Phương hướng & những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Lời Nói Đầu Hình thành và phát triển một chiều dài lịch sử trên bốn trăm năm, thị trường chứng khoán là một thực thể tài chính tồn tại phổ biến trong hầu hết ở các quốc gia trên thế giới. ở Việt Nam trong bước chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, dù mới mẻ và hết sức phức tạp, vấn đề xây dựng thị trường chứng khoán đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế. Đến nay, theo nhận định của các nhà kinh tế

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, không còn nghi ngờ gì nữa, thị trường chứng khoán là chiếc chìa khoá vàng" giúp giải quyết một cách hữu hiệu vấn đề huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thị trường chứng khoán là một hoạt động phát triển mạnh ở hầu hết các nước có cơ chế thị trường, là nơi huy động đồng tiền nhàn rỗi của mọi người trong xã hội phục vụ nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp. Đã manh nha việc ra đời trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ khai trương hoạt động vào cuối quý 3 đầu quý 4 năm nay. Dẫu sao cũng là một điều đáng mừng, nền kinh tế Việt Nam đã tiến nhanh, tiến mạnh, tiến sâu vào nền kinh tế thị trường, từng bước hội nhập nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Ngày 11.7.1998 Chính phủ đã ban hành "Nghị định về chứng khoán và thị trường chứng khoán" đặt nền móng cho một thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Làm thế nào để nhận định đúng được thị trường chứng khoán, giảm đến mức tối thiểu những thất bại, xây dựng được thị trường chứng khoán hoạt động thành công vững chắc ở Việt Nam hay không? Đã có rất nhiều sách báo đề cập đến các khía cạnh của vấn đề này. ở đây đề án cập nhật đến những điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. Kết cấu đề án gồm có 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán. Chương II: Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Chương III: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Chương I Những vấn đề cơ bản thị trường chứng khoán. I - Khái niệm và vai trò của chứng khoán. 1. Chứng khoán là gì? Hiện nay, Chính phủ đang tổ chức nghiên cứu xây dựng luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời và hoạt động lành mạnh của thị trường chứng khoán ở nước ta. Vậy thị trường chứng khoán là gì? Thị trường chứng khoán không phải là các hoạt động giao lưu hàng hoá thông thường. Nó giao lưu một loại hàng hoá khác, loại hàng hoá này không có công năng hoặc giá trị sử dụng - hàng hoá ở đây là các chứng khoán - một loại chứng thư ghi nhận một số tiền đầu tư dưới dạng vốn góp (cổ phiếu) hay cho vay (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu...) với mục đích kiếm lời. Sự ra đời của trái phiếu và cổ phiếu bắt nguồn từ nhu cầu huy động vốn của Nhà nước, của các công ty và nhu cầu đầu tư vốn của các hộ gia đình và các thể chế khác như các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm... Một điều hiển nhiên là trong mỗi gia đình, dù giàu có hay bình thường đều phải có những khoản tiết kiệm nhất định để dùng cho các nhu cầu đột xuất hoặc các nhu cầu lớn đã định trước. Song việc giữ tiền tiết kiệm tại nhà không làm cho người ta yên tâm, phần vì sự thất lạc, phần vì sợ mất giá và do đó họ muốn tìm nơi ẩn náu cho đồng tiền, đồng thời cũng mong muốn cho số tiền đó có thể mang lại những khoản thu nhập nhất định. Các nhà kinh doanh do thiếu vốn nên họ đã kết hợp với hệ thống ngân hàng tổ chức các hình thức huy động tiết kiệm khác nhau, với những mức độ rủi ro khác nhau để thu hút tất cả số tiền tiết kiệm rải rác ở các hộ gia đình. Các hình thức đó rất đa dạng : Gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Nhà nước, trái phiếu địa phương, trái phiếu công ty, mua cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường hoặc trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu... Tất cả các hình thức này đều có thể lựa chọn cho đồng tiền tiết kiệm trú ngụ và khi không thích thì có thể rút ra và tìm nơi trú ẩn khác bằng cách tham gia vào thị trường chứng khoán. Người ta phân biệt hai loại thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán cấp I (hay sơ cấp) xuất hiện khi các công ty thực hiện việc phát hành cổ phiếu lần đầu, khi các tổ chức ngân hàng, kho bạc Nhà nước hoặc các công ty thực hiện việc phát hành trái phiếu lần đầu, và người có tiền đầu tư hay tiết kiệm trực tiếp mua ở nơi phát hành. Thị trường chứng khoán cấp I có tác dụng huy động vốn cho nền kinh tế nhưng chỉ có nó thôi thì sẽ có trở ngại là ngươì mua cổ phiếu khi cần tiền không thể đòi công ty phát hành cổ phiếu trả lại mình số vốn đó còn người mua trái phiếu nếu cần tiền thì cũng phải đợi đến kỳ mới lấy được tiền ra. Vì vậy cần có thị trường chứng khoán cấp II (hay thứ cấp) là thị trường được tổ chức công khai theo pháp luật và quy chế để mua và bán các loại chứng khoán đã được đăng ký. Tuỳ theo tình hình cung và cầu chứng khoán thực tế trên thị trường mà giá từng loại chứng khoán được hình thành. 2. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 2.1. Công khai về giá mua, giá bán, số lượng chứng khoán đưa ra thị trường, giá cả cuối cùng. 2.2. Chứng khoán không mua trực tiếp mà qua khâu trung gian (các công ty chứng khoán). Cần có một lượng tiền nhất định (mở tài khoản mua chứng khoán ở một ngân hàng) để bảo đảm cho người mua, người bán được an toàn, không bị lừa gạt. 2.3. Việc mua, bán chứng khoán theo ưu tiên sau đây: Ưu tiên cho người mua với giá cao và người bán với giá thấp; ưu tiên cho các lệnh mua (hay bán) đến trước. 2.4. Các lệnh mua, lệnh bán tập trung ở một trung tâm điều hành: Sở giao dịch chứng khoán. Những nguyên tắc trên, cùng với luật lệ quy chế về thị trường chứng khoán và công tác thanh tra tại chỗ làm cho người mua và người bán chứng khoán có thể yên tâm. 3. Các chức năng của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Nó xuất hiện từ gần hai thế kỷ nay, khởi đầu từ các nước công nghiệp phát triển và hiện nay đã lan rộng ra hầu khắp các nước theo mức độ khác nhau. Có thể nói trong các lĩnh vực đầu tư trên thế giới hiện nay, thị trường chứng khoán là lĩnh vực thu hút được đông đảo người tham gia nhất, với thời gian nhanh nhất, nó tạo cơ hội thuận lợi và khả năng rộng rãi cho các nhà đầu tư chọn được cách đầu tư có hiệu quả nhất. Thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động lành mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường của ta phát triển nhanh và toàn diện, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn tài chính, bảo đảm cung cấp kịp thời các nhu cầu v ề vốn đầu tư phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ và giảm lạm phát, giảm bội chi ngân sách. Thị trường chứng khoán thực sự là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Nếu xét cụ thể thì có thể thấy thị trường chứng khoán có ba chức năng cơ bản sau: 3.1. Chức năng huy động vốn. Với chức năng này, thị trường chứng khoán được coi là một công cụ tài chính đắc lực cho các doanh nghiệp. Minh chứng cho nhận định này là sự phát sinh, phát triển của các công ty cổ phần ở tất cả các nước. Hình thức cấp vốn thông qua phát hành cổ phiếu là một khả năng vô tận, nó không chỉ giúp xí nghiệp có đủ vốn mà thực sự sẽ đưa xí nghiệp có đủ vốn mà thực sự sẽ đưa xí nghiệp vào một cuộc sống tài chính năng động và hấp dẫn. Nếu xí nghiệp làm ăn tốt, có uy tín thì có thể tiếp tục gọi vốn bằng việc hình thành các cổ phiếu mới. Ngoài ra, xí nghiệp có thể phát hành các loại trái phiếu để vay tiền của công chúng mà không cần đến sự giúp đỡ của tín dụng ngân hàng. Chức năng huy động vốn của thị trường chứng khoán còn gắn với yêu cầu tài trợ cho ngân sách của chính phủ và chính quyền địa phương. Cụ thể chính phủ hoặc chính quyền địa phương sẽ phát hành các loại trái phiếu để huy động tiền trong công chúng giải quyết thâm hụt ngân sách. 3.2. Chức năng công cụ đầu tư. Việc tham gia vào thị trường chứng khoán có một lợi thế đặc biệt: nó vừa là nơi ẩn náu an toàn của tiền tiết kiệm vừa là nơi đồng tiền đó có thể sinh lời. Phần lớn các công cụ của thị trường chứng khoán đều có khả năng mang lại lợi kích kép: đó là lợi ích do thị giá chứng khoán tăng và lợi ích do được hưởng lãi suất. Thị trường chứng khoán là thước đo hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp (thông qua tình hình lên xuống của giá cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp phát hành) và của cả toàn bộ nền kinh tế (thông qua tình hình lên xuống của chỉ số giá chứng khoán trên thị trường). 