung cấp điện, nước. Việc hợp tác với nước ngoài ở khu vực này sẽ đa dạng hơn nhằm khai thác lợi thế nằm trên hành lang Đông Tây, từ Mianma, Nam Trung Quốc qua Lào sang Việt Nam... - Những chùm KCN tại các tỉnh phía Nam xung quanh khu vực thành phố HCM như Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa -Vũng Tàu, Long An, mở rộng đến Vĩnh Long và Cần Thơ đang làm cho khu vực này trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước. Với lợi thế về hạ tầng kỹ thuật tương đối phát triển hơn với các khu vực khác của đất nước, nằm gần nguồn dầu khí, độ ẩm không cao và ổn định, nên các KCN tại khu vực này hấp dẫn đầu tư nước ngoài, rất thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp sử dụng khí như phát điện, khí hoá lỏng, sản xuất phân đạm, thép, các ngành công nghiệp dịch vụ dầu khí, hậu cần cảng, các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp điện tử phục vụ cho xuất khẩu. Các KCN của các tỉnh ngoài các khu vực nói trên chủ yếu thu hút đầu tư trong nước, phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp, phát triển công nghiệp vệ tinh cho những KCN có quy mô lớn, sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh. Các KCN Việt Nam rất đa dạng về loại hình, diện tích dất, ngành nghề, đối tượng thu hút đầu tư, không gian hoạt động và thời gian thành lập, nó quyết định chất lượng, kết quả hoạt động của KCN trong thời gian qua. 2. Những kết quả đạt được bước đầu của các KCN Nhìn chung các KCN đang tiếp cận ngày một gần hơn mục tiêu đã đề ra. Các KCN tại phía Nam có tốc độ phát triển nhanh có hiệu quả hơn, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp cao hơn bình quân của cả nước. Các KCN tại miền Trung có chuyển biến mạnh, các KCN thu hút được các nhà đầu tư, diện mạo KCN dần hiện rõ. Các KCN Miền Bắc vẫn gặp khó khăn nguyên nhân khách quan là công tác đền bù giải phóng mặt bằng phức tạp, kéo dài của một khu vực "đất chật, người đông " nguyên nhân chủ quan do lúng túng trong vận động thu hút đầu tư nhất là đầu tư trong nước, công tác tổ chức quản lý cứng nhắc, quán tính của cơ chế cũ vẫn còn nặng nề. Tính đến nay cả nước có 79 KCN với diện tích 15.128,8ha trong đó diện tích đất có thể thuê 10.591 ha. Thu hút được 1.235 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 9.868 triệu USD và 1084 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký trên 55.850,5 tỷ đồng.Nếu như năm 2001 được coi là mốc đánh dấu sự tăng tốc trở lại của các KCN nước ta sau mấy năm liền chững lại thì năm 2002 được coi là năm tiếp tục khẳng định đà tăng trưởng đó một cách vững chắc, cả bề rộng lẫn chiều sâu. Trong năm có thêm 243 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép vào các KCN với tổng vốn đầu tư là 648 triệu USD cộng với 420 triệu USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án đang hoạt động tức là thêm 1,068 tỷ USD thu hút vào các KCN tăng 680 triệu USD so với năm 2001( tăng 6,8%). Về quy mô trong 243 dự án mới có 5 dự án có vốn đầu tư trên 20 triệu USD/ dự án, còn lại các dự án có quy mô vừa và nhỏ trung bình là 2,5 triệu USD/ dự án. Tất cả các dự án đã thuê trên 4.610 ha chiếm 43,53% tổng diện tích đất có thể thuê, có hơn 900 doanh nghiệp đã sản xuất, kinh doanh tạo ra mức tăng trưởng cao cả về giá trị sản xuất và giá trị xuất khẩu hàng hoá. Năm 1998, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp KCN đạt gần 1,5 tỷ USD, năm 2001 chỉ tiêu này đạt 4,5 tỷ USD (tăng 23% so với năm 2000) trong đó giá trị xuất khẩu đạt khoảng 3 tỷ USD (tăng gần 30%) chiếm 67% tổng giá trị xuất khẩu của cả khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong và ngoài nước, nộp ngân sách khoảng 150 triệu USD (tăng 36%). Năm 2002 doanh thu của các KCN đạt khoảng 5 tỷ USD (tăng 10% năm 2001) kim ngạch xuất khẩu đạt 3,2 tỷ USD(tăng 7%) và nộp ngân sách đạt 160 triệu USD (tăng 6%). Bảng 2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các KCN nước ta Các chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 tỷ lệ tăng(%) 1. Doanh thu 4,5 tỷ USD 5 tỷ USD 10% 2. Kim ngạch XK 3 tỷ USD 3,2 tỷ USD 7% 3. Nộp ngân sách 150 triệu USD 160 triệu USD 6% Vốn đầu tư vào các KCN, KCX trong năm 2001 là từ 18 quốc gia và vùng lãnh thổ, ngoài các nhà đầu tư truyền thống như Đài Loan (59 dự án , vốn đầu tư 375,3 triệu USD bằng 39,5% tổng vốn đầu tư), Nhật Bản (27 dự án, vốn đầu tư 190 triệu USD, bằng 20%) Hàn Quốc (38 dự án, vốn đầu tư là 51,2 triệu USD bằng 5,4%) Singapore,Trung Quốc, Thái Lan... một số nhà đầu tư khác đã đẩy mạnh hơn việc đầu tư vào các KCN như các nhà đầu tư Mỹ (đầu tư 72,2 triệu USD bằng 7,6%) Đức (51,9 triệu USD bằng 5,5%).. Năm 2002 đứng đầu là Hàn Quốc với 135 triệu USD, Đài Loan 109 triệu USD, Nhật Bản 90 triệu USD, Mỹ 74 triệu USD. Bảng 3: Các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào KCN Việt Nam Đơn vị : triệu USD Các quốc gia và vùng lãnh thổ Năm 2001 Năm 2002 Vốn đầu tư ( triệu USD) Tỷ lệ (%) Vốn đầu tư ( triệu USD) Tỷ lệ (%) 1. Hàn Quốc 51,2 5,4 135 20,8 2.Đài loan 375,3 39,5 109 16,8 3. Nhật Bản 190 20 90 13,9 4. Mỹ 72,2 7,6 74 11,5 5. Các quốc gia khác 261,25 27,5 240 37,8 6. Vốn tăng thêm 680 Tổng số 950 100% 1.068 100% Theo xu thế chung các dự án vào KCN năm nay phần lớn theo hình thức 100% vốn nước ngoài (chiếm tới 94% số dự án và 93,6% số vốn) các dự án còn lại là liên doanh. Nhiều dự án tuy mới được cấp giấy phép nhưng chủ đầu tư đã nhanh chóng triển khai dự án và hứa hẹn tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế trong thời gian tới. Các KCN đã thu hút được trên 23 vạn lao động, chiếm tới 50% lao động khu vực FDI, thúc đẩy các dịch vụ chất lượng cao ở trong nước phục vụ hoạt động thường xuyên của KCN... Đó là những kết quả đáng trân trọng trong khoảng thời gian phát triển 12 năm qua. Việc hình thành các KCN góp phần tìm ra lối đi, hướng đi của các địa phương nghèo, sản xuất nông nghiệp là chính chuyển sang CNH-HĐH, đô thị hoá các vùng nông thôn lạc hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí. 3. Thuận lợi và khó khăn khi xây dựng, phát triển KCN. 3.1. Những thuận lợi. Những thành quả trên chứng tỏ KCN từng bước trở thành một lực lượng công nghiệp mạnh của cả nước, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, góp phần thúc đẩy quá trình CNH - HĐH đất nước. Sở dĩ có được những thành tựu trên đây là do chúng ta có những thuận lợi lớn và cơ bản đó là: Thế và lực của ta đã mạnh hơn, vững vàng hơn sau hơn 15 năm thực hiện đổi mới đất nước. Kết quả mà Việt Nam đạt được trong thời gia qua là hết sức thuyết phục: tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định bình quân giai đoạn từ 1991-2000 là 7%/ năm, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.Trình độ khoa học công nghệ có nhiều biến chuyển quan trọng, đặc biệt đã phát triển được một số ngành công nghiệp mới như điện tử, tin học, chế tạo phần mềm xuất khẩu... Những nguồn lực trong nước còn lớn: sức lao động, đất đai, tiền của trong nhân dân, tài năng sáng tạo của con người Việt Nam, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên đáng kể đặc biệt là lao động có trình độ tay nghề cao có thể đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các ngành công nghiệp số sinh viên đại học tăng gấp 6 lần, các trung tâm đào tạo nghề được mở rộng. Năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến, tính chung cho cả nước hiện nay đã hình thành hơn 1500 viện nghiên cứu và các trung tâm khoa học ứng dụng. Với những thành tựu trên Việt Nam ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong khu vực và quốc tế. Việt Nam đã mở rộng quan hệ với 180 nước trên thế giới, đồng thời Việt Nam đang thúc đẩy quá trình hội nhập vào các khối kinh tế, đặc biệt là tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây sẽ là thuận lợi để mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong tương lai. Tình hình chính trị - xã hội ổn định tạo môi trường tốt cho các nhà đầu tư. Một nền chính trị ổn định luôn đi đôi với hệ thống các văn bản pháp luật, các chính sách tương đối ổn định sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào thị trường Việt Nam. Những lợi thế so sánh của đất nước như nguồn tài nguyên phong phú và nhân công rẻ, được phần lớn các nhà đầu tư quan tâm vì đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, những cơ chế chính sách mới do Quốc hội, Chính phủ, các cấp chính quyền ban hành và tổ chức thực hiện nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ các nhà đầu tư khi họ đầu tư vào các khu công nghiệp như : chính sách miễn thuế hoặc đánh thuế rất thấp đầu vào, đầu ra cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài sẽ tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. 3.2. Một số khó khăn khi xây dựng và phát triển các KCN và KCX. Việc hình thành và phát triển các KCN gặp không ít khó khăn, cụ thể là : Thứ nhất, tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN ở Việt Nam hiện nay rất chậm, mà nguyên nhân chủ yếu là về vốn, trong khi đó nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng lại chưa được huy động để đầu tư vào KCN, KCX. Vì vậy, một số KCN cơ sở hạ tầng chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế, vì thế chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài, bỏ vốn đầu tư vào các KCN. Thứ hai, tuy nguồn nhân lực dồi dào với giá rẻ song chất lượng còn thấp, đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao rất hạn chế, hầu hết người lao động sau khi được tuyển dụng phải qua một lớp đào tạo lại. Một phần là do Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến việc hình thành các Trung tâm đào tạo nhân lực cho các KCN. Thứ ba, do những năm gần đây nền kinh tế khu vực Đông Nam á nói riêng và Châu á nói chung lâm vào tình trạng suy thoái, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 - 1998 đã lan rộng ra toàn Châu á, gây không ít những thiệt hại cho các nhà đầu tư. Từ đó các nhà đầu tư tỏ ý lo ngại khi đầu tư vào khu vực này. Thứ tư, cơ chế chính sách của ta còn nhiều điểm bất cập, chưa thực sự hấp dẫn để thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN. Ngoài những chủ đầu tư quen thuộc như Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaixia, Singapore... KCN chưa thu hút được các nhà đầu tư ở các nước phát triển như : Anh, Đức, Pháp, Mỹ... II. Thực trạng phát triển các KCN Hà Nội. 1. Thực trạng các KCN hình thành trước thời kỳ đổi mới. Từ những năm 1960 – 1970._.ản xuất trong KCN, cần ưu tiên đầu tư vào các KCN này các: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm chế biến nông lâm thực phẩm. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm may mặc. + Cơ sở sản xuất các đồ dùng gia đình. *KCN Thăng Long Đối với KCN này cần có giải pháp tích cực hoàn thiện nốt cơ sở hạ tầng có chính sách thích hợp thoáng hơn để kêu gọi các công ty , nhà máy xí nghiệp vào đầu tư hướng ưu tiên đầu tư vào các KCN này là các: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, viễn thông. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm tiêu dùng khác. *KCN Nội Bài- Sóc Sơn là một trong những KCN được hưởng ưu đãi của Nhà nước, do đó cần xây dựng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về vốn, miễn giảm thuế, tăng cường tổ chức chỉ đạo thực hiện nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào KCN.Hướng ưu tiên phát triển cho đầu tư vào các KCN này là: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm cơ khí, máy móc. KCN này nằm trên địa bàn khuyến khích đầu tư của Hà Nội. *KCN Daewoo- Hanel KCN này códiện tích lớn nhất trong 5 KCN tập trung của Hà Nội nhưng cho tới nay việc triển khai xây dựng hạ tầng vẫn còn đang chậm tiến độ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy chủ đầu tư xây dựng hạ tầng là công ty liên doanh giữa tập đoàn Daewoo (Hàn Quốc) và công ty điện tử Hanel cần kết hợp với ban quản lý KCN và KCX Hà Nội cần có các biện pháp nhanh chóng để triển khai các dự án. Hướng đi ưu tiên phát triển cho đầu tư vào KCN này là: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, tin học, quang học Bảng gnang III. Các giải pháp phát triển các KCN ở Hà Nội 1. Các giải pháp về phía Nhà Nước. 1.1. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư Chính sách thu hút đầu tư, khơi thông dòng chảy đầu tư vào các KCN là vấn đề then chốt hiện nay khi có sự cạnh tranh gay gắt về đầu tư trong khu vực và trên thế giới. Nhà nước cần phải điều chỉnh linh hoạt, chính sách quản lý vĩ mô theo từng giai đoạn để tăng tính hấp dẫn cho các KCN. Nằm trong môi trường đầu tư chung của cả nước, trong những năm gần đây lãnh đạo thành phố rất quan tâm đến việc cải thiện môi trường đầu tư ở Hà Nội và thực tế đã tạo ra sự hấp dẫn hơn so với những năm trước đây. Nhưng đánh giá một cách khách quan vẫn còn một số vấn đề chưa giải quyết được trọn vẹn. Trong một vài năm gần đây việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước đều chững lại và có phần suy giảm nhất là khu vực dân doanh. Có nhiều lý do nhưng trước hết chúng ta phải kiểm chứng lại khung khổ pháp lý. Phải chăng luật cởi mở, những chính sách nghị định có xu hướng bó lại lĩnh vực nhà nước kiểm soát còn rộng, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa có một sân chơi bình đẳng của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hạ tầng của Hà Nội phát triển nhưng chưa tránh khỏi chắp vá không đồng bộ nhất là khu vực ngoài hàng rào tiến triển rất chậm. Để cải thiện môi trường đầu tư cần phải tiến hành các biện pháp đặc biệt sau đây: + Để đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản luật và dưới luật liên quan đến khuyến khích và bảo đảm đầu tư vào các KCN. + Tạo lập một cơ chế kích thích đầu tư hấp dẫn có tính cạnh tranh với các tỉnh và thành phố khác. + Khuyến khích đầu tư khu vực dân doanh. Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đóng góp của khu vực dân doanh ngày càng trở nên quan trọng hơn. Việc tạo môi trường kinh doanh hoàn toàn bình đẳng giữa các thành phần kinh tế không những tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần này phát triển đồng thời còn tạo tiền đề cho việc phân bổ nguyên liệu toàn xã hội một cách hiệu quả hơn, tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế của toàn xã hội. + Bảo hộ có chọn lọc có thời hạn một số ngành cần khuyến khích phát triển. + Có cơ chế hoàn trả chi phí đầu tư hạ tầng ngoài hàng rào + Chủ động tiếp cận vận động đầu tư các công ty có tầm cỡ lớn + Sơ kết mô hình đầu tư vào KCN nhỏ để rút kinh nghiệm và quyết định kịp thời các chủ trương tiếp theo. 1.2. Giải pháp về tiếp thị đầu tư. Kinh nghiệm khu vực và một số tỉnh thành phố ở nước ta đã chỉ rõ thị trường là sức sống của các KCN chính vì vậy để hình thành phát triển các KCN việc nghiên cứu dự báo thị trường sản phẩm được coi là vấn đề cơ bản và hệ trọng là căn cứ trong việc luận chứng cho sự ra đời của các KCN. Để mở rộng thị trường cho các KCN cần nâng cao năng lực tiếp thị từ cơ quan quản lý nhà nước UBND thành phố mà cả cơ quan tham mưu là ban quản lý KCN và các công ty kinh doanh trong KCN. Đối với cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm hiểu cơ hội đầu tư thông qua việc giới thiệu định hướng phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch các KCN. Sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào các KCN trong khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê đất bảo đảm cơ chế “một cửa”, giải quyết thủ tục hành chính nhanh nhất cho các nhà đầu tư, vận dụng thêm các ưu đãi khác