Phương hướng và biện pháp hạ giá thành vận tải cho cảng Khuyến Lương thuộc xí nghiệp vận tải biển Pha Sông

Lời nói đầu Thực hiện sự nghiệp công hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện mở cửa nền kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Mỗi một doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, họ phải tự quyết định 3 vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai? Trong bối cảnh này các doanh nghiệp hiện nay đang kin

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và biện pháp hạ giá thành vận tải cho cảng Khuyến Lương thuộc xí nghiệp vận tải biển Pha Sông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h doanh trong một môi trường đầy biến động. Hai vấn đề cơ bản nhất đặt ra cho các doanh nghiệp là nhu cầu tiêu dùng thường xuyên biến đổi và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn do xuất phát điểm thấp kém và nhiều nguyên nhân chủ quan khác, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không mang lại hiệu quả làm cản trở sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản phẩm và phải hạ được giá thành. Giá thành sản phẩn là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh và đo lường hiệu quả kinh doanh, đối với các doanh nghiệp việc hạ giá thành sản phẩm là con đường cơ bản để tăng lợi nhuận, là tiền đề để hạ giá bán tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường cả trong và ngoài nước. Cảng Khuyến Lương thuộc Xí nghiệp Liên hiệp Vận tải biển pha sông là một xí nghiệp còn nhỏ trong lĩnh vực vận tải hàng hoá. Do đó, trong những năm gần đây phải chịu sức ép rất lớn trong cạnh tranh. Nhận thức được vấn đề này xí nghiệp đã không ngừng nâng cao chất lượng của các chuyến vận tải, quản lý chặt chẽ các chi phí kinh doanh nhằm hạ giá thành sản phẩm để thu được kết quả kinh doanh cao. Xuất phát từ lý luận thực tiễn trên chuyên đề thực tập của em đã phân tích đề tài : “ Phương hướng và biện pháp hạ giá thành vận tải cho Cảng Khuyến Lương thuộc xí nghiệp Vận tải biển pha sông ”. Lý luận cơ bản về giá thành và hạ giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp I. Lý luận chung về giá thành sản phẩm Khái niệm về giá thành sản phẩm Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng tài sản cố định là chi phí khấu hao về tài sản cố định, tương ứng với việc sử dụng lao động là tiền công, tiền trích BHXH, BHYT.... Trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường mọi chi phí về đều được biểu hiện bằng tiền trong đó chi phí về tiền công biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống ( V ), chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động vật hoá ( C ). Như vậy quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm 2 mặt : mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả các khoản chi phí phát sinh ( phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang ) và chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, “ phản ánh lượng hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ phải được tính ra để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp ” Tóm lại, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống ( V ) và lao động vật hoá ( C ) có liên quan đến khối lượng công tác sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. 2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm - Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống ( V ) và lao động vật hoá ( C ) và các khoản chi phí khác mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong kỳ. Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm khác nhau sau đây : + Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí còn giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành. + Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, còn giá thành sản phẩm không bao gồm chi phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại bao gồm chi phí sản xuất sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. Ta có thể thấy được mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ sau : Chi phí sản xuất SP dở dang đầu kỳ Chi phí SX phát sinh trong kỳ Tổng giá thành SP, dịch vụ hoàn thành Chi phí SX SP dơ dang cuối kỳ Qua sơ đồ trên ta thấy : - + = Tổng giá thành SP Chi phí SX dở Chi phí SX Chi phí SX dở dịch vụ hoàn thành dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ dang cuối kỳ Tóm lại, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ một thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho sản xuất, hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc,lao vụ đã hoàn thành. Sự tiết kiệm hay lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm hạ thấp hoặc cao lên, do vậy quản lý gái thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. 