3.3. Chức năng kích thích cạnh tranh Luật chơi của thị trường chứng khoán khá chặt chẽ, tuy vậy nó thúc đẩy rất mạnh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Giá cổ phiếu trái phiếu của các doanh nghiệp đăng ký trên thị trường chứng khoán đều được đăng ký trên báo và phát trên đài, do đó doanh nghiệp nào cũng phải cố gắng nâng cao mức hiệu quả và sinh lời để giá chứng khoán của mình có thể lên cao, như vậy vừa có thể thu lợi lớn, vừa có thể dễ dàng gọi thêm vốn khi cần thiết. Chính với chức năng này mà thị trường chứng khoán hay chính xác hơn là chỉ số giá chứng khoán được coi là chiếc hàn thử biểu của nền kinh tế mà tất cả mọi người trong xã hội, từ chính phủ tới các công ty, từ các nhà đầu tư tới công chúng đều phải quan tâm theo dõi. 4. Công ty đầu tư - Những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp Công ty đầu tư là những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được hình thành bởi những người đầu tư nhỏ và những người kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp cùng góp vốn để thực hiện đầu tư chứng khoán, nhằm đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư, phân tán rủi ro cho những nguồn vốn đầu tư khiêm tốn. Trên thế giới hiện nay có ba hình thức tổ chức công ty đầu tư. 4.1. Công ty cấp giấy chứng nhận mệnh giá Là loại công ty người góp vốn (người đầu tư) góp vốn vào Công ty dần dần (theo kiểu trả góp) cho đến khi đủ với số vốn đã đăng ký góp (mệnh giá) giấy chứng nhận mệnh giá là một loại hợp đồng theo đó người đầu tư phải trả tiền thành nhiều kỳ và sẽ lãnh toàn bộ số tiền theo mệnh giá vào lúc đáo hạn cộng thêm với tiền lãi. Công ty đầu tư cấp giấy chứng nhận mệnh giá sẽ đầu tư vào các loại chứng khoán có lợi tức cố định như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty... 4.2. Công ty đầu tư uỷ thác. Là hình thức cho phép người đầu tư có được một tập chứng khoán gồm nhiều loại khác nhau, cố định, không thay đổi từ một số vốn đầu tư khiêm tốn. Công ty đầu tư uỷ thác thường đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau nhưng tập trung nhất vẫn là các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công ty và cổ phiếu thượng hạng. Sở hữu một số vốn uỷ thác như vậy người đầu tư có được một tập chứng khoán đa dạng mà nếu đầu tư trực tiếp người đầu tư không thể có được. Sở hữu chứng khoán của người đầu tư tham gia công ty đầu tư uỷ thác thường không thay đổi, nghĩa là tập chứng khoán của họ vẫn được giữ nguyên cho đến khi thanh toán. Trong trường hợp có một loại trái phiếu nào đó được công ty phát hành mua lại trước ngày đáo hạn thì trái phiếu đó của người đầu tư cũng không được thay thế bằng những chứng khoán khác, công ty đầu tư uỷ thác sẽ đứng ra nhận thay cho người đầu tư số vốn mà công ty phát hành hoàn lại. 4.3. Công ty quản lý quỹ đầu tư. Là phương pháp đầu tư trọn gói mà tập chứng khoán của người đầu tư có thể thay đổi. Việc thành lập một công ty đầu tư bắt đầu bằng việc phát hành cổ phiếu huy động vốn từ người đầu tư. Vốn huy động được của các Công ty đầu tư không phải để trực tiếp đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà chuyên dùng để mua bán kinh doanh các loại chứng khoán khác thông qua các quỹ đầu tư trực thuộc để kiếm lời, rồi chia tiền lời đó cho những người có cổ phần của công ty đầu tư. Căn cứ vào chủ thể tham gia đầu tư, quỹ đầu tư có hai loại: quỹ đầu tư chung và quỹ đầu tư riêng. Quỹ đầu tư chung là loại quỹ tất cả mọi người có thể tham gia. Đó có thể là công chúng, những người tiết kiệm và những người đầu tư chuyên nghiệp. Quỹ đầu tư riêng, còn gọi là quỹ đầu tư hạn chế, là loại quỹ chỉ giới hạn ở một nhóm người nhất định, thường là những người đầu tư chuyên nghiệp. Căn cứ vào hình thức tổ chức, quỹ đầu tư cũng được phân làm hai loại: quỹ đầu tư dạng mở và quỹ đầu tư dạng đóng. Quỹ đầu tư dạng đóng là quỹ tạo vốn chỉ qua một lần. Loại chứng khoán huy động vốn của quỹ đầu tư dạng đóng có