lời nói đầu
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm cho nền kinh tế thế giới có những biến đổi to lớn và sâu sắc đồng thời đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Chính vì vậy ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong công cuộc phát triển k
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng hoá trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế - xã hội, đặc biệt là từ khi tiến hành đổi mới kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội Đảng VIII đã nhấn mạnh:
“. . . Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực. . . ”.
Từ tháng 7/1995, ta đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam (ASEAN) ;từ tháng 3/1996, ta là một trong những thành viên sáng lập của diễn đàn Hợp tác á-ÂU (ASEM). Từ tháng 11/1998, ta đã trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC)và đang trong quá trình đàm phán để gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Tham gia vào các tổ chức này sẽ tạo điều kiện cho việt Nam sánh vai với các nước trên diễn đàn quốc tế, mở rộng khả năng hợp tác kinh tế và đầu tư cũng như tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thương mại giữa nước ta với các nước
Tuy nhiên, chúng ta tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới nghĩa là chúng ta phải chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh. Đây vừa là thời cơ mà ta có thể tận dụng để phát triển đất nước đồng thời cũng là thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước xung quanh và trên thế giới. Hơn bao giờ hết xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các chính sách và các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Do vậy, xây dựng được các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như thế nào để ta có thể tận dụng được những thuận lợi vượt qua những khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước, đưa kinh tế đất nước phát triển bền vững đang là một vấn đề được Nhà nước ta đưa nên hàng đầu.
Xuất phát từ thực tế khách quan trên em đã chọn đề tài "phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong thời kỳ đổi mới "cho đề án môn học KTTM kỳ này. Đề án được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của giáo sư ĐặNG ĐìNH ĐàO.
Nội dung của đề án bao gồm :
ChươngI: Những lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hàng hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt nam
Chương III: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nước ta hiện nay
Chương I: những lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
I Bản chất và vai trò của xuất khẩu hàng hoá
1- Thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
1. 1 Khái niệm thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản suất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
1. 2 vai trò của thương mại quốc tế
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản suất và tiêu đùng trong nước khi thực hiện chế độ tự, cung tự cấp, không buôn bán.
Thương mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, không chỉ do nó cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia mà nó còn giúp quốc gia đó phát triển. Bên cạnh đó có nhiều lý do khác khiến thương mại quốc tế trở nên vô cùng quan trọng.
Thương mại quốc tế cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để có hiệu quả kinh tế trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện ở từng nước trong các nước khác nhau.
Sự khác nhau về sở thích hay mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có thể buôn bán. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do khác nhau về sở thích.
Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mới phá vỡ tính chất đóng kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước.
Chế độ tư bản chủ nghĩa gắn chặt thị trường dân tộc với thị trường thế giới, gắn chặt phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế. Ngoại thương trở nên không thể thiếu được với phương thức sản xuất đó, như Lê-Nin đã nhận xét: “ không có thị trường bên ngoài thì một số nước tư bản không thể sống được
. Thực tế chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển nhanh và có hiệu quả kinh tế cao được. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của nhân loại đã đạt được. Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn nước ta trong những năm qua. Đại hội VIII đảng ta đã khẳng định chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt thể chế chính trị, xã hội trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình ”.
Cho đến nay dù thành tựu đã đạt được xong chưa có thể giúp chúng ta thoát khỏi vị trí là một trong những nước nghèo trên thế giới nhưng cũng có những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng, với những hướng đi đúng dắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Báo cáo chính trị của ban chấp hành tw đảng tại đại hội lầnVI đã nhấn mạnh:" Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiêncũng như sự phát triển khoa học,kỹ thuậtvà công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộngvà nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại".
2. vị trí và vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
2. 1 Vị trí của xuất khẩu hàng hoá.
Xuất khẩu hàng hoá là những việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này với các nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng bao gồm cả việc bán sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài và nhập khẩu sản phẩm từ nước khác. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thuộc phạm vi quốc tế và là hoạt động kinh tế thương mại rất phức tạp. Do đó nó không chỉ là một hành vi bán riêng lẻ mà là cả một quá trình kinh doanh phức tạp bao gồm nhiều khâu khác nhau.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của việc vươn tới mở cửa và mở rộng giao lưu kinh tế. Do đó xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng cửa” sang “mở cửa” và từ “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phát triển.
Đối với những nước mà nền kinh tế chưa phát triển cao như nước ta thì những nhân tố thuộc về tiềm năng như lao động và tài nguyên thiên nhiên là rất lớn trong khi các nhân tố như vốn, kỹ thuật - công nghệ, và kinh nghiệm quản lý còn thiếu. Vì vậy, chiến lược hướng vào xuất khẩu thực chất là giải pháp “mở cửa ” nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài kết hợp với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cáchchênh lệch giàu nghèo. Mặt khác, Việt nam cũng phải ra sức phát triển sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, nhập khẩu những công nghệ mới tiên tiến nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế đã đặt ra.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Ngoài ra, xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh về sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào trong giai đoạn hiện nay phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu không những được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại mà nó còn là một phương tiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các Chính phủ ở các quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế của mình đều coi hoạt động xuất khẩu là một hoạt động trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2. 2 vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Trên thực tế ta thấy, bất cứ một ngành sản xuất hay kinh doanh nào muốn thu hút được kết quả cao đều phải biết khai thác và phát huy triệt để những lợi thế sẵn có ở bên trong cũng như bên ngoài một cách đúng đắn và hợp lý. Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam cần phải tận dụng các nguồn tiềm năng để mang lại hiệu quả ngày càng cao.
Chúng ta có những điều kiện thuận lợi: nước ta là một nước Đông nam á nằm ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương - khu vực được coi là phát triển “năng động”, có tầm chiến lược ngày càng quan trọng trên bản đồ chính trị và kinh tế thế giới. Vị trí của Việt nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước SNG, Trung Quốc, Nhật bản, Nam Triều Tiên sang các nước Nam á, Trung Đông, và Châu phi. Với một vị trí thuận lợi như vậy tạo điều kiện cho Việt nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và trong sự hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong khu vực, và các nước trên thế giới một cách dễ dàng. Mặt khác, nó cũng góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
Không những thế, Việt nam còn có biển chạy dọc theo chiều dài đất nước, nhất là từ Phan Thiết trở vào còn có cảng nước sâu, khí hậu tốt, không có sương mù, tàu bè nước ngoài có thể cập bến an toàn quanh năm. Điều này rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán giữa các nước. Mặt khác, về vận tải hàng không, tuy chúng ta chưa có nhiều sân bay nhưng chúng ta có sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng như Băng cốc (Tháilan), Giacacta (Indonexia), Mamila (Philipin).
Thông qua đó cho phép chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như hoạt động xuất nhập khẩu.
Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng là một trong những nguồn tiềm năng góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Bên cạnh những cơ hội, chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Vì xuất phát điểm của chúng ta quá thấp. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ “tụt hậu ” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vục và trên thế giới. Mỹ và phương tây tiếp tục mưu toan thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”. Gây áp lực đối với chúng ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, đa nguyên đa đảng. Nguy cơ đi chệch hướng XHCN.
Nền kinh tế trong nước còn nhiều yếu kém. Vẫn hiện trạng tham ô, tham nhũng nhiều. Bộ máy quản lý còn quan liêu, thủ tục hành chính còn dườm dà. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu, đặc biệt đối với cán bộ thuộc lĩnh vực ngoại thương.
Nhận thức rõ những điều kiện thuận lợi và khó khăn trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống. Hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vị trí, vai trò quan trọng trong đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các mặt sau:
2. 2. 1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
ở nước ta, để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước trong thời gian ngắn, đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: đầu tư nước ngoài, vay nợ hoặc viện trợ, ngoại tệ thu được từ các nguồn khác. Trong các nguồn trên thì các nguồn như vay nợ và đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng cũng phải trả sau này. Và việc sử dụng chúng một cách thái quá sẽ gây hậu quả cho việc trả nợ về sau. Vì vậy, nguồn từ xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ quan trọng phục vụ cho quá trình nhập khẩu, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng nên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng của việc xuất khẩu bởi xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ.
2. 2. 2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản là chưa đủ cho nhu cầu tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và thay thế cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điển thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này nên sản xuất thể hiện ở các mặt sau:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầy đủ cho việc phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu như bông, vải sợi. . . Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu gạo, chè, cà phê. . . sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành chế biến có liên quan.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Khi sản xuất bắt đầu lớn mạnh thị trường trong nước không đủ khả năng làm cho sản xuất phát triển mạnh được, chỉ có thị trường rộng lớn ở bên ngoài mới có thể đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng của các ngành nghề trong nước và đảm bảo sản xuất phát triển ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, kỹ thuật và công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi với thị trường.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và không ngừng phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình để có thể đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường thế giới.
2. 2. 3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống của nhân dân bao gồm rất nhiều mặt:
Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi tiêu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập không nhỏ.
Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân hiện nay.
2. 2. 4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh trế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đôi ngoại, khi xuất khẩu phát triển nó cũng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển theo như quan hệ về chính trị và ngoại giao. Mặt khác các quan hệ chính tri, kinh tế, ngoại giao phát triển mạnh lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
2. 2. 5 vai trò của xuất khẩu đối với một doanh nghiệp
Xuất khẩu đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi thế. Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sự mở cửa của nhiều thị trường mới, các hiệp định thương mại song phương,sự hình thành các tổ chức kinh tế và thương mại khu vực và sự hình thành của tổ chức thương mại thế giới đã tạo ra những cơ hội chưa từng có cho các doanh nghiệp muốn xuất khẩu. Do việc áp dụng công nghệ mới,nhiều nước có khả năng tạo ra các sản phẩm rẻ hơn,tốt hơn, với thời gian sản xuất nhanh hơn. Rất nhiều nươc đang phát triển đã trở thành đối thủ cạnh tranh đối với các nước phát triển nhờ vào sự nắm bắt hệ thống viễn thông toàn cầu, sự phát triển của ti vi,máy tính,mạng internet. Đây là lúc thích hợp nhất cho các doanh nghiệp tận dụng những biến chuyển của thị trường để tiến hành xuất khẩu.
Những lợi ích mà xuất khẩu có thể mang lại cho doanh nghiệp là :
-Tăng doanh số và lợi nhuận. Nếu một công ty hoạt động tốt trên thị trường nội địa thì việc mở rộng ra thị trường nước ngoài sẽ làm tăng lợi nhuận.
- Giành được thị phần ở nước ngoài nhờ vào việc xuát khẩu,công ty sẽ học hỏi được từ đối thủ cạnh tranh, từ các chiến lược của họ và những việc mà đối thủ cạnh tranh, từ các chiến lược của họ và những việc mà đối thủ cạnh tranh đã thực hiện để giành được thị phần ở nước ngoài.
-Giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa hiện có. Nhờ mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài,công ty sẽ phát triển các cơ sở bán hàng và giảm sự phụ thuộc vào khách hàng trong nước
ổn định doanh nghiệp trước sự biến động của thị trường trong nước. Bằng cách khai thác thị trường thế giới,công ty sẽ khai thác thị trường thế giới,công ty sẽ không bị bó tay trước những thay đổi về kinh tế, về nhu cầu của khách hàng và những biến động theo thời vụ trên thị trường trong nước.
- Tận dụng năng lực sản xuất dư thừa. nhờ xuất khẩu mà có thể tận dụng năng lực sản xuất và thời gian sản xuất,do đó làm giảm chi phí của một đơn vị sản phẩm,và tăng hiệu quả kinh tế.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh. Do xuất khẩu mà có thể tăng thêm năng lực cạnh tranh của một nước, của một doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp có lợi do việc sử dụng công nghẹ mới,các phương pháp và sản xuất mới thì năng lực của doanh nghiệp được nâng lên và cán cân thương mại trong nước dược phát triển
II. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu.
1. Vì sao phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu.
Khác với hoạt động thương mại trong nước, xuất khẩu thuộc phạm vi của thương mại quốc tế, do vậy nó chịu sự chi phối và điều khiển của các quy luật vượt ra khỏi phạm vi biên giới của một quốc gia. Chính vì thế mà hoạt động xuất khẩu thường phức tạp hơn nhiều so với các hoạt động thương mại trong nước. Nếu để hoạt động xuất khẩu tự do không có các biện pháp điều chỉnh và thúc đẩy thì hoạt động xuất khẩu sẽ không hiệu quả và gặp nhiều khó khăn bởi các lý do sau đây:
1. 1 Những khó khăn của hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện khác nhau, đồng thời trong quá trình tiến hành hoạt động xuất khẩu cũng nảy sinh nhiều vấn đề có tính chất đặc thù của loại hình này.
Một trong những điều kiện để có được các sản phẩm có khả năng cạnh tranh quốc tế là sự tồn tại của một hệ thống các điều kiện khung về chính sách thích hợp cho sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm thích hợp cho xuất khẩu. Các điều kiện khung này bao gồm các điều kiện về pháp lý, thuế và các thủ tục hành chính. Ngoài ra còn phải kể đến các điều kiện để tiến hành hoạt động nhập khẩu cũng như triển khai đầu tư trực tiếp của nước ngoài để tận dụng các khả năng chuyển giao công nghệ.
Nhân tố thứ hai gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu là vấn đề về thông tin của thị trường xuất khẩu. Các thông tin này thường khó thu nhận hơn là các thông tin ở thị trường trong nước. Các thông tin này bao gồm cả thông tin về thị trường như: khả năng tiêu thụ, yêu cầu chất lượng, tình hình cạnh tranh, các quy định về hạn chế nhập khẩu, những hiểu biết riêng về khách hàng và độ tin cậy của khách hàng. Do tính năng động của thị trường mà ngoài những hiểu biết riêng, cơ bản còn cần phải tiếp tục theo dõi diễn biến của thị trường để có thể phản ứng linh hoạt trước những thay đổi của tình hình.
Khi đã có những thông tin cần thiết, cần triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu. Do sự xa cách về mặt địa lý với các thị trường xuất khẩu và sự hiểu biết thường là ít ỏi về các thị trường này nên công việc tiến hành các hoạt động này khó hơn đối với thị trường trong nước. Những công việc xúc tiến ở đây là giới thiệu sản phẩm, lựa chọn và áp dụng các phương pháp tiếp thị thích hợp, hỗ trợ tiêu thụ và trong trường hợp cần thiết xây dựng hệ thống dịch vụ và các hệ thống kho phân phối.
Yếu tố thứ tư gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu là hoạt động này đòi hỏi những kiến thức và kinh nghiệm. Các thủ tục cần thiết trong xuất khẩu bao gồm cả các quy định cần chú ý và việc sử dụng các loại hồ sơ và giấy tờ khác nhau và điều này thì khác rất nhiều với kinh doanh trong nước. Để duy trì các mối quan hệ với nước ngoài lại cần các chuyến đi ra nước ngoài hết sức tốn kém hoặc phải xây dựng và đảm bảo kinh phí cho các cơ sở đại diện ở nước ngoài.
Thứ năm là việc đảm bảo tài chính cho xuất khẩu: một hoạt động mà ở đó thường áp dụng các thời hạn thanh toán dài hơn và các thủ tục đặc biệt đòi hỏi phải có sự phối phợp với các tổ chức tài chính chuyên môn. Cần đặc biệt lưu ý ở đây là các rủi ro trong thanh toán cũng như rủi do tín dụng thông thường là các rủi do đặc thù của mỗi quốc gia hoặc các rủi do kinh tế luôn đi kèm với các hoạt động kinh doanh với nước ngoài. Những điều khác nhau về hệ thống pháp luật, quan niệm về pháp luật cũng như những khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình ở nước ngoài cũng rất quan trọng và cần phải được đặc biệt lưu ý.
Tất cả những khó khăn trên làm cho hoạt động xuất khẩu cần có sự hỗ trợ và thúc đẩy để nó có thể tiến hành được rễ dàng.
1. 2 Những yêu cầu đặt ra cho hoạt động xuất khẩu.
Để tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần phải xây dựng những chính sách về kinh tế cho phù hợp, đặc biệt chính sách xuất khẩu. Tuy nhiên, để có thể có được những chính sách phát triển xuất khẩu đúng đắn, có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu về những yêu cầu mà xuất khẩu cần phải đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế Việt nam.
1. 2. 1 Xuất khẩu phải ra sức khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước.
Thế mạnh lớn nhất của Việt nam là có lực lượng lao động dồi dào. Lực lượng lao động của Việt nam được đánh giá là có khả năng tiếp thu kỹ thuật cộng nghệ nhanh lại cần cù, siêng năng, có nhiều ngành nghề truyền thống, nhạy cảm với cái mới, hơn nữa giá nhân công lại rẻ. Xuất khẩu phát triển có nghĩa là chúng ta đã giải quyết được việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ngoài ra, Việt nam còn có một quỹ tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đất, rừng, biển, khoáng sản, thuỷ sản. . . . Yêu cầu đặt ra là phải khai thác được nguồn lực trong nước, thúc đẩy xuất khẩu có hiệu quả.
1. 2. 2 Xuất khẩu phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có.
Xuất khẩu phải mạnh và có hiệu quả để tạo thế đứng cho nước ta trên thương trường quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, muốn gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế thì nước ta phải có được các quan hệ kinh tế bền vững với các trung tâm kinh tế chủ yếu của thế giới như Mỹ, Nhật bản và Châu âu. Chính những mối quan hệ này là giá đỡ cho một quốc gia có thể tham gia có hiệu quả váo các khối kinh tế khu vực.
Xuất khẩu muốn hiệu quả trước tiên ta phải nghiên cứu nhu cầu trên thị trường đồng thời đánh giá khả năng sản xuất của ta. Từ đó, tìm các đối tác liên doanh, liên kết tạo nguồn hàng xuất khẩu.
1. 2. 3 Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng kim ngạch xuất khẩu.
Hiện nay, xuất khẩu của ta còn manh mún, thường xuất khẩu với khối lượng nhỏ. Trong xu thế khu vực hoá ngày nay đòi hỏi năng lực xuất khẩu của nước ta phải được nâng cao để thu ngoại tệ về cho đất nước đồng thời vươn lên chiếm lĩnh ngày càng nhiều thị trường xuất khẩu.
1. 2. 4 Tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng, với chất lượng cao khối lượng lớn và có khả năng cạnh tranh cao.
Nước ta có cơ cấu hàng xuất khẩu tương đối giống với các nước trong khối ASEAN. Do kỹ thuật sản xuất những mặt hàng này của ta hiện còn lạc hậu, chất lượng chưa cao, số lượng chưa lớn nên hàng hoá của ta có sức cạnh tranh kém hơn so với các nước trong khu vực. Để có thể phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao, chế biến sâu, tương đối mới và có nhu cầu lớn trên thị trường như dịch vụ phần mềm máy tính, hàng nông sản tinh chế. . .
Những lý do khác.
+ Vì lý do bảo hộ cần khuyến khích xuất khẩu để mở rộng cơ hội tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp trong nước, đặc biệt của các doanh nghiệp Việt nam trên trường quốc tế.
+ Khuyến khích xuất khẩu để lập lại thế cân bằng trong cạnh tranh cho các nhà sản xuất trong nước, tránh việc họ bị thiệt thòi do chính sách khuyến khích xuất khẩu của các nước khác gây ra.
+ Cuối cùng do những nguyên nhân về cán cân thanh toán cần thiết phải áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu để thông qua tăng xuất khẩu mà giảm thâm hụt trong cán cân thanh toán.
2. Mục tiêu của chính sách thúc đẩy xuất khẩu.
Để thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa trên vốn cao và kỹ thuật hiện đại. Theo đó sự chuyển dịch cơ cấu hàng chế tạo và tỷ lệ hàng chế tạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không phải là mục đích tự thân mà nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, có hiệu quả. Phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21.
Thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại. Đích cuối cùng là làm thoả mãn nhu cầu của thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Thúc đẩy xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu.
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm:
+ Đảm bảo kim ngạch nhập khẩu phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Gắn sản xuất vì nền kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền kinh tế với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn hơn nhờ hiệu quả và buôn bán quốc tế.
+ Tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu. Khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước kích thích các ngành kinh tế phát triển Góp phần tăng tích luỹ và sử dụng vốn trong nước tạo dựng được nguồn vốn của nước ngoài có tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước.
+ Năng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước.
+ Thúc đẩy quan hệ đối ngoại giữa các nước, nâng cao uy tín của Việt nam trên thị trường quốc tế và khu vực.
* Đánh giá vai trò của xuất khẩu : Xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng vi nó là hoạt động duy nhất có thể làm cho những mặt hàng sản xuất trong nước dồi dào có thể được cân đối. cũng chính nhờ nó mà các nước đang phát triển,có thể thực hiện chuyên môn hoá và quy mô sản xuất hiệu quả, trên cơ sở đó nâng cao khả năng cạnh tranh. Do vậy môt trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới ở nước ta là sự phát triển nhanh mạnh của ngành xk. rút ra kinh nghiệm từ các con Rồng,ta không chủ trương xây dựng một nền kinh tế hướngvề xuất khẩu, nhưng vẫn xem xuất khẩu là rất quan trọng trong quá trình phát triển
Nếu năm 1986, kim ngạch xk của ta chỉ đạt dưới 1tỷ Rúp và USD thì 10 năm sau, trong quá trình đổi mới con số này đã lên tới 7. 3 tỷUSD năm 1996 đạt 15. 1 tỷ USD năm 2001,chưa kể xk dịch vụ đạt khoảng 2. 4 tỷ._. USD. kim ngạch xuất khẩu thường đạt khoảng 50%GDP, nói lên tác động quan trọng của xk đối với quá trình phát triển và tốc độtăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Với kim ngạch tăng trung bình hơn 20% năm trong năm qua, không kể tình hình đặc biệt năm 2001, XK đã góp phần quan trọng vào việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Hiện nay, xuất khẩu là đầu ra của 60-70%sản phẩm của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, sản phẩm của các làng nghề đang được phục hồi. Qua đó thấy rõ xuất khẩu cá tác dụng không những kích thích,đẩy mạnh hàng hoá trong nước mà còn giải quyết việc làm trong khi vấn đề việc làm đang là một sức ép lớn đối với nhiều nước. Suy cho cùng, tạo nguồn hàng và tiến hành xuất khẩu chính là phát huy nội lực tài nguyên,lao động đến khả năng quản lý, kinh doanh trong quá trình phát triển. Với vai trò cầu nối,từ sự gắn két trong nước, với thị trường bên ngoài, xuất khẩu đã làm xuất hiện những xu hướng tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư đối với từng ngành , từng vùng và cả nước. nguồn thu do xuất khẩu mang lại cho phép trang trải nhập khẩu vật tư, thiết bị công nghệ nhằm tạo dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế theo định hướng xhcn.
Nếu như trước đây chúng ta chủ yếu xk hàng nguyên liệu thô và hàng tiểu thủ công nghiệp đơn giản, thì nay hoạt động đã khơi thông được nhiều nguồn hàng mới, với nhiều chủng loại,mặt hàng phong phú và đa dạng. XKmở rộng đã phát huy các lợi thế so sánh của chúng ta, góp phần giải phóng mọi nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế để đầu tư sản xuất, sử dụng nhiều hơn nguồn nguyên liệu, vật tư khai thác trong nước,đồng thời tạo ra hàng triệu chỗ làm mới trong nhiều khu vực kinh tế.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp hoạt động XK của ta chỉ bó hẹp trong phe XHCN và mọt vài nước khác,được thực hiện chủ yéu bằng phương thức hàng đổi hàng với Liên Xô và các nước đông âu khác nay xk đã được mở rộng phong phú linh hoạt với trên 100 nước, bao gồm cả trung tâm kinh tế lớn của thế giới XK ngày càng tăng và đối tác ngày càng nhiều theo hướng đa phương hoá đã giúp ta vượt qua cú sốc thị trường do thị trường truyền thống bị gián đoạn đầu những năm 90, tránh cho ta khỏi bị ảnh hưởng tiêu cực do phụ thuộc vào một vài thị trường đơn lẻ khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cuối những năm 90 xảy ra và cả sau sự kiện 11/9/2001, giữ vững sự ổn định của nền kinh tế nước ta.
Quá trình phát triển tích cực và có hiệu quả của hoạt động xuất khẩu không tách rời sự phát triển của thị trường trong nước theo định hướng XHCN. trong hơn 10 năm qua, lưu thông hàng hoá trong nước diễn ra sôi động ,cơ bản đáp ứng được các nhu cầu sản xuất tiêu dùng trong nước ngày càng đa dạng, góp phần thực hiện công bằng xã hội
Chương II
Thực trạng xuất khẩu hàng hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt nam
I-Kim ngạch và khối lượng hàng hoá xuất khẩu hàng hoá từ năm 1986 đến nay
Sau 15 năm đổi mới, với chính sách đa phương hoá các hoạt động kinh tế quốc tế và ththực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và nhà nước, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có nhữngbước tiến vượt bậc. Đến nay sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của hơn 100 nước thuộc khắp các châu lục. Trong 10 năm 1991-2000, Việt Nam đã ký thêm 60 hiệp định thương mại với các nước. Năm 2000, kim mgạch xuất khẩu tăng gấp 6 lần so với năm 1990, giai đoạn 1991-2000,tốc độ tăng bình quân 19,6%/năm. kim ngạch ngạch xuất khẩu tính trên đầu người năm 1992 khoảng 30USD, đến năm 2000 đã đạt184USD/người / năm -là mức của một quốc gia có nền ngoại thưong tương đối phát triển. Một số sản phẩm của việt nam đã chiếm vị trí cao trên trường quốc tế :hàng thứ hai về gạo (sau Thái Lan ), nhân điều (sau Ân Độ ),hàng thứ 3 về cà phê nói chung (sau Braxin, Clombia, nhiều khả năng vượt Clumbia) và hàng đầu về cà phê Robusta, hàng thứ 2 về hạt tiêu(sau Ân Đô). Cơ cấu xuất nhập khẩu đã được cải thiện theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sản phảm đã qua chế biến tăng từ khoảng 8%năm 1991lên 40%năm 2000 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế xuất khẩu, nhập khẩu theo hướng xoá bỏ chế độ độc quyền của nhà nước, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu sang tất cả các thành phần kinh tế. Tóm lại tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu tăng không những tạo nguồn thu ngoại tệ cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần tích cực tiến tới cân bằng cán cân vãng lai, nâng cao uy tín và vị thế của Việt nam trên trường quốc tế
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam
qua những năm đổi mới 1986 - 1998
Đơn vị tính: Tr. USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng kim ngạch XNK
1986
789
2155
2944
1987
854
2455
3309
1988
1038
2756
3794
1989
1946
2566
4512
1990
2402
2752
5154
1991
2087
2388
4475
1992
2581
2641
5125
1993
2985
3924
6904
1994
3600
4500
8100
1995
5300
6500
11800
1996
7255
11144
18399
1997
9268
11742
21011
1998
9300
11200
20500
1999
11540
11622
23162
2000
14308
15201
29509
2001
15100
16000
31100
Nguồn:Bộ kế hoạch và đầu tư
Nhìn chung trong thời kỳ đổi mới, kim ngạch xuất khẩu của Việt nam tăng nhanh. Năm 1988, một năm sau khi thực hiện cơ chế chuyển sang kinh tế thị trường, khối lượng xuất khẩu tăng 80% so với năm 1987. Bắt đầu từ đó, Việt nam duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân hơn 20% một năm. Hoạt động nhập khẩu trong 10 năm qua ( 1986-1996) cũng đi theo một xu hướng tương tự: gia tăng đều đặn nhưng tốc độ chậm hơn tăng trưởng xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1995 đạt 39,14 tỷ USD, tăng 2,31 lần so với thời kỳ 1986-1990, trong đó xuất khẩu là 17,01 tỷ USD, nhập khẩu là 22,13 tỷ USD. Xuất khẩu đã tăng với tốc độ bình quân 26%/ năm, gấp hơn 3 lần mức tăng bình quân của GDP và là một trong những yếu tố quan trọng góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng cao của GDP. Tuy nhiên, mức tăng này chưa đủ để bù đắp mức tăng nhập khẩu (bình quân 34% / năm ).
Năm 1996, tổng kim ngạch XNK đạt 18,399 tỷ USD, bằng 46,4% tổng kim ngạch của cả thời kỳ 1991-1995 và tăng 35% so với riêng năm 1995. Xuất khẩu dã đạt 7,255 tỷ, tăng 33,2% so với năm 1995 và chiếm xấp xỉ 30% GDP nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn thấp hơn mức độ tăng nhập khẩu( 36,6%). Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người đã đạt mức trên dưới 95 USD vào năm 1996, gấp hơn 3 lần so với năm 1994 (30 USD) và gần 9 lần so với năm 1986 (11 USD). Tuy nhiên, con số này còn khá khiêm tốn so với mức 170 USD được thế giới thừa nhận là mức của một nước có nền ngoại thương tương đối phát triển.
Hoạt động xuất khẩu năm 1998 đã diễn ra trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, chủ yếu là do tác động của khủng khoảng kinh tế và khủng khoảng tài chính trong khu vực. Trước tác động to lớn của cuộc khủng khoảng, mặc dù chính phủ đã dành sự quan tâm đặc biệt và áp dụng khá nhiều biện pháp khuyến khích nhưng xuất khẩu vẫn chỉ tăng ở mức đáng kể sau nhiều năm tăng trưởng với tốc độ cao, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong năm 1998 và mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu chung cho cả thời kỳ 1996-2000.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu năm 1998 đạt 9,361 tỷ USD, bằng 91,8% kế hoạch đề ra và chỉ tăng có 0. 9% so với năm 1997, đây chính là lần đầu tiên kể từ năm 1992 kim ngạch xuất khẩu tăng ở mức dưới 2 chữ số. Trong số này, khối doanh nghiệp Việt nam xuất 7,332 tỷ USD, chiếm 78,3% tổng kim ngạch và giảm 1% so với năm 1997. Khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1. 938 tỷ USD, chiếm 21,2% tổng kim ngạch và tăng 10,8% so với năm 1997. Xuất khẩu phi mậu dịch và tiểu ngạch đạt khoảng 46,6 triệu USD, giảm gần 40% so với năm 1997.
Năm 2000, tổng mức lưu chuyển ngoại thương đạt 29,5tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 14,3tỷ USD tăng gấp 6lần năm 1990 . Như vậy sau 2năm (1998-1999) gặp rất nhiều khó khăn bởi tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực,năm 2000 hoạt động xuất khẩu của nước ta đã có những bước phát triển đột phá, tăng 52,8% so với năm 1998,24% so với năm 1999và vuợt xa chỉ tiêu kế hoạch năm 2000. nếu so với năm 1996-năm đầu của kế hoạch 5năm 1996-2000 thì kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đã tăng gấp gần 2 lần (197,1%). Trong tổng số kim ngạch xuất khẩu năm 2000 khu vực kinh tế trong nước chiếm tỷ trọng trên 50%, đạt 7,4tỷ USD, tăng 8%so với 1999 khu vự có vón đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) ước tính đạt 6,9tỷ USD, tăng 47,4%. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2000 đạt 184,2 USD, kết quả đó đã đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển.
Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD tăng 405%so với năm 2000, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra từ đầu năm, nguyên nhân chủ yếu là do tình hình kinh tế thương mại thế giới diễn ra không thuận lợi, nhất là vào những tháng cuối năm. Có 9 mặt hàng chủ lực là lạc nhân, cà phê, chè,gạo,hạt điều,dầu thô, thủ công mỹ nghệ và điện tử bị giảm kim ngạch,chủ yếu do giá giảm quá mạnh trên thị trường thế giới. Tuy vậy các mặt hàng nông sẩn chủ lực đều được tổ chức tiêu thụ tốt, mức tăng về lượng rất khá ( cà phê trên 25%, hạt tiêu trên5%). . . đã làm thị phần của ta trên thị trường thế giới được cải thiện. Kim ngạch của nhóm hàng khác ngoài 16 nhóm chủ lực đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay là 28,2% làm tỷ trọng của nhóm này trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 26%. Điều này thể hiện tác dụng của việc mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho mọi thương nhân,khai thác triệt để tiềm năng của các thành phần kinh tế trong việc tạo ra các mặt hàng xuất khẩu mới.
Năm 2001qua đi với nhièu sự kiện phức tạp,đặc biệt là sự kiện 11/9 đã có những ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế thế thế giới. Năm 2002 kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu phục hồi nhanh,giá một só mặt hàng của ta vẫn ở mức thấp, dự đoán đó bộc lộ phần nào qua tình hình xuất khẩu tháng 1/2002 chỉ bằg 91,7%so với cùng kỳ,tiếp đến tháng 2chưa có cải thiện đáng kể nên kim ngạch 2tháng 2002 chỉ đạt 2,029triệu USDbằng 90,8%so với 2 tháng 2001. Tính đến 6 tháng đầu năm 2002 kim mgach xuất khẩu giảm 4%, trong khi đó kế hoạch đặt ra cho năm 2002là phải tăng trưởng từ10-13%. Để đạt kim ngạch xuất khẩu cả năm là 16,6 tỷ USDnhư kế hoạch thì ít nhất mỗi tháng cũng phải đạt 1,5 tỷ USd. Tuy nhiên, bình quân mỗi tháng đầu chưa được 1,2 tỷ USD, thấp xa so với mục tiêu đề ra. Sự giảm sút về kim ngạch xuất khẩuđược thể hiện ở 15 mặt hàng chủ lực, kim ngạch xuất khẩu 15 mặt hàng này bị giảm tới 264,1 triệu USD. xuất khẩu của các nhóm hang hoá khác gỉm mạnh đã ảnh hưởng lớn đến kết quả xuất khẩu chung, 5 tháng đầu năm 2002 chỉ bằng 97,1%so với cùng kỳ năm 2001, xuấtkhẩu của các doanh nghiệp FDIchiếm tỷ trọng ngày càng cao tong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, 5 tháng đầu năm 2002chiếm 48,1%. Tuy nhiên nhiên tỷ trọng và mức độ tăng chưa mong muốn.
II-Một số chính sách xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua.
Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động xuất khẩu Việt nam phải có những bước tiến dài và vững chắc. Muốn hoạt động xuất khẩu của Việt nam phát triển không ngừng điều đầu tiên chúng ta phải có một định hướng đúng đắn cho xuất khẩu. Dựa trên định hướng này, Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Từ Đại hội Đảng VII, Đảng ta đã xác định chiến lược đưa nền kinh tế hướng về xuất khẩu và nhấn mạnh chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu tại kỳ họp thứ 4 Đại hội Đảng VIII. Sau mấy năm thực hiện, thực tế đã chứng minh đây là một quyết định đúng đắn.
Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật, nghị định có tác động khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Các biện pháp này đã góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tăng trưởng không ngừng trong những năm vừa qua.
1- Chính sách khuyến khích đầu tư.
Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ “ Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng ”.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó đến hoạt động xuất khẩu.
Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng thời kỳ đổi mới. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ban hành năm 1997 đánh dấu sự khởi đầu của quá trình mở cửa nền kinh tế.
Những đóng góp của nguồn vốn FDI đối với nền kinh tế.
- Luồng vốn FDI đẫ bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển nhằm thực hiện mục tiêu đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng, ổn định và phát triển kinh tế góp phần khai thác nội lực về vốn, đất đai, tài nguyên, lao động của đất nước.
- Luồng vốn FDI bổ sung đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hình thành những cân đối lớn của nền kinh tế.
-Hoạt động của khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá trên thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu các hàng hoá thiết yếu, qua đó làm cho quan hệ cung cầu trên thị trường ổn định cân đối, tạo khả năng giảm giá và tỷ lệ lạm phát, nâng cao mức sống xã hội.
- Hoạt động của khu vực FDI cũng có những tác động tích cực đến cân đối chung của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển của khu vực FDI và mức đóng góp của chúng vào nguồn thu ngân sách ngày một gia tăng, tạo khả năng chủ động hơn trong cân đối ngân sách, giảm mức bội chi ngân sách. . Ngoài ra, trong thời kỳ đầu tuy nhập khẩu trong hoạt động FDI lớn hơn xuất khẩu nhưng mặt nhập khẩu này mang tính tích cực vì nó tạo ra tài sản cố định và công nghệ cho sự phát triển bền vững. Khi hoạt động FDI được định hướng tốt hơn và ổn định thì cánh kéo xuất nhập khẩu trong khu vực này sẽ được thu hẹp lại và về lâu dài FDI sẽ có tác động tích cực đến cán cân thương mại quốc tế.
- Nguồn vốn FDI góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưóng CNH - HĐH đất nước.
+ Đại bộ phận vốn FDI hiện nay là đầu tư vào khu vực công nghiệpxây dựng ( 83%) và dịch vụ ( 15%). Do đó, đây là nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ.
+ Hiện nay, khu vực có vốn FDI tạo ra gần 25% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 24%/năm trong những năm gần đây, nó đã góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung lên rõ rệt.
+ Khu vực có vốn FDI hiện nay chiếm 100% về khai thác dầu thô, 70% công suất chế biến thép và kết cấu thép, 53,8% cán thép, 24% công suất xi măng và sẽ tăng lên 41% sau năm 2000. Trong công nghiệp điện tử, vốn FDI chiếm trên 50%, trong đó 100% về các sản phẩm như tụ điện, mạch in, máy thu băng, đầu video; chiếm 70% về đèn hình các loại. Trong công nghiệp dệt may vốn FDI chiếm 100% về năng suất sợi PE và PES, 55% năng lực kéo sợi; 39,3% năng lực may; 32% sản xuất giầy dép. Trong ngành rượu bia và nước giải khát vốn FDI có năng lực sản xuất chiếm 78% về rượu; 48% về bia; 56,5% về nước giải khát có ga. Ngoài ra khu vực có vốn FDI còn chiếm 28% về chế biến thực phẩm; 14% sản lượng hoá chất. . . Như vậy, khu vực có vốn FDI đã tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu thị trường, hạn chế tối đa việc phải nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng như trước đây.
+ Hoạt động của khu vực FDI đã tạo ra nhiều ngành nghề mới và sản phẩm mới, đem lại năng lực sản xuất mới và công nghệ mới trong các ngành sản xuất mũi nhọn.
+ Hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt, hình thức đẹp đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng như hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản. . . Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều đạt tiêu chuẩn Việt nam, một số đạt tiêu chuẩn ISO.
- Nguồn vốn FDI đã có đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng nguồn thu ngân sách.
+ Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn FDI đến hết năm 1997 đạt 8,2 tỷ USD. Trong đó năm 1995 đạt gần 1,4 tỷ USD; năm 1996 đạt trên 1,8 tỷ USD; năm 1997 đạt khoảng 2,35 tỷ USD. Năm 1998 ước đạt 3 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng doanh thu thời kỳ 1991- 1997 từ 25% - 30%.
+ Đóng góp của khu vực có vốn FDI vào GDP tăng dần qua các năm: tỷ lệ này đạt 2% năm 1992; 3,6% năm 1993; 7,7% năm 1996 và 8,65 năm 1997. Nếu tính cả xây dựng cơ bản và dịch vụ khác thì tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào GDP của cả nước đạt trên 10%.
+ Quy mô xuất khẩu của khu vực có vốn FDI tăng nhanh qua các năm: Năm 1991 xuất khẩu đạt 52 triệu USD; năm 1995 đạt 440 triệu USD ; năm 1996 đạt 786 triệu USD; năm 1997 đạt 1720 triệu USSD; năm 1998 đạt 2000 triệu USD. Tỷ lệ xuất khẩu so với doanh thu tăng nhanh qua các năm: Năm 1995 đạt 31%; tăng lên 445 năm 1996; năm 1997 là 60%. Tỷ trọng xuất khẩu cũng tăng dần, 1,6% năm 1990 lên 4% năm 1994, 19% năm 1997 và đến năm 2000là 23,4%. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng như dệt may, giầy dép. . . Sự phát triển nhanh của hoạt động FDI cũng thúc đẩy mạnh các hoạt động du lịch và thu ngoại tệ tại chỗ của Việt nam.
Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1998 đạt 2000 triệu USD tăng hơn 11,7% so với năm 1997 ( năm 1997 đạt 1790 triệu USD ), năm 2000 ước đạt 6,9 tỷ USD(bao gồm cả dầu thô), tăng 47,4%, năm 2001 tăng 5%
2- Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Mục tiêu thị trường trong tương lai của chúng ta là biến đổi cơ cấu khu vực và cơ cấu bạn hàng hiện nay theo hướng “ đa phương hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng ”. Xác định mục tiêu như vậy chính là nhằm vận dụng đúng đặc điểm thời đại, đó là xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại, tham gia hội nhập khu vực và thế giới.
2. 1. Một số thị trường chủ yếu của Việt Nam
2. 1. 1 Thị trường ASEAN
Trên quan điểm thương mại và công nghệ, từ năm 1993 đến nay bản thân các nước ASEAN đã có những nỗ lực tạo nên sự ổn định từ thế tiếp cận với các thị trường công nghệ nguồn, có lượng tiêu thụ lớn ( Mỹ, Nhật bản, Tây âu). ảnh hưởng của ASEAN đối với vùng Châu á và thế giới ngày càng lớn. Đối với Việt nam, ASEAN ngày càng có vai trò quan trọng hơn. Từ khi tham gia tổ chức này, Việt nam đã thực thi tương đối các nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi nước thành viên của mình, thông qua đó đã có tiếng nói, vai trò và vị thế vững mạnh trên trường quốc tế.
Trong những năm qua Thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN đã có những bước tiến đáng kể.
Tình hình buôn bán của Việt nam với ASEAN
( Đơn vị: Triệu USD )
Nước
1992
1993
1994
1995
1996
1997
ASEAN
989
1568
1976
2030
2345
2107
Singapore
692
1149
1400
1440
1739
1475
Philippine
61
11
67
65
19
250
Thái lan
115
141
160
170
323
195
Malaysia
51
87
134
135
131
157
Indonesia
70
198
215
220
151
40
Giá trị thương mại giữa ASEAN và Việt nam ngày càng tăng. Tuy nhiên do hậu quả của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ xảy ra tại khu vực Đông nam á làm cho thương mại giữa Việt nam và ASEAN giảm. Nhập khẩu từ ASEAN sẽ tăng lên và xuất khẩu sang ASEAN sẽ giảm đi. Do đó chúng ta cần có những biện pháp để khắc phục điều này. Chúng ta cũng cần có những chính sách phù hợp cho từng nước trong khu vực để có khả năng xuất khẩu tốt hơn.
2. 1. 2 Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản hiện nay là thị trường xuất khẩu lớn nhất của việt nam. Nhật Bản là một trong ba trung tâm công nghệ của thế giới. Nhật bản hiện nay đã trở thành trung tâm giao dịch chứng khoán tiền tệ lớn thế giới. Nhật bản có thế mạnh về kinh tế, công nghiệp, thương mại, thị trường. Đây là thị trường chiếm 16%tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Các mặt hàng việt nam xuất sang Nhật Bản gồm hàng nông sản, thuỷ hải sản, hàng may mặc, bên cạnh đó còn một số hàng công nghiệp như máy móc thiết bị. thị trường Nhật bản có những nét đặc thù, vì vậy cần có sự nghiên cứu để có thể khai thác một cách tối đa
2. 1. 3 Thị trường Mỹ.
Mỹ là thị trường lớn nhất tiêu thụ các hàng thành phẩm của những nước đang phát triển. Mỹ là thị trường chủ lực, tạo đà cho sự cất cánh và phát triển kinh tế của nhiều nước. Sử dụng công nghệ, kỹ thuật của Mỹ sẽ giúp ta nhanh chóng hoàn thành sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Ngày 3/2/1994, Mỹ đã bỏ cấm vận đối với Việt nam và tháng 8/2000vừa qua nước ta đã ký hiệp định thương mại với Hoa-Kỳ, đây là điều kiện thuận lợi cho Việt nam gia nhập WTO. kim ngạch xuất nhập khẩu của ta với Hoa Kỳ tăng rất nhanh, năm sau cao hơn nhiều so với năm trước. Riêng xuất khẩu năm 1996 là 300 triệu, năm 1997 là 400 triệu USD.
Quan hệ thương mại Việt - Mỹ
Đơn vị: 1000USD
1994
1995
1996
1997
1998
Xuất khẩu từ Việt nam vào Mỹ
50. 450
198. 966
319. 037
388. 189
553. 408
Nhập khẩu từ Mỹ vào Việt nam
172. 223
252. 860
616. 047
277. 787
274. 217
2. 1. 4 Thị trường EU
EU là thị trường lớn. Trong quá khứ chúng ta ít buôn bán với thị trường này bởi chính sách phong toả kinh tế đối với các nước XHCN của các nước đế quốc. Nhưng từ khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã quan hệ thương mại, đầu tư Việt nam vào EU được cải thiện. Đặc biệt sau những chuyến viếng thăm của các vị lãnh đạo cao cấp của nhà nước ta. Quan hệ kinh tế giữa EU và Việt nam được tăng cường. Việt nam tiếp tục thúc đẩy chính sách xuất khẩu sang EU, các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam sang EU bao gồm nông sản, thuỷ sản, hàng dệt may. . . Khối lượng buôn bán của Việt nam với EU từ năm 1991 đến nay đã tăng 71% - đây là một bước tiến mới. Tuy nhiên quy mô còn nhỏ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam vào EU mới đạt khoảng 2 tỷ USD.
Xuất khẩu của Việt nam với một số nước EU
Đơn vị tính: triệu USD
Nước
1991
1995
1996
1997
1998
Đức
7
218
228
396
588
Anh
2
75
125
256
333
Hà lan
16
80
17
251
307
Pháp
83
169
15
227
307
Bỉ
0. 1
35
61
11
212
Italia
57
50
111
144
Nguồn: Vụ thương mại dịch vụ - Bộ Kế hoạch và đầu tư
2. 1. 5 Thị trường Trung Quốc.
Số liệu thống kê cho thấy nếu gộp cả hai bộ phận Trung Quốc lục địa và Hồng Kông thì năm 1998, khu vực thị trường này chiếm vị trí thứ tư về kim ngạch XNK và thứ sáu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
Việt nam xuất khẩu sang khu vực này trên 1300 tấn cà phê, gần 900 ngàn tấn dầu thô, trên 110 triệu USD hàng hải sản, 26 triệu USD sản phẩm giầy dép. .
2. 1. 6 Thị trường Trung Đông
Khu vực Trung Đông nằm giữa ba Châu: Châu á, Châu âu, Châu phi, không những có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với các nước lớn mà còn là một thị trường hàng năm nhập một khối lượng lớn hàng nông, lâm, hải sản, gia vị, hàng mỹ nghệ và các mặt hàng tiêu dùng khác. Khu vực này với dân số khoảng 250 triệu người. Trung Đông chiếm khoảng 60% trữ lượng dầu mỏ của thế giới. Hầu hết các nước trong khu vực này đã có quan hệ ngoại giao với Việt nam
2. 1. 7 Thị trường Nga và các nước SNG
Thị trường Nga và các nước SNG đã từng là thị trường quan trọng nhất đối với Việt nam trong quá khứ. Nhờ có thị trường Liên Xô mà trong nhiều năm chúng ta nhập khẩu được những nguyên liệu thiết yếu như sắt thép, xăng dầu, phân bón, hoá chất. . phục vụ cho công cuộc bảo vệ đất nước và phát triển nước nhà. Đồng thời ta cũng xuất khẩu được nhiều sản phẩm sang thị trường SNG.
Ngoài các thị trường chính nói trên, các thị trường úc, ấn độ, Châu phi, Mỹ la tinh, Hàn Quốc, Đài Loan. . . Là những thị trường có khả năng tiêu thụ hàng xuất khẩu của ta. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục hợp tác, tìm kiếm thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này
2. 2 Tác động của chính sách thị trường đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam.
Cùng với sự tăng trưởng nhanh kim ngạch xuất khẩu, sự chuyển biến tích cực cơ cấu hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt nam thời kỳ 1991-1995 đã có sự phát triển mở rộng, cơ cấu các khu vực thị trường và nước “bạn hàng” đã có những thay đổi lớn, thị trường xuất khẩu của Việt Nam ngày càng mở rộng. hiện nay, chúng ta đang có quan hệ buôn bán với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ vào năm 2001.
2. 2. 1 Về cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu
Nếu năm 1991 thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam thì năm 1994 giảm xuống còn 75,8 % và năm 1998 chỉ còn chiếm 61,3% (trong đó khu vực ASEAN chiếm 24,3%),. Riêng thị trường Đông Bắc á, năm 1995 chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam nhưng đến năm 1997 chỉ còn chiếm 44%. Thị trường xuất khẩu Việt nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu âu, đặc biệt là Tây Bắc Âu, thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu nămNếu năm 1991 thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt nam thì đến năm 1994 đã tăng lên gấp 2 đạt 17,16 % và năm 1997 tiếp tục tăng lên 21,5%. Năm 1998 là 27,7% ( trong đó EU là 22,5% ).
Châu Mỹ và đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt nam. Nếu năm 1991 Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch của Việt nam thì năm 1994 đã tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48%, năm 1998 chiếm 5%. Thị trướng xuất khẩu của Việt nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu úc hay Châu Đại Dương, đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm 1991 thị trường này mới chiếm tỷ trọng 0,96% trong tổng kim ngạch của Việt nam, nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 2,78%, đến năm 1998 đạt 5,3%.
cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt nam
thời kỳ 1991 - 1998
(Tính bằng % của tổng số)
Các khu vực thị trường
1991
1994
1995
1996
1997
1998
- Châu á
+ Đông Bắc á
+ Đông Nam á
+ Nam á và Trung Đông
79. 94
75. 80
72. 40
50. 0
21. 0
1. 40
69. 6
49. 0
19. 0
1. 60
67. 7
44. 0
22. 0
1. 70
61. 3
- Châu Âu
+ Tây Bắc Âu
+ SGN và Đông Âu
+ Liên Bang Nga
9. 79
8. 67
17. 17
17. 80
15. 0
2. 80
1. 48
16. 80
13. 0
3. 80
2. 36
21. 50
19. 0
2. 5
1. 37
27. 7
- Châu úc
0. 96
1. 07
1. 04
0. 82
2. 78
5. 3
- Châu Phi
0. 68
0. 56
0. 70
0. 70
0. 80
0. 7
- Châu Mỹ
+ Bắc Mỹ
+ Mỹ Latinh
+ Hoa kỳ
Tổng cộng
0. 16
0. 16
100
2. 76
2. 59
0. 17
100
4. 33
3. 40
0. 93
3. 10
100
4. 22
3. 70
0. 52
3. 43
100
4. 48
3. 80
0. 68
3. 21
100
5. 0
100
Nguồn: Vụ Thương mại - dịch vụ, Bộ kế hoạch và đầu tư
Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt nam từ năm 1991 đến nay cho thấy: một mặt quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng đồng thời Việt nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa ( Tây Bắc Mỹ, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương ). Việt nam đã chuyển dần cơ cấu từ các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các khu vực thị trường khác phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại. Trong đó đáng chú ý là đã củng cố và mở rộng thị trường Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu đi vào thi trường Bắc Mỹ, Trung Cận Đông và Châu Phi. Năm 1995, thị trường các nước G7 chiếm tỷ trọng 39,7% kim gạch xuất khẩu của Việt nam, riêng Nhật bản chiếm tỷ trọng 26,8%, Các nước còn lại chiếm 13%. Đến năm 1997, Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 19,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam,hiện nay châu Phi đạt gần 70 triệu USD và châu Đại Duơngđạt tên 1,1 tỷ USD. Sự thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta vượt qua giai đoạn khó khăn khi thế giới diễn ra những biến động lớn.
2. 2. 2 Về cơ cấu nước bạn hàng xuất khẩu của Việt nam
Cùng với sự mở rộng phạm vi khu vực thị trường, số nước bạn hàng xuất khẩu của Việt nam tăng nhanh từ năm 1990 đến nay. Năm 1986, Việt nam mới xuất khẩu tới 34 nước. Năm 1990 là 51 nước. Đến nay đã tăng lên 110 nước - trong đó có 10 nước bạn hàng lớn nhất chiếm tỷ trọng trên dưới 75% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt nam là Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Hông Kông, Hàn Quốc, Đức, Thụy Sĩ, Mỹ, Malaysia. . .
10 nước và lãnh thổ đứng đầu về xuất khẩu (Tr. USD)
( Tính đến ngày 19/10/1998 ) nguồn vụ TMDV, BộKH&ĐT
Nước, vùng lãnh thổ
Kim ngạch xuất khẩu
Xếp thứ
Hàn Quốc
923
1
Nhật Bản
601
2
Đài Loan
545
3
Thái Lan
500
4
Hồng Kông
376
5
Malaysia
169
6
Singapore
139
7
Pháp
95
8
Mỹ
88
9
Liên Bang Nga
48
10
Qua biểu danh mục 10 nước bạn hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt nam cho thấy. Sự biến đổi cơ cấu nước bạn hàng xuất khẩu của Việt nam mấy năm qua là minh chứng về sự chi phối của quy luật lợi thế so sánh trong buôn bán quốc tế, nó phá vỡ mọi sự ngăn cách về trình độ phát triển và không gian địa lý. Vai trò của thị trường gần đã giảm xuống tương đối. Còn các thị trường xa, đặc biệt là các nước phát triển Tây Âu, Bắc Mỹ đã tăng lên mở ra cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới, đồng thời tạo tiền đề để Việt nam nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ khu vực có nền “ công nghệ nguồn’’.
Cơ cấu thị trường và bạn hàng đã có những thay đổi tích cực trong thời kỳ 1991 -1995, sang thời kỳ 1996 - 1998 thị trường xuất khẩu sang EU và Mỹ lại mở ra những triển vọng mới. Nhưng cho đến nay Việt nam vẫn buôn bán chủ yếu với các nước trong khu vực.
. 4-chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Từ năm 1990 đến nay có thể xem văn kiện Đại hội Đảng VII năm 1991 là một bước quan trọng trong việc đổi mới chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Trong đó sự đổi mới quan trọng nhất là việc chuyển từ chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang chính sách chú trọng tới 3 chương trình kinh tế ưu tiên “Chương trình sản xuất lương thực và thực phẩm, chương trình phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình phát triển hàng xuất khẩu. . ” Trong chính sách đổi mới này nổi bật nhất là sự điều chỉnh trong cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu. Có thể nói đây là một bước chuyển biến quan trọng từ trước tới nay và góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian gần đây.
4. 1 Nội dung của chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Chính sách mặt hàng xuất khẩu của Việt nam được thể hiện ở 3 mặt sau:
._.đổi, bổ xung luật pháp, chính sách và thủ tục, tạo thận lợi cho hoạt động FDI.
- Nâng cao hiệu quả và năng lực điều hành hoạt động FDI.
+ Đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư.
+Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch liên quan đến công tác FDI.
+ Xử lý kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình xem xét cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án.
+ Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI.
1. 2 Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại.
1. 2. 1 Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu.
Một yếu tố quyết định tới việc liệu hàng hoá Việt nam có thâm nhập được vào thị trường nước ngoài hay không đó là yếu tố chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu có thể được nâng cao, tạo uy tín và sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam bằng cách kiểm tra bắt buộc về chất lượng của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như hàng dệt - may, đồ điện tử, đồ điện, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng.
Các nhà máy không đạt tiêu chuẩn sẽ không được phép xuất khẩu. Các nhà máy đạt tiêu chuẩn có thể chia làm 3 loại :
Hạng nhất được phép xuất khẩu mà không bị kiểm tra hàng hoá, chỉ bị thanh tra hệ thống chất lượng 1 năm 1 lần.
Hạng hai bị thanh tra 1 năm 2 lần và có thể bị kiểm tra đột xuất 1 lần trong 30 chuyến hàng.
Hạng ba bị thanh tra 4-5 lần một năm và cứ 15 chuyến hàng bị kiểm tra 1 lần.
Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực để đánh giá một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức kể cả sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các cơ quan đơn vị, trường, viện. . ISO 9000 đã được chấp nhận ở trên 100 nước trong đó có Việt nam ). ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thâm nhập vào thị trường quốc tế. Thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 là rũ bỏ được những lề lối cũ như trì trệ chậm phát triển, phong cách làm việc theo kiểu đơn giản hoá tất cả “ thành hay bại ” đều đổ vào đàu ban lãnh đạo. áp dụng ISO 9000 không những nâng cao vai trò quản lý chất lượng từ A đến Z, tức là tất cả mọi người từ ban giám đốc đến người sản xuất, người tiêu thụ sản phẩm đều hết mực quan tâm tới vấn đề chất lượng và cùng chịu trách nhiệm chính về mình, mà nó còn giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bảo trì, tài chế, tăng lợi nhuận và các phương pháp thực hiện các quá trình chủ yếu thúc đẩy các hệ thống làm việc tốt hơn
ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng thiết thực đến quyền lợi của con người, đồng thời giải đáp những hoài nghi, vướng mắc mà từ trước tới nay chúng ta hay vấp phải. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 là không phải là muốn hay không mà nó còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác liên doanh trên thương trường quốc tế.
Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO 9000 là việc làm hết sức chính đáng, mang lại hiệu quả cao. Song trong thời gian qua, ở nước ta mới có 16 doanh nghiệp đạt được chứng chỉ này, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh. Trong khi đó trên thế giới hiện nay có khoảng 20000 công ty, doanh nghiệp, nhà máy. . áp dụng thành công bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Từ nay đến năm 2003, nước ta phấn đáu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, vì cho rằng chỉ có những doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ hiện đại mới phải quan tâm. Có một nguyên nhân làm cho một số đơn vị, doanh nghiệp chưa dám thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 vì còn gặp quá nhiều khó khăn thực tại đó là: năng lực, trình độ kỹ thuật kém, quy trình công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao. . . cùng với dự thiếu vắng của các tổ chức chứng nhận ISO 9000 trong nước mà phải thuê các tổ chức có tên tuổi ở nước ngoài. Các khâu tư vấn, các bước thực hiện cải tiến hệ thống quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm lại quá cao nên hầu như cac doanh nghiệp phải đắn đo cân nhắc.
1. 2. 2Thị trường
Phát tiển thị trường xuất nhập khẩu theo quan điiểm Mảketing hiện đại có nghĩa là không những mở rộng thêm thị trường mới mà còn phải tăng thị phần của sản phẩm đó trong các thị trường đã có sẵn. Gần một thập kỷ qua,thi trường xuất khẩu của ta đã có sự thay đổi sâu sắc. Đến nay hàng hoá và dich vụ của Việt Nam đã có mặt trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhiều mặt hàng chủ lực của ta đã có vị trí đáng kể trong thương mại thế giới.
Trên cơ sở về thực trạng xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua, để gia tăng xuất khẩu những năm tới, thị trường xuất khẩu Việt Nam nên phát triển theo hướng sau :
-Đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển thị trường trong nước nhiều thành phần, thục hiện thị trường mở, tự do hoá thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu.
Thực hiện nguyên tắc "có đi có lại " trong kinh doanh xuất nhập khẩu do tổ chức thương mại thế giới đề ra, tạo mối quan hệ gắn bó với thị trường nhập khẩu.
Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đẻ tạo hàng hoá đạt chất lượng quốc tế có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới
1. 2. 3 Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam.
Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ chức đưa hàng hoá Việt nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trường nước ngoài, về những nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước.
Việc thành lập tổ chức này cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam. Kinh nghiệm thành lập và vận hành tổ chức này chúng ta có thể học tập kinh nghiện từ Nhật bản với JETRO, Hàn Quốc với KOTRA và Đài Loan với CETRA. Hiện nay, đã có một số trung tâm xúc tiến thương mại của các nước có mặt tại Việt nam nhưng cộng tác phối hợp với các tổ chức này còn yếu.
1. 2. 4 Quỹ khen thưởng xuất khẩu.
Quỹ khen thưởng xuất khẩu được thành lập nhằm kịp thời động viên khuyến khích các doanh nghiệp và người sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, một số nước khác trong khu vực cũng có những biện pháp thưởng xuất khẩu. Ví dụ ở Đài Loan hàng năm có giải thưởng cho 10 mặt hàng có chất lượng cao nhất sản xuất tại Đài loan, ngoài khoản vật chất nhất định, các sản phẩm này được phép sử dụng biểu tượng khi quảng cáo, các nhà sản xuất được gắn biểu tượng này khi bán hàng. ở thái lan việc lựa chọn công bố những “ top ten” cho một số mặt hàng xuất khẩu cũng được làm hàng năm, chế độ thưởng hạn ngạch đối với những mặt hàng này cũng đã được thực hiện từ nhiều năm nay.
Hình thức thưởng được thực hiện theo hao cách:
Thưởng tiền kèm theo bằng khen và huy chương.
Thưởng bằng hạn ngạch.
Các nguồn để lập quỹ khen thưởng :
Một phần lệ phí của việc bán và đấu thầu hạn ngạch.
Một phần thu từ lệ phí cấp các loại giấy phép.
Các nguồn tài trợ khác được chính phủ cho phép
Các đối tượng được xét thưởng là các doanh nghiệp có một trong các tiêu chuẩn sau:
Những sản phẩm, nhóm hàng mới lần đầu tiên xâm nhập được thị trường nước ngoài
Nhưng sản phẩm hàng hoá được thị trường nước ngoài ưa chuộng, tín nhiệm và công nhận về mặt chất lượng.
Những loại mặt hàng cho xuất khẩu và nững mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn ( quy định cho từng loại mặt hàng ).
Những loại mặt hàng có tính chất đặc biệt: sử dụng nhiều lao động ở trong nước, tỷ lệ nguyên liệu trong nước cao. .
2-Các biện pháp tài chính- tín dụng
2. 1 Khuyến khích các vệ tinh của các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu qua thuế.
Hiện nay việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu mới chỉ nhìn đến các doanh nghiệp có sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm cho các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu. Họ cũng có quyền được hưởng ưu đãi. Vì lí do đó, nên mở rộng định nghĩa về “ cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ” trong luật thuế doanh thu. Cụ thể, các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu cũng có thể được coi là cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và cũng được miễn thuế doanh thu.
Nhiều nước đã dành ưu đãi cho các xí nghiệp vệ tinh này, thậm chí còn đi sâu hơn, ưu đãi cả xí nghiệp đã cung cấp sợi để dệt vải cho may áo xuất khẩu.
Có thể lấy mặt hàng áo sơ mi làm ví dụ: các cơ sở may xuất khẩu hiện nay đang được miễn thuế doanh thu nhưng các xí nghiệp cung cấp vải, cúc, cổ, chỉ khâu và bao bì cho các cơ sở may chưa được miễn thuế doanh thu. Nhiều nước đã dành ưu đãi cho các xí nghiệp vệ tinh này, thậm chí còn đi sâu hơn, ưu đãi cả xí nghiệp đã cung cấp sợi để dệt vải cho may áo xuất khẩu.
Đối với nước ta, chúng ta chưa đủ khả năng miễn thuế nhiều tầng thì có thể áp dụng cho các tầng thứ nhất hay các xí nghiệp có liên quan trực tiếp đến sản xuất hàng xuất khẩu. Như trong ví dụ trên là các xí nghiệp dệt, xí nghiệp sản xuất cúc, bao bì. . . Nếu làm như vậy, thì sự phát triển của một ngành hàng xuất khẩu nào đó sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác, tất cả đều hướng về xuất khẩu. Điều này dẫn tới việc vừa đẩy mạnh xuất khẩu giá trị gia tăng ( không phải nhập nguyên liệu và nhập thành phẩm theo kiểu gia công), vừa tạo điều kiện thu hút được các nguồn nhân lực và vật lực của đất nước vào lĩnh vực kinh tế có hiệu quả.
2. 2 Giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ.
Xuất khẩu dịch vụ và xuất khẩu sản phẩm trí tuệ còn là việc mới, nhưng trên thực tế kim ngạch xuất khẩu của loại hình này theo những con số không chính thức ngày càng tăng. Các chuyên gia của bộ thương mại đã tính toán và dự đoán khả năng phát triển loại hình này trong tương lai là hiện thực, dự đoán lượng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dịch vụ và sản phẩm trí tuệ vào năm 2000 có thể lên tới 1,5 tỷ USD nếu như Việt nam có các biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động này ngay từ bây giờ. Do vậy, cần có các văn bản cụ thể được công bố và giao cho các bộ cùng các cơ quan có chức năng thực hiện chính sách phát triển và khuyến khích đúng đắn để khả năng này trở thành hiện thực.
Trước mắt cần có sự thay đổi về thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp gia công, sản xuất phần mềm tin học. Những bất hợp lý trong lĩnh vực này có thể nhìn thấy rất rõ như: thuế doanh thu phần mềm là 2% ( thuế dịch vụ) trong khi thuế doanh thu buôn bán phần cứng chỉ là 1%, hoặc thuế lợi tức phần mềm lên tới 45%. Đây là những bất hợp lý mà nên được điều chỉnh sớm. Các loại hình dịch vụ và các sản phẩm trí tuệ khác, nếu xuất khẩu thu được ngoại tệ thì cũng nên xem xét cho miễn giảm các loại thuế như đối với hàng hoá thông thường.
2. 3 Quỹ bảo hiểm ( hay quỹ phòng ngừa rủi do).
Nhà nước khuyến khích các hiệp hội ngày hàng tự nguyện thành lập các quỹ bảo hiểm ( phòng ngừa rủi do) cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Các quỹ này sẽ không lấy nguồn từ ngân sách Nhà nước để tránh các quy định không thuận lợi của WTO về vấn đề trợ giá.
Quỹ bảo hiểm có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên của hiệp hội khi giá cả của thị trường biến động thất thường, cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định, nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm cho người sản xuất thu hồi được vốn đầu tư, trang trải được chi phí và có lợi nhuận thoả đáng. Khi thị trường thế giới thuận lợi, có thể xuất khẩu với giá cao hơn mức giá bảo hiểm thì hiệp hội sẽ áp dụng biện pháp thu một phần chênh lệch đưa vào quỹ bảo hiểm ( chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá bảo hiểm). Ngược lại khi thị trường thế giới không thuận lợi, giá xuất khẩu xuống thấp hơn giá bảo hiểm thì quỹ sẽ trích tiền ra hỗ trợ lại cho các thành viên.
Về hình thức, có thể các thành viên hiệp hội thống nhất thành lập một pháp nhân được Nhà nước cho hưởng quy chế kinh doanh như các quỹ tín dụng thông thường nhằm mục đích phát triển nguồn vốn. Hoặc đơn thuần chỉ góp tiền về quỹ và giao cho một nhân hàng điều hành và kinh doanh quỹ này theo quy định của hiệp hội
. 2. 4 Các ưu đãi về tín dụng.
Mặc dù Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ra thông tư về việc các ngân hàng thương mại quốc doanh có trách nhiệm ưu tiên về mức vốn cho vay đối với các đơn vị sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu. Tuy nhiên thông tư lại không quy định rõ ràng và cụ thể chỉ nói chung chung “ khuyến khích tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn ”. Do vậy, việc cần làm là phải quy định cụ thể một tỷ trọng vốn vay dài hạn và trung hạn trên tổng dư nợ và một khung lãi suất cố định theo từng thời kỳ nhằm làm việc tiếp cận nguồn vốn tí dụng ngân hàng của các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu dễ dàng hơn, tránh gây mập mờ dễ gây tiêu cực.
2. 5 Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu.
Thành lập quỹ này để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. Do nguồn vốn hạn hẹp, để có thể đẩy nhanh tiến độ hình thành quỹ, tránh chồng chéo. Chính phủ nên:
- Hình thức hỗ trợ vốn cho các dự án sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có thời hạn trả vốn dưới 12 tháng của quỹ hỗ trợ xuất khẩu ( Bộ tài chính ) xin chuyển sang quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (Ngân hàng nhà nước) thực hiện.
- Nguồn vốn 300 tỷ đồng mà Bộ tài chính đề nghị thủ tướng Chính phủ cho trích từ Quỹ dự trữ ngoại tệ để đưa vào quỹ hỗ trợ xuất khẩu xin chuyển sang cho quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để tăng thêm vốn ban đầu cho Quỹ này, đảm bảo cho Quỹ có thể giải quyết ngay những khó khăn trước mắt về tín dụng ngắn hạn cho hoạt động xuất khẩu.
- Sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia để đáp ứng các mục tiêu về hỗ trợ dài hạn, không thành lập riêng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu như đề nghị của Bộ tài chính nữa. Đây là việc hết sức quan trọng. Chính phủ cũng đã có chỉ đạo từ đầu năm 1998 nhưng do khó khăn về nguồn vốn nên đến nay vẫn chưa có hình thức hỗ trợ tín dụng nào được hình thành. Để giải quyết khó khăn này, Chính phủ nên tập trung vốn để thực hiện đề án của Ngân hàng Nhà nước ngay trong năm nay. Bộ thương mại phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định đối tượng hỗ trợ và định mức hỗ trợ để Quỹ sớm phát huy đầy đủ tác dụng.
2. 6 Nhà nước nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam.
Để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì ngoài việc có chiến lược xuất khẩu, có chính sách trợ giá, tạo lợi nhuận khuyến khích các nhà sản xuất có sự “ đầu cơ ”, bảo trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần phải có một đường lối chính sách đúng đắn về ngân hàng sao cho các Ngân hàng Việt nam phát huy được vai trò “bà đỡ” cho nền kinh tế. Hiện nay chúng ta đã có ngân hàng ngoại thương Việt nam, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại cổ phần XNK EXIMBANK, song các ngân hàng này còn bị hạn chế về vốn, trình độ công nghệ, nghiệp vụ, chưa phục vụ đắc lực được cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam.
Với mục đích hỗ trợ nguồn vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng, doanh nghiệp tham gia tài trợ xuất khẩu. Hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu dưới hình thức ngân hàng như: Ngân hàng XNK Trung quốc (CHINA EXIMBANK), Ngân hàng XNK Nhật bản, Ngân hàng XNK Triều tiên. . Các tổ chức này đều có chung mục đích là thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá cho quốc gia dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh và thâm nhập thêm thị trường mới.
Không nằm ngoài mục đích trên, trong tương lai gần, Việt nam chúng ta cũng nên thành lập một ngân hàng chuyên doanh mang tên là ngân hàng XNK Việt nam. Có như vậy chúng ta mới đi được trên đôi chân của mình, thực hiện được sự bảo hộ cho các ngân hàng nội địa, phục vụ sự nghiệp CNH hướng về xuất khẩu phát huy được lợi thế so sánh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. 7 Về hỗ trợ tài chính.
Để giảm nhẹ gánh nặng hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước thông qua trợ cấp, trợ giá Chính phủ nên tăng cường sử dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính gián tiếp. cụ thể là:
2. 7. 1 Gắn chỉ tiêu nhập khẩu một số mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao
2. 7. 2 Cải tiến chế độ thu và hoàn lại thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng ( GTGT ) hiện nay được thu cả vào những mặt hàng nhập khẩu từ trước tới nay vẫn có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0%. Với mức thu tối thiểu là 5%, cơ chế hoàn lại chưa thông thoáng, các doanh nghiệp sẽ không giám mạnh dạn bỏ vốn đầu tư để mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. Vì lý do đó, Chính phủ nên:
+ Các loại máy móc, thiết bị, phụ tùng nhập khẩu sẽ nộp thuế GTGT tại cửa khẩu theo phương thức ghi thu ( doanh nghiệp không phải vay ngân hàng để nộp thuế).
+ Nếu sau 3 tháng số thuế GTGT phải nộp của doanh nghiệp vẫn là số âm thì Bộ Tài chính sẽ làm thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp theo phương thức ghi chi để doanh nghiệp quyết toán với hải quan. Nếu làm được theo cách này thì sẽ giảm được gánh nặng lãi suất cho các doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho họ đẩy mạnh đầu tư, giảm giá thành sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
2. 8 Chính sách tỷ giá hối đoái.
Một nước có nhiều bạn hàng buôn bán cho nên đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần phải cân nhắc kỹ, đặc biệt đối với những bạn hàng thương mại quan trọng. Cách định giá tỷ giá hối đoái rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vừa qua, cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Đông nam á xảy ra cũng một phần do Chính phủ các nước này áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường thay đổi trong khi tỷ giá hối đoái do nước đó định ra vẫn giữ mức cố định thì sẽ gây ra một sốảnh hưởng sau.
Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu chi phí tăng do lạm phát.
Các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế bán ra theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với tỷ giá hối đoái cố định, không được tăng nên để đền bù lại chi phí sản xuất cao hơn.
Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả chế tạo có thể tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù lại chi phí sản xuất nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ cũng có thể giữ nguyên mức giá nhưng lợi nhuận sẽ thấp đi. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm đi.
Như vậy, nên duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để vừa hạn chế nhập khẩu vừa thúc đẩy xuất khẩu. Rất khó để đưa ra một câu trả lời chính xác nhưng chắc chắn chúng ta nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong nước và trên thế giới.
2. 9 Chính sách đa lãi suất.
Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng chưa thiết yếu, có thể áp dụng lãi suất đối với vốn vay cho xuất khẩu bắng 50% mức lãi suất vốn vay để nhập khẩu ( việc này cả Hàn Quốc và Đài Loan đều đã làm trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế ).
2. 10 Chính sách bán ngoại tệ.
Mọi ngoại tệ thu được tử xuất khẩu đếu phải bán cho ngân hàng. Sau khi bán, doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt xác nhận lượng ngoại tệ đã bán. Nếu doanh nghiệp cần mua ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá thì có thể xuất trình hoá đơn này để mua lượng ngoại tệ tương ứng với tỷ giá ưu đãi.
Tất cả các doanh nghiệp không có hoá đơn này đều phải mua với tỷ giá cao hơn. Nếu doanh nghiệp có hoá đơn không có nhu cầu nhập khẩu thì có thể chuyển nhượng tự do hoá đơn này cho người khác.
Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế những khoản nhập khẩu bằng tiền không rõ nguồn gốc xuất khẩu, giúp giảm dần nhập siêu. Như vậy, sẽ có ba mức tỷ giá: tỷ giá mua vào, tỷ giá bán ra cho các đối tượng có hoá đơn và tỷ giá bán ra cao hơn cho các đối tượng không có hoá đơn.
3-các biện pháp thể chế, tổ chức
3. 1 Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh.
Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng gần như mang tính quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu ta khai thác được hết sức mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhà nước sẽ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt như năng lượng khai khoáng, viễn thông, lương thực. . còn các thành phần kinh tế khác sẽ khuyến khích các lĩnh vực khác nhau.
Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu hoàn toàn không trái với chủ trương của Đảng. Chủ trương đa dạng hoá chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể được thực hiện bước đầu tiên thông qua biện pháp bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK đã được xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng nằm ngoài ngành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh, trừ những mặt hàng quản lý theo cơ chế riêng.
Đề nghị Chính phủ bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng mà nhà nước không cần phải quản lý. Khi đó tất cả các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng này bất kể là hàng do doanh nghiệp sản xuất hay mua trên thị trường miễn là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Về lâu dài, khi hoạt động của các Tổng công ty lớn đã thực sự ổn định có thể điều tiết được thị trường thì nên nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu đáp ứng được điều kiện do Nhà nước quản lý hay độc quyền kinh doanh. Việc cho phép như vậy cũng sẽ tạo ra động lực phát triển xuất khẩu do việc giảm chi phí. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền mua để xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác tất cả các mặt hàng trừ gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quota, cà phê nhân và khoáng sản ( những mặt hàng này vẫn chỉ được phép xuất khẩu theo giấy phép đầu tư ).
3. 2 Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp.
Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước ngoài để phục vụ công tác Marketing.
Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
3. 3 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện mở cửa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, trong những năm sắp tới xét trên góc độ cơ chế quản lý cần phải thực hiện hàng loạt các biện pháp sau đây :
3. 3. 1 Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động, tích cực trong định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xk, Thường xuyên tổ chức những cuộc tiếp xúc đối thoại trực tiếp giữa chính phủ, các bộ và các doanh nghiệp nhầm kịp thời giải quyết khó khăn vướng mấc trong hoạt động xk. Nhà nước sớm xây dựng các chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh với nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng nước nhóm nước. Bộ chủ quản cần chủ động tích cực phối hợp bộ nganh liên quan, uỷ ban nhân dân tỉnh, thàh phố để tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động xuất khẩu nhằm góp phần tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
3. 3. 2 Hoàn thiện chưc năng quản lý nhà nước đói với doanh nghiệp xuất khẩu theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế khuyến khích và quản ký tốt hoạt động xuất khẩu. Muốn vậy phải giảm dần số lượng mặt hàng theo danh mục quản lý chuyên ngành va phải thông báo rõ ràng mặt hàng nào thuộc diện quản lý. Tăng đối tượng được hưởng và số tiền thưởng theo quỹ thưởng xuất khẩu để lôi cuốn doanh nghiệp xuất khẩu. giảm tối đa các mặt hàng quản lý hạn ngạch nhập khẩu, thực hiện triệt để việc thay cơ chế xin -cho bằng cơ chế đâu tư hạn ngạch nhập khẩu
3. 3. 3 Sớm hoàn thiện thống nhất luật pháp theo hướng đầy dủ, đồng bộ, ổn định và nhất quán. rà soát lại các văn bản pháp luật tránh chồng chéo.
kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý xuất khẩu của nhà nước từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm đội ngũ quản lý nhà nước về xuất khẩu, quy định rõ quyền và trách nhiệm cho từng loại cán bộ và quản lý, có hình thức thưởng phạt thích đáng để góp phần xoá bỏ những tiêu cực trong xuất khẩu. 3. 3. 4Điều chỉnh cơ chế quản lý xuất khẩu thông qua áp dụng các công cụ và biện pháp trong ngoại thương theo hướng ngày càng nới lỏng mềm dẻo và tạo điều kiện thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu phát triển. Song song với việc đa dạng hoá sản phẩm đối tác cần đa dạng hoá cáccông cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì việc nhập khẩu máy móc thiét bị nguyên vật liệu. . để phục vụ và sản xuất khẩu cũng phải đựơc coi trọng như ưu tiên lãi xuất theo cơ chế tỷ giá, trợ cấp trực tiếp, miễn thuế các chi phí đầu vào, giá cả các dịch vụ công cộng, cước phí vận tải, phí bảo hiểm, lãi xuất ngân hàng, giá điện, nước. . giảm mức thuế xuất khẩu từ 12 xuống còn 3 mức. Mức 0% đói với hàng qua ché biến, đặc biệt là nông sản ; mức 10% đối hàng chế biến và 20% đói với mặt hang không khuyến khích xuấ khẩu.
3.3.5 Nâng cao hiệu lực và quản lý vĩ mô và quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, phối hợp hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các loại hình doanh nghiệp trên mọi địa bàn. Nhà nước cần thực hiên tốt việc quảnlý gián tiếp, quản lý bằng các công cụ khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xử lý hài hoà các mối quan hệ và các mâu thuẫn phát sinh theo hướng tạo điều kiện cho kinh doanh xuất khẩu phát triển.
Kết luận
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên.
Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư. . Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ.
Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng nước nhà ngày một phồn vinh.
Tài liệu tham khảo
* Sách
1. Bộ kế hoạch và đầu tư - Viện chiến lược phát triển: “ công nghiệp hoá và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu”. NXB Chính
2. Đinh xuân Trình và Nguyễn duy Bột: “ Thương mại quốc tế”. NXB Thống kê - Hà nội 1993.
3. Mai ngọc Cường và Vũ văn Huân : “ Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt nam”. NXB Thống kê- Hà nội 1996.
4. Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII,IX Nghị quyết TƯ 4 - Khoá VIII.
* Báo và Tạp chí:
1. Tạp chí Thương mại: số 5,9,10,22,24/1997; số 7,8,16,23/1998, số 1/1999; số 1,2+3,5,8/2001 ;số 1,3+4,9/2002
2. Tạp chí Ngoại Thương số1,13/2002.
3. Tài chính số 1/1999 ; số 9/2001,
4. Tạp chí phát triển kinh tế số 124,125/2001
5. Tạp chí kinh tế phát triển số 11,46/2001
6. Tạp chí con số và sự kiện số 7, 8/2001
7. Tạp chí thị trường giá cả số 1,4/2001
8. Thương nghiệp thị trường Việt Nam 1+2/1999
9. Nghiên cứu kinh tế số 239 (tháng 4/1998).
* Danh mục các văn bản pháp luật đã tham khảo.
1. Nghị định 55/CP ngày 3/3/1998 về xuất nhập khẩu
2. Nghị định 54/CP ngày 28/8/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật xuất khẩu, nhập khẩu và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật xuất khẩu, nhập khẩu.
3. Quyết định 178/1998/QĐ - TTg ngày 19/9/1998 về hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu
4. Quyết định 764/1998/QĐ - TTg ngày 24/8/1998 về việc lậplập quỹ thưởng xuất khẩu.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0712.doc