Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam

1 MUÏC LUÏC Lời mở đầu Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập 1.1. Tổng quan về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán ....................... 05 1.1.1. Khái niệm chất lượng hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán ....................................................................... 06 1.1.2. Các cấp độ của kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán....................... 07 1.1.2.1. Kiểm soát chất lượng hoạt

pdf92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động kiểm toán từ bên trong.................. 08 1.1.2.2. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài................... 08 1.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ........................................................................................................... 09 1.2.1. Lịch sử phát triển chuẩn mực kiểm soát chất lượng .................................. 09 1.2.2. Nội dung của chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 hiện hành.................. 11 1.2.3. Nội dung chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng dịch vụ đảm bảo ...................................................................................................... 13 1.3. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại Hoa kỳ ............................ 18 1.3.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Hoa Kỳ.......................................... 18 1.3.1.1. Lược sử kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Hoa Kỳ..................... 18 1.3.1.2. Các Ủy ban phụ trách kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán ..................................................................................................... 21 1.3.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong tại Hoa Kỳ .......................................... 24 1.4. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại Pháp................................ 24 1.4.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Pháp ............................................... 24 1.4.1.1. Lược sử kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Pháp ......................... 24 2 1.4.1.2. Các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán ................................................................................... 25 1.4.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong tại Pháp................................................ 27 1.4.2.1. Đánh giá khách hàng .......................................................................... 27 1.4.2.2. Kiểm soát chất lượng hồ sơ kiểm toán ............................................... 28 1.4.2.3. Đánh giá sự hài lòng của khách hàng................................................. 29 1.5. Bài học kinh nghiệm từ các mô hình kiểm soát chất lượng cho Việt Nam ....................................................................................................... 29 1.5.1. Việc tiến hành kiểm soát chất lượng là yêu cầu tất yếu khách quan ............................................................................................................ 29 1.5.2. Vai trò của kiểm soát chất lượng đối với sự phát triển, hoàn thiện của nghề nghiệp kiểm toán......................................................................... 29 1.5.3. Các cấp độ của hệ thống kiểm soát chất lượng.......................................... 30 1.5.3.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài..................................................... 31 1.5.3.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong..................................................... 31 1.5.4. Vai trò của Hội nghề nghiệp, Nhà nước trong kiểm soát chất lượng .......................................................................................................... 32 Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam 2.1. Đặc điểm hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam............................... 33 2.1.1. Các quy định pháp lý ................................................................................. 33 2.1.2. Hoạt động của tổ chức nghề nghiệp........................................................... 35 2.1.3. Hình thức pháp lý của các công ty kiểm toán độc lập ............................... 36 2.1.4. Các dịch vụ của các công ty kiểm toán ..................................................... 37 2.1.5. Thị trường kiểm toán độc lập..................................................................... 37 2.1.6. Đội ngũ kiểm toán viên.............................................................................. 38 2.2. Thực trạng về hệ thống các quy định liên quan đến kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập Việt Nam .................................. 39 2.2.1. Chuẩn mực Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm (VAS 220) ................. 39 3 2.2.2. Các quy định pháp lý liên quan đến kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập từ bên ngoài ........................................................................... 40 2.3. Thực trạng về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam ....................................................................................................... 43 2.3.1. Thực trạng việc thiết lập chính sách kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại các công ty kiểm toán.................................................. 43 2.3.1.1. Đối với các công ty kiểm toán thuộc Big four tại Việt Nam............... 43 2.3.1.2. Đối với các công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô trung bình trở lên (trên 50 nhân viên).......................................................... 45 2.3.1.3. Đối với các công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô nhỏ.................... 48 2.3.2. Thực trạng việc thực hiện chính sách kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại các công ty kiểm toán.................................................. 49 2.3.2.1. Tại các công ty kiểm toán thuộc Big four ở Việt Nam ....................... 49 2.3.2.2. Tại các công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô trung bình trở lên (trên 50 nhân viên) ................................................................. 50 2.3.2.3. Tại các công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô nhỏ .......................... 53 2.3.3. Thực trạng về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài........................................................................................................... 55 2.3.3.1. Hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của Bộ tài chính ............ 55 2.3.3.2. Hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của Hội nghề nghiệp ................................................................................................. 60 2.3.3.3. Hoạt động kiểm soát chất lượng của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước............................................................................................. 61 2.4. Ưu điểm và tồn tại trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập................................................................................ 61 2.4.1. Ưu điểm trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập ................................................................................................ 61 2.4.2. Tồn tại trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập ........................................................................................................ 63 4 2.4.2.1. Tồn tại về các quy định liên quan đến kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập............................................................... 63 2.4.2.2. Những tồn tại trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên trong các công ty kiểm toán độc lập.............. 63 2.4.2.3. Những tồn tại trong công tác kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với các công ty kiểm toán độc lập ................................................. 66 Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam 3.1. Yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc thiết lập các giải pháp nhằm nâng cao kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm toán ............. 68 3.2. Phương hướng nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam......................................................... 69 3.3. Giải pháp nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập Việt Nam........................................................................ 70 3.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước....................................................................... 70 3.3.2. Giải pháp đối với đối với các Công ty kiểm toán độc lập ......................... 74 3.3.3. Giải pháp đối với Hội nghề nghiệp............................................................ 77 3.3.3.1. Kiện toàn hoạt động của tổ chức nghề nghiệp ................................... 77 3.3.3.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức, chuyên nghiệp hóa các Ban chuyên môn của Hội nghề nghiệp....................................................... 78 3.3.3.3. Xây dựng quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập ........................................................................................ 82 3.3.4. Các giải pháp khác ..................................................................................... 93 Kết luận 5 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu đề tài: Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) vào tháng 11/2006. Tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những cơ hội thuận lợi, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức to lớn đó là sức ép cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh là một công việc mang tính cấp bách và sống còn của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp kiểm toán. Theo lộ trình phát triển sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn dịch vụ tài chính, trong đó có dịch vụ kế toán - kiểm toán. Điều này dẫn đến một thực tế là thị trường tài chính, đặc biệt là dịch vụ kế toán - kiểm toán, bảo hiểm cũng như thị trường chứng khoán sẽ có sự tham gia của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Và do vậy, doanh nghiệp kiểm toán cũng như các doanh nghiệp khác chịu sự canh tranh gay gắt. Muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp kiểm toán phải hoàn thiện chất lượng hoạt động của mình. Bên cạnh đó, từ khi nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về việc “Chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần” có hiệu lực, nhu cầu về xác định giá trị doanh nghiệp và kiểm toán trước khi cổ phần hóa tăng lên một cách đột biến. Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ kiểm toán viên đạt năng lực và trình độ chuyên môn cao để đáp ứng với nhu cầu này, nhằm xác định một cách đúng đắn giá trị tài sản của Nhà nước trước khi cổ phần hóa, tránh những thất thoát và lãng phí. Như vậy có thể thấy rằng, hoạt động kiểm toán độc lập là một trong những công cụ quan trọng trong công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế đất nước. Trước hết nó phục vụ vì lợi ích thiết thực cho các chủ sở hữu, các nhà đầu tư và sau đó là góp phần ngăn chặn các sai phạm về kinh tế - tài chính, giúp cho Chính phủ, cơ quan Nhà nước kiểm soát được hoạt động kinh tế - tài chính, ổn định thị trường chứng khoán. Để hội nhập kinh tế thế giới, để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, một trong những biện pháp là dịch vụ kiểm toán phải có chất lượng cao. Muốn vậy cần tăng cường kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập. Với lý do trên, tác giả đã thực hiện đề tài “Phương hướng và giải pháp nhằm 6 nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam” với mong muốn đưa chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập tại Việt Nam đạt chuẩn quốc tế trong quá trình phát triển nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng ở Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập trên cả hai khía cạnh: kiểm soát từ bên trong của công ty kiểm toán độc lập và kiểm soát từ bên ngoài của Hội nghề nghiệp và Nhà nước. Luận văn chỉ tập trung vào kiểm toán độc lập, không nghiên cứu các loại kiểm toán khác như kiểm toán nội bộ và kiểm toán nhà nước nhằm đem lại một bức tranh tổng thể với một cách nhìn toàn diện về công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài: Luận văn nghiên cứu nhằm để hoàn thiện và nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập, mục đích chính là: - Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập, một vấn đề chưa thật sự được các cơ quan chức năng và nhà quản lý quan tâm trong những năm vừa qua. - Tìm hiểu, khảo sát và đánh giá thực trạng công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam. - Trên cơ sở thực tiễn hoạt động kiểm toán độc lập ở nước ta hiện nay, luận văn đã đánh giá những ưu điểm và tồn tại trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam. 4. Phương pháp luận nghiên cứu: Đề tài đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, suy luận, điều tra và tổng hợp. Trong phần đánh giá thực trạng, tác giả tiến hành các cuộc khảo sát thông qua phương pháp: - Phỏng vấn các nhà quản lý cấp cao đang làm việc tại các Công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam. 7 - Gửi phiếu khảo sát: Tìm hiểu công tác soát xét chất lượng hoạt động kiểm toán tại một số Công ty kiểm toán độc lập thông qua các các câu hỏi ghi trên phiếu khảo sát. - Tìm hiểu và trao đổi với các nhà nghiên cứu, chuyên viên trong lĩnh vực kiểm toán. - Sử dụng kết quả của các cuộc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại các Công ty kiểm toán độc lập do Bộ tài chính tiến hành trong những năm qua. - Tổng hợp các tài liệu hội thảo và tạp chí chuyên ngành để rút ra những tồn tại trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập và các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác. 5. Nội dung đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập. Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam. 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 1.1. Tổng quan về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: Kiểm toán là một hoạt động đã có lâu đời kể từ thời kỳ thông tin được phê chuẩn bằng cách đọc lên trong buổi họp công khai. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự ra đời của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán đã dẫn đến sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý. Từ đó, xuất hiện nhu cầu cần kiểm tra của người chủ sở hữu để chống lại sự gian lận của người quản lý lẫn người làm công. Kiểm toán độc lập đã ra đời vào thế kỷ 18 nhằm đáp ứng cho nhu cầu này. Đến thế kỷ 19, với việc bành trướng thuộc địa của Anh đã kéo theo sự mở rộng đầu tư của các nhà tư bản Anh sang các quốc gia thuộc địa. Do sự cách trở về địa lý nên các nhà đầu tư cần có người giám sát các khoản đầu tư khi họ vắng mặt, nhiệm vụ này đã được trao cho các kiểm toán viên. Trong thời kỳ này, để tăng độ tin cậy vào kiểm toán viên, các nhà đầu tư Anh chỉ cấm kiểm toán viên làm việc cho công ty được kiểm toán hơn là chú trọng vào chất lượng của các cuộc kiểm toán do kiểm toán viên thực hiện. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, do có sự dịch chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác và hợp nhất các công ty lớn ở Anh trong ngành khai thác mỏ, đường sắt, nhiên liệu,... đã dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm về mục đích, bản chất và nguồn vốn đầu tư vào các công ty. Từ đó nhiệm vụ của kiểm toán viên chuyển sang phục vụ cho cổ đông trong cộng đồng nhiều hơn là lợi ích của người chủ sở hữu vắng mặt. Nhóm cổ đông trong cộng đồng chủ yếu là các nhà đầu tư địa phương, mà thường là các ngân hàng lớn hay các nhà đầu tư lớn và nhóm này ngày càng gia tăng. Chính nhóm cổ đông này đã làm thay đổi quan điểm về chất lượng của hoạt động kiểm toán, vì họ mong muốn rằng những thông tin mà họ nhận được từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán mang tính trung thực và khách quan cao. Chính vì thế, vào thời gian này các công ty kiểm toán bắt đầu chú trọng đến công 9 tác kiểm soát chất lượng hoạt động của mình với mục tiêu là đem đến cho người sử dụng những thông tin có chất lượng tốt nhất. Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, yêu cầu của xã hội đối với kiểm toán ngày càng cao. Kiểm soát chất lượng ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của nghề nghiệp. 1.1.1. Khái niệm chất lượng hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: Chất lượng luôn là sự thách thức, là mối quan tâm hàng đầu mà bất cứ tổ chức nào đều phải đối mặt trong lĩnh vực hoạt động của mình. Dưới những góc nhìn khác nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau về chất lượng: - Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của con người, của một sự vật, sự việc”. - Theo định nghĩa của tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5200-ISO 9000 thì “chất lượng là mức độ phù hợp của sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua”. Một sản phẩm có tồn tại được là nhờ chất lượng. Kiểm toán là một ngành cung cấp dịch vụ với mục đích nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị. Do vậy, tương tự như các ngành nghề khác, kiểm toán chỉ có thể tồn tại khi cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, được người sử dụng tin cậy. Chất lượng kiểm toán được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán): “Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thỏa mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thỏa mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý.” Như vậy, chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ: - Mức độ người sử dụng thông tin thỏa mãn đối với tính khách quan và độ tin cậy của kết quả kiểm toán; 10 - Mức độ đơn vị được kiểm toán thỏa mãn về ý kiến đóng góp nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh; - Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp đồng kiểm toán và chi phí dịch vụ kiểm toán ở mức hợp lý. Do vậy, muốn nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán đòi hỏi phải có sự kiểm soát chất lượng. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là một bộ phận cấu thành trong quy trình thực hiện dịch vụ kiểm toán nhằm cung cấp dịch vụ với chất lượng cao. Nó là một quá trình trong đó công ty kiểm toán thực hiện nhiều thủ tục như hướng dẫn, giao việc, giám sát, kiểm tra công việc mà các kiểm toán viên thực hiện và kiểm tra các nhận xét, kết luận của nhóm kiểm toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán. 1.1.2. Các cấp độ của kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: Chất lượng kiểm toán đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra uy tín của các công ty kiểm toán nói riêng và uy tín nghề nghiệp nói chung của mỗi một quốc gia. Vì vậy, ngoài việc chịu sự kiểm soát của hệ thống kiểm soát chất lượng ngay trong bản thân công ty, chất lượng kiểm toán còn chịu sự kiểm tra từ bên ngoài của các cơ quan chức năng, hội nghề nghiệp và các công ty kiểm toán khác. 1.1.2.1. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên trong: Tùy vào quy mô và năng lực, mỗi công ty kiểm toán tự xây dựng một quy trình kiểm soát chất lượng phù hợp, nhưng nhìn chung quy trình kiểm soát chất lượng bao gồm các giai đoạn sau: Đánh giá khách hàng trong giai đoạn chấp nhận khách hàng mới và duy trì khách hàng cũ, kiểm soát chất lượng hồ sơ kiểm toán để nâng cao chất lượng thực hiện kiểm toán, đánh giá sự hài lòng của khách hàng. 1.1.2.2. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên ngoài: Để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán, các quốc gia luôn có các tổ chức độc lập để tiến hành soát xét lại dịch vụ mà các công ty kiểm toán đã cung cấp cho khách hàng. Tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị và yêu cầu quản lý của từng quốc gia mà chủ thể kiểm soát độc lập đó có thể là các công ty kiểm toán khác, hội nghề 11 nghiệp hoặc cơ quan nhà nước phụ trách về kế toán, kiểm toán thực hiện công tác kiểm soát chất lượng từ bên ngoài. Mặc dù, các chủ thể kiểm soát có thể khác nhau nhưng nhìn chung quy trình và thủ tục kiểm soát chất lượng từ bên ngoài được thực hiện qua các giai đoạn: Chuẩn bị kiểm soát, thực hiện kiểm soát, phát hành báo cáo kiểm soát, theo dõi sau kiểm soát. Công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài nhằm mục tiêu: - Giúp cho các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng liên quan kiểm soát việc xây dựng và thực hiện các chính sách, thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập có được tiến hành phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán từ đó đề xuất các biện pháp thích hợp; - Giúp cho các công ty kiểm toán kịp thời khắc phục những sai sót, tồn tại trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán, cũng như tìm ra nguyên nhân và hoàn thiện các phương pháp, kỹ năng làm việc của các kiểm toán viên nhằm góp phần hoàn thiện quy trình nghiệp vụ đem lại một dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao cho người sử dụng. 1.