Lời mở đầu
Quá trình đô thị hóa diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã và đang kéo theo dòng di chuyển của dân cư và lao động từ nông thôn ra thành thị. Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa hai khu vực đã và đang tạo nên sức đẩy lao động nông thôn ra thành thị tìm việc làm, Hà Nội là một thành phố lớn, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các trung tâm công nghiệp lớn, các trường Đại học, các Viện nghiên cứu, được hình thành và phát triển thu hút lao
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2005- 2010 (51tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động có trình độ chuyên môn lành nghề cao. Mặt khác, song song với quá trình trên, các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ có quy mô nhỏ và rất nhỏ, kỹ thuật thủ công và lao động chân tay cũng đồng thời phát triển và thu hút một số đối tượng lao động yếu thế vào làm việc, hoặc tạo việc làm, tăng thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội.
Hà nội cũng là nơi diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh và thể hiện khá đậm nét mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn dưới góc độ kinh tế xã hội.
Do đó, thị trường lao động tại Hà Nội tồn tại một lực lượng lao động khá lớn do hai nguồn cung ứng: một là tại chỗ, hai là từ các tỉnh khác di chuyển đến (tạm trú) - đội ngũ lao động này đang đóng vai trò không kém phần quan trọng đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh của Thủ đô. Do vậy, lựa chọn Hà Nội làm địa bàn nghiên cứu về tình hình và thực trạng lao động là hợp lý và có ý nghĩa khoa học, góp phần hoàn thiện vấn đề quản lý lao động cho riêng thủ đô Hà Nội mà còn có nể áp dụng cho các thành phố khác ở phía Bắc cũng như trong cả nước. Nhìn từ góc độ quản lý Nhà nước: lao động trên địa bàn thành phố có mặt ở tất cả các ngành, các phường, các tổ dân phố với các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đan xen, đa dạng và phức tạp gồm người có hộ khẩu Hà Nội và người di cư từ ngoại tỉnh đến Hà Nội, có người làm việc bán thời gian, có hoạt động lao động hợp pháp, cũng có hoạt động lao động bất hợp pháp.
Bên cạnh việc góp phần tăng thu nhập, tạo việc làm cho người lao động đặc biệt là các đối tượng yếu thể như phụ nữ, người nghèo thì hoạt động của lao động cũng khá phức tạp, ảnh hưởng đến môi trường đô thị, cảnh quan đường phố. Chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng chưa có được những giải pháp hữu hiệu nhằm nắm bắt được số lượng và cơ cấu lao động. Việc quản lý dân di cư, quản lý các loại hình kinh doanh này rất phức tạp, vấn đề định hướng và trợ giúp các hoạt động lao động còn nhiều bất cập.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, em xin tập trung nghiên cứu đề tài:
“Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2005- 2010”.
Chuyên đề thực tập này được chia làm ba phần:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về việc làm và thất nghiệp.
Chương II: Thực trạng việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương III: Phương hướng và giải pháp tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm tới.
Chương I
Một số vấn đề lý luận chung về
việc làm và thất nghiệp
I. Việc làm và thất nghiệp
Việc làm
Việc làm là một khái niêm thuộc phạm trù hoạt động thực tiễn con người. Mọi hoạt động lao động được biều diễn đa dạng và sinh động qua các dạng việc làm trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
Theo điều 13 Bộ luật lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “ Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm nếu nó đáp ứng được hai tiêu chuẩn đó là hoạt động không bị pháp luật cấm; thứ hai là hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động.
1.1 Các hình thức việc làm
Việc làm được nhận tiền công, tiền lương: Làm những việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật cho công việc đó.
Tự tạo việc làm: Làm những công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân (người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất sản phẩm).
Làm công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó (do chủ gia đình làm chủ sản xuất).
1.2 Người có việc làm và người chưa có việc làm
Tại Hội nghị lần thứ 13 năm 1983 tổ chức lao động thế giới (ILO) đưa ra quan niệm: “ Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật”.
Như vậy, người có việc làm là những người lao động ở tất cả các khu vực (công và tư) có thu nhập mang lại nguồn sống cho bản thân và gia đình xã hội. Đây là khái niêm đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
ở Việt Nam: “Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người có việc làm trong tuần lễ tham khảo”.