để thu hút đầu tư hướng dẫn việc làm thủ tục nhanh gọn, quy định thời hạn cấp giấy phép trong thời gian ngắn nhất. Đối với công ty kinh doanh trong KCN cũng tăng tiếp thị cho KCN thông qua các công ty có uy tín trong ngoài nước để tìm kiếm các nhà đầu tư, hạ giá cho thuê đất và mặt bằng nhanh chóng lấp đầy phủ kín KCN cử chuyên gia tiếp xúc với các hiệp hội, tổ chức thương mại của khu vực và thế giới giới thiệu các công ty của thành phố cho những người có ý định đầu tư vào các KCN này. 1.3. Giải pháp về đất đai và cơ sở hạ tầng. Một trong những mục tiêu xây dựng KCN là để đảm bảo về môi trường khi phát triển công nghiệp. Trách nhiệm bảo vệ môi trường không phải là trách nhiệm riêng của nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN mà lẽ ra với vai trò quản lý toàn xã hội, nhà nước phải có vai trò chính trong vấn đề này. Nhưng trong thực tế hiện nay nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vừa phải đền bù giải phóng mặt bằng, vừa phải xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong KCN trong khi các nhà đầu tư cơ sở hạ tầng đều thiếu vốn. Do vậy để giải quyết vấn đề trên cần đảm bảo thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, đề nghị nhà nước tiếp tục nghiên cứu giảm giá thuê đất trong các KCN Hà Nội. Khung giá đất cao đang là vấn đề bức xúc của Hà Nội. Nếu khung giá đất không thay đổi thì Hà Nội khó có thể thu hút các nhà đầu tư vào địa bàn và vì thế không thể phát huy được vị thế của một thủ đô của một quốc gia. Tuỳ theo sự biến đổi của tình hình, khung giá đất phải biến đổi kịp thời để duy trì sự hấp dẫn đầu tư của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung. Thứ hai, trong khi chờ Chính phủ quyết định giảm giá thuê đất, thành phố cần có chính sách hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong việc thuê đất tại các KCN. Trong lúc khung giá đất nhà nước chưa được phép thay đổi, Hà Nội có thể học tập kinh nghiệm của các địa phương khác như: sử dụng nguồn ngân sách của tỉnh để hỗ trợ việc di dời, hỗ trợ doanh nghiệp thuê đất hoặc giảm thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, cấp lại quyền sử dụng đất ở nơi phải di dời... Thứ ba, đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về lâu dài cần sửa đổi luật đất đai một cách cơ bản theo hướng tạo điều kiện thúc đẩy thị trường bất động sản.Trước mắt trong khi chờ sửa đổi luật, sở địa chính cùng các cơ quan hữu quan có thể nghiên cứu biện pháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp trong KCN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng chứng nhận này làm thế chấp vay tín dụng. Thứ tư, thành phố nên có các chính sách và biện pháp để giải phóng mặt bằng một cách dứt điểm và đúng tiến độ. Cho đến nay công tác đền bù và giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn do cả hai phía: từ các cơ quan nhà nước và từ phía người dân. Nhà nước cần có một biện pháp thống nhất công khai và dứt khoát xử lý vấn đề này. Thứ năm, Quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt phải có tính ổn định trong thời gian dài. Đầu tư sản xuất kinh doanh là một hoạt động mang tính lâu dài. Chính vì vậy, những yếu tố thiếu sự ổn định không những thiệt hại đến hiệu quả đầu tư mà còn làm ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư vào chính sách của nhà nước. Việc thay đổi quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã có ảnh hưởng tiêu cực như vậy. Trong thực tế vừa qua tại Hà Nội, sự thay đổi quy hoạch đã làm một KCN phải thu hẹp diện tích buộc phải bỏ một số diện tích dự kiến sẽ cung cấp dịch vụ cho khu vực này. Điều đó làm giảm phần nào tính hấp dẫn của các nhà đầu tư. Chính vì vậy đề nghị các cơ quan chức năng cần xem xét một cách kỹ lưỡng trong quá trình quy hoạch và cố gắng tối đa trong việc duy trì ổn định quy hoạch trong một thời gian dài . Sáu là, huy động vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng. Để có nguồn vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng KCN cần có những giải pháp: Đa dạng hoá các nguồn vốn: Nhà nước, tín dụng, vốn vay từ các tổ chức quốc tế, nguồn vốn từ các nhà đầu tư. Hình thành ngân hàng chuyên doanh phục vụ cho các KCN, KCX để huy động các nguồn vốn nhàn dỗi trong xã hội để phát triển KCN. Ưu tiên các nguồn vốn ODA cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN xác định danh mục cần sử dụng nguồn vốn này theo thứ tự ưu tiên để bố trí kế hoạch xây dựng . Sử dụng quỹ đất xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển KCN. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào một số các hạng mục công trình phù hợp với khả năng của họ. Có cơ chế để sử dụng vốn ngân sách phát triển KCN thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu. 1.4. Chú trọng đào tạo lao động trong KCN. Hà Nội có điều kiện thuận lợi hơn so với các địa phương khác là trung tâm khoa học công nghệ và đào tạo trình độ dân trí và nghề nghiệp cao hơn. Nhưng qua thực tế ở một số KCN ở Hà Nội cho thấy giữa nhu cầu lao động và nguồn lao động không đồng nhất. Trong khi lực lượng lao động ở thành phố rất dồi dào, nhưng các doanh nghiệp trong vẫn rất khó khăn trong việc tuyển dụng lao động do lao động tại chỗ chưa đáp ứng những điều kiện về tay nghề, trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp mà nguyên nhân chủ yếu là việc hình thành và phát triển các KCN thường đi trước công tác đào tạo. Để khắc phục mâu thuẫn này, tạo nguồn lao động lâu dài cho các KCN cần thực hiện các giải pháp sau đây: Dựa vào dự báo quy hoạch phát triển công nghiệp để xây dựng kế hoạch đào tạo trong đó có yêu cầu về số lượng chất lượng cơ cấu ngành nghề. Cần mở rộng hệ thống dịch vụ việc làm, kiểm sát điều tra nắm bắt nhu cầu về số lượng và chất lượng lao động của các doanh nghiệp trong các KCN, nhu cầu việc làm và chất lượng lao động của xã hội để có các cân đối chung trên cơ sở đó đầu tư phát triển các trung tâm các trường đào tạo nghề cho các KCN. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề như vừa học vừa làm học rồi làm ngay tại các doanh nghiệp trong KCN, vừa học vừa nâng cao trình độ học vấn, chọn các công nhân có năng khiếu vào các ngành nghề mũi nhọn. - Nhà nước có cơ chế khuyến khích các cơ sở đào tạo lao động thông qua bổ sung kinh phí miễn giảm thuế cho các cơ sở đào tạo như tổng cục dạy nghề, bộ giáo dục và đào tạo, các cơ quan trung ương khác…mở các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước đối với KCN. Xúc tiến việc thành lập cơ sở đào tạo công nghệ kỹ thuật và quản trị doanh nghiệp. Chú trọng đổi mới trang thiết bị dạy nghề có chất lượng cao. 1.5. Hoàn thiện môi trường pháp lý để nâng cao hiệu quả quản lý đối với các KCN. Tiếp tục phân cấp uỷ quyền cho ban quản lý một cách đồng bộ tạo điều kiện thực hiện cơ chế một cửa, tại chỗ. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện cơ chế một cửa tại chỗ, trung ương và thành phố cần tiếp tục phân cấp và uỷ quyền cho ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội trong việc ra các quyết định có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Đề nghị giao cho ban quản lý thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN vừa và nhỏ, cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của thành phố, Hà Nội là thành phố đầu tiên được chính phủ cho phép thành lập KCN vừa và nhỏ. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và kịp thời, không những tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới hình thành mà còn tạo cho các doanh nghiệp nhỏ nội đô di dời ra ngoài ngoại thành mở rộng mặt bằng sản xuất bảo vệ môi trường do tính chất công việc quản lý các KCN này không khác các KCN tập trung thành phố nên giao việc quản lý các KCN này vào một đầu mối là ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội. Thông qua đó ban quản lý các KCN có thể phát huy tốt hơn kinh nghiệm công tác của mình đồng thời nâng cao hiệu quả chung của bộ máy quản lý thành phố. 1.6. Hỗ trợ phát triển về dịch vụ KCN. Thành phố và các cơ quan liên quan sớm có những biện pháp cung cấp dịch vụ cho KCN một cách đồng bộ với giá cả hợp lý: dịch vụ cung cấp điện, nước, cấp thoát nước, giao thông viễn thông... là những dịch vụ đặc biệt quan trọng cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN. Để có thể nâng cao sự hấp dẫn của các KCN những dịch vụ không những cần được cung cấp kịp thời mà cần có một mức giá thỏa đáng tạo thuận lợi có điều kiện giảm chi phí so với đầu tư vào các địa điểm khác. Bên cạnh dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh thành phố cũng cần quan tâm đúng mức đến loại hình dịch vụ khác như điều kiện ăn ở gần KCN trường học, chợ, giao thông công cộng, có như vậy mục tiêu phát triển theo quy hoạch của thành phố mới sớm trở thành hiện thực. 1.7. Các giải pháp khác Tích cực lấp đầy các KCN tập trung hiện có trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở các KCN tập trung đã có (KCN Sài Đồng B, Nội Bài, Thăng Long, Đài Tư, Daewoo- Hanel) cần rà soát chỉnh lại với phương châm là không hướng vào tăng số lượng các KCN loại này mà hướng vào lấp đầy phủ kín diện tích đã xây dựng để tiết kiệm quỹ đất và chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó cần hình thành các KCN vừa và nhỏ ở các huyện ngoại thành vì nó phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hỗ trợ tài chính, phi tài chính của thành phố Hà Nội cho các doanh nghiệp tại các KCN Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp, việc tập trung nguồn lực tài chính để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các KCN sẽ là một quyết định đúng đắn, đảm bảo quy hoạch đô thị bảo vệ môi trường cũng có cơ sở cho phát triển bền vững của thủ đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó vai trò của thông tin tư vấn ngày càng quan trọng hơn đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Chính những hoạt động này cần ít kinh phí nhưng lại có thể đưa lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh cũng như tăng tính hiệu quả của doanh nghiệp. 2. Các giải pháp thuộc các KCN. Ngoài các giải pháp mang tính định hướng vĩ mô của các cơ quan Nhà nước, Ban quản lý các KCN cùng với các doanh nghiệp trong KCN cần có những biện pháp mang tính chủ động phối hợp với nhà nước nhằm đảm bảo cho các KCN hoạt động có hiệu quả. Cụ thể như: Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý các KCN Để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ, ở Trung ương có ban quản lý các KCN Việt Nam. Với nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn các ngành các địa phương tổ chức thực hiện. Ban quản lý KCN cấp tỉnh, thành phố là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN, KCX trong phạm vi địa lý hành chính của mình. Các KCN chịu sự quản lý trực tiếp của ban quản lý các KCN cấp tỉnh. Sơ đồ: Mô hình quản lý KCN ở nước ta Thủ tướng Chính phủ Các cơ quan Bộ, ban, ngành TW UBND cấp thành phố, cấp tỉnh Ban quản lý các KCN Việt Nam Ban quản lý các KCN cấp tỉnh KCN - KCX Theo quy định tại nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ thì các ban quản lý KCN, KCX ngoài nhiệm vụ và quyền hạn được giao còn phải chịu sự quản lý nhà nước của UBND tỉnh. Mặt khác, phương hướng hoạt động của các Ban quản lý cũng phải phù hợp với nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương. Việc phân cấp uỷ quyền chưa được đồng bộ nhất quán, ban hành chồng chéo giữa các cơ quan. Trong thời gian tới để củng cố hệ thống các KCN, KCX cần nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý các KCN, KCX. Các bộ, ban, ngành trung ương thức hiện uỷ quyền cho Ban quản lý KCN với mức độ cao hơn, có thể xem xét việc Ban quản lý KCN là một cơ quan đầu mối ở địa phương trong việc cấp giấy phép đầu tư, cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư và giải quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động đầu tư. Trong Ban quản lý KCN có thể có đại diện của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để giúp các vấn đề có liên quan phụ thuộc lĩnh vực phụ trách.Về tổ chức quản lý nên giao cho UBND tỉnh , thành phố quản lý trực tiếp. Đồng thời, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý. Có thể cử cán bộ quản lý sang địa phương khác thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích luỹ kinh nghiệm. + Cải thiện môi trường làm việc cho ngườ lao động: Các KCN nằm ở ngoại thành, lao động chủ yếu là lao động nông nghiệp, phải qua đào tạo mới đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư vừa tạo điều kiện giải quyết tình trạng lao động thất nghiệp của địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các huyện ngoại thành. Nhưng một thực trạng sử dụng lao động tại các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập. Vẫn có tình trạng công nhân phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt như một ngày phải làm việc từ 10-12 tiếng trong khi đó tiền lương nhận được lại quá thấp không đủ trang trải cho cuộc sống, thêm nữa là các chủ sử dụng lao động chưa tuân thủ bộ luật lao động của nước ta là chưa tham gia đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho ngừời lao động, người lao động nghỉ ốm thì không được trả lương. Chính vì vậy mà trách nhiệm của Ban quản lý các KCN là phải đảm bảo cho người lao động những điều kiện tối thiểu nhất về thu nhập, điều kiện làm việc, nhà ở ...để người lao động yêu tâm làm việc lâu dài. Bên cạnh đó các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động cũng phải có những biện pháp phối hợp cùng với các cấp lãnh đạo trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, tham gia đóng bảo hiểm đầy đủ. Một số giải pháp khác: + Tranh thủ các quan hệ của các doanh nghiệp hiện có thể thu hút thêm các dự án khác. Để đạt được điều đó trước tiên các KCN phải cung cấp những điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá hoặc tìm kiếm các nguồn đầu tư vào. + Chủ động và tích cực thu hút đầu tư đưa ra các biện pháp nhằm hấp dẫn đầu tư: Các KCN có thể thông qua thành phố mà kiến nghị với nhà nước cho giảm giá thuê đất để đảm bảo tính cạnh tranh với các KCN ở các địa phương khác. Ngoài ra cần thành lập các đoàn kêu gọi vận động thu hút vốn đầu tư ở nước ngoài, hoặc xúc tiến việc thiết lập mạng lưới thông tin về các KCN ở Hà Nội chẳng hạn như việc xây dựng trang Web trên Internet.. + Đầu tư phát triển hạ tầng trong KCN: theo hình thức đầu tư cuốn chiếu, đồng thời kết hợp giữa xây dưng cơ sở hạ tầng và kêu gọi vốn đầu tư để tránh lãng phí vốn đầu tư. Thực tế đã chứng minh mô hình theo kiều cuốn chiếu này thành công đối với các KCN Tân Thuận và KCN Sài Đồng B. Để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội mà đại hội Đảng bộ thành phố mới đề ra thì việc phát triển các KCN tập trung có một vai trò quan trọng. Tuy nhiên cần sớm có định hướng phát triển khu vực này tránh hiện tượng đầu tư tràn lan kém hiệu quả. Đồng thời cần quán triệt quan điểm là ưu tiên phát triển về chất hơn là phát triển về lượng của các KCN để các KCN của Thủ đô nói riêng và ngành công nghiệp thủ đô nói chùng có vị trí tương xứng với tầm vóc của Thủ đô trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Kiến nghị Để đảm bảo hoạt động của các KCN Hà Nội đi vào hoạt động ổn định và phát triển, tôi kiến nghị với Chính phủ và thành phố cần quan tâm đầu tư một số vấn đề sau đây: Sau khi tổng kết 10 năm kinh nghiệm xây dựng và phát triển các KCN của cả nước và của Hà Nội, Chính phủ cần ban hành những chính sách cụ thể về chế độ ưu đãi đối với từng vùng, từng địa phương và quy hoạch chi tiết đến năm 2010 việc xây dựng các KCN trong cả nước. Sớm xây dựng luật KCN khẳng định mô hình và cơ chế hoạt động của ban quản lý KCN cấp tỉnh( thành phố) và công ty kinh doanh hạ tầng các KCN. Xây dựng mối liên hệ giữa vai trò quản lý nhà nước và chỉ đạo hoạt động đối với các doanh nghiệp trong KCN của ban quản lý KCN cấp tỉnh( thành phố). Đảng và chính quyền thành phố Hà Nội sớm nghiên cứu và xây dựng chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong nước vào các KCN hoạt động. Tập trung một đầu mối của thành phố để triển khai các hoạt động tư vấn và tuyên truyền tiếp thị đầu tư nước ngoài trên cơ sở một chính sách thống nhất nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các KCN đã xây dựng xong hạ tầng kỹ thuật. Kết luận Qua đề tài trên ta có thể khẳng định lại một lầm nữa. Để thực hiện các nhiệm vụ của kinh tế xã hội của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 nói chung các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội nói riêng thì việc nghiên cứu đề tài này là một việc thiết thực đối với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Vai trò của các KCN trong sự phát triển kinh tế thể hiện rất rõ. KCN,KCX đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư, tăng việc làm và phát huy được lợi thế lao động, tăng sản lượng hàng hoá xuất khẩu hội nhập khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến của thế giới khắc phục tình trạng cơ sở hạ tầng thấp kém thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế, Từ vai trò quan trọng trên KCN của Hà Nội đã được xác định là hạt nhân cho sự phát triển kinh tế của thủ đô và được các cấp lãnh đạo quan tâm phát triển. Do đó các KCN của Hà Nội đã đạt được những kết quả bước đầu đầu góp phần vào tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy ngoại thương các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp điện tử tin học, phát triển kinh tế của thủ đô. Tăng thu ngân sách trên địa bàn thành phố, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Bên cạnh những thành tựu trên các KCN còn gặp nhiều khó khăn tồn tại: những mặt yếu kém về mặt pháp lý, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, quản lý nhà nước và thủ tục hành chính các vấn đề tồn tại trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các ban quản lý và dịch vụ trong KCN. Để đảm bảo cho các KCN phát triển có hiệu quả, làm tốt vai trò hạt nhân trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thủ đô Hà Nội, các cơ quan Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm đúng mức phối hợp với ban quản lý của từng KCN về các mặt như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, chất lượng lao động, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính. Làm tốt những giải pháp trên đây sẽ góp phần phát triển các KCN làm đầu tầu trong việc phát triển ngành công nghiệp của Thủ đô. Sau hơn 4 tháng thực tập tại Viện nghiên cứu Kinh Tế Thế Giới, được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Kim Dung (khoa Kế Hoạch và phát triển) cùng cán bộ hướng dẫn TS. Nguyễn Trần Quế (Viện Kinh Tế Thế Giới) tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tuy nhiên đề tài không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý, đánh giá của các thầy cô trong khoa và bạn đọc. Danh mục tài liệu tham khảo Quy hoạch phát triển công nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2010- Sở Công nghiệp Hà Nội. Báo cáo hoạt động của Ban Quản Lý các KCN và KCX Hà Nội- Tiến sĩ Lê ất Hợi. Kỷ yếu hội thảo khoa học về KCN,KCX Việt Nam- Ban quản lý các KCN Việt Nam- Hà Nội năm 1998. Đề tài 01X- 07- Ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội. Giải pháp phát triển các KCN trên địa bàn Hà Nội- tạp chí Công nghiệp – Số 13/01. Các KCN nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp- Tạp chí Cộng Sản số 12/2000. Các KCN Hà Nội đang chờ các nhà đầu tư - Tạp chí CSSK số 12/2000. 10 yếu tố quyết định sự thành công của KCN, KCX – Tạp chí TTTC số 3+4/1999. KCN Hà Nội Thực tế và triển vọng phát triển- tạp chí NCLL số 10/1999. KCN, KCX Hà Nội để triển khai thác tốt hơn nữa hiệu quả kinh tế Hà Nội. Mục lục Trang Bảng 1: Các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội. TT KCN Năm Chủ đầu tư xây dựng CSHT Tổng diện tích (ha) Diện tích đất KCN (ha) Diện tích dành cho DN thuê (ha) Diện tích đất đã cho thuê (ha) Số Dự án VĐT (triệu USD) Số lao động ( người) 1 Sài Đồng B 1996 Việt nam 97 79 61 36 25 306,3 2700 2 Nội Bài 1994 Malaixia – Việt Nam 100 100 37 9,1 6 55,73 300 3 Hà Nội - Đài Tư 1995 Đài Loan 40 40 33 3,3 5 6,21 - 4 Daewoo – Hanel 1996 Hàn Quốc – Việt Nam 407 - - - - - - 5 Thăng Long 1997 Nhật Bản – Việt Nam 121 121 91 27,25 10 162,1 - 6 Tổng số 765 537 222 75,52 46 530,34 Nguồn: Ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội Bảng 7: Định hướng phát triển 5 KCN tập trung hiện có ở Hà Nội. TT Tên KCN Tổng DT (ha) DT đất xây dựng KCN DT dành cho doanh nghiệp thuê( ha) DT đã cho thuê (ha) DT đất còn chưa cho thuê (ha) Thời gian dự kiến lấp đầy KCN Hướng gọi đầu tư 1 KCN Nội Bài 100 100 37 9,1 27,9 2005 Cơ sở sản xuất sản