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế: 1.2.1. Lịch sử phát triển chuẩn mực kiểm soát chất lượng: Nhằm phát triển và tăng cường phối hợp của ngành nghề một cách hài hòa trên toàn thế giới, vào năm 1977 Liên đoàn các nhà kế toán quốc tế (IFAC) đã được thành lập. Năm 1981, Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) trực thuộc IFAC đã ban hành Nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế. Trong các nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế, có nguyên tắc số 7 bàn về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Nguyên tắc này đưa ra hướng dẫn về những phương pháp mà công ty kiểm toán áp dụng nhằm kiểm soát các công việc ủy thác cho các trợ lý trong một cuộc kiểm toán; những qui chế, các bước công việc mà một công ty kiểm toán cần thiết lập để đảm bảo chất lượng kiểm toán như [25]: - Giao việc: công việc kiểm toán phải được giao cho kiểm toán viên có đầy đủ năng lực và trình độ; kiểm toán viên phải xem xét kỹ năng và trình độ của các trợ lý trong quá trình làm việc để xác định phạm vi hướng dẫn, giám sát 12 và soát xét lại. - Hướng dẫn: những trợ lý được giao việc đều phải được hướng dẫn cặn kẽ. Việc hướng dẫn bao gồm: thông báo cho họ về trách nhiệm, mục đích, các bước công việc cần thực hiện và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, những vấn đề cần lưu ý khi thực hiện công việc kiểm toán. - Giám sát: trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán cán bộ phụ trách giám sát nhằm bảo đảm rằng: các trợ lý tỏ ra có đầy đủ kỹ năng, trình độ nghiệp vụ để thực hiện công việc mà mình được giao; các trợ lý hiểu rõ các hướng dẫn kiểm toán. Tiến hành giải quyết sự khác nhau về mặt xét đoán nghiệp vụ giữa các cán bộ cùng tham gia cuộc kiểm toán. - Soát xét lại: các phần việc do các trợ lý thực hiện cần phải được người thứ hai có trình độ tương đương hoặc cao hơn soát xét lại. Trong một cuộc kiểm toán có thể xác định các giai đoạn soát xét chính sau: Soát xét kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán ban đầu; Soát xét việc nghiên cứu và đánh giá các quy chế kiểm soát nội bộ kể cả các phương pháp tuân thủ; Soát xét các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được và các kết luận rút ra từ bằng chứng này; Soát xét báo cáo tài chính và dự thảo báo cáo kiểm toán. - Kiểm tra chất lượng nói chung: kiểm tra chất lượng là quy chế các bước công việc mà các hãng kiểm toán phải làm theo để có các cam kết hợp lý rằng mọi phần việc, mọi cuộc kiểm toán mà công ty kiểm toán đã thực hiện là phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán. Nội dung và phạm vi của các thủ tục kiểm tra chất lượng tùy thuộc vào các yếu tố như quy mô và loại hình hành nghề, địa bàn hoạt động, cơ cấu tổ chức, chi phí thích hợp và sự cân nhắc về lợi ích của công ty kiểm toán. Đến năm 1994, IAPC đã sửa đổi các nguyên tắc thực hành kiểm toán quốc tế và ban hành chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 (ISA 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán). Cuối thế kỷ 20, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển thị trường tài chính quốc tế đã làm tăng nhu cầu thông tin phục vụ cho các nhà đầu tư. Sự phát triển của công nghệ thông tin đòi hỏi việc kiểm tra, kiểm soát chặc chẽ các hệ thống và quy 13 trình liên quan đến thông tin. Các thay đổi này dẫn đến sự hình thành hàng loạt nhu cầu xã hội đối với việc nâng cao chất lượng thông tin. Cũng trong thời gian này, sự sụp đổ hàng loạt các công ty hàng đầu trên thế giới như Enron, Worlcom,... trong đó có lỗi của công ty kiểm toán. Sự sụp đổ và thất bại trong các cuộc kiểm toán buộc nghề nghiệp phải xem xét lại các chuẩn mực đã được ban hành. Vào năm 2002, IFAC ban hành chuẩn mực về dịch vụ đảm bảo có tên là ISAE100. Tầm quan trọng của dịch vụ đảm bảo được thể hiện thông qua việc Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) đổi tên thành Ủy ban quốc tế về chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo (IAASB). Trong cấu trúc các chuẩn mực ban hành bởi IAASB, chuẩn mực kiểm soát chất lượng quốc tế (ISCQ) được áp dụng cho tất cả các dịch vụ nằm trong phạm vi quy định bởi IAASB và chuẩn mực ISA 220 “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán áp dụng cho kiểm toán các thông tin tài chính lịch sử”. 1.2.2. Nội dung của chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 hiện hành: Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 hiện hành (có hiệu lực 15/06/2005) có tên là Kiểm soát chất lượng cho các cuộc kiểm toán về thông tin tài chính lịch sử . Chuẩn mực trình bày các nội dung cơ bản sau: a. Mục đích của chuẩn mực là qui định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản trong việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán trên các phương diện: - Các chính sách và thủ tục của công ty kiểm toán liên quan đến hoạt động kiểm toán; - Những thủ tục liên quan đến công việc được giao cho kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán trong một cuộc kiểm toán cụ thể. b. Trách nhiệm của người lãnh đạo về chất lượng cuộc kiểm toán: Chủ phần hùn phụ trách hợp đồng phải chịu trách nhiệm chung về chất lượng của hợp đồng kiểm toán mà họ phụ trách. c. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp: Cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp của công ty kiểm toán phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp được quy định ở phần A và B của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp do IFAC ban hành, gồm: chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp. 14 d. Tính độc lập: Chủ phần hùn phụ trách hợp đồng kiểm toán cần đưa ra kết luận về sự tuân thủ yêu cầu độc lập áp dụng cho cuộc kiểm toán phù hợp phần B của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp do IFAC ban hành. e. Chấp nhận khách hàng mới và duy trì khách hàng cũ: Chủ phần hùn phụ trách hợp đồng kiểm toán và các cam kết đặc biệt cần bảo đảm rằng họ đã áp dụng thủ tục thích hợp trong việc chấp nhận khách hàng mới và duy trì khách hàng cũ cũng như đã tài liệu hóa việc đánh giá này. f. Chỉ định nhóm kiểm toán: Công việc kiểm toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp được đào tạo và có đầy đủ kỹ năng và năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu thực tế. g. Hướng dẫn và giám sát: Công việc kiểm toán phải được hướng dẫn, giám sát thực hiện đầy đủ ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên nhằm đảm bảo là công việc kiểm toán đã được thực hiện phù hợp với chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan. h. Tham khảo ý kiến: Khi cần thiết, chủ phần hùn phụ trách hợp đồng nên: - Chịu trách nhiệm tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia trong công ty hoặc ngoài công ty về các vấn đề phức tạp hay đang tranh tụng; - Cần thỏa mãn rằng các thành viên nhận được sự tư vấn thích hợp; - Thỏa mãn rằng bản chất, phạm vi, kết luận đạt được đều được tài liệu hóa và có sự đồng ý của bên tư vấn; - Xác định rằng kết luận từ việc tư vấn đã được thực hiện. i. Khác biệt về ý kiến: Nếu có sự khác biệt ý kiến của nhóm kiểm toán với ý kiến của người tư vấn, giữa chủ phần hùn phụ trách hợp đồng với người xét duyệt, nhóm kiểm toán nên tuân thủ chính sách và các thủ tục giải quyết mâu thuẫn ý kiến của công ty. k. Soát xét việc kiểm soát chất lượng hợp đồng: Đối với các cuộc kiểm toán cho các công ty niêm yết, chủ phần hùn nên: - Chỉ định người soát xét việc kiểm soát chất lượng hợp đồng kiểm toán; 15 - Thảo luận các vấn đề phát sinh trong cuộc kiểm toán gồm cả những người được chỉ định soát xét việc kiểm soát chất lượng hợp đồng; - Dừng việc phát hành báo cáo cho đến khi thực hiện đầy đủ việc kiểm soát chất lượng hợp đồng. l. Giám sát: Công ty cần thiết lập chính sách và thủ tục để cung cấp bảo đảm hợp lý rằng chính sách thủ tục liên quan đến hệ thống kiểm soát là phù hợp, đầy đủ, hoạt động hữu hiệu và áp dụng trong thực tế. 1.2.3. Nội dung chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng dịch vụ đảm bảo: Sự sụp đổ của các tập đoàn lớn như Enron, Worldcom, Hyundai và Xerox đã khiến công chúng chú ý nhiều đến chất lượng các công ty kiểm toán cùng với sự phát triển nhiều dịch vụ mới, IAASB đã tái cấu trúc hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Trong hệ thống chuẩn mực hiện hành, có chuẩn mực kiểm soát chất lượng quốc tế số 1 (ISQC1 - International Standard on Quality Control có hiệu lực từ ngày 15/6/2005). Chuẩn mực này áp dụng để kiểm soát chất lượng đối với những công ty thực hiện việc kiểm toán, soát xét thông tin tài chính, các dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên quan khác. Về cơ bản ISQC1 không có khác biệt nhiều so với ISA 220. Nội dung chính là yêu cầu các công ty thiết lập một hệ thống kiểm soát chất lượng trên toàn công ty để cung cấp địch vụ, nhằm đảm bảo rằng: - Công ty và nhân viên của mình tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, các quy định và yêu cầu của pháp luật; - Các báo cáo do công ty hoặc các chủ phần hùn phụ trách kiểm toán là phù hợp với hoàn cảnh. Để đạt được mụ._.c tiêu của công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, các công ty kiểm toán phải xây dựng một hệ thống kiểm soát chất lượng mang tính toàn diện. Nội dung chính của chuẩn mực đề cập đến các vấn đề chính sau đây: a. Trách nhiệm của người lãnh đạo đối với chất lượng kiểm toán của công ty: Công ty nên thiết lập các chính sách và thủ tục để tạo thành văn hóa của công ty dựa trên quan điểm chất lượng là tiêu chuẩn hàng đầu. Chất lượng hoạt động kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của nhà quản lý. Nếu người quản lý cấp 16 cao nhất cho rằng kiểm soát chất lượng là một vấn đề quan trọng thì các thành viên khác trong đơn vị cũng sẽ cảm thấy điều đó và luôn tuân thủ các thủ tục và các chính sách đã được thiết lập. Ngược lại, nếu người quản lý chỉ hô hào kiểm soát mà không có những hành động, truyền đạt thông tin rõ ràng, thống nhất và mang tính thường xuyên chú trọng vào chất lượng thì các mục tiêu kiểm soát chất lượng sẽ không đạt được. Các nhà quản lý cần thiết lập các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng để đẩy mạnh nhận thức của các thành viên khác trong công ty xem chất lượng là một tiêu chí sống còn trong hoạt động của công ty. Để đạt được điều này, ban lãnh đạo công ty phải đảm bảo rằng: - Những yếu tố cân nhắc về thương mại không bao giờ quan trọng hơn vấn đề chất lượng; - Các chính sách, thủ tục của công ty liên quan đến việc đánh giá thành tích đạt được, chính sách bồi thường và cơ hội thăng tiến cho các nhân viên đều phải tập trung vào việc cải thiện, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán; - Có đủ nguồn lực để thực hiện việc phát triển, lập hồ sơ và hỗ trợ các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng. b. Các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp: Công ty kiểm toán phải thiết lập các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo hợp lý rằng công ty và cán bộ của công ty tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán, gồm: độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, tính bí mật, tư cách nghề nghiệp và tuân thủ chuẩn mực chuyên môn. Các chính sách và thủ tục của công ty tập trung vào các nguyên tắc cơ bản được thực thi bởi: Ban lãnh đạo công ty và thông qua giáo dục, đào tạo, giám sát và quá trình giải quyết việc không tuân thủ của nhân viên. Cần phải thông tin, báo cáo về những trường hợp vi phạm tính độc lập. Ngoài ra cần phải có xác nhận bằng văn bản, ít nhất là thường niên về sự tuân thủ các yêu cầu về tính độc lập của tất cả nhân viên trong công ty. Các công ty cũng cần phải thiết lập các phương tiện bảo vệ để đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp (ví dụ như: luân chuyển công tác, kiểm tra 17 hồ sơ kiểm toán sau khi báo cáo kiểm toán đã được ban hành), sử dụng nhân viên có kinh nghiệm công tác lâu năm về dịch vụ bảo đảm. Cần cân nhắc những yếu tố đặc biệt khác được áp dụng cho những người làm việc với các hợp đồng dịch vụ cho các công ty niêm yết. c. Duy trì và chấp nhận khách hàng: Trong quá trình duy trì khách hàng hiện hữu và đánh giá khách hàng tiềm năng, công ty kiểm toán phải cân nhắc đến tính độc lập, thời gian, năng lực của công ty kiểm toán và tính chính trực của khách hàng khi chấp nhận thực hiện hợp đồng. Công ty kiểm toán phải thiết lập các chính sách và thủ tục về chấp nhận và duy trì các quan hệ với khách hàng và các hợp đồng kiểm toán khi công ty đã cân nhắc đến tính chính trực của khách hàng, trình độ chuyên môn và thời gian để thực hiện cuộc kiểm toán. d. Nguồn nhân lực: Cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp của công ty kiểm toán phải có kỹ năng và năng lực chuyên môn, phải thường xuyên duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Công việc kiểm toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp có đủ trình độ và kinh nghiệm thực hiện, đáp ứng được yêu cầu thực tế. Công ty kiểm toán nên thiết lập các chính sách và thủ tục để giải quyết những vấn đề về nhân lực như: tuyển dụng, đánh giá thực hiện công việc, năng lực, trình độ chưyên môn, phát triển nghề nghiệp, thăng tiến, khen thưởng và cơ cấu nhân sự. Việc giải quyết những vấn đề này cho phép công ty kiểm toán nắm chắc về số lượng và đặc điểm nhân sự cần thiết cho hoạt động kiểm toán của công ty. Quá trình tuyển dụng của công ty kiểm toán bao gồm các thủ tục giúp công ty lựa chọn các nhân viên chính trực có khả năng phát triển nhân lực và trình độ chuyên môn cần thiết để thực hiện công việc kiểm toán. e. Thực hiện hợp đồng: Công việc kiểm toán phải được hướng dẫn, giám sát thực hiện đầy đủ ở tất cả 18 các cấp cán bộ, nhân viên nhằm đảm bảo rằng công việc kiểm toán đã được thực hiện phù hợp với chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan. Thông qua các chính sách và thủ tục của mình, công ty kiểm toán phải nỗ lực xây dựng tính đồng bộ về chất lượng trong khi thực hiện kiểm toán. Điều này thường được thực hiện thông qua sổ tay, tài liệu hướng dẫn chuyên môn, các công cụ phần mềm hoặc các hình thức tài liệu khác về mục tiêu, các chương trình làm việc và phương pháp kiểm toán. Chú trọng nhiều hơn đến tiêu chuẩn về tư vấn những vấn đề khó xảy ra hoặc liên tục, bao gồm các chính sách và thủ tục cần thiết kế nhằm cung cấp đảm bảo hợp lý rằng: khi cần thiết, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia trong công ty hoặc ngoài công ty. Việc trao đổi với các nhà chuyên môn khác đòi hỏi những người tham khảo phải được cung cấp tất cả các dữ kiện liên quan để họ có thể đưa ra những lời khuyên về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp hoặc những vấn đề khác. Các thủ tục trao đổi, tham khảo đòi hỏi phải được thực hiện với những người có kiến thức, thâm niên và kinh nghiệm phù hợp. f. Giám sát: Giám sát là sự đánh giá một cách thường xuyên và định kỳ của các nhà quản lý đối vối hệ thống kiểm soát chất lượng nhằm xem xét hoạt động của nó có đúng như thiết kế và cần phải điều chỉnh gì cho phù hợp với thực tiễn không. Công ty kiểm toán phải thiết lập các chính sách và thủ tục liên quan đến việc đánh giá liên tục, xem xét và giám sát tính phù hợp, thích đáng, hiệu quả hoạt động và sự tuân thủ hệ thống kiểm soát chất lượng của công ty. Các chính sách và thủ tục đó phải có sự cân nhắc và đánh giá về hệ thống kiểm soát chất lượng của công ty đang được tiến hành, bao gồm kiểm tra định kỳ có lựa chọn các hợp đồng kiểm toán đã thực hiện. Phải thường xuyên theo dõi kiểm tra và báo cáo thường niên cho Ban giám đốc tính đầy đủ và tính hiệu quả trong quá trình thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, nhằm đánh giá sự tuân thủ các chuẩn 19 mực nghề nghiệp, quy định và các yêu cầu của pháp luật. Quá trình kiểm tra bao gồm việc lựa chọn các hợp đồng kiểm toán, một số hợp đồng trong số được chọn có thể không được báo trước. Người thực hiện kiểm tra các dịch vụ kiểm toán này không được tham gia thực hiện các dịch vụ kiểm toán. Trong quá trình xác định phạm vi của các cuộc kiểm tra công ty có thể xét đến phạm vi hoặc các kết luận của một chương trình kiểm tra bên ngoài độc lập. Những sai sót mang tính hệ thống, lập đi lập lại hoặc các sai sót quan trọng khác cần phải lập tức được sửa chữa. Có thể tiến hành khắc phục đối với những sai sót phát sinh bằng một trong các biện pháp sau: - Hành động khắc phục liên quan đến hợp đồng kiểm toán hoặc nhân sự; - Liên hệ với những người chịu trách nhiệm đào tạo và phát triển nghề nghiệp; - Thay đổi các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng; - Có biện pháp kỷ luật thích đáng, đặc biệt là đối với những người vi phạm liên tục. 1.3. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại Hoa Kỳ: 1.3.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Hoa Kỳ: 1.3.1.1. Lược sử kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Hoa Kỳ: Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài của Hoa Kỳ ra đời từ thập niên 60. Trong giai đoạn đầu, việc kiểm soát chất lượng chủ yếu do bản thân công ty kiểm toán tiến hành nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán và tuân thủ yêu cầu chuẩn mực nghề nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, yêu cầu về chất lượng hoạt động kiểm toán ngày càng cao, việc kiểm tra chỉ do bản thân công ty kiểm toán thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Vào năm 1960, bắt đầu xuất hiện kiểm tra chéo (peer review), kiểm tra chéo khởi đầu là cuộc kiểm tra được sử dụng trong các công ty kiểm toán lớn. Các công ty sử dụng kiểm tra chéo như một cách thức để đảm bảo rằng các chi nhánh của họ đều duy trì cùng một chất lượng. Đến năm 1977, Học viện kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA - American institute of Certified Pulic Accountants) đã chính thức yêu cầu tiến hành 20 chương trình kiểm tra chéo cho các công ty kiểm toán. Vào thời gian này, AICPA đã thành lập Ủy ban phụ trách kiểm tra chéo. Việc kiểm tra chéo ban đầu dựa vào sự tự nguyện của các công ty kiểm toán và đã gặt hái nhiều thành công vì thông qua các cuộc kiểm tra, các công ty kiểm toán dần dần cải thiện được chất lượng hoạt động của mình. Tuy nhiên, bên cạnh thành công nói trên, các nhà kinh tế cho rằng kết quả kiểm tra không phản ảnh chất lượng hoạt động kiểm toán nói chung bởi lẽ các công ty được kiểm tra đều là công ty tham gia tự nguyện. Thường chỉ những công ty kiểm toán nào tự tin về chất lượng hoạt động, thì họ mới tham gia vào cuộc kiểm tra này. Hơn nữa, vào giữa thập niên 70 và đầu thập niên 80, đã xảy ra sự phá sản của một số ngân hàng tại Hoa kỳ, trong đó có lỗi các công ty kiểm toán. Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ đã gây áp lực lên Hội nghề nghiệp kiểm toán. Vấn đề đặt ra là nghề nghiệp chấp nhận vai trò tự kiểm soát hay là để cho Chính phủ đảm nhận trách nhiệm thay họ. Dưới áp lực này, Hội nghề nghiệp đã đứng ra đảm nhận nhiệm vụ tự kiểm soát. Năm 1987, AICPA đã chính thức yêu cầu bắt buộc kiểm tra chéo trong các công ty kiểm toán ba năm một lần. Năm 1988, AICPA đã phê chuẩn hai chương trình kiểm tra chéo khác nhau. Chương trình kiểm tra chéo cho các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty niêm yết, để thực hiện tiểu ban phụ trách kiểm tra chéo phải phối hợp với tiểu ban của Ủy ban chứng khoán (SECPS - Securities and Exchange Commission Practice Section) phụ trách tài chính, kế toán. Chương trình còn lại (PCPS) tiến hành kiểm tra cho các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty không phải là công ty niêm yết. Trong giai đoạn đầu, kiểm tra chéo được xem như chương trình giáo dục nhằm giúp các công ty thấy rõ các khiếm khuyết trong quá trình thực hiện nhằm gia tăng chất lượng kiểm toán hơn là để đưa ra biện pháp kỷ luật. Do vậy, kết quả của kiểm tra chéo thường bảo mật tuyệt đối. Cùng với sự phát triển, việc kiểm tra này không chỉ nhằm giúp các công ty kiểm toán nhận thức các khiếm khuyết mà còn giúp công chúng gồm cả các chủ nợ, các người sử dụng khác, các nhà lập pháp cũng như khách hàng biết rõ về chất 21 lượng hoạt động kiểm toán. Công chúng hy vọng qua kết quả kiểm tra sẽ có thể đánh giá chất lượng công việc của công ty kiểm toán cho các mục đích khác nhau. Bên cạnh đó, các công ty kiểm toán cũng muốn thông qua cuộc kiểm tra này để thông báo cho khách hàng về chất lượng cuộc kiểm toán mà họ đã cung cấp có kết quả tốt. Do vậy, trong thập niên 90, cuộc kiểm tra này gần như trở thành một hệ thống kiểm tra để thông qua đó sẽ nhận xét tốt hay không tốt về công ty kiểm toán. Ở phần lớn các tiểu bang của Hoa Kỳ, kiểm tra chéo được xem như một điều kiện để được cấp phép hành nghề. Vào thời điểm hiện nay, 46 trong 54 tiểu bang Hoa Kỳ yêu cầu cần có kiểm tra chéo như một điều kiện cấp phép hành nghề, 20 tiểu bang ngoài yêu cầu này còn đưa thêm yêu cầu phải công bố kết quả của việc kiểm soát này (tháng 05/2004, Ủy ban kiểm tra chéo khuyến cáo rằng một số thông tin từ kiểm tra chéo này sẽ được công bố). Vào đầu thế kỷ 21, các vụ bê bối tài chính ở các tập đoàn lớn trên thế giới liên tục xảy ra, đặc biệt là vụ gian lận tài chính của Enron đã dẫn đến sự tan rã của một trong năm công ty kiểm hàng đầu trên thế giới là Arthur Andersen, điều này đã làm giảm đáng kể lòng tin của công chúng đối với thông tin được cung cấp bởi các kiểm toán viên. Do đó, để vực lại lòng tin của công chúng và ổn định thị trường tài chính, các nước trên thế giới nhận thấy rằng cần có sự can thiệp của chính phủ vào công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán hơn là để cho các công ty kiểm toán và hội nghề nghiệp thực hiện công việc này. Từ sự thất bại của nghề nghiệp trong quản lý và giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán, nhà nước Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào hoạt động kiểm toán thông qua việc ban hành luật Sarbanes- Oxley. Việc ban hành đạo luật Sarbanes là một thay đổi rất lớn đối với nghề nghiệp kiểm toán Hoa Kỳ. Nó thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kiểm toán và làm thay đổi từ mô hình tự kiểm soát sang mô hình có sự kiểm soát của Nhà nước. Trong đạo luật Sarbanes-Oxley có đưa ra quy định như cho phép Ủy ban giám sát kế toán và kiểm toán các công ty niêm yết (PCAOB - Public Company Accounting Oversight Board) thuộc SEC sẽ: + Quản lý việc đăng ký các công ty kiểm toán được phép kiểm toán cho các 22 công ty niêm yết; + Thiết lập hay chấp nhận bằng luật lệ đối với các quy định liên quan đến kiểm soát chất lượng, đạo đức, tính độc lập và các chuẩn mực khác liên quan đến việc soạn thảo báo cáo kiểm toán; + Thực hiện việc giám sát đối với các công ty kiểm toán. 1.3.1.2. Các Ủy ban phụ trách kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: Hiện nay, kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán Hoa Kỳ được thực hiện bởi các ủy ban sau: 1.3.1.2.1. Ủy ban giám sát hoạt động kiểm toán các công ty niêm yết (PCAOB - Public Company Accounting Oversight Board): Như ta đã biết, cho đến năm 2002, nghề nghiệp kiểm toán ở Hoa Kỳ được thực hiện theo hệ thống tự kiểm soát, hệ thống này luôn được cải thiện để đáp ứng lòng tin của công chúng về tính trung thực và đáng tin cậy của báo cáo tài chính. Đến năm 1977, Thượng viện Hoa Kỳ đã thảo luận để xem liệu Nhà nước có cần ban hành các quy định để can thiệp đối với nghề nghiệp hay vẫn để cho hệ thống tự kiểm soát. Vì thế, vào ngày 17/9/1977, sau khi thỏa thuận với SEC, AICPA đã thiết lập một khuôn khổ tự kiểm soát bằng cách: - Thành lập một tiểu ban trực thuộc AICPA phụ trách các công ty kiểm toán. - Thành lập Ủy ban giám sát (POB - Public Oversight Board), POB chịu trách nhiệm giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán thông qua việc kiểm tra chéo. POB cho rằng có thể duy trì tính độc lập của nghề nghiệp nhờ việc tự kiểm soát này. Từ đó, trong nhiều năm, POB đã thực hiện sứ mạng giám sát và đưa ra các phê bình về chất lượng các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. POB tin rằng nếu chương trình kiểm soát chất lượng của mình được thực hiện tốt họ sẽ phục vụ tốt cho lợi ích của cộng đồng. Đến năm 2002, luật Sarbanes-Oxley quy định phải thành lập Ủy ban giám sát hoạt động kiểm toán (PCAOB) và đây là cơ quan giám sát các công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán cho các công ty niêm yết, dù là công ty của Hoa Kỳ hay của 23 nước ngoài. Do đó, POB đã giải thể vào ngày 31.12.2002 và được thay thế bởi PCAOB. Theo luật Sarbanes-Oxley, kiểm toán viên cho các công ty niêm yết phải đăng ký với PCAOB và đồng ý rằng các cuộc kiểm toán của họ sẽ được kiểm tra đều đặn bởi các kiểm tra viên của PCAOB. PCAOB chịu trách nhiệm kiểm tra các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty niêm yết. Do vậy, việc kiểm tra của PCAOB được hy vọng ít nhiều có thể thay thế cho việc kiểm tra chéo đối với các công ty kiểm toán kiểm toán cho công ty niêm yết. Riêng việc kiểm tra chéo do Hội nghề nghiệp tiến hành vẫn được áp dụng đối với những công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty không niêm yết. 1.3.1.2.2. Ủy ban kiểm tra chéo (AICPA's Peer Review Board): Mục đích của kiểm tra chéo là để bảo đảm các công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán và dịch vụ kế toán cho các công ty niêm yết phải có hệ thống kiểm soát chất lượng hữu hiệu và đã tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp. Cùng với việc kiểm tra chéo đối với các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty niêm yết, chương trình này còn thực hiện cho các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty không niêm yết. Tương tự như kiểm tra chéo đối với thành viên của SECPS (Bộ phận phụ trách kiểm toán của SEC), việc kiểm tra các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty không niêm yết được giám sát bởi Ủy ban kiểm tra chéo của AICPA. Các công ty kiểm toán được tự chọn các công ty khác để kiểm tra cho công ty mình theo định kỳ ba năm một lần. Đây là yêu cầu bắt buộc và được xem như là một phần trong chương trình tự kiểm soát của nghề nghiệp theo quy định của AICPA, đây cũng là một phần của kế hoạch tái cấu trúc tổ chức nghề nghiệp. 1.3.1.2.3. Ủy ban điều tra chất lượng (QCIC-Quality Control Inquiry Committee): QCIC thành lập vào năm 1979 nhằm điều tra các cuộc kiểm toán được cho là không tuân thủ đầy đủ chuẩn mực chuyên môn (có khiếm khuyết) nhằm bảo đảm hợp lý rằng các công ty kiểm toán đã tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp và gia tăng tính hữu hiệu của quá trình kiểm toán. 24 SECPS phải báo cáo cho QCIC về bất cứ các vụ kiện tụng nào, hay bất cứ trường hợp nào được cho là có khiếm khuyết trong việc thực hiện kiểm toán của các công ty kiểm toán đối với khách hàng của SEC. Cuộc điều tra của QCIC thường phải hoàn tất trong vòng 5-6 tháng, nếu QCIC phát hiện bất cứ các khiếm khuyết hay yếu kém nào trong hệ thống kiểm soát chất lượng của công ty kiểm toán, họ sẽ yêu cầu công ty phải điều chỉnh ngay hệ thống. Mục tiêu chính các cuộc điều tra của QCIC là nhằm xác định liệu sai phạm của công ty kiểm toán có mang tính hệ thống hay không. Tuy nhiên, nếu qua điều tra và nhận thấy rằng có sai phạm về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, họ sẽ chuyển sang cho Ủy ban đạo đức nghề nghiệp (PEEC - Division of Professional Ethics Exective) xem xét. 1.3.1.2.4. Về phương pháp kiểm tra: Các công ty kiểm toán được tự chọn các công ty khác để kiểm tra cho công ty mình trong định kỳ ba năm một lần, thành viên tham gia đoàn kiểm tra chủ yếu là do công ty được kiểm tra lựa chọn. Kiểm tra viên phải là thành viên của AICPA và là người có trình độ chuyên môn cao, đạo đức tốt, phải có kinh nghiệm làm việc 5 năm ở các vị trí như chủ phần hùn, kiểm toán viên điều hành hoặc cấp tương đương thực hiện công tác giám sát trong lĩnh vực kiểm toán. Cuộc kiểm tra bao gồm xem xét việc tuân thủ chuẩn mực kiểm toán thông qua hồ sơ kiểm toán, các dịch vụ thực hiện. 1.3.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong tại Hoa Kỳ: Chuẩn mực kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán ra đời rất sớm. Sau nhiều lần thay đổi, chuẩn mực hiện hành đề cập đến hai nội dung chính: - Chính sách chung: Để đạt được mục tiêu kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, các công ty kiểm toán cần chú ý năm vần đề chính sau: Duy trì tính độc lập, chính trực khách quan; quản lý nhân viên; thiết lập các hướng dẫn về chấp nhận khách hàng; thực hiện hợp đồng; giám sát chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hiện hữu. 25 - Chính sách đối với việc thực hiện hợp đồng: Công ty kiểm toán cần chú ý các vấn đề chính trong các khâu: giao việc, ký cam kết về tính độc lập, xem xét năng lực chuyên môn của kiểm toán viên, giám sát việc kiểm tra hồ sơ kiểm toán, đào tạo liên tục, đánh giá thành tích của nhân viên để phát triển, xét duyệt khách hàng cũ, tham khảo ý kiến. 1.4. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại Pháp: 1.4.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Pháp: 1.4.1.1. Lược sử kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Pháp: Hoạt động kiểm toán của Pháp chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quy định của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Hoạt động kiểm toán độc lập của Pháp hình thành từ sự ra đời của Luật Thương mại (1863) và Luật Công ty (1867), trong hai luật này đã đề cập đến thuật ngữ kiểm toán. Sau đó, Luật Thương mại đã bổ sung nhiều yêu cầu liên quan đến việc hành nghề kiểm toán, ví dụ đề cập đến việc thành lập tổ chức nghề nghiệp kiểm toán và kiểm soát nghề nghiệp. Theo quy định của Luật Công ty, chỉ những người có tên trong danh sách chính thức của kiểm toán viên mới được thực hiện cuộc kiểm toán theo luật định. Kiểm toán viên có thể hành nghề dưới danh nghĩa cá nhân hay công ty. Tất cả kiểm toán viên hành nghề đều phải là thành viên của Liên đoàn quốc gia các chuyên viên kế toán (CNCC - Compagnie Nationale des Commissaires aux Comptes), CNCC đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp. Chính vì vậy, hoạt động kiểm toán không chỉ chịu sự giám sát của từng công ty kiểm toán mà còn chịu sự giám sát bởi các cơ quan chức năng có liên quan. 1.4.1.2. Các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: 1.4.1.2.1. Ủy ban tối cao của kiểm toán viên (Haut conseil du commissaire aux comptes - H3C) : Ủy ban tối cao của kiểm toán viên chịu trách nhiệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, Ủy ban này được thành lập là do yêu cầu của Luật thương mại. Luật này cũng nêu rõ ủy ban này vừa là một tổ chức nghề nghiệp vừa là một cơ 26 quan chức năng của Nhà nước. Đây là ủy ban chịu sự lãnh đạo của Bộ tư pháp và Hội nghề nghiệp. Ủy ban này có chức năng sau: Giám sát hoạt động nghề nghiệp; giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và tính độc lập của kiểm toán viên; tổ chức các chương trình kiểm soát định kỳ về chất lượng hoạt động kiểm toán; xử lý kỷ luật kiểm toán viên (H3C có tư cách tương tự như một Tòa phúc thẩm vùng). 1.4.1.2.2. Ủy ban kiểm tra quốc gia về hoạt động kiểm toán (Le Comité đe l’Examen National d’Activeté - CENA): CENA là một ủy ban đặc biệt trực thuộc CNCC, chịu trách nhiệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán cùng với việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán đối với các công ty niêm yết. Vào những năm cuối thế kỷ 20, việc xảy ra các vụ gian lận trên báo cáo tài chính tại Pháp và một số các quốc gia khác trên thế giới, đã làm giảm sút niềm tin của xã hội vào nghề nghiệp kiểm toán. Do vậy, để nâng cao chất lượng báo cáo tài chính được kiểm toán mà các công ty niêm yết cung cấp, Chủ tịch Ủy ban chứng khoán và Chủ tịch CNCC đã thỏa thuận để CENA phụ trách kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán đối với các công ty được niêm yết. Việc kiểm soát của CENA thường thực hiện theo chương trình kết hợp với Ủy ban chứng khoán (COB - Commission des opérations de Bourse) đối với các công ty niêm yết. Sau mỗi đợt kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, CENA sẽ thông báo cho Ủy ban đạo đức nghề nghiệp về tính độc lập của kiểm toán viên (CDI –Comité đe déontologie đe l’indépendence) về các vấn đề cần phải xem xét. 1.4.1.2.3. Phương pháp kiểm soát: Kiểm soát chất lượng ở Pháp thường được tiến hành theo mô hình có hai hệ thống kiểm soát được lập là: kiểm soát theo chiều ngang và kiểm soát theo chiều dọc. - Kiểm soát theo chiều ngang là kiểm soát quy trình và đánh giá hệ thống xem công ty kiểm toán có các biện pháp đảm bảo công tác kiểm soát chất lượng, để thực hiện điều này cần phải soát xét các khía cạnh như: trách nhiệm của lãnh đạo 27 đối với chất lượng trong phạm vi công ty; cơ cấu của công ty kiểm toán; hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ; đạo đức nghề nghiệp; chấp nhận và duy trì hợp đồng; kỹ năng và năng lực chuyên; chương trình đào tạo; hồ sơ kiểm toán; vấn đề bảo hiểm trong hoạt động kiểm toán. - Kiểm soát theo chiều dọc là việc kiểm soát và đánh giá hồ sơ kiểm toán xem kiểm toán viên tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp như thế nào và việc áp dụng đúng các chuẩn mực nghề nghiệp, bao gồm các nội dung sau: Tiêu chuẩn chung của hồ sơ; chấp nhận của khách hàng; các vấn đề riêng biệt khác; kinh nghiệm của các cán bộ chủ chốt; đánh giá rủi ro và lập chương trình kiểm toán; đánh giá và kiểm tra việc kiểm soát nội bộ; giải pháp cho các vấn đề mà kiểm toán viên phát hiện; nội dung của báo cáo tài chính và tính đầy đủ của báo cáo; thư giải trình của ban giám đốc; bằng chứng về quy trình kiểm soát nội bộ đã áp dụng cho kiểm toán. Nội dung cơ bản của quy trình thực hiện các thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán được thực hiện qua các giai đoạn: lập kế hoạch, kiểm soát kiểm toán viên và tổng hợp - kết luận. Các thành viên tham gia đoàn kiểm tra phải do Hội đồng cấp cao chỉ định, các thành viên kiểm tra có thể bao gồm các cán bộ kiểm tra làm việc toàn thời gian và bán thời gian. Tùy vào qui mô hoạt động của mỗi công ty kiểm toán mà chu kỳ kiểm soát chất lượng là khác nhau, thường thì nằm trong khoảng từ ba năm đến sáu năm. Công tác kiểm soát chất được thực hiện mang tính bắt buộc và có thu phí đối với mỗi cuộc kiểm tra. 1.4.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong tại Pháp: Để đạt được mục tiêu kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, các công ty kiểm toán thường tập trung vào ba vấn đề sau: đánh giá khách hàng, kiểm soát hồ sơ và đánh giá sự hài lòng của khách hàng. 1.4.2.1. Đánh giá khách hàng: Trước khi chấp nhận một khách hàng, kiểm toán viên và công ty kiểm toán 28 cần đánh giá mức độc lập của công ty, khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng cũng như mức độ liêm khiết của ban lãnh đạo khách hàng. Thủ tục đánh giá trong giai đoạn này thường được áp dụng là: thu thập thông tin về lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, hình thức sản xuất, công nghệ sản xuất, cách thức tổ chức bộ máy của khách hàng; phân tích báo cáo tài chính của năm trước liền kề và năm tài chính của khách hàng; thu thập thêm các thông tin về khách hàng thông qua: kiểm toán viên tiền nhiệm, luật sư, ngân hàng và các nhà cung cấp của khách hàng. Trong trường hợp công ty nhận thấy không có đủ khả năng, năng lực cần thiết để thực hiện hợp đồng (như thiếu người, lĩnh vực hoạt động của khách hàng còn lạ lẫm, thiếu tính độc lập,…) thì cần thiết phải từ chối hợp đồng. 1.4.2.2. Kiểm soát chất lượng hồ sơ kiểm toán: Là tiến hành kiểm soát việc sử dụng đúng các kỹ thuật kiểm toán, kiểm soát việc áp dụng đúng các thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của kiểm soát hồ sơ là xem xét công tác kiểm toán đã thực hiện phù hợp với chuẩn mực kiểm toán quốc tế, quốc gia và của công ty; xác định những lĩnh vực cần được đào tạo hay hỗ trợ thêm; xác định những nhà quản lý, kiểm toán viên yếu kém; đào tạo những người sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng. Các công ty kiểm toán thường lập ra bộ phận kiểm soát chất lượng để tiến hành kiểm soát chất lượng của công ty. Các nhân viên làm việc trong phòng này đòi hỏi phải độc lập, phải được Ban giám đốc bổ nhiệm, ít nhất phải có một người phụ trách là thành viên trong Ban giám đốc, những cộng sự cùng làm với người phụ trách ít nhất phải là kiểm toán viên chính. Các thủ tục cần áp dụng khi kiểm tra hồ sơ: Chọn các hồ sơ kiểm toán; chọn người kiểm soát; kiểm tra phần hình thức của hồ sơ để đáp ứng cho mục tiêu chất lượng, thảo luận với các cộng sự trong nhóm về hồ sơ kiểm toán đó, kiểm tra mức độ tuân thủ các chính sách kiểm soát chất lượng mà công ty đã thiết kế. Khi đã xem xét xong, bộ phận kiểm soát chất lượng cần theo dõi mức độ thực hiện các hành động cần cải tiến đã nêu lên trong kết luận ghi ở báo cáo kiểm 29 soát. Đồng thời ghi nhận lại những thông tin phản hồi của các nhóm kiểm toán để hoàn thiện hệ thống kiểm soát chất lượng hiện tại công ty đang áp dụng. 1.4.2.3. Đánh giá sự hài lòng của khách hàng: Hoạt động sau cùng liên quan đến hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán là thu thập những thông tin phản hồi từ phía khách hàng để đánh giá sự hài lòng của họ đối với dịch vụ mà công ty đã cung cấp. Mở một cuộc điều tra về thái độ làm việc, cách cư xử của nhóm kiểm toán trong quá trình làm việc; các thời hạn về gửi thư, làm việc, gửi báo cáo kiểm toán,... có được các kiểm toán viên thực hiện đúng như trong kế hoạch đã cam kết đối với khách hàng không. 1.5. Bài học kinh nghiệm từ các mô hình kiểm soát chất lượng cho Việt Nam: Thông qua khảo sát mô hình kiểm soát chất lượng của các quốc gia trên thế giới và chuẩn mực quốc tế, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: 1.5.1. Việc tiến hành kiểm soát chất lượng là yêu cầu tất yếu khách quan: Thực vậy, kiểm soát chất lượng là phương tiện để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Bản chất của kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là việc rà soát lại quá trình cung cấp các dịch vụ mà kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán đã thực hiện có phù hợp các qui định của luật pháp và chuẩn mực nghề nghiệp hay không và do vậy, nó là khâu không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán. 1.5.2. Vai trò của kiểm soát chất lượng đối với sự phát triển, hoàn thiện của nghề nghiệp kiểm toán: Ngay từ khi ra đời cho đến những năm đầu thế kỷ 20, việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán chưa được quan tâm đúng mức. Những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, nhiều vụ gian lận về tài chính đã dẫn đến sự sụp đỗ của các tập đoàn lớn trong đó có lỗi rất lớn của các công ty kiểm toán thì chất lượng kiểm toán đã trở thành một nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại hay phá sản của một công ty kiểm toán. Lịch sử phát triển kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán cho thấy công 30 tác kiểm soát chất lượng là một bộ phận không thể thiếu trong tổng thể dịch vụ kiểm toán. Nếu các chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về các nguyên tắc và thủ tục kiểm toán thì riêng các quy định của chuẩn mực kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán sẽ giúp nâng cao khả năng áp dụng các chuẩn mực này vào thực tế . Để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, chất lượng dịch vụ kiểm toán phải ngày càng được nâng cao. Có thể nói, công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là một công cụ giúp tăng cường chất lượng các thông tin niêm yết trên thị trường chứng khoán, từ đó._.ác tổ chức và các cá nhân đủ điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề kiểm toán. Đồng thời Hội nên tổ chức xếp hạng cho các công ty kiểm toán theo tiêu chuẩn chất lượng được khách hàng bình chọn, điều này góp phần không nhỏ để các công ty kiểm toán không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, củng cố uy tín đối với xã hội. Những thông tin này cần được công bố một cách rộng rãi ra tính công chúng, giúp cho tất cả mọi người có thể tiếp cận được 77 một cách dễ dàng để từ đó họ có thể lựa chọn một dịch vụ có chất lượng phù hợp với yêu cầu. - Tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ, các buổi tạo đàm giải đáp thắc mắc một cách thường xuyên hơn cho các công ty kiểm toán, nhằm giúp các công ty kiểm toán, các kiểm toán viên tuân thủ tốt các chuẩn mực nghề nghiệp trong quá trình thực hiện các hoạt động kiểm toán của mình. - Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các kiểm toán viên, các nhân viên của các công ty kiểm toán vừa và nhỏ; đặc biệt là mở các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý cho các đối tượng là Giám đốc, Phó giám đốc của các công ty kiểm toán vừa và nhỏ nhằm trang bị cho họ những kiến thức quản lý và kinh nghiệm điều hành công ty kiểm toán. 3.3.3.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức, chuyên nghiệp hóa các Ban chuyên môn của Hội nghề nghiệp: Để Hội nghề nghiệp có thể đảm nhận vai trò kiểm soát, cần thành lập các Ủy ban trực thuộc Hội. Dựa vào kinh nghiệm của Pháp và Hoa Kỳ, các Ủy ban cần thành lập bao gồm: a.Thành lập Ủy ban kiểm soát chất lượng: Như đã nêu trong chương 1, tại Hoa Kỳ việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập được thực hiện bởi Ủy ban kiểm tra chéo. Ủy ban kiểm soát chéo là một bộ phận của AICPA. Kiểm tra chéo được xem như một phương pháp gia tăng chất lượng kiểm toán mang tính bắt buộc đối với tất cả các công ty kiểm toán độc lập là thành viên của AICPA. Còn tại Pháp, Ủy ban tối cao về kiểm toán chịu trách nhiệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán một cách thường xuyên và định kỳ đối với các công ty kiểm toán và kiểm toán viên trên mọi lĩnh vực. Ủy ban này vừa là một tổ chức nghề nghiệp vừa là một cơ quan chức năng của Nhà nước. Như vậy, theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới thường thì muốn kiểm soát chất lượng, phải thành lập ủy ban phụ trách có liên quan. Ủy ban kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán sẽ trực thuộc Hội nghề nghiệp (VACPA) và chịu sự 78 giám sát của Nhà nước. Việc thành lập Ủy ban này không những giúp Bộ tài chính giảm bớt công việc, gọn nhẹ bộ máy mà còn giúp cho công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán mang tính chuyên nghiệp hơn. b.Thành lập Ủy ban Giám sát chất lượng kiểm toán đối với các công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ cho những công ty niêm yết: Báo cáo tài chính được kiểm toán của các công ty niêm yết là một nguồn cung cấp thông tin vô cùng quan trọng đối với các nhà đầu tư, các cổ đông, ngân hàng, các cơ quan quản lý,... để có thể ra những quyết định quan trọng trong kinh doanh. Thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển, là một kênh huy động vốn lớn nhất trong nền kinh tế, thì việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập kiểm toán cho các công ty niêm yết hơn bao giờ hết cần phải được giám sát một cách chặt chẽ. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Pháp cho thấy, để kiểm soát chất lượng các công ty kiểm toán độc lập kiểm toán cho các công ty niêm yết, cần có Ủy ban phụ trách riêng. Ủy ban này được thành lập do sự kết hợp giữa Hội nghề nghiệp và Ủy ban chứng khoán. Tại Hoa Kỳ, các công ty kiểm toán độc lập kiểm toán cho các công ty niêm yết phải đăng ký với Ủy ban giám sát, các cuộc kiểm toán của họ sẽ được kiểm soát một cách đều đặn bởi các kiểm soát viên của Ủy ban giám sát (POAB). Ủy ban này không phải là một cơ quan chức năng của Nhà nước, họ hoạt động dưới sự giám sát của Ủy ban chứng khoán (SEC) và Hội nghề nghiệp (AICPA). Tại Pháp, việc kiểm soát chất lượng hoạt động các công ty kiểm toán độc lập kiểm toán cho các công ty niêm yết được tiến hành bởi Ủy ban kiểm soát quốc gia về kiểm toán (CENA). CENA là một Ủy ban đặc biệt trực thuộc Hội đồng quốc gia về kiểm toán (CNCC). Việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập của CENA thường được kết hợp với Ủy ban chứng khoán (COB). Tại Việt Nam, từ khi nghề nghiệp kiểm toán được thành lập vào năm 1991 đến nay, hàng năm Bộ tài chính lựa chọn một số công ty kiểm toán độc lập để kiểm soát chất lượng theo nguyên tắc xoay vòng. Nguyên nhân là do Bộ tài chính không 79 có đủ nhân lực và thời gian kiểm soát khi mà số lượng công ty kiểm toán độc lập ngày càng phát triển và đông đảo như hiện nay. Như vậy, dù theo mô hình nào, Việt Nam cũng cần phải thiết lập Ủy ban giám sát chất lượng kiểm toán đối với các công ty kiểm toán độc lập kiểm toán cho các công ty niêm yết. Ủy ban này nên trực thuộc VACPA và phải liên kết với Ủy ban chứng khoán khi tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán theo chương trình kiểm soát do VACPA thiết lập. c. Thành lập Ủy ban kỷ luật: Để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và xử lý kỷ luật các KTV, cần thành lập Ủy ban phụ trách về kỷ luật. Về mô hình tổ chức, có thể học tập kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới như: Đối với Hoa Kỳ, Ủy ban kỷ luật trực thuộc Ủy ban đạo đức nghề nghiệp, tức trực thuộc Hội nghề nghiệp. Còn ở pháp, Ủy ban phụ trách kỷ luật là Ủy ban tối cao của kiểm toán viên (H3C). Luật công ty của Pháp quy định Ủy ban này là một thể chế đôi, tức vừa là một tổ chức nghề nghiệp vừa là một cơ quan chức năng của Nhà nước, nhiệm vụ của Ủy ban này là tạo kết nối giữa Bộ Tư Pháp và Hội nghề nghiệp, và có chức năng sau: - Giám sát hoạt động nghề nghiệp; - Giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và tính độc lập của kiểm toán viên; - Tổ chức các chương trình kiểm soát định kỳ về chất lượng hoạt động kiểm toán; - Xử lý kỷ luật kiểm toán viên. Đối với Việt Nam, do Bộ tài chính đã giao cho VACPA hướng dẫn và kiểm soát việc thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với người hành nghề, vì thế Ủy ban kỷ luật nên trực thuộc VACPA, Ủy ban này sẽ chịu trách nhiệm điều tra về bất cứ trường hợp nào được cho là vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Các trường hợp này có thể được phát hiện thông qua các cuộc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Ngoài ra Ủy ban này cũng mở các cuộc điều tra riêng nếu nhận được các thông tin về vấn đề được cho là vi phạm đạo đức nghề nghiệp thông qua đơn khiếu nại hay qua các phương tiện thông tin đại chúng. 80 Các thành viên trong Ủy ban kỷ luật nên là những kiểm toán viên hành nghề, còn không họ phải là những người nổi bật về tính trung thực và khách quan. Trong trường hợp có bằng chứng về vi phạm đạo đức nghề nghiệp, Ủy ban sẽ đánh giá về mức độ nghiêm trọng của vi phạm này và ấn định các biện pháp như: - Nếu những vi phạm không trọng yếu, Ủy ban gửi một thư riêng cho kiểm toán viên vi phạm nhằm nêu ra những hành động cần thiết để sửa sai. - Áp dụng các biện pháp kỷ luật như cảnh cáo (ví dụ như không cho hành nghề trong một khoảng thời gian nào đó) hay khai trừ ra khỏi VACPA đối với những sai phạm nghiêm trọng. - Công bố các kết luận hay cách giải quyết của Ủy ban kỷ luật trên các tạp chí chuyên ngành hay trên các phương tiện thông tin đại chúng khác. Trong quá trình điều tra, các công ty kiểm toán mà có các kiểm toán viên đăng ký hành nghề cần áp dụng một trong các biện pháp đối với kiểm toán viên bị điều tra như sau: - Không cho kiểm toán viên tiếp tục thực hiện hợp đồng kiểm toán đối với khách hàng; - Đình chỉ công việc đối với kiểm toán viên đang bị điều tra cho đến khi Ủy ban kỷ luật có kết luận chính thức; - Chấm dứt hợp lao động đối với kiểm toán viên này. 3.3.3.3. Xây dựng quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập: Để tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập, Ủy ban kiểm soát chất lượng cần xây dựng quy trình kiểm soát cũng như việc tuyển chọn các kiểm soát viên. 3.3.3.3.1. Các nguyên tắc cần tuân thủ khi xây dựng quy trình kiểm soát cũng như việc tuyển chọn kiểm tra viên: - Mọi chuyên gia kiểm toán từ trợ lý kiểm toán viên đến kiểm toán viên cao cấp, chuyên gia trong nước hay nước ngoài khi đăng ký hành nghề trong lĩnh vực kiểm toán độc lập dù hoạt động dưới hình thức theo văn phòng đại diện, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty có vốn đầu tư nước ngoài đều 81 phải chịu sự kiểm soát chất lượng. - Công tác kiểm soát chất lượng phải bao quát được tất cả các dịch vụ của công ty kiểm toán và cá nhân hành nghề kiểm toán độc lập, trong đó chủ yếu là các dịch vụ có đảm bảo (dịch vụ kiểm toán, dịch vụ lập báo cáo tài chính, dịch vụ soát xét báo cáo tài chính, dịch vụ kiểm toán nội bộ, dịch vụ kiểm soát chất lượng thông tin, dịch vụ có đảm bảo khác) mà cá nhân hoặc công ty kiểm toán cung cấp. - Người thực hiện việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán phải đảm bảo tính độc lập trong quá trình thực hiện. Các thành viên tham gia vào công tác kiểm soát đòi hỏi phải độc lập cả về quyền lợi, lợi ích trực tiếp và gián tiếp đối với các thành viên và công ty được kiểm soát. - Quá trình thực hiện kiểm soát từ việc tổ chức thực hiện kiểm soát cho đến khi đưa ra kết luận trong báo cáo kiểm soát, các thành viên tham gia cần phải công bằng, luôn tôn trọng sự thật, không được làm sai lệch vấn đề, thiên vị và có thành kiến với các thành viên và công ty được kiểm soát. - Các thành viên tham gia vào quá trình kiểm soát phải là những người có trình độ chuyên môn cao, am hiểu và có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực kiểm toán. Đoàn kiểm soát phải có kiến thức về chuẩn mực nghề nghiệp áp dụng đối với đối tượng bị kiểm soát, các thành viên trong đoàn kiểm soát phải có kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh của hợp đồng được chọn để kiểm soát. - Các thành viên tham gia vào quá trình kiểm soát không được tiết lộ các thông tin liên quan đến công ty được kiểm soát và các khách hàng của công ty được kiểm soát cho bất cứ một cá nhân, tổ chức nào không liên quan đến cuộc kiểm soát và không được sử dụng cho các mục đích khác ngoài mục đích của cuộc kiểm soát. - Khi kết thúc cuộc kiểm soát chất lượng, phải lập báo cáo kiểm soát chất lượng. Báo cáo kiểm soát phải thể hiện được những công việc đã tiến hành, kết luận và những kiến nghị sửa chữa những tồn tại đã phát hiện trong quá trình kiểm soát. 3.3.3.3.2. Tiêu chuẩn của kiểm soát viên: Các kiểm soát viên có thể được tuyển chọn từ các hội viên của VACPA, hoặc dựa vào sự tự nguyện của các hội viên, hoặc dựa vào sự giới thiệu của các 82 công ty kiểm toán. Các kiểm soát viên phải là những người có trình độ chuyên môn cao, có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực nghề nghiệp, thông thường kiểm soát viên cần có những tiêu chuẩn sau: - Là người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của Bộ tài chính; - Là người đã thực tế tham gia các hợp đồng cung cấp dịch vụ của công ty kiểm toán cho khách hàng, trong đó đã phụ trách các hợp đồng kiểm toán với tư cách là kiểm toán viên chính, hoặc là kiểm toán viên phụ trách kiểm soát chất lượng nội bộ của công ty kiểm toán; - Có tư cách, phẩm chất đạo đức nghề nhiệp kế toán, kiểm toán tốt, trung thực khách quan, có tinh thần trách nhiệm cao, chưa bị vi phạm và xử lý kỷ luật nghề nghiệp; - Đã hoàn thành khóa huấn luyện kiểm soát viên, được cấp chứng chỉ theo chương trình đào tạo kiểm soát viên, theo quy định pháp luật. 3.3.3.3.3. Nghĩa vụ và quyền hạn của kiểm soát viên: a. Nghĩa vụ của kiểm soát viên: - Cam kết bằng văn bản về tính độc lập đối với công ty kiểm toán được kiểm soát. Kiểm soát viên không được giữ bất cứ chức vụ nào cũng như không được có bất cứ quyền lợi nào tại đơn vị mà họ tiến hành kiểm soát chất lượng. Họ cũng có quyền độc lập kiểm soát, độc lập đưa ra ý kiến kết luận về mức độ tuân thủ các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng của công ty kiểm toán và kiểm toán viên. - Thực hiện trách nhiệm được giao một cách chính trực, đảm bảo tính khách quan trong khi làm việc, không được ủy thác công việc mình đã được giao cho người khác khi chưa được sự đồng ý của Bộ tài chính hoặc Hội nghề nghiệp; - Kiểm soát viên có thể làm việc toàn thời gian hay bán thời gian nhưng phải cam kết giành một quỹ thời gian nhất định (ví dụ, ở Pháp thường kiểm soát viên phải cam kết làm việc ít nhất là 50 giờ và nhiều nhất là 200 giờ mỗi năm) để tham gia các cuộc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. 83 - Trung thực, vô tư, duy trì sự thận trọng trong nghề nghiệp khi tiến hành kiểm soát, thực hiện chương trình kiểm soát chất lượng theo đúng quy định; - Giữ bí mật mọi thông tin và chỉ được đưa ra nhận xét, kiến nghị kết luận trong Báo cáo kết quả kiểm soát của mình theo quy định. b. Quyền hạn của kiểm soát viên: - Được sử dụng toàn bộ tài liệu cần thiết cho cuộc kiểm soát chất lượng do công ty được kiểm soát cung cấp đúng theo yêu cầu quy định; - Có quyền đối chiếu, xác minh các thông tin có liên quan ở trong và ngoài công ty được kiểm soát; - Thực hiện kiểm soát chất lượng theo các nội dung đã được xác định hoặc đã được lập kế hoạch. 3.3.3.3.4. Phí kiểm soát: Các cuộc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập do Hội nghề nghiệp thực hiện được thu phí kiểm soát từ đối tượng được kiểm soát. Mức phí kiểm soát được xác định theo nguyên tắc đảm bảo cân đối, phù hợp với dự toán thu chi của từng cuộc kiểm soát. Công ty kiểm toán được hạch toán mức phí kiểm soát thực nộp cho Hội nghề nghiệp vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Hội nghề nghiệp phải hạch toán tiền thu phí về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập theo qui định hiện hành. 3.3.3.3.5. Quy trình và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập: Để việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên ngoài đạt kết quả, các kiểm soát viên cần tuân thủ quy trình kiểm soát chất lượng. Theo kinh nghiệm của một số nước, nhìn chung quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán có thể xây dựng thành ba giai đoạn, đó là: Giai đoạn chuẩn bị kiểm soát, giai đoạn thực hiện kiểm soát và giai đoạn theo dõi sau kiểm soát. a. Giai đoạn chuẩn bị kiểm soát: Bao gồm các bước công việc sau: Lựa chọn công ty kiểm toán cần kiểm soát chất lượng. Ủy ban kiểm soát chất 84 lượng cần lựa chọn và có kế hoạch kiểm soát xoay vòng sao cho các công ty kiểm toán đều phải chịu sự kiểm soát của Hội nghề nghiệp. Có thể dựa vào một số tiêu chí sau để chọn các công ty kiểm toán vào danh sách kiểm soát chất lượng trong năm như: - Đã thành lập và đi vào hoạt động tối thiểu là 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ kiểm toán; - Có khoảng thời gian từ lần kiểm soát trước đến năm được lựa chọn là ba năm trở lên; - Có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng trong việc tuân thủ các quy định của Nhà nước hoặc các chuẩn mực nghề nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ; - Tự nguyện được kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán, trong trường hợp không tự nguyện sẽ tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc xoay vòng. Danh sách các công ty kiểm toán được kiểm soát chất lượng hàng năm phải được Bộ tài chính phê duyệt trước khi thực hiện. Sau khi có danh sách được phê duyệt, VACPA có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho công ty được kiểm soát các thông tin liên quan đến cuộc kiểm soát (như: mục đích, nội dung, thời gian tiến hành kiểm soát và kỳ báo cáo). Đồng thời tiến hành thu thập các thông tin về công ty được kiểm soát qua bảng câu hỏi hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng khác. Thành lập đoàn kiểm soát. Căn cứ vào yêu cầu, mục đích, nội dung, thời gian kiểm soát và các thông tin về công ty kiểm toán được kiểm soát qua bảng câu hỏi, Ủy ban kiểm soát chất lượng tiến hành thành lập đoàn kiểm soát dựa trên nguyên tắc độc lập, khách quan và phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của từng thành viên trong đoàn kiểm soát và bầu ra trưởng đoàn kiểm soát. Thông báo cho công ty kiểm toán được kiểm soát chất lượng về thời gian kiểm soát chính thức, hình thức kiểm soát, danh sách các kiểm soát viên và mức phí đóng góp cho Hội nghề nghiệp. Thông thường trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo, công ty kiểm toán chịu sự kiểm soát có quyền từ chối kiểm soát viên nếu nhận thấy kiểm 85 soát viên đó có xung đột lợi ích đối với công ty mình. b. Giai đoạn thực hiện kiểm soát: Nội dung công việc của giai đoạn thực hiện kiểm soát gồm có: thực hiện kiểm soát và tổng hợp kết quả kiểm soát. b.1. Thực hiện kiểm soát: Lựa chọn tài liệu, hồ sơ để kiểm soát. Ngoài việc xem xét công ty kiểm toán có xây dựng và ban hành các chính sách và thủ tục tuân thủ kiểm soát chất lượng một cách đầy đủ hay không, nhóm kiểm soát cần lựa chọn hồ sơ để kiểm soát, khi lựa chọn hồ sơ cần chú ý: - Số lượng, loại hình của hồ sơ kiểm toán được chọn cần phải đủ để cung cấp cho đoàn kiểm soát có cơ sở hợp lý cho việc kết luận về hệ thống kiểm soát chất lượng dịch vụ của công ty được kiểm soát. Nếu kết luận của cuộc kiểm soát là công ty kiểm toán chưa tuân thủ kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán thì cần phải tăng số lượng hồ sơ kiểm soát lên để làm cơ sở dẫn liệu chứng tỏ rằng kết luận đó là đúng đắn. - Lựa chọn hồ sơ kiểm soát phải đảm bảo nguyên tắc mẫu lấy phải đại diện cho hoạt động của cả công ty. Các hồ sơ được lựa chọn để kiểm soát phải bao trùm được các hoạt động của công ty kiểm toán được kiểm soát, nhưng có tập trung vào những hợp đồng có rủi ro cao. Các yếu tố để đánh giá hợp đồng có rủi cao bao gồm: + Quy mô, lĩnh vực và ngành nghề của khách hàng mà công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ; + Mức độ luân chuyển các kiểm toán viên giữa các hợp đồng kiểm toán; + Số lượng nhân viên tham gia thực hiện ít; + Có liên quan đến các vụ tranh chấp, kiện tụng; + Có phí hợp đồng lớn; + Hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên. b.2. Phương pháp kiểm soát: Kiểm soát viên có thể sử dụng các phương pháp kiểm soát như: 86 Kiểm soát tài liệu: Tiến hành kiểm soát các tài liệu nội bộ do công ty kiểm toán phát hành như các bản ghi chép công việc, các bản ghi nhớ, các tài liệu hướng dẫn, mẫu biểu, giấy làm việc,... Phỏng vấn: Tiếp xúc và tiến hành phỏng vấn với ban lãnh đạo công ty, các kiểm toán viên và những người có liên quan đến hồ sơ kiểm toán. Quan sát: Tiến hành quan sát cơ sở làm việc, thăm các văn phòng, chi nhánh làm việc của công ty được kiểm soát, đặc biệt là cách thức và nơi lưu trữ hồ sơ làm việc của công ty được kiểm soát b.3. Nội dung kiểm soát: Trong giai đoạn này, đoàn kiểm soát thực hiện kiểm soát theo hai nội dung là kiểm soát hệ thống và kiểm soát kỹ thuật: b.3.1. Kiểm soát hệ thống: Kiểm soát hệ thống là việc kiểm soát viên cần điều tra liệu công ty kiểm toán có ban hành chính sách kiểm soát chất lượng và liệu chính sách có đầy đủ và tuân thủ các yêu cầu về kiểm soát chất lượng do chuẩn mực nghề nghiệp quy định không. Thông thường kiểm soát hệ thống được thực hiện qua các bước sau đây: Bước 1: Tiến hành phỏng vấn, trao đổi với các nhà quản lý của công ty được kiểm soát để xác định tính chất và phạm vi hoạt động của công ty. Bước 2: Tìm hiểu về việc thiết kế hệ thống kiểm soát chất lượng của công ty được kiểm soát. Dựa trên việc thu thập thông tin về hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ, đoàn kiểm soát xem xét cụ thể các thủ tục kiểm soát đang áp dụng, tính nhất quán trong việc áp dụng các thủ tục và người thực hiện công tác kiểm soát trong công ty được kiểm soát. Việc kiểm soát này cho phép đoàn kiểm soát hiểu biết được việc thiết kế và thực hiện của hệ thống kiểm soát chất lượng mà công ty đã áp dụng trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Bước 3: Tổng hợp và đánh giá rủi ro. Dựa trên những thông tin và kết quả đạt được từ hai bước trên đoàn kiểm soát đáng giá hiệu quả, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống kiểm soát, xác định rủi ro trong hệ thống. Từ đó giúp cho các kiểm soát viên xác định được phạm vi kiểm soát cần thiết đối với những sai sót 87 trong hệ thống, xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai sót và cũng như thiết lập các thủ tục kiểm soát cần thiết. Để hiểu biết về hệ thống kiểm soát chất lượng, kiểm soát viên phải dựa vào: kinh nghiệm và hiểu biết của mình trước đây về công ty được kiểm soát; nội dung và kết quả làm việc với Ban Giám đốc, với các nhân viên; việc kiểm soát, xem xét các tài liệu, các thông tin do hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ cung cấp. Kiểm soát việc tuân thủ chính sách kiểm soát chất lượng của công ty kiểm toán trong thực tế. Kiểm soát viên cần tập trung vào các vấn đề sau: - Chấp nhận khách hàng. Cần kiểm soát quy trình chấp nhận khách hàng của công ty kiểm toán, cụ thể là cần điều tra, xem xét liệu có tuân thủ Nghị định 105/2004/NĐ-CP và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp không: + Công ty kiểm toán có chấp nhận các khách hàng khi mà xung đột lợi ích đã bị đe dọa; + Việc chấp nhận khách hàng có thể dẫn đến các nguy cơ như: nguy cơ do tư lợi, nguy cơ tự kiểm soát, nguy cơ về sự bào chữa, nguy cơ từ sự quen thuộc và nguy cơ bị đe dọa; và các biện pháp bảo vệ mà công ty kiểm toán sử dụng để giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được. Khi tiến hành kiểm soát, kiểm soát viên cần đặc biệt chú ý để phát hiện các trường hợp công ty kiểm toán thực hiện cung cấp dịch vụ cho các khách mà công ty có: ƒ Lợi ích tài chính trực tiếp; ƒ Vay và bảo lãnh; ƒ Có quan hệ kinh doanh mật thiết; ƒ Quan hệ cá nhân và gia đình. - Kiểm soát phương pháp tính giá phí dịch vụ: xem xét cách tính giá phí hợp đồng có thống nhất và mang tính công bằng đối với tất cả các khách hàng mà công ty kiểm toán đã cung cấp dịch vụ. Nên chọn một số hợp đồng kiểm toán, đặc biệt là những khách hàng lớn nhưng có giá phí thấp để xem xét phương pháp tính giá phí dịch vụ. - Kiểm soát chính sách phân công kiểm toán viên chính và kiểm toán viên phụ 88 trách soát xét chất lượng hợp đồng kiểm toán có tuân thủ yêu cầu xoay vòng kiểm toán hay không, và xem xét thời gian phân công tối đa cho kiểm toán viên đối với một hợp đồng kiểm toán. - Xem xét liệu công ty kiểm toán có đang thực hiện hoặc đã thực hiện trong năm trước liền kề cho đơn vị được kiểm toán các dịch vụ sau đây không: + Ghi sổ kế toán; + Lập báo cáo tài chính; + Làm kế toán trưởng; + Kiểm toán nội bộ; + Định giá tài sản; + Tư vấn quản lý; + Tư vấn tài chính; + Tư vấn thuế; + Hoặc các dịch vụ khác mà ảnh hưởng đến tính độc lập đối với đơn vị được kiểm toán. - Xem xét liệu công ty kiểm toán có vi phạm các quy định quảng cáo và giới thiệu hay không. b.3.2. Kiểm soát kỹ thuật: Kiểm soát kỹ thuật là việc thực hiện kiểm soát một số hồ sơ làm việc nhằm đánh giá mức độ tuân thủ các thủ tục và quy trình kiểm soát chất lượng mà công ty đã thiết lập. Kiểm soát viên cần tập trung vào các vấn đề sau đây: - Xem xét cách thức trình bày hồ sơ và mức độ tuân thủ quy trình kiểm soát chất lượng mà công ty đã thiết lập trên các khía cạnh trọng yếu; - Xem xét việc lưu trữ hồ sơ đã đủ bằng chứng và cơ sở để kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình trên báo cáo kiểm toán chưa; - Kiểm soát chương trình làm việc, dấu vết của các kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán viên và các nhà quản lý trên hồ sơ; - Xem xét mức độ tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp của công ty được kiểm soát khi thực hiện dịch vụ và phát hành báo cáo trên các khía cạnh trọng yếu; 89 - Thực hiện lại một số chương trình làm việc của hồ sơ để phát hiện ra những thiếu sót và nguyên nhân dẫn đến sai sót đó. b.4. Tổng hợp kết quả kiểm soát: Trước khi phát hành báo cáo kiểm soát, Đoàn kiểm soát tiến hành thảo luận với Ban Giám đốc của công ty về những tồn tại trong các hồ sơ kiểm toán và đưa ra kết luận của đoàn. Sau quá trình thảo luận và nhất trí hai bên sẽ tiến hành ký vào báo cáo, còn nếu có những quan điểm chưa nhất trí thì trong báo cáo kiểm soát sẽ ghi rõ lại những vấn đề đó. Tùy theo mức độ tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp của công ty được kiểm soát, mà ý kiến đưa ra trong báo cáo kiểm soát có thể là một trong ba ý kiến sau: + Ý kiến chấp nhận toàn phần; + Ý kiến chấp nhận từng phần; + Ý kiến trái ngược. Nhìn chung một báo cáo kiểm soát phải thể hiện được những nội dung sau: + Mục đích, phạm vi kiểm soát, các giới hạn phạm vi kiểm soát; + Giới thiệu khái quát công ty được kiểm soát và đặc điểm chung của hệ thống kiểm soát chất lượng của công ty; + Thể hiện được trách nhiệm của công ty được kiểm soát và đoàn kiểm soát; + Mô tả quá trình kiểm soát, bao gồm cả quá trình lựa chọn hồ sơ; + Nhận xét về hệ thống kiểm soát chất lượng của công ty, từ đó chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống; + Cơ sở dẫn liệu và bằng chứng để đoàn kiểm soát đưa ra ý kiến; + Chỉ ra những thiếu sót và các khuyến nghị nếu có đối với công ty được kiểm soát. Sau đó, Đoàn kiểm soát sẽ gửi báo cáo cho Ủy ban kiểm soát chất lượng. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm kỷ luật của kiểm toán viên và công ty kiểm toán, Ủy ban kiểm soát chất lượng sẽ chuyển báo cáo cho Ủy ban kỷ luật xem xét và giải quyết. Hoặc nếu công ty kiểm toán vi phạm Nghị định 105/2004/NĐ-CP, có thể đề 90 nghị Bộ tài chính xem xét việc thu hồi giấy phép kinh doanh. c. Giai đoạn theo dõi sau kiểm soát: Sau khi phát hành báo cáo kiểm soát, Đoàn kiểm soát sẽ theo dõi việc công ty được kiểm soát tiến hành sửa chữa những thiếu sót và hoàn thiện lại hệ thống kiểm soát chất lượng theo những khuyến nghị của Đoàn. Yêu cầu công ty được kiểm soát phải gửi báo cáo cho đoàn kiểm soát về công việc mà mình đã thực hiện, đây cũng là một tài liệu kiểm chứng cho lần kiểm soát sau. 3.3.4. Các giải pháp khác: Các tổ chức giáo dục là nơi cung cấp và đào tạo nguồn nhân lực chủ yếu cho hoạt động kiểm toán hiện nay ở nước ta, nên việc chú trọng nâng cao chất lượng trong công tác giảng dạy chuyên ngành kiểm toán sẽ góp phần không nhỏ trong công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán thông qua công tác giáo dục: Thứ nhất, song song với việc đào tạo kỹ năng, kỹ thuật chuyên môn, chú ý đào tạo một số kỹ năng cơ bản như: kỹ năng nhận thức và giao tiếp, kỹ năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề. Lấy mục tiêu đào tạo năng lực làm chính, chuyển dần mục tiêu đào tạo theo kiểu truyền đạt kiến thức sang đào tạo năng lực nhận thức, năng lực tư duy và phẩm chất nhân văn. Thứ hai, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, luôn cập nhập những thông tin vào chương trình để đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, phù hợp với xu thế hội nhập và yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Các môn học thuộc khối chuyên ngành kế toán - kiểm toán cần được cải tiến và tăng đơn vị học phần lên so với hiện nay, giảm tải chương trình đối với những môn đại cương và cơ sở; nội dung cần được cập nhập thường xuyên nâng cao tính ứng dụng, gắn lý thuyết với thực tiễn hơn là mang nặng tính lý thuyết hàn lâm. Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy và học từ thụ động sang chủ động, theo hướng thay vì dạy “chữ” nên dạy phương pháp tiếp cận kiến thức, thay vì cách học “chữ” mang tính đối phó sang học cách tìm hiểu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. 91 Luôn tạo cho người học tâm lý chủ động tự nghiên cứu bài giảng trước khi lên lớp hơn là lên nghe giáo viên giảng bài, phần lớn thời gian lên lớp chủ yếu là giáo viên tạo môi trường để người học thảo luận, giáo viên chỉ nên đóng vai trò là người hướng dẫn, định hướng cho cuộc thảo luận đi đúng nội dung của môn học và hệ thống lại để đưa ra những kết luận cuối cùng. Thứ tư, thực hiện mở rộng liên kết đào tạo giữa các tổ chức giáo dục trong và ngoài nước có đào tạo chuyên ngành kiểm toán nhằm tận dụng thế mạnh của mình để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực kiểm toán mang chất lượng quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho người học có cơ hội tiếp xúc được các chương trình đào tạo có chất lượng cao của các tổ chức giáo dục nổi tiếng trên thế giới, bằng cấp đạt được có giá trị toàn cầu. Thứ năm, cần xây dựng một kho tài liệu phong phú bao gồm nhiều đầu sách có giá trị của các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, đặc biệt là các loại sách viết về chuyên đề kế toán - kiểm toán. Khuyến khích các giảng viên, các nhà nghiên cứu không ngừng biên soạn và ban hành những tài liệu có chất lượng để đáp ứng với nhu cầu tìm hiểu kiến thức về chuyên ngành kế toán - kiểm toán của cộng đồng. Đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi để cho mọi người có nhu cầu tiếp cận được nguồn tài liệu một cách dễ dàng. 92 KẾT LUẬN Có thể khẳng định rằng, trong thời gian qua hoạt động kiểm toán độc lập ở nước ta đã có những thành tựu đáng kể về các mặt: phạm vi, nội dung, chất lượng kiểm toán, ... Những kết quả này đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội và làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập cũng còn những tồn tại trên cả mặt lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý. Những tồn tại này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán độc lập. Chính vì vậy, sau khi nghiên cứu, phân tích công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam, với việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng của công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Tác giả hy vọng những biện pháp được đưa ra trong đề tài này sẽ góp thêm tiếng nói đối với sự tồn tại và phát triển một cách bền vững của ngành nghề kiểm toán độc lập tại Việt Nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA0689.pdf