Mục lục
Lời nói đầu
Nội dung chính
I.Sự cần thiết đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân
II.Cơ sở thực tiễn nhằm đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân
III. Phương hướng tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển
Kết luận
Lời nói đầu
Trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam mang hình thức kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Điều đó làm trì trệ nền kinh tế vì đây là một mô hình hành chính áp đặt
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương hướng tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào đời sống. Dưới áp lực của chuyên chính, có thể các thể chế của kinh tế thị trường và các hình thức bên ngoài của các loại hình hình tế tư nhân có thể bị xoá bỏ xong bản thân tiến trình nội sinh của kinh tế thị trường lại không bị xoá bỏ.Nghĩa là mầm mống kinh tế tư nhân vẫn sinh sôi, nảy nở, nó là nền tảng kinh tế thị trường và kinh tế thị trường là bộ máy kinh tế cần thiết, tất yếu của sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.Chính vì thế trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế chậm phát triển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chính sách đúng đắn, đặc biệt sự phát triển thành phần kinh tế tư nhân là một mục tiêu quan trọng, ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu thành phần kinh tế. Vì vậy, Đại hội VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định đổi mới nền kinh tế nhằm đưa kinh tế thoát khỏi trạng thái suy thoái, bế tắc và khủng hoảng, điều cơ bản là thay đổi trong phương thức, mô hình phát triển kinh tế. Đồng thời thấy được sự sai lầm trong việc xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần và thành phần kinh tế tư nhân bởi vì xét cho cùng chuyển sang nền kinh tế thị trường tức là chuyển sang tiến trình kinh tế trong đó kinh tế tư nhân là nền tảng và rốt cuộc là thừa nhận quy luật tổng quát của sự phát triển: quy luật tăng thêm của giá trị.
Đối với sinh viên chúng ta việc học tập, nghiên cứu khoa học, thực tiễn đời sống là rất cần thiết. Tôi chọn đề tài này vì để có một cái nhìn tổng quát, toàn diện nền kinh tế đất nước. Ngoài ra còn thấy vấn đề: “Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân là một vấn đề đáng quan tâm” là một vấn đề đáng quan tâm. Ngoài ra, chúng ta với cương vị là những người chủ tương lai của đấy nước tiếp nhận và mở mang thêm nhiều kiến thức, rút ra những kinh nghiệm, hiểu rõ những ưu điểm và sai lầm, yếu kém mà thực tế kinh tế Việt Nam đang còn nhiều vấn đề nan giải. Để rồi chúng ta thực hiện mục tiêu, định hướng phát triển: xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hợp lý, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển để phát triển một nền kinh tế vững chắc.
Nội dung chính
I.Sự cần thiết đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
1.Khái niệm kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân là một trong sáu thành phần kinh tế của nước ta hiện nay: kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức trong đó hợp tác xã là nòng cốt, kinh tế cá thể và tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài, kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề nào pháp luật không cấm, kinh tế tư bản nhà nước phát triển đa dạng dưới nhiều hình thức liên kết, liên doanh; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được tạo môi trường phát triển thuận lợi. Như vậy kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường của Việt Nam, góp phần thực hiện công nghiệp hoá đất nước ( Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ).
Trước những năm 1980, ở nước ta kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển và là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mệnh lệnh hành chính. Trong thời gian này, nền kinh tế nước ta chỉ có hai hình thức kinh tế chính: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể, kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ tồn tại chủ yếu dưới dạng phụ thuộc vào kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước, còn kinh tế tư bản tư nhân hoặc đã chuyển thành kinh tế tập thể, hoặc kinh tế nhà nước hay công ty hợp doanh.
Kể từ khi thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế, nhất là từ sau đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng(1986), kinh tế tư nhân đã đuợc hồi sinh trở lại và mở rộng qui mô, phạm vi hoạt động khá nhanh chóng.
Nhìn một cách tổng quát, khu vực kinh tế tư nhân như đã trình bày ở trên bao gồm các hình thức kinh tế sau đây:
Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao độnh làm thuê.
Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành; hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ, qui mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công tỷtách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theoluật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty.
Như vậy kinh tế tư nhân là một khái niệm hình thành từ hoạt động thực tiễn gắn liền với tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa những loại hình kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.Trong điều kiện của kinh tế tư bản cổ điển, sự xác lập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện ra ở sự xác lập của kinh tế tư bản tư nhân, và sự thắng lợi của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự xác lập và thắng lợi của hệ thống kinh doanh tư bản chủ nghĩa với các chủ thể tư bản tư nhân. ở đây, có thể nói tư bản tư nhân là đại biểu kinh tế của kinh tế hàng hoá phát triển, của phương thức sản xuất tư bản công nghiệp, là hình thái kinh tế dặc trưng quyết định của kinh tế công nghiệp phát triển cổ điển. Điều này có nghĩa là quá trình tiến hoá của kinh tế thị trường dẫn đến kinh tế tư bản tư nhân với các chủ thể là các nhà tư bản tư nhân.
Đại hội VI(12-1986) Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định đổi mới nền kinh tế. Công cuộc đổi mới này đã dược trực tiếp đặt ra nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi trạng thái suy thoái, bế tắc và khủng hoảng, điều cơ bản là thay đổi trong phương thức , mô hình phát triển kinh tế. Thực chất của sự đổi mới kinh tế là chuyển sang kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và xét cho cùng chuyển sang nền kinh tế thị trường tức là chuyển sang tiến trình kinh tế trong đó kinh tế tư nhân là nền tảngvà rốt cuộc là thừa nhận quy luật tổng quát của sự phát triển: qui luật tăng thêm giá trị.
2.Vai trò lịch sử kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế.
“Kinh tế tư nhân với tư cách là những “mảnh” của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa xã hội sẽ còn chung sống với các “mảnh” xã hội chủ nghĩa mới được khai sinh và lớn dần lên trong một xã hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Mac_LêNin). Kinh tế tư nhân với những mặt mạnh và mặt yếu của chúng đang ngày càng được quan tâm, phát triển.Kinh tế tư nhân cơ thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trọng trong nền kinh tế, ngoại trừ một số ít lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền nhằm đảm bảo an ninh-quốc phòng. Sự phát triển của kinh tế tư nhân có vai trò lớn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, dã và đang tiếp tục có những đóng góp tích cực trong việc: góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế chung, đổi mới bộ mặt kinh tế-xã hội, tạo ranhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. Ngoài ra nó còn là lĩnh vực chính thu hút nhiều lao động xã hội và huy động các nguồn vốn trong dân cư vào phát triển kinh tế.
Mặt mạnh chủ yếu của khu vực kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân mạnh mẽ, mà với nó hoạt động kih doanh diễn ra năng động, nhanh chóng đổi mới, hệ thống điều hành và quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả và chi phí thấp. Lợi ích cá nhân là một động lực mạnh mẽ của con người, tồn tại lâu dài. Việc sử dụng động lực đó phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là việc làm cần thiết và khôn ngoan nhẩttong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.1.Kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, qui mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, qui mô kinh tế lớn thì bóc lột nhiều nên một thời kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển, là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bứơc thu hẹp và xoá bỏ khu vực kinh tế này.
Cùng với quá trình đổi mới, các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã thay đổi khá căn bản: kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể đựơc khuyến khích phát triển, kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố được phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, xong trong nhận thức lý luận của các cấp hoạch dịnh chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chưa nhất quán. ít nhất có bốn quan điểm khác nhau về vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế và thái độ ứng xử với kinh tế tư nhân như sau:
Coi kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Đây là quan diểm đã từngchiếm vị trí thống trị trong nhiều năm trước đây.
Coi kinh tế cá thể và tiểu chủ là không có bóc lột nên có thể khuyến khích phát triển, còn kinh tế tư bản tư nhân là có bác lột nên có thể tạm thời chấp nhận trong một giai đoạn nào đó, xong về lâu dài phải giới hạn sự phát triển.