Người chưa có việc làm: Là người có nhu cầu làm việc, hiện tại chưa tìm được việc làm, hoặc trước đây đã từng có việc làm, đã có nghề nghiệp nhất định nhưng hiện do điều kiện, hoàn cảnh nào đó chưa tìm lại được việc làm. Trong số này chủ yếu là số công nhân dôi ra do sự sắp xếp lại của các doanh nghiệp Nhà nước, những người hết hạn hợp đồng làm việc, người đi lao động ở nước ngoài trở về.
Người thiếu việc làm: Là người trong độ tuổi lao động đang có việc làm nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham khảo hoặc trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước đó có thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho người đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
2. Thất nghiệp và cách phân loại
2.1. Khái niệm thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế- xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội.
Thất nghiệp, theo đúng nghĩa của từ là mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Khái niệm thất nghiệp ngày càng được bổ sung và mở rộng dần. Hiện nay vẫn còn những cách hiểu khác nhau về thất nghiệp.
Có quan niệm cho rằng thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành, còn những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong tuần lễ tham khảo (tức tuần lễ tiền hành điều tra thu nhập thông tin) không có việc làm, đang có nhu cầu tìm việc làm và có đăng ký tìm việc làm theo quy định.
Để thống nhất trong điều tra việc làm năm 1996. Bộ lao động thương binh và xã hội quy định: người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lế trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
+Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua, hoặc không có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm việc làm ở đâu hoặc tìm mãi mà không được.
+Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc.
2.2. Phân loại thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó. Thất nghiệp có thể được chia thành các loại như sau:
2.2.1 Phân loại theo lý do thất nghiệp.
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở một mức tiền công nào đó người lao động không muốn làm việc hoặc vì một số lý do cá nhân như di chuyển, sinh con...Thất nghiệp loại này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái (cung lớn hơn cầu về lao động).
Thất nghiệp trá hình (còn gọi là hiện tượng khiếm dụng lao động) là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng họ sẵn sàng làm việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp. Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Như vậy, con số thất nghiệp là con số mang tính thời điểm, nó luôn biến động theo thời gian. Thất nghiệp là một phạm trù vận động từ có việc, đến trở nên thất nghiệp và ra khỏi tình trạng đó. Vì thế, việc nghiên cứu dòng lưu chuyển thất nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng.
2.2.2. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp.
Tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp đẻ từ đó tìm ra hướng giải quyết. Có thể chia thành 4 loại:
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không ngừng của người lao động giữa các vùng, các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thậm chí, khi có đủ việc làm vẫn luôn có sự chuyển động nào đó, như: một số người tìm việc làm sau khi tốt nghiệp, di chuyển chỗ ở từ nơi này sang nơi khác, phụ nữ có thể quay lại lực lượng lao động sau khi sinh con...Người thất nghiệp thuộc loại này thường được xếp vào “thất nghiệp tự nguyện”.
Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung - cầu lao động (giữa các ngành nghề, khu vực...). Nó gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và gây ra do sự suy thoái của một ngành nào đó, hoặc là sự thay đổi công nghệ dẫn đến đòi hỏi lao động có chất lượng cao hơn, ai không đáp ứng sẽ bị sa thải. Chính vì vậy, loại thất nghiệp còn gọi là thất nghiệp công nghệ. Khi sự chuyển biến này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn. Nếu tiền lương rất linh hoạt thì sự mất cân đối trong thị trường lao động sẽ mất đi, khi đó tiền lương trong khu vực có nguồn cung lao động hạ xuống, và cầu lao động cao tăng lên.
Thất nghiệp do thiếu cầu: Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống (suy giảm tổng cầu). Loại này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ, bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại thất nghiệp này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề...
Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: (thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển). Nó xảy ra khi tiền lương không được ấn định bởi các yếu tố của thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân phối thu nhập, gắn với kết quả lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu, cho nên nhiều quốc gia (chính phủ hoặc công đoàn) có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, sự không linh hoạt của tiền lương (ngược với sự năng động của thị trường lao động) dẫn đến một bộ phận người lao dộng mất việc làm hoặc khó tìm việc làm.
Tóm lại: Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu xảy ra trong một bộ phận riêng biệt của thị trường lao động (có thể diễn ra ngay cả khi thị trường lao động đang cân bằng). Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế đi xuống, toàn bộ thị trường lao động bị mất cân bằng. Còn thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển thì lại do các yếu tố xã hội, chính trị tác động. Sự phân biệt đó giúp nhà phân tích có thể dự kiến tình hình chung của thị trường lao động.
2.3. Nhóm chỉ tiêu về thất nghiệp
Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động đủ 15 - 60 tuổi (đối với nam) và 15 - 55 tuổi (đối với nữ)
+ Có khả năng lao động.
+ Trong tuần điều tra không có việc làm.
+ Đang có nhu cầu tìm việc làm.
+ Có đăng ký việc làm theo quy định.
- Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa số người thất nghiệp trên số người trong độ tuổi lao động thuộc lực lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của một quốc gia. Cũng vì thế, còn có nhiều quan niệm khác nhau về nội dung và phương pháp tính toán. Tuy vậy, một số phương pháp tính toán dưới đây được nhiều người thừa nhận:
Phương pháp tính:
Tỷ lệ Số người thất nghiệp
Thất nghiệp (%) = ---------------------------------------- X 100
Số người trong độ tuổi lao động
thuộc lực lượng lao động
- Số người thất nghiệp dài hạn và tỷ lệ thất nghiệp dài hạn.
Người thất nghiệp dài hạn gồm những người có thời gian thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ tuần lễ tham khảo trở về trước.
Phân tổ: Chia theo giới tính, nhóm tuổi, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, đối tượng thất nghiệp và theo đăng ký tìm việc.
Tỷ lệ thất nghiệp dài hạn là số phần trăm người thất nghiệp dài hạn trong lực lượng lao động thuộc độ tuổi lao động.
Phương pháp tính:
Số người thất nghiệp dài hạn
Tỷ lệ thất nghiệp = ------------------------------------------ X 100
dài hạn (%) Số người trong độ tuổi lao động
thuộc lực lượng lao động
- Tỷ lệ người thất nghiệp đã được giải quyết việc làm.
Tỷ lệ những người thất nghiệp đã được giải quyết việc làm là số phần trăm giữa những người thất nghiệp đã được giải quyết việc làm trên tổng số người thất nghiệp.
Phương pháp tính:
Số người thất nghiệp
Tỷ lệ người được giải quyết việc làm trong kỳ báo cáo
thất nghiệp được = ------------------------------------------------------ X 100
giải quyết việc làm Tổng số người thất nghiệp trong kỳ báo cáo
2.4. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp mà tại đó thị trường lao dộng đạt mức cân bằng. Tại mức đó tiền lương và giá cả là hợp lý bởi các thị trường đều đạt cân bằng dài hạn. Số người thất nghiệp tự nhiên sẽ là tổng số thất nghiệp tự nguyện và số người chưa có những điều kiện phù hợp để tham gia vào thị trường lao động. Nói cách khác, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ tác động lên xuống của tổng cung và tổng cầu đối với giá cả và tiền lương tại vị trí cân bằng, ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, lạm phát do giá cả và tiền lương là ổn định, không có xu hướng biểu thị lạm phát tăng hay giảm đi.
3. Lý luận về thị trường lao động
Thị trường lao động là biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động, trên nguyên tắc thoả thuận để xác định giá cả sức lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động có hai loại đó là: Người có sức lao động cần bán và những người có chỗ làm việc cần mua sức lao động.
Toàn bộ số lao động cần bán trên thị trường trong thời gian nhất định gọi là cung về lao động, còn tổng số chỗ lao động mà người mua sức lao động có nhu cầu gọi là cầu về sức lao động. Trong cơ chế thị trường, cung - cầu về sức lao động có quan hệ chặt chẽ với giá cả sức lao động (tiền lương và thu nhập của người lao động).
Thị trường lao động là một thị trường đặc biệt, do đó việc phát triển và quản lý thị trường lao động có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Tính đặc biệt của thị trường lao động trước hết ở chỗ: Nó là một thị trường yếu tố đầu vào của sản xuất. Vì vậy, sự phát triển của thị trường này phải gắn liền với các thị trường đầu vào khác như thị trường vốn, đất đai, tiền tệ...Tính đặc biệt thứ hai của thi trường lao động là nó gắn với yếu tố con người. Trong quá trình mua sức lao động, sức lao động vẫn nằm trong tay người bán, nhưng quyền sử dụng lại thuộc về người mua. Điều này dễ gây tiêu cực, người mua có thể sử dụng kéo dài thời gian lao động, bóc lột sức lao động của người bán. Mặt khác, do sự tự do trong quan hệ mua - bán cần hạn chế để tránh tình trạng gây trả lương thấp, làm hại đến nhân phẩm người lao động...Sức lao động không chỉ là tài sản của riêng người lao động, mà còn là tài sản chung của quốc gia. Vì vậy, để bảo đảm thị trường lao động phát triển lành mạnh, Nhà nước cần có sự quản lý chặt chẽ, có quy định rõ ràng về nguyên tắc hợp đồng lao động, nguyên tắc sử dụng lao động cũng như tiền lương, giá cả sức lao động.
II. Sự cần thiêt khách quan của tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà nội
Sự cần thiết khách quan
Sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác, quản lý và sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực của đất nước bao gồm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, trình độ khoa học, kỹ thuật công nghệ và tiềm lực về con người hay nguồn nhân lực.
1.1 Tạo việc làm với việc khai thác các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế
Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có loại có thể tái tạo được, có loại không thể tái tạo được. Những tài nguyên đó đang góp phần quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước (như dầu mỏ, khí đốt..). Tuy nhiên việc khai thác, quản lý, sử dụng và tái tạo lại các nguồn tài nguyên thiên nhiên lại do con người quyết định.
Các nguồn lực sản xuất (cho hoạt động kinh tế).
Tạo việc làm có ý nghĩa rất lớn trong việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Nó thúc đẩy con người không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra các nguồn tài nguyên mới để làm nguồn lực cho sản xuất. Góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sự kết hợp các nguồn lực trong tạo việc làm.
Lao động một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Ngoài vai trò đóng góp vào quá trình hoạt động kinh tế như vốn, tài nguyên và khoa học công nghệ, lao động đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các yếu tố trong quá trình đó.
Tạo việc làm cho người lao động cũng chính là tạo ra sự liên kết các nguồn lực để phát triển.
Tạo việc làm là rất cần thiết trong việc khai thác các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
1.2 Tạo việc làm với giảm thất nghiệp đáp ứng các mục tiêu xã hội.
Tăng nhanh thất nghiệp đã trở thành một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội. Thất nghiệp không chỉ đồng nghĩa với tình trạng vật chất ngày càng xấu đi mà còn kèm theo những hậu quả tâm lý xã hội mà người thất nghiệp cũng như xã hội phải gánh chiu.
Tạo việc làm giúp cho con người thoả mãn những nhu cầu cơ bản: Nhu cầu hoạt động trong một tổ chức, tiếp xúc với môi trường ngoài gia đình, có cơ hội đánh giá và so sánh với những thành viên khác của tổ choc, định hướng hoạt động và tổ choc cơ cấu thời gian trong ngày, trong tuần. Giảm được những vấn đề xã hội cơ bản đi kèm với thất nghiệp là: suy sụp thể lực và tinh thần; mâu thuẫn gia đình , giảm được tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà nội.
Khả năng về các nguồn lực.
Nói đến các nguồn lực nghĩa là chúng ta nói đến vốn, đất đai, máy móc, công cụ, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực sinh học… trong đó vấn đề quan trọng nhất vẫn là yếu tố về vốn, đất đai, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, yếu tố còn lại có thể có được từ vốn.
Trước hết đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề của mọi quá trình sản xuất. Thức tế nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất nhưng còn tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai là khác nhau.
Trong nông nghiệp đất đai không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà còn là yếu tố tích cực không thể thay thế được. Vậy mà mỗi vùng, mỗi địa phương lại có giới hạn khác nhau về diện tích đất, địa hình, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng đó. Hiện nay với diện tích đất có hạn, dân số đông, bình quân tỷ lệ ruộng đất trên đầu người thấp thì vấn đề làm sao cho vấn đề sử dụng ruộng đất là rất khó khăn. Vì vậy khai thác chiều sâu của ruộng đất để mỗi đơn vị ruộng đất ngày càng cho nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu về nông lâm thuỷ sản cho con người. Ruộng đất có vị trí cố định gắn liền với các điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng. Nó khác với các tư liệu sản xuất khác, bởi nó không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình nếu sử dụng đúng mục đích, hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng tốt hơn, sức sản xuất của ruộng đất ngày càng cao hơn. Do đó để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn thì vấn đề chú trọng công tác vừa chăm sóc đất, vừa kết hợp trồng lúa, hoa mầu xen kẽ là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nông nhàn cho người nông dân. Làm sao để cho người lao động trong khu vực nông nghiệp có việc làm tương đối đầy đủ.
Trong công nghiệp, đất đai thường được sử dụng để xây dựng nhà máy, công ty, xí nghiệp, nó cũng trở thành tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu. Hầu hết chủ doanh nghiệp nào cũng muốn chọn cho mình một diện tích đất rộng, thoáng, thuận lợi về nguồn điện nguồn nước, việc buôn bán giao thông đi lại được thông suốt, và cũng phải thoả mãn cả điều kiện đất có nhiều người sinh sống được nên nhất là trong thời gian này thì việc lựa chọn đất đai là tương đối khó khăn. Tuy vậy, vấn đề đầu tư cho công nghiệp đang hết sức được chú trọng, phần lớn lao động được thu hút vào làm việc trong lĩnh vực này. Cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nên các cấp các ngành đều tạo điều kiện cho sự phát triển xây dựng quy mô của các doanh nghiệp công nghiệp. Làm tốt công tác này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Như vậy, đất đai có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sản xuất, nên để tạo được việc làm cho người lao động thì phải xem xét đến vấn đề này, đánh giá xem xét việc sử dụng đất có hợp lý không, đất nào dùng trong nông nghiệp, đất nào dùng trong công nghiệp là hợp lý nhất.
Vấn đề thứ hai chúng ta cần đề cập đến là vồn. Vốn có vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được trong quá trình sản xuất vốn được biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào trong sản xuất. Trong nông nghiệp, sự tác động của vốn tới hiệu quả kinh tế của nó không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng vật nuôi, ngoài ra còn biểu hiện ở yếu tố kỹ thuật. Cơ cấu chất lượng của vồn sản xuất phải phù hợp với từng loại đối tượng sản xuất, từng loại đất đai. Mặt khác nhiều khi do thời gian thu hồi vốn chậm nên cần phải có khối lượng vốn lưu động tránh tình trạng vốn bị ứ đọng. Vốn trong nông nghiệp tăng cao thì cơ hội tạo việc làm cho người lao động trong sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, họ có thể đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động tham gia. Trong công nghiệp cũng vậy, vốn có vai trò rất quan trọng, là yếu tố thiết yếu để ngành phát triển. Vốn trong công nghiệp được sử dụng rất nhiều, ngoài xây dựng nhà xưởng còn phải mua sắm thiết bị nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay vòng. Càng có nhiều vốn để đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao, hiệu quả sản xuất ngày càng cao và số lao động thu hút vào làm việc sẽ ngày một nhiều hơn.
Do vậy vốn vô cùng quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Vốn có thể cho phép mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao hiệu quả, có thể thu hút nhiều lao động, tạo được nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Ngoài yếu tố đất và vốn, yếu tố kết cấu hạ tầng cũng rất quan trọng, nó bao gồm các hệ thống thuỷ lợi, giao thông, kho tàng, bến bãi, thông tin liên lạc…nếu hệ thống này làm tốt là điều kiện rất thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của toàn khu vực và ngược lại nếu làm không tốt thì vấn đề phát triển kinh tế xã hội sẽ gặp khó khăn. Bên cạnh đó để hoàn thiện tốt hệ thống này thì lượng lao động hàng năm thu hút làm việc trong các khu vực này là khá cao, lên đến hàng nghìn người lao động làm việc.
Như vậy tư liệu lao động là vô cùng quan trọng trong công tác tạo việc làm cho người lao động nên phải tính toán kỹ lưỡng, cụ thể để kết quả đạt được là tối đa, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
2.2 Sức lao động.
Trước hết ta thấy sức lao động là khả năng trí lực, thể lực của con người, đó là tri thức, sức khoẻ, kỹ năng, kinh nghiệp của người lao động.
Khi nói sức lao động phải nói đến cả mặt chất lượng và số lượng. Lực lượng lao động ở các khu vực không ngừng tăng qua các năm và tăng mạnh nhất ở khu vực nông thôn, các thành phố lớn trong cả nước nên tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao, tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn nhiều. Số lượng lao động không ngừng tăng như thế nên công tác tạo việc làm sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa cao. Thường thì lao động có trình độ chuyên môn cao tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng… và một số khu công nghiệp. Tỷ lệ lao động có chuyên môn của chúng ta trung bình khoảng 18%. Do đó để tạo việc làm cho người lao động một cách phù hợp là hết sức khó khăn và phức tạp. Có những vùng, khu vực thì thừa lao động có khu vực lại thiếu lao động một cách trầm trọng, đặc biệt là những người lao động có trình độ đại học, cao đẳng thì chỉ mong muốn được ở lại các thành phố lớn làm việc. Vì vậy để xác định được chỗ làm việc ổn định cần xác định nhu cầu đào tạo cũng như biện pháp bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho người lao động, định hướng nghề nghiệp là rất quan trọng.
Môi trường.
Môi trường ở đây là cả môi trường kinh tế xã hội và môi trường tự nhiên. Nó đều có ảnh hưởng rất lớn cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
Về môi trường tự nhiên, đó là vị trí địa lý, địa hình, đặt điểm đất đai, khí hậu, tài nguyên, nguồn nước…là yếu tố để chọn nguyên nhiên vật liệu, phương thức sản xuất. Mặt khác để sản xuất ra một sản phẩm không phải bất cứ môi trường nào cũng phù hợp và cho kết qủa như mong muốn, không phải bất cứ môi trường nào cũng thu hút được nhiều lao động tham gia.
Môi trường kinh tế thể hiện sự hoạt động của thị trường hàng hoá đang diễn ra trong khu vực, giá trị kinh tế vùng, sự hoạt động của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá những yếu tố này để tìm ra xu hướng, tiềm năng phát triển kinh tế của vùng cho đầu tư phát triển sản xuất, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Một yếu tố hết sức quan trọng nữa đó là môi trường xã hội. Những cơ chế chính sách, sự quan tâm của các cấp, các ngành đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Đó là các chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, ra luật đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục đào tạo cho người dân, phổ biến tốt các vấn đề xã hôị khác đang được quan tâm… thì mới có thể làm tốt công tác tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố tâm lý cũng hết sức quan trọng, liên quan đến công việc của người lao động, đặc biệt là yếu tố tinh thần cho người lao động. Rõ ràng nếu trong khi làm việc tinh thần không được tốt sẽ dẫn đến năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm kém, thu nhập thấp. Vì thế người sử dụng lao động cần hết sức chú ý tới tâm lý người lao động, tạo cảm giác mong muốn được làm việc, hăng hái làm việc cho họ.
Như vậy, vấn đề tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng chủ yếu nhất vẫn là các yếu tố đã nêu ở trên. Các yếu tố này có sự tác động qua lại với nhau. Để tạo được việc làm cần có tư liệu sản xuất, có tư liệu sản xuất thì phải có sức lao động phù hợp với trình độ chuyên môn. Hai yếu tố này là điều kiện cần để tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố môi trường là điều kiện đủ tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
Chương II
Thực trạng việc làm trên địa bàn thành phố Hà nội
I. Thực trạng lực lượng lao động của Hà nội
1. Dân số Hà nội
1.1 Qui mô dân số Hà nội
Hà nội có quy mô dân số lớn và mật độ dân số cao. Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2003 quy mô dân số HN khoảng 3015.4 nghìn người, là thành phố đông dân đứng thứ hai cả nước sau thành phố HCM. Mật độ dân số trung bình của HN năm 2000 là 2959 người/km2, đây là mật độ cao nhất cả nước, mật độ dấn số phân bố không đều, dân cư trú trong khu vực nội thành chiếm tới 53% dân số toàn thành nhưng chỉ chiếm trên một phần diện tích rất nhỏ 82,78 km2 (chiếm 8,9% diện tích), trong khi đó dấn số ở ngoại thành là1273,7 nghìn người (năm 2000) chiếm 47% dấn số nhưng lại trải dài trên một diện tích rất rộng 844,61km2 (chiếm 91,1% diện tích).
Quy mô dân số HN có xu hướng tăng nhanh qua các năm
Bảng 1: Quy mô dân số HN từ 1999 - 2003
Đơn vị: 1000 người
Chỉ tiêu
1995
1999
2000
2001
2002
2003
Toàn thành
2335.4
2688,0
2734,1
2839.4
2926.6
3015.4
Trong đó
- Nội thành
- Ngoại thành
1082.4
1253.0
1431,5
1256,5
1466,4
1273,7
1522.6
1316.8
1563.0
1363.6
1600.0
1415.4
- Thành thị
- Nông thôn
1221.2
1114.2
1548,0
1140,0
1578,7
1155,4
1642.7
1196.7
1699.1
1227.5
1740.0
1275.4
Nguồn: Niên giám thống kê HN - 2003
Bảng 1 cho thấy, dân số năm 1999 là 2688.0 nghìn người, năm 2000 con số này là 2734,1 nghìn người, năm 2003 là 3015.4 nghìn người, trong đó dân số nội thành tăng lên từ 1466.4 nghìn người lên 1600.0 nghìn người, trong khi đó dân số ngoại thành cũng tăng đáng kể, năm 1999 dân số ngoại thành là 1256.5 nghìn người, năm 2003 con số này là 1415.4 nghìn người. Tính trung bình hàng năm dân số HN tăng thêm khoảng 60.000 người, trong đó dân số nội thành tăng trung bình hàng năm khoảng 70.000 người. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự phát triển đô thị hoá ở HN diễn ra nhanh chóng, cùng với việc mở rộng diện tích nội thành, sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp trên địa bàn ngày càng thu hút nhiều lao động.
1.2. Tốc độ tăng dân số
1.2.1. Tốc độ tăng dân số tự nhiên HN
Hà Nội là thành phố có cơ cấu dân số trẻ, năm 1998, số người từ 44 tuổi trở xuống chiếm tới 72,7% dân số toàn thành. Số nữ có chồng ở độ tuổi sinh đẻ (15-49) chiếm 17% dân số. Đây là nguyên nhân làm tốc độ gia tăng dân số tự nhiên HN vẫn còn lớn.
Mặc dù tốc độ gia tăng dân số tự nhiên đã có sự giảm đáng kể qua các năm nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao so với thế giới: năm 1990 so với năm 1985 tốc độ tăng lên là 12,5%; năm 1995 so với năm 1990 tăng 11,8%. Tính chung cho cả thời kỳ 1990 - 1995 tốc độ tăng dân số khoảng 2,63%; năm 2001 tốc độ tăng dân số tự nhiên của HN là 1,075% trong đó tốc độ tăng dân số cơ học trung bình hàng năm khoảng 1%.
Bảng 2: Tốc độ tăng dân số tự nhiên của HN từ 1995 - 2002
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tỷ lệ tăng DS tự nhiên
1,47
1,42
1,37
1,32
1,08
1,09
1.079
1.056
- Nội thành
1,34
1,30
1,27
1,22
0,98
0,99
0.974
0.964
- Ngoại thành
1,59
1,54
1,47
1,4
1,19
1,19
1.201
1.16
Nguồn: Niên giám thống kê HN - 2002
Cũng như các tỉnh thành khác trong cả nước, kể từ sau khi thực hiện chính sách DSKHHGĐ, tốc độ tăng dân số tự nhiên của HN tuy có giảm, nhưng giảm chậm, chỉ đến năm 1999 mới có sự giảm mạnh (còn 1,08%), và sự giảm này chưa bền vững năm 2000 tốc độ tăng lại cao hơn năm 1999 (1,09%). Tính trung bình cả giai đoạn 1995 - 2000 tốc độ tăng trung bình hàng năm 1,212%. Đây là tỷ lệ vẫn còn cao, tuy vậy thấp hơn cả nước (trung bình cả nước 1,7%).
Mức sinh ở khu vực ngoại thành vẫn còn cao nhất là các huyện Sóc Sơn, Đô._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT190.doc