3. Các loại giá thành sản phẩm Để đáp ứng được các yêu cầu của quản lý hạch toán và hạ giá thành sản phẩm cũng như yêu cầu cần xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, nhiều phạm vi tính toán khác nhau, nhưng có 2 cách phân loại chủ yếu dưới đây. 3.1 Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính toán giá thành - Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành, giá thành sản phẩm chia làm 3 loại : + Giá thành kế hoạch : giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. + Giá thành định mức : giá thành định mức là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức cũng được thực hiện khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. + Giá thành thực tế : giá thành thực tế là giá thành sản phẩm được tính dựa trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp trong kỳ và sản lượng thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành sản phẩm thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế, tổ chức, kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở đê xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2 Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán - Theo phạm vi tính toán, giá thành sản phẩm được chia làm 2 loại : + Giá thành sản xuất còn gọi là giá thành công xưởng : giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí phân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính cho những sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng ghi bổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất. + Giá thành toàn bộ còn gọi là giá trị tiêu thụ : giá thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm công thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó : giá thành toàn bộ của sản phẩm được hoàn thành. Giá thành toàn bộ là căn cứ để tính toán xác định lãi trước thuế, lợi tức của doanh nghiệp. 4. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu chi phí của sản xuất đã tập hợp trong kỳ để tính toán tổng giá thành và giá thành đơn vị theo từng khoản mục chi phí quy định cho các đối tượng tính giá thành. Doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất, đặc điểm sản phẩm, yêu cầu quản lý sản xuất và giá thành. Mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà lựa chọn phương pháp tính giá thành phù hợp với nguyên tắc và từng đối tượng tính giá thành. 4.1 Nguyên tắc tính giá thành sản phẩm - Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh. Giá thành là công cụ quan trọng để các nhà quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất. Vì vậy, cần thiết phải tổ chức tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành của các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. - Tính đủ là tính toán chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản xuất ra sản phẩm muốn vậy phải xác định đúng đối tượng tính giá thành vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp, giá thành phải được tính toán trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất được tập hợp một cách chính xác kịp thời. - Tính đủ là tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh thực sự, loại bỏ mọi chi phí không liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, những chi phí mang tính chất tiêu cực lãng phí không hợp lý. Tóm lại, việc tính toán đúng, đủ chi phí vào giá thành sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp biết được chính xác tình hình và kết quả quá trình sản xuất của mình trong thời kỳ khi đó sẽ xác định đúng kết quả tài chính, khắc phục tình trạng “ lãi giả, lỗ thật ” hoặc ngược lại. Chính vì vậy, nguyên tắc tính giá thành là một nguyên tắc quan trọng mà mọi doanh nghiệp đều phải thực hiện trong nền kinh tế thị trường. 4.2 Đối tượng tính giá thành Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận tính giá thành phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Vậy đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải tính được tổng giá thành đơn vị. Nếu doang nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm, từng công việc sản xuất. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất hàng loạt thì đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm. Tóm lại, việc xác định đúng đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán tổng hợp chi phí và tính giá thành, tổ chức các bảng tính giá thành sản phẩm ( chi tiết giá thành ). Lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp, tổ chức công việc tính giá thành hợp lý, phục vụ công việc quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kỳ tính giá thành tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Mỗi đối tượng tính giá thành căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản xuất của chúng để xây dựng cho thích hợp. Trường hợp tổ chức sản xuất nhiều ( khối lượng lớn ), chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục thì tính giá thành thích hợp là hàng tháng vào thời điểm cuối mỗi tháng. Trường hợp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt theo từng đơn đặt hàng của khách hàng, chu kỳ sản xuất sản phẩm dài, sản phẩm hoặc loại sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất của sản phẩm hoặc loại sản phẩm đó thì kỳ tính giá thành thích hợp là thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất sản phẩm hoặc loại sản phẩm đã hoàn thành. 4.3 Phương pháp tính giá thành sản phẩm Phương pháp tính giá thành sản phẩm là một phương pháp hoặc hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính toán giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tỷ lệ...v..v.. Việc tính giá thành sản phẩm trong từng doanh nghiệp cụ thể tuỳ thuộc vào đối tượng tính giá thành sản phẩm trong từng doanh nghiệp cụ thể tuỳ thuộc vào đối tượng tính giá thành mà có thể áp dụng một trong các phương pháp nói trên hoặc áp dụng kết hợp một số phương pháp với nhau. 4.3.1 Các phương pháp tính : Tuỳ theo đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm cũng như yêu cầu và trình độ của công tác quản lý giá thành công tác kế toán của từng doanh nghiệp, từng loại hình sản xuất cụ thể, kế toán có thể sử dụng một trong các phương pháp sau : a. Phương pháp trực tiếp ( còn gọi là phương pháp giản đơn ) Phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm công việc có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn, xen kẽ liên tục, đối tượng tính giá thành tương ứng phù hợp với đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính giá thành định kỳ hàng tháng ( quý ) phù hợp với kỳ báo cáo. Theo phương pháp này giá thành được tính theo công thức sau : Z = C + Dđk - Dck Giá thành đơn vị : Trong đó : Z : là tổng giá thành từng đối tượng tính giá. J : là giá thành đơn vị từng đối tượng tính giá. C : là tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ. Dđk và Dck : là chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ. SI : là sản lượng thành phẩm. b. Phương pháp tổng cộng chi phí : Phương pháp này áp dụng cho các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ như các doanh nghiệp khai thác, dệt, nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc... ở các doanh nghiệp này đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận tạo nên thành phẩm : Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + ...............+ Zn c. Phương pháp hệ số : Phương pháp hệ số được áp dụng trong các doanh nghiệp mà trong cùng một lần chế biến ( cùng một quá trình sản xuất ), cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lực lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng được chong từng sản sản phẩm mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm : = Giá thành đơn vị Tổng giá thành sản xuất các loại sản phẩm sản phẩm gốc Tổng số sản phẩm gốc quy đổi Giá thành đơn vị = Giá thành đơn x Hệ số quy đổi SP từng loại vị SP gốc SP từng loại Trong đó : = x số lượng SP loại i Sản lượng SP Hệ số quy đổi quy đổi sản phẩm loại i Tổng giá thành Giá trị sản Tổng chi phí Giá tại SP SX của các = phẩm dở dang + SX phát sinh - dở dang sản phẩm đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ d. Phương pháp tỷ lệ : Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giày, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng) để giảm bớt khối lượng hạch toán kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch ( hoặc định mức ), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại. Giá thành thực tế Giá thành kế hoạch Tỷ lệ giữa chi phí đơn vị SP từng loại = hoặc định mức đơn x thực tế so với sản phẩm từng loại chi phí kế hoạch e. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ : - - Đối với các doanh nghiệp trong một quá trình sản xuất bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ ( các doanh nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mỳ ăn liền... ). Để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá trị có thể sử dụng, giá trị ước tính, giá kế hoạch giá nguyên liệu ban đầu : + = - Tổng giá thành Giá trị SP chính Tổng chi phí SX Giá trị SP Giá trị SP dở SP chính dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ phụ thu hồi dang cuối kỳ Ngoài ra còn có một số phương pháp khác có thể tính giá thành thực tế của sản phẩm như : - Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. - Phương pháp tính giá thành phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm. - Phương pháp tính giá thành sản phẩm phân bước không tính giá thành nửa sản phẩm. - Phương pháp tính bổ sung. 4.3.2 Phương pháp tính giá thành áp dụng trong một số loại hình dioanh nghiệp chủ yếu - Trên thực tế các loại hình doanh nghiệp chủ yếu bao gồm : + Doanh nghiệp sản xuất giản đơn. + Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng. + Doanh nghiệp áp dụng hệ thống định mức. + Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu liên tục. Mỗi loại doanh nghiệp trên có các phương pháp tính giá thành thích hợp. Nhưng để phục vụ cho việc nghiên cứu và phân tích tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp, sau đây chúng ta trình bày phương pháp tính giá thành ở hai loại hình doanh nghiệp sau : - Doanh nghiệp sản xuất giản đơn. - Doanh nghiệp áp dụng hệ thống định mức. 4.3.2.1 Doanh nghiệp sản xuất giảm đơn : Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với khối lượng lớn chu kỳ sản xuất ngắn hạn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể như các doanh nghiệp khai thác than, quặng, hải sản. Các doanh nghiệp sản xuất động lực ( điện, nuớc, hơi nước, khí nén, khí đốt ). Do số lượng mặt hàng ít nên việc hạch toán chi phí sản xuất được mở một sổ hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp ( giản đơn ) hoặc phương pháp liên hợp. 4.3.2.2 Doanh nghiệp áp dụng hệ thống định mức Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, chênh lệch so với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ thành 3 loại : theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó, tiến hành các định giá thành thực tế sản phẩm bằng cách : ± ± = Giá thành Giá thành định Chênh lệch do Chênh lệch so với thực tế SP mức SP thay đổi định mức định mức Việc thay đổi định mức là sự tăng, giảm các định mức chi phí để sản xuất ra đơn vị sản phẩm do kết quả của việc áp dụng các định mức mới kinh tế và tiết kiệm hơn để thay đổi các định mức cũ đã lỗi thời. - Chênh lệch định mức là chênh lệch giữa chi phí sản xuất thức tế phát sinh so với chi phí sản xuất định mức. 5. Vai trò của chỉ tiêu giá thành sản phẩm : Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu giá thành giữ một vai trò quan trọng, thể hiện ở các mặt sau : - Giá thành là thước đo hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, là căn cứ để xây dựng hiệu quả kinh doanh. Để quyết định lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm nào đó doanh nghiệp cần nắm được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và mức hao phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nào đó. Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu quả sản xuất các loại sản phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa. - Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật. Thông qua tình hình thực tế kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản xuất. - Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu quan trọng để thực hiện chủ trương xoá bỏ bao cấp chuyển sang chế độ hạch toán kinh doanh theo định hướng chủ nghĩa xã hội, do đó chỉ tiêu giá thành là một công cụ quản lý có hiệu quả. II. Một số biện pháp cơ bản nhằm hạ giá thành sản phẩm Tính tất yếu khách quan của việc hạ giá thành sản phẩm Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, nhu cầu về số lượng và chất lượng về sản phẩm ngày càng cao. Mặt khác do sự phát triển sản xuất sản phẩm ngày một đa dạng và phong phú, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng nâng cao chất lượng sản phẩm và phải hạ được giá thành sản phẩm. - Hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Khi thị trường có sự cạnh tranh hàng hoá đa dạng, phong phú các doanh nghiệp buộc phải nâng cao chất lượng sản phẩm và tìm biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Hạ giá thành sản phẩm sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Do giá cả được hình thành bởi quan hệ cung-cầu trên thị trường nếu giá thành hạ thấp hơn so với gái cả trên thị trường doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao. - Hạ giá thành sản phẩm có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất sản phẩm do doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu và chi phí quản lý. - Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc hạ giá thành sản phẩm của các ngành sản xuất sẽ mang lại sự tiết kiệm lao động xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế, hạ giá thành sản phẩm làm tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp, do vậy làm tăng nguồn thu cho ngân sách thông qua thuế thương mại doanh nghiệp. Như vậy, hạ giá thành sản phẩm không chỉ là vấn đề được quan tâm của toàn ngành, toàn xã hội. 2. Những nhân tố tác động làm hạ giá thành sản phẩm - Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, việc áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất là nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong kinh doanh. - Trong điều kiện ngày nay khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, các máy móc thiết bị được dùng vào sản xuất hết sức hiện đại thay thế lao động thủ công của con người, khoa học kỹ thuật phát triển trên thế giới đã tạo ra những công nghệ chế tạo mới (điện tử, tin học, các phương tiện chế tạo vật liệu mới) đã làm thay đổi nhiều điều kiện cơ bản của sản xuất như việc tiêu tốn nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm ngày một ít. - Tổ chức lao động và sử dụng con người là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, có tác dụng to lớn thúc đẩy việc nâng cao hiệu suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. 3. Phương hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp. Để hạ giá thành sản phẩm các doanh nghiệp phải thực hiện đồng bộ các biện pháp cơ bản sau : 3.1 Giảm chi phí nguyên vật liệu trong giá thành : - Đối với các khoản chi phí về nguyên vật liệu thông thường là những khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nhẹ khoản mục này thường chiếm từ 70-80%, nếu tiết kiệm khoản chi phí này sẽ có tác dụng rất lớn đến hạ giá thành sản phẩm. - Đối với khoản chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm có thể được xác định theo công thức : Trong đó : CV : là chi phí nguyên vật liệu trong giá thành SI : là sản lượng sản xuất của một loại sản phẩm. `Mi : là mức tiêu hao bình quân của từng loại nguyên vật liệu. Gi : là đơn giá của nguyên vật liệu xuất dùng. F : Giá trị phế liệu thu hồi ( nếu có ). Từ đó, ta thấy chi phí nguyên vật liệu phụ thuộc vào 4 nhân tố sau : sản lượng sản xuất, đơn giá vật liệu, mức tiêu hao bình quân của từng loại nguyên vật liệu và giá trị phế liệu thu hồi. Do vậy, để giảm chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm ta phải thực hiện các biện pháp sau : - Giảm mức tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm là một nhân tố quan trọng để tiết kiệm vật tư trong quá trình sản xuất, song muốn khai thác triệt để nhân tố này ta phải phân tích nguyên nhân làm tăng ( giảm ) mức tiêu hao nguyên vật liệu từ đó đề ra các biện pháp nhằm tiết kiệm vật tư cho sản xuất. Mức tiêu hao vật tư trong một đơn vị sản phẩm bị tác động bởi vậy các nhân tố sau : + Chất lượng vật tư. + Tình hình trang bị kỹ thuật. + Trình độ lành nghề của công nhân. + Phế liệu trong sản xuất. + Trọng lượng thuần tuý của sản phẩm. Để thực hiện được vấn đề này doanh nghiệp cần phải tập trung giải quyết các vấn đề hợp lý hoá sản xuất, cải thiện kỹ thuật nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng máy móc thiết bị, coi trọng hạch toán nguyên vật liệu, xây dựng chế độ thưởng phạt thích đáng để kích thích việc tiết kiệm nguyên vật liệu. Phải xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật như các định mức về tiêu hao vật phù hợp với doanh nghiệp và đặc điểm kinh tế kỹ thuật cho phép. - Sử dụng nguyên vật liệu thay thế, việc lựa chọn nguyên vật liệu thay thế được tiến hành cả trong khâu cung ứng và khâu thiết kế chế tạo sản phẩm. Đây là, phương hướng cơ bản, qaun trọng ở nước ta hiện nay, cho phép sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước từ đó làm giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, tiết kiệm ngoại tệ. Việc thay thế nguyên vật liệu ngoại nhập bằng nguyên vật liệu trong nước tuy chất lượng không bằng hàng nhập nhưng đảm bảo được mức sản xuất cao hơn do vậy năng lực sản xuất của doanh nghiệp cao hơn. Tuy nhiên, việc thay thế phải đảm bảo tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp và đặc biệt là phải đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu công nghệ chế biến. - Xoá bỏ mọi hao hụt, mất mát, hư hỏng nguyên vật liệu do nguyên nhân chủ quan gây ra phải tổ chức sử dụng vốn lưu động một cách hợp lý và có hiệu quả thông qua đó phát hiện