Coi kinh tế tư nhân là bộ phận cần thiết có vai trò và vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế và có mối liên kết bổ sung hài hoà với kinh tế nhà nước trong quá trìng phát triển lâu dài của nền kinh tế.
Coi kinh tế tư nhân là bộ phận chính, là động lực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, quyết định rất lớn đến hiệu quả cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế. Tronh khi đó kinh tế nhà nước đóng vai trò hỗ trợ, chỉ làm nhữnh gì mà kinh tế tư nhân không muốn làm hoặc làm không hiệu quả .
2.2.Kinh tế tư nhân và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, các chính sách và biện pháp kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước phải nhằm tạo lập môi trường kinh tế mới, thích hợp trong đó mọi cá nhân có thể phát huy tài năng cuă mình làm giàu cho bản thân và cho đất nước.
Việc chấp nhận quan hệ trao đổi hàng hoá sức lao động và chấp nhận sụ phân phối chưa cân bằng là phù hợp với qui luật của kinh tế thị trường- dù điều này xét về mặt luân lý và đạo đức là điều mà chúng ta không mong muốn.
Tuy nhiên, nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch về thu nhập và về sự bóc lột sức lao động. Trong quan hệ mua bán sức lao động, nhà nước thông qua luật lao động : tiền lương, giờ làm việc, điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động…. Tương tự như vậy trong quan hệ phân phối và phân phối lại thu nhập. Nhà nước hoàn có thể thông qua việc xác định thể chế thuê mướn lao động, hợp đồng tiền lương, trả công lao động…để trả lại một phần giá trị thặng dư cho người lao động đã tạo ra nó. Như vậy, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa chủ và nghười làm thuê đã được nhà nước qui định và giám sát. Đó là chưa kể vai trò kiểm tra, kiểm soát của các tổ chức như Đảng, Công Đoàn, Nữ Công…đối với hoạt động của giới chủ và người lao động.
Tất cả những điều trêncho thấy giữa các doanh nghiệp tư bản tư nhân trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ chủ nghĩa có sự khác nhau căn bản. Vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư bản tư nhân hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do đó là đối tượng cải tạo của chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư bản tư nhân sẽ có đóng góp quan trọng, lâu dài vào sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một nước đi theo chủ nghĩa xã hội, Trung Quốc luôn quan tâm đến sự phát triển của kinh tế tư nhân.Thực vậy, trong nhiều năm qua mặc dù chỉ là bộ phận mang tính chất bổ sung, xong kinh tế tư nhân ở Trung Quốc đã có vai trò, tác dụng và hiệu quả to lớn làm tăng trưởng mạnh mẽ nền kinh tế quốc dân, đồng thời còn góp phần mở ra một môi trường tốt đẹp cho việc khai thác, phát triển thị trường và thúc đẩy kinh tế công hữu nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân phát triển đã hình thành nên những quan niệm mới về kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân phát triển đã dần có sự liên kết chặt chẽ với nền kinh tế thị trường, tạo môi trường vật chất và xã hội rộng lớn, đưa quan niệm kinh tế thị trường đi sâu vào đời sống hiện đại. Do đó, nó là tiền đề đưa yếu tố thị trường vào lĩnh vực tư tưởng và hoạt động kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Kinh tế tư nhân còn là chủ thể tự nhiêncủa kinh tế thị trường, là nòng cốt của kinh tế thị trường. Mặt khác kinh tế tư nhân không ngừng bổ sung để hoàn thiện cơ cấu thị trường, hoàn thiện thị trường hàng hoá và thị trường sức lao động, khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Và kinh tế tư nhân có vai trò bổ sung cần thiết không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa.
3.Đặc điểm kinh tế tư nhân.
Một đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân là: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ thuộc kinh tế tư nhân nhìn chung nhỏ bé. Sản xuất kinh doanh phần lớn chỉ là tái sản xuất giản đơn, khả năng tích luỹ, mở rộng thành doanh nghiệp qui mô lớn là khó khăn. Xong, nó đóng vai trò quan trọng trong viẹc giải quyết việc làm, huy động nguồn lực nhỏ phân tán trong dân cư….Những doanh nghiệp có mức vốn ít chiếm số lượng nhiều. Năm 1992, với số lượng 1.498.601 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ đã sử dụng 2.577.611 lao động và huy động 14.400 tỷ đồng vốn, tạo ra 16.529 tỷ dồng doanh thu, tính bình quân một cơ sở sản xuất kinh doamh có 9 triệu đồng tiền vốn, sử dụng 1,7 lao động, tạo ra 11 triệu đồng doanh thu. Năm 1996, số lượng 2.215.000 cơ sở nhưng qui mô bình quân của một cơ sở hầu như không đổi so với bình quân chung năm 1995 ( vốn kinh doanh 11 triệu đồng, lao dộng 1,9 người, doanh thu 17 triệu đồng ). Như vậy, một cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu chủ ở nước ta về qui mô có những đặc điểm: vốn sản suất kinh doanh khoảng 11 triệu đồng, sử dụng 3,3 lao động (kể cả chủ) ở nông thôn và 6,3 lao động ở thành phố (1996). Doanh thu hàng năm khoảng 18 triệu đồng….Có thể những số liệu trên chưa phản ánh đầy đủ, nhưng cũng cho thấy phần nào thực trạng qui mô vốn, lao động, doanh thu….của loại hình cá thể tiểu chủ ở nước ta, nhìn chung là nhỏ bé. Nó không phải là loại hình kinh tế chủ yếu để làm giầu, nhưng lại cần thiết cho bước quá độ sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay nhất là trong phát triển sản xuất, hình thành các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ và đội ngũ lao động cho nền kinh tế thị trường. Về tốc độ tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân với số lượng không đều: Các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ cũng không đều, tăng cao vào năm 1994 với mức tăng 60% so với năm 1993, nhưng các năm tiếp théôc tốc độ tăng giảm dần, đạt bình quân khoảng 37%/năm ( 1994-1997 ), giảm còn 4%/năm(1998). Xét về só lượng cơ sở sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp tư bản tư nhân có tốc độ gia tăng mạnh và cao hơn so với các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ khoảng gần 3 lần. Kinh tế tư nhân được đánh giá là có tốc độ phát triển khá nhanh và cao hơn so với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể nhưng kém hơn so với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mức tăng trưởng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong ngành công nghiệp giai đoạn 1990-1995 khoảng 11% nhưng bắt đầu từ năm 1997 có biểu hiện suy giảm xuống còn 9% và năm 1998 còn 6,7%, năm 1999 còn giảm mạnh hơn. Bình quân chung mức tăng trưởng của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là khoảng 10% hàng năm, cao hơn khu vự kinh tế nhà nước nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ có tốc độ phát triển và tăng trưởng nhanh nên khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp ngày càng quan trọng vào GDP của nền kinh tế: từ 102.468 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 151.388 tỷ đồng năm 1998, chiếm tỷ trọng 41,06% GDP. Như vậy, toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân(kể cả lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp) là đóng góp rất đáng kể của toàn bộ khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân ở nước ta trong thời kì đổi mới.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tốc độ phát triển của khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta đã có dấu hiệu chững lại vào năm 1997 sau một thời gian phát triển có thể nói là khá ngoạn mục. Điều này thể hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP của từng loại hình kinh tế nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Sự suy giảm của khu vực kinh tế tư nhân một mặt là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, đây được coi là nguyên nhân trực tiếp trước mắt, còn nguyên nhân sâu xa bên trong lại do cơ chế chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước tỏ ra chưa phù hợp với đòi hỏi của khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời do những hạn chế về năng lực nội tại của bản thân khu vực kinh tế tư nhân.
II.Cơ sở thực tiễn nhằm đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
1.Những kết quả đạt được của khu vực kinh tế tư nhân.
Kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(tháng 12/1986) và nhất là kể từ năm 1990 khi nhà nước ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân có hiệu lực từ năm 1991 thì kinh tế tư nhân đã được chú ý và có điều kiện phát triển. Nếu như năm 1991 có 494 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần thì đến năm 1995 đã có 15276 doan nghiệp và đến năm 1999 số doanh nghiệp được thành lập đã lên đến 30500 doanh nghiệp, tăng gấp 74 lần so với năm 1991, tính bình quân giai đoạn 1991-1999 mỗi năm tăng 3388 doanh nghiệp. Đến năm 2000 là năm áp dụng luật doanh nghiệp mới( trên cơ sở hợp nhất luật công ty và luật doanh nghiệp có sửa đổi) ban hành ngày 12/6/1999 và có hiệu lực từ 1/1/2000, số doanh nghiệp đăng ký thành lập trong năm là 14443 với tổng số vốn đầu tư là 24000 tỷ đồng chiếm 16% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Nhà nước không phải bận tâm về vốn kinh doanh của khu vực tư nhân vì họ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước toà án và với đối tác hợp đồng làm ăn của họ. Ngoài ra, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân trong những năm qua đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu huy động tiềm lực vốn trong nước để thúc đẩyphát triển kinh tế.
Tính đến cuối năm 1996, kinh tế tư bản tư nhân đã huy động lượng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh gần 21000 tỷ đồng. Theo báo cáo của bộ tài chính, vốn điều lệ của các doanh nghiệp này đã tăng từ 70,5 tỷ đồng năm 1991 lên gần 12000 tỷ đồng vào cuối năm 1996. Chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh, đến tháng 6/1996 đã có 7260 doanh nghiệp tư bản tư nhân được cấp giấy phép kinh doanh với số vốn pháp định là 6927 tỷ đồng. Trong thời kì 1991-1996, bình quân mỗi năm vốn kinh doanh của kinh tế tư bản tư nhân tăng thêm 3940 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội.
Kinh tế tư nhân đã tạo ra việc làm, toàn dụng lao động xã hội. Thực vậy, sự phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta trong thời gian qua đã đóng góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người lao động.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia tích cực và có hiệu quả đối với vấn đề giải quyết việc làm. Tính đến năm 1996 đã giải quyết việc làm cho 4.700.742 lao động, chiếm gần 70% lực lượng lao đọng xã hội trong khu vực sản xuất phi nông nghiệp. Xét ở góc độ giải quyết việc làm thì đây là khu vực có tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư cao nhất trong nền kinh tế. Nếu như khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực có sự tăng trưởng mạnh, trong thời gian qua đã thu hút được 208000 lao động, thì riêng kinh tế tư bản tư nhân năm1996 đã giải quyết việc làm cho 370742 lao động. Mặt khác doanh nghiệp tư bản tư nhân còn thu hút 20 lao động trên một tỷ đồng tiền vốn, kinh tế cá thể thu hút 165 lao động trên 1 tỷ dồng tiền vốn. Những con số này tuy so với hơn 30 triệu lao động nước ta không nhiều nhưng rất có ý nghĩa đối với việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân lao động. Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước chỉ thu hút được 11,5 lao động trên 1 tỷ đồng tiền vốn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 1,7 lao động trên 1 tỷ đồng tiền vốn. Riêng các doanh nghiệp tư bản tư nhân trong 5 năm(1991-1996) tuy số vốn huy động chưa lớn nhưng bình quân mỗi năm giải quyết thêm khoảng 72020 việc làm, năm 1996 cả nước có 336146 người đang trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Năm 1997 là 428009 lao động, năm 1998vào khoảng 497480 lao động ( tăng 16,2% so với năm 1997) chiếm 1,3% tổng số lao động toàn xã hội. Riêng khu vực hộ gia đình nông dân, năm1995 đã thu hút 30.820.224 lao động, chiếm 88,93% lao động xã hội. Nếu gộp với 1,3% số lao động trong khu vực doanh nghiệp tư bản tư nhân thì tốngr số lao động thuộc kinh tế tư nhân chiếm 90,1% tổng số lao động toàn xã hội(khu vực nhà nước chỉ giải quyết việc làm cho khoảng 9% tổng số lao động xã hội và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 0,67% tổng lao động toàn xã hội). Qua đó ta càng thấy rõ đay là một khu vực kinh tế có vai trò thực sự quan trọng trong việc tạo việc làm cho lao động xã hội cả ở hiện tại và trong tương lai. Đồng thời, các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã tạo ra thu nhập ổn định cho người lao động trong khu vực này. ở thành phố Hồ Chí Minh, thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân khoảng 500.000 đến 600.000 đồng/1 tháng, ở Hà Nội là 400.000 đến 500.000 đồng/1tháng.
Kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưỏng nền kinh tế. Phát triển kinh tế tư bản tư nhân đã tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc làm cho lao động xã hội, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân còn đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm xã hội. Năm 1995, khu vực tư nhân đóng góp 43,50% GDP, trong đó hộ gia đình và nông dân chiếm tỷ trọng 35,95% GDP, khối tư bản tư nhân chiếm 7,5%GDP. Mặc dù các năm 1996,1997 có sự giảm sút nhưng năm 1998 khu vực này vẫn chiếm tỷ trọng 41,1%GDP, trong đó: hộ gia đình và nông dân chiếm 33,6%GDP, khu vực tư bản tư nhân chiếm trên 50%GDP cả nước. Nhờ vậy, khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc đọ tăng trưởng cao trên 8%/năm liên tục trong giai đoạn 1992-1997, và đỉnh cao đạt 9,5% vào năm1995.
Không chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần quan trọng tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, xã hội đặt ra. Nguồn thu ngân sách từ các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã tăng lên đáng kể trong những năm qua từ 51 tỷ đồng năm 1991 lên 1475 tỷ đồng năm 1996. Nếu năm 1990 khu vực kinh tế ngoài quốc doanh( không kể kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) nộp ngân sách (qua thu thuế) là 969 tỷ đồng chiếm 2,3%GDP, thì đến năm 1998 đã tăng lên 11086 tỷ đồng chiếm 3,5%GDP, tính ra bình quân hàng năm khu vực ngoài quốc doanh đóng góp vào nguồn thu ngân sách trên dưới 3%GDP của cả nước, cao gấp trên 3 lần đóng góp của khu vực liên doanh với nước ngoài( 0,9%GDP/năm) và gần bằng một nửa đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào nguồn thu ngân sách nhà nước hàng năm( khoảng 7%GDP/năm). Tính riêng các doanh nghiệp tư bản tư nhân: năm 1991 đóng góp cho ngân sách nhà nước được 51 tỷ đồng, năm 1996 tăng lên 1457 tỷ đồng(tăng gần 300 lần). Tại thành phố Hồ Chí Minh, trong những năm 1995-1996 khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp khoảng 50% ngân sách địa phương. Thực tế cho thấy địa phương nào chú ý khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này đều tự cân đối được ngân sách. Tuy so với khu vực kinh tế nhà nước, tỷ trọng của kinh tế tư bản tư nhân trong tổng thu ngân sách nhà nước còn thấp xong khu vực kinh tế tư nhân đã và đang có những đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách và tăng tiềm lực cho nền kinh tế.
Thực hiện mục tiêu lớn nhất của Đảng và nhà nước ta là: “lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, năng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh”, huy động sức mạnh tổng lực của nền kinh tế cho phát triển đất nước, xây dựng nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, thì chính sách phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân những năm qua đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu đó. Nhìn một cách tổng thể, sự hồi sinh và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong những năm đổi mới vừa qua đã mang lại nhiều kết quả kinh tế xã hội to lớn, mà nổi bật là:
1.1.Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm.
Kinh tế tư nhân đã huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ tuy qui mô nhỏ nhưng với số lụơng cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh: từ 14000tỷ đồng năm 1992 đã tăng lên 26500 tỷ đồng vào năm 1996, chiếm tới 8,5% tổng vốn đầu tư sản xuất của toàn xã hội. Ta thấy được sự tăng lên của vốn đầu tư và qui mô của nó. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động được lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỷ đồng(tình đến hết năm 1996), bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1991- 1996 tăng thêm 3940 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các ngành. Tính đến thời điểm năm 1996, khu vực kinh tế tư nhân đã huy động được tổng lượng vốn lên đến 47155 tỷ đồng, chiếm tới 15% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội. Mặc dù trong nhữn năm đổi mới vừa qua với chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài của nhà nước đã thu hút thêm nguồn vốn FDI ngày một tăng( từ 13,7% tổng số vốn đầu tư phát triển của nhà nước năm 1990 lên đến trên 35% năm 1998) nhưng khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư phát triển rất đáng kể cho nền kinh tế: 49% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 và trên 21% năm 1998, tức là chiếm trên 1/5 tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội-là một tỷ trọng không nhỏ.
1.2.Kinh tế tư nhân đã thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế, tăng qui mô của kim ngạch xuất khẩu.
Trứơc đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh…đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác thì khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia. Trong đó nhiều lĩnh vực, ngành nghề khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm;nuôi trồng hải sản, đánh cá; lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ; chế biến; sành sứ; giầy dép….Lĩnh vực sản xuất lương thực đặc biệt là xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ hải sản, lĩnh vực dệt may, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…đã mang về hàng tỷ đô la ngoại tệ cho nền kinh tế,trong đó có đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân. Chính sự phát triển phonh phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh…của khu vực kinh tế tư nhân đã tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp nhà nước buộc các doanh nghiệp nàh nước phải cải tổ, sắp xếp lại để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Như vậy, phát triển kinh tế tư bản tư nhân sẽ tăng cường lực lượng kinh tế dân tộc và cùng với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt với kinh tế nhà nước tạo thế và lực làm đói trọng với tư bản nước ngoài trong việc bảo đảm sự phát triển dộc lập của nền kinh tế. Đến nay đã có 59 doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữư hạn, công ty cổ phần là đối tác trong liên doanh với nước ngoài có số vốn đầu tư theo giấy phép gần 146 triệu USD. Một số doanh nghiệp đã và đang chuẩn bị phương án liên doanh với nhà nước. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và xác lập vai trò, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài.
Không những thế, kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng qui mô của kim ngạch xuất khẩu. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã khơi dậy nhiều ngành nghề truyền thống trong các ngành, vùng địa phương, đã tạo ra nhiều chủng loại đa dạng, phong phú và cung cấp nhiều hơn hàng hoá phục vụ xuất khẩu. Chỉ tính riêng năm 2000, con số thống kê của tổng cục hải quan, kinh ngạch xuất nhập khẩu đã tăng khá: xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD, nhập khẩu đạt 3,336 tỷ USD. Thông qua việc mở rộng sản xuất, năng cao sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện kinh tế đất nước ngày càng tham gia đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra mạnh mẽ hơn. Những ngành sản phẩm có khả năng cạnh tranh, khai thác được lợi thế so sánh ở các vùng, miền đựơc chú trọng phát triển. Nhờ đó khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung cũng được tăng lên, các nguồn lực đầu tư cho phát triển được khai thác có hiệu quả hơn. Từ đó xuất hiện các cơ sở kinh doanh điển hình làm ăn giỏi, đời sống người lao động ngày càng được nâng lên, giải quyết nhiều chỗ việc làm cho xã hội
1.3.Bên cạnh đó, qua thực tiễn ta thấy kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, trong các ngành nghề và các vùng kinh tế đất nước.
Trong nông nghiệp, nếu như năm 1990 số lượng các hộ cá thể có khoảng trên 9,4 triệu hộ thì đến năm 1995 đã lên tới 11.974.595 hộ hoạt động trên gần 9000 xã trong khắp 7 vùng simh thái. Trong đó số hộ nông nghiệp chiếm 79,58%, hộ lâm nghiệp chiếm 0,15%, hộ thuỷ sản chiếm 1,92%, hộ công nghiệp chiếm 1,34%, hộ dịch vụ chiếm 1,18%, còn lại là các hộ khác. Trong số các hộ đó, nhóm hộ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất(79,58%), nếu ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0315.doc