thể là cổ phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không mua lại các loại cổ phiếu quỹ đã phát hành và cũng không phát hành liên tục. Nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán của quỹ đầu tư dạng đóng ở các thị trường chứng khoán tập trung, bán tập trung hoặc phi tập trung. Chứng khoán của quỹ đầu tư dạng đóng được niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán. Quỹ đầu tư dạng mở phát hành chứng khoán liên tục để huy động vốn và cũng sắn sàng mua lại số chứng khoán của nó đã phát hành ra. Việc mua bán chứng khoán được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với công ty đầu tư, không thông qua thị trường chứng khoán. 5. Một số quy định về Công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán là Công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh sau đây: môi giới, tư doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán. Chỉ có các Công ty chứng khoán mới được mua bán chứng khoán qua hệ thống giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán và được gọi là thành viên của trung tâm giao dịch chứng khoán. Các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, hoặc các tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán. Điều kiện chính để một công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động là: - Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành chứng khoán. - Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán. - Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh như sau: môi giới 3 tỷ đồng, tự doanh 12 tỷ đồng, quản lý danh mục đầu tư 3 tỷ đồng, bảo lãnh phát hành 22 tỷ đồng, tư vấn đầu tư chứng khoán 3 tỷ đồng. Trường hợp Công ty chứng khoán xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của những loại hình kinh doanh mà công ty chứng khoán được cấp giấy phép. - Giám đốc (Tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh (không kể nhân viên kế toán, văn thư hành chính, thủ quỹ) phải có giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Công ty chứng khoán có các quyền và nghĩa vụ chính sau: - Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng về mua bán chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán. - Phải thu thập đầy đủ thông tin về tình hình tài chính và mục tiêu đầu tư của khách hàng. - Quản lý tài sản chứng khoán của khách hàng tách biệt với tài sản chứng khoán của công ty. - Chỉ được nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại trụ sở. - Ưu tiên thực hiện lệnh mua hay bán của khách hàng trước lệnh của Công ty. - Bảo mật thông tin cho khách hàng. - Thu phí cung cấp dịch vụ theo mức phí do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quy định. - Tuân thủ các quy định khác của pháp luật và của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. II. Thị trường chứng khoán một số nước. 1. Thị trường chứng khoán Italia: Thị trường trái phiếu của Italia là một trong những thị trường lớn nhất thế giới và là thị trường lớn thứ hai ở Châu âu: Thị trường trái phiếu chính phủ của Italia là thị trường lớn nhất ở Châu âu và thị trường lớn thứ 3 trên thế giơí. Thâm hụt lớn từ các lĩnh vực công cộng đã dẫn tới sự tăng trưởng nhanh của thị trường trái phiếu hiện nay nợ của chính phủ chiếm trên 85% tổng khối lượng các công cụ nợ được giao dịch. Điểm đáng chú ý của thị trường trái phiếu Italia là chỉ có một khối lượng nhỏ các công cụ nợ của công ty được phát hành và giao dịch tại đây. Năm 1993 các đợt phát hành nợ mới của các công ty phi tài chính chỉ chiếm chưa đến 2% khối lượng thị trường. Trước đây các quy định mang tính bắt buộc đã hạn chế sự tăng trưởng của thị trường này và sự thiếu vắng của các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm cũng cần sự phát triển năng động của thị trường thứ cấp. Bộ luật ngân hàng mới có hiệu lực từ đầu năm 1994 đã hầu như loại trừ các thúe đánh vào việc chuyển nhượng các công cụ nợ của công ty. Các công ty có tỷ suất lợi nhuận cao, có một ngân hàng bảo đảm được pháp luật phát hành các thương phiếu ngắn hạn và các chứng chỉ đầu tư những cải cách này không ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh vượng của thị trường