những nguyên nhân làm hao hụt, hư hỏng, mất mát, cần tiết kiệm chi phí thu mua, vận chuyển, bao gói, bốc dỡ và bảo quản vật liệu trong kho và cấp phát nguyên vật liệu. - Giảm giá nguyên vật liệu khi đưa vào sản xuất, giá nguyên vật liệu xuất dùng, giá nguyên vật liệu xuất dùng bao gồm chi phí thu mua nguyên vật liệu và giá mua vật liệu chịu sự ảnh hưởng của tình hình cung cấp nguyên vật liệu trên thị trường, chi phí bốc xếp, vận chuyển bốc dỡ và chi phí bảo quản. 3.2 Giảm chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm Trong tổng giá thành sản phẩm, chi phí nhân công cũng là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng đáng kể, do đó tiết kiệm chi phí nhân công sẽ tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Chi phí nhân công là các khoản thù lao phải trả cho người lao động như tiền lương, tiền công, tiền thưởng và các khoản phải trả khác theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đã đóng góp, trong đó chi phí nhân công trực tiếp ( chủ yếu là tiền lương ) chiếm tỷ trọng lớn và được xác định như sau : Trong đó : CL : là tổng chi phí tiền lương trong giá thành GTS : là giá trị sản lượng sản phẩm `NCN : là năng suất lao động bình quân của một công nhân. `TL : là tiền lương bình quân của một công nhân. Để tiết kiệm chi phí nhân công doanh nghiệp phải tự xây dựng đơn giá tiền lương phù hợp, đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động bình quân nhanh hơn tốc độ tăng của tiền lương bình quân. - Đối với người lao động, năng suất lao động phụ thuộc vào các nhân tố sau : + Các yếu tố gắn với bản thân người lao động như kỹ năng, kỹ xảo, cường độ lao động, trạng thái sức khoẻ, thái độ và kỷ luật lao động. + Các yếu tố thuộc về quản lý con người như phân công lao động, hiệp tác lao động, tạo động lực trong lao động ( tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp... ). - Đối với mỗi doanh nghiệp để tăng năng suất lao động các doanh nghiệp phải thực hiện tốt các giải pháp sau : + Tổ chức tốt bộ máy và mạng lưới công tác tổ chức lao động của doanh nghiệp, trong các bộ phận sản xuất cuả doanh nghiệp cần xác định cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ, mối quan hệ giữa chúng với các bộ phận chức năng khác nhằm khai thác mọi tiềm năng về sức người, sức của ( NVL, nhà xưởng, máy móc thiết bị, tiền vốn ) để phát triển sản xuất tăng năng suất lao động, cải thiện đời sống tinh thần, lập ra bộ phận chịu trách nhiệm về tổ chức lao động. Đảm bảo việc phân tích đánh giá tình hình, trình độ tổ chức lao động nói chung trong doanh nghiệp, trong các bộ phận của doanh nghiệp, ở từng nơi làm việc để so sánh với thực tế đạt được so với kế hoạch đã đề ra, phát hiện những khâu yếu nhất trong quản lý sản xuất, trên cơ sở đó thiết lập áp dụng các biện pháp cho phép quá trình lao động của người lao động được tiến hành thuận lợi, có hứng thú làm việc, năng suất lao động cao. - Kế hoạch hoá công tác tổ chức lao động trong từng doanh nghiệp, tính hiệu quả của các tổ chức trước và sau khi áp dụng. Đối với từng nơi làm việc cần quan tâm đến những vấn đề sau : + Thiết kế các phương pháp thao tác lao động hợp lý + Bố trí và trang bị hợp lý nơi làm việc + Tư thế thuận lợi cho người lao động trong khi làm việc -Tổ chức kế hoạch lao động ở phân xưởng cần quan tâm đến những biện pháp trên và mang tính chất chung cho cả phân xưởng như : + Cải tiến việc phân công và hợp tác lao động + Hoàn thiện việc tổ chức phục vụ nơi làm việc + Cải thiện các điều kiện lao động + Bố trí hợp lý mặt bằng sản xuất Tổ chức kế hoạch lao động ở phân xưởng cần quan tâm đến những biện pháp trên và mang tính chất chung cho toàn doanh nghiệp như : + Những biện pháp nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật chuyên môn cho cán bộ, công nhân + Hoàn thiện định mức và khuyến khích vật chất + Cải thiện tổ chức sản xuất ( tăng khối lượng sản phẩm cùng loại, chuyên môn hoá các bộ phận sản xuất, cải tiến cầu quản lý ) áp dụng các tiến bộ KHKT và công nghệ vào sản xuất nâng cao trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, xoá bỏ mọi hao phí vô ích và tổn thất về thời gian lao động. 3.3 Giảm chi phí sản xuất chung trong giá thành sản phẩm Trong giá thành sản phẩm chi phí sản xuất chung chiếm một khoản đáng kể do vậy giảm chi phí sản xuất chung sẽ góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí cần thiết còn lại để sản xuất ra sản phẩm sau chi phí nhân công trực tiếp và chi phí NVL trực tiếp phát sinh ở các phân xưởng, t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36858.doc