phẩm cơ khí, máy móc 2 KCN Hà Nội- Đài Tư 40 40 33 3,3 29,7 2007 Cơ sở sản xuất sản SP điện, điện tử Cơ sở sản xuất chế biến nông lâm thuỷ sản, thực phẩm Cơ sở sản xuất sản SP may mặc Cơ sở sản xuất sản đồ dùng gia đình 3 KCN Sài Đồng B 97 79 61 36 25 2004 Cơ sở sản xuất sản SP điện, điện tử Cơ sở sản xuất sản SP không có chất thải gây ô nhiễm môi trường 4 KCN Daewoo- Hanel 407 197 - - - - Cơ sở sản xuất sản điện, điện tử, tin học, quang học Cơ sở sản xuất sản hàng công nghiệp ô tô, lốp 5 KCN Thăng Long 121 121 91 24,76 63,79 2008 Cơ sở sản xuất sản SP điện, điện tử, viễn thông Cơ sở sản xuất sản SP tiêu dùng Tổng 765 537 222 75,52 146,84 Nguồn: Ban quản lý các KCN, KCX Hà Nội Bảng 7: các dự án đầu tư trong các KCN Hà Nội Khu công nghiệp Sài Đồng B. TT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký (USD) Vốn pháp định (USD) Diện tích (m2) 1 495/GP - 15/02/1993 Orion – Hanel 50 Liên doanh Việt Nam – Hàn Quốc 177.584.000 51.172.200 120.000 2 1000/GP- 01/01/1994 Điện tử Daewoo- Hanel 26 Liên doanh Việt Nam – Hàn Quốc 40.000.000 14.000.000 44.000 3 1481/GP-18/02/1995 Orion Hà Nội kim loại 48 100% vốn Hàn Quốc 4.850.000 1.600.000 7.000 4 Sứ Vệ sinh Inax 45 Liên doanh Việt Nam - Đài Loan 1.500.000 5 1444/GP-18/02/1995 Khuôn đúc Tsukura Việt Nam 30 100% vốn Nhật Bản 5.000.000 1.500.000 15.145 6 1588/GP-11/6/1996 Sumitomo- Hanel 30 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 9.980.000 4.265.000 43.760 7 1589/GP-12/6/1999 Công ty máy tính Việt Nam IBM 50 9.000.000 8 1254/GP-27/5/1995 Pentax Việt Nam 30 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 19.500.000 7.000.000 35.000 9 1628/GP- 19/7/1996 Điện tử Ashin 20 100% vốn Hàn Quốc 883.320 265.000 2.500 10 1655/GP- 24/8/1996 Điện tử Jaewon 30 100% vốn Hàn Quốc 1.210.000 363.000 2.500 11 1656/GP- 29/5/1999 Vineco 35 Liên doanh Việt Nam – Hàn Quốc 6.000.000 15.000 12 1949/Gp- 14/7/1997 Michael Manufacture 20 100% vốn Italia 1.500.000 500.000 20.400 13 01/GP KCN Hà Nội 18/7/1997 Alum Dan Asia 20 100% vốn Israel 1.200.000 750.000 1.000 14 02/ GP KCN Hà Nội 24/7/1997 Belle Sac 20 100% vốn Hồng Kông 3.000.000 900.000 7.000 15 04/GP KCN Hà Nội 24/4/1998 Seo Việt Nam 20 100% Vốn Singapore 450.000 180.000 1.344 16 05/GP KCN Hà Nội Sơn mài mới 30 100% vốn Hồng Kông 900.000 750.000 6.000 17 07/GP KCN Hà Nội Công ty công nghiệp Tân á 45 100% vốn Singapore 4.000.000 1.200.000 20.000 18 08/GP KCN Hà Nội 29/3/1999 Zuellig Pharma Pte.ltd 50 100% vốn Singapore 2.508.000 10.408.000 3.000 19 12/GP KCN Hà Nội 21/4/2000 New Hope Hà Nội 45 100% vốn Trung Quốc 950.000 950.000 15.037 20 11/GP KCN Hà Nội 21/4/2000 Phúc Đầy 20 Liên doanh Việt nam- Đài Loan 300.000 200.000 1.445 21 15/GP KCN Hà Nội Nông sản Long Ji 45 100% vốn Đài Loan 360.000 360.000 2.090 22 16/GP KCN Hà Nội MEDICOS France 45 Liên doanh Việt Nam – Pháp 2.500.000 750.000 5.225 23 18/GP KCN Hà Nội MSA – Hapro 45 Liên doanh Việt Nam- Hàn Quốc 1.500.000 1.000.000 24 19/GP KCN Hà Nội Disovery - Diamonds 100% vốn Bỉ 660.000 200.000 25 Hitech 12.000.000 Tổng số 306.300.000 II.Khu công nghiệp Thăng Long. STT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký (USD) Vốn pháp định (USD) Diện tích m2 1 14/GP KCN Hà Nội Parker Processing Việt Nam 47 100% vốn Nhật Bản 6.650.000 2.000.000 13.100 2 21/ GP KCN Hà Nội 19/11/2000 Bút chì Mitsubishi 47 100% vốn Nhật Bản 2.700.000 1.800.000 3. KDC Wiring Industries 35 100% vốn Nhật Bản 9.350.000 3.800.000 4. Canon Việt Nam 50 100% vốn Nhật Bản 16.105.000 5.700.000 5. Violex Việt Nam 45 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 5.340.000 2.500.000 6. Toa Việt Nam 30 100% vốn Nhật Bản 11.450.000 7.800.000 7. Sumitomo baketllite Việt Nam 35 100% vốn Nhật Bản 13.670.000 10.200.000 8. Denso 30 100% vốn Nhật Bản 9.800 6.000.000 9. Goshi Thăng Long 47 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 12.780.000 10. Chip ASIC 50 100% vốn Hàn Quốc 7.425.500 Tổng số 162.100.000 KCN Hà Nội Đài Tư. STT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký USD Vốn pháp định USD Diện tích m2 1 09/ GP KCN Hà Nội Minh trị- Việt Đài 45 100% vốn Đài Loan 3.000.000 900.000 19.982 2 10/GP KCN Hà Nội Thầy Thuỵ 45 100% vốn Đài Loan 1.010.000 303.000 10.000 3 13/GP KCN Hà Nội Cự Thăng 45 100% vốn Đài Loan 1.100.000 366.000 12.020 4 13/ GP KCN Hà Nội Kì Ni- Việt Nam 45 100% vốn Đài Loan 9.500.000 330.000 8.602 5 PC components 50 100% vốn Đài Loan 500.000 500.000 1.000 Tổng số 6.210.000 2.399.000 51.604 Khu công nghiệp Nội Bài. STT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký (USD) Vốn pháp định (USD) Diện tích (m2) 1. 1847/GP 28/2/1997 NCI Việt nam 30 100% vốn Nhật Bản 2.850.000 2.000.000 10.000 2. 1929/GP 25/6/1997 SP Thép Việt Nam 30 100% vốn Nhật Bản 11.034.000 3.500.000 10.000 3. 1937/ GP 27/6/1997 Nhà thép tiền chế ABS 30 100% vốn ả rập xê út 20.000.000 6.666.666 40.000 4. 03/ GP KCN Hà Nội Merak Indira Việt Nam 30 100% vốn Malaixia 5.100.000 2.000.000 5.000 5. 6/GP GP KCN Hà Nội Orica Investment 30 14.000.000 500.000 6. Yamaha 30 15.346.000 800.000 Tổng số 55.730.000 13.466.666 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37118.doc