trái phiếu tư nhân. Tuy nhiên, các cải cách này diễn ra đúng vào giai đoạn có tỷ lệ lãi suất cao đã làm hạn chế các đợt phát hành vay vốn mới của các thành phần tư nhân. Thị trường cổ phiếu - trái ngược với thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu Italia ở trong tình trạng kém phát triển , với khối lượng vốn trên thị trường tính theo % trên GDP vào loại thấp nhất ở Châu âu (xem bảng). Mặc dù các đợt tự nhân hoá gần đây đã thu hút một số lượng lớn các cổ đông nhỏ, các thành phần kinh tế hộ gia đình vẫn chỉ quen với các hình thức tiết kiệm qua ngân hàng nên tổng khối lượng cổ phiếu họ nắm giữ vẫn còn thấp. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng chỉ chiếm tỷ lệ thấp, một phần do chưa có một hệ thống cơ sở pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động của họ. Mãi đến gần đây các ngân hàng mới được phép sở hữu một phần vốn trong các công ty phi tài chính. Điều quan trọng nhất là việc giới hạn sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp s ẽ ảnh hưởng tới cơ cấu sở hữu của công ty. Cũng như nhiều thị trường vốn ở Châu âu, chi phí giao dịch ở thị trường vốn Italia đã giảm một cách đáng kể trong một thập kỷ qua chủ yếu nhờ vào các tiến bộ kỹ thuật trong việc công khai thông tin công ty trong hệ thống giao dịch. Ngoài ra nhờ vào các cách quy chế mạnh mẽ bao gồm cả tự do hoá quyền được làm thành viên của sở giao dịch, giảm thuế giao dịch, tự do hoá việc thu hoa hồng môi giới. Những cải cách này đã được nhiều nước thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các thị trường chứng khoán xuất phát từ tự do hoá các luồng vốn ở Châu âu. Bảng số 1: Thị trường chứng khoán Châu Âu các chỉ số về quy mô và vòng quay của đồng vốn năm 1994. Nước Tổng giá trị vốn hoá trên thị trường ( triệu USD) Vốn trên thị trường tính theo % GDP Quy mô trung bình của 1 công ty (triệu USD) Tỷ lệ quay vòng (%) Anh 12102.45 118,1 585 78,1 Đức 4705.19 23,0 1128 97,8 Pháp 4512.63 34,0 983 133,88 Thụy Sĩ 2840.92 108,9 1199 0,1 Hà Lan 283251 85,9 894 73,5 Italia 1801.35 17,7 808 72,3 Tây Ban Nha 1548.58 32,1 409 44,1 Thụy Điển 1309.39 66,6 1149 70,5 Bỉ 841.03 36,9 543 15,6 (Nguồn: Công ty tài chính quốc tế, các TTCK đang nổi lên 1995 - các số liệu tổng quát) Cải cách ở Italia bắt đầu thực hiện từ những năm 90, khá muộn so với các nước Pháp, Đức Tây Ban Nha và Anh. Tuy nhiên sau khi luật về các công ty giao dịch chứng khoán (SIMs) ra đời vào tháng 1/1991, việc thể nghiệm các giao dịch khối lượng lớn vào tháng 11/1991 và gần đây việc nới lỏng quyền sở hữu của các ngân hàng đối với các công ty thành viên thị trường chứng khoán Italia đã bắt đầu theo kịp với các thị trường khác ở châu âu. 2. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Hàn Quốc có thể chia thành 4 giai đoạn: 2.1 Giai đoạn chuẩn bị (năm 1956 - 1967) Thị trường chứng khoán chính thức đầu tiên ở Hàn Quốc bắt đầu hoạt động với sự thành lập của sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc vào ngày 3.3.1956. Tuy nhiên vào thời điểm này GNP/đầu người của Hàn Quốc chưa đến 100 USD; vì vậy nhìn chung công chúng không có đủ tiền để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Hơn nữa lúc này cũng rất ít các công ty có được sự tín nhiệm cao để có thể chào bán, chứng khoán của mình ra công chúng. Sở giao dịch chứng khoán hoạt động giống một thị trường trái phiếu giúp chính phủ huy động vốn hơn là một thị trường cổ phiếu . Mặc dù chính phủ có chủ trương thiết lập các cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán thông qua việc ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán năm 1962, hệ thống giám sát thị trường vẫn còn rất yếu, chưa thể ngăn ngừa được sự đầu cơ giá rất mạnh trên thị trường. Kết quả là thị trường đã bị đổ vỡ vào tháng 5 - 1965 2.2. Giai đoạn cất cánh (1968 - 1976) Giai đoạn này, được xem là giai đoạn cất cánh của thị trường chứng khoán Hàn Quốc, bởi vì ngày từ năm 1967 chính phủ đã cố gắng thu hút các nguồn vốn cho các kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ hai và thứ ba thông qua việc huy động các nguồn vốn trong nước hơn là dựa vào khoản vay nước ngoài. Với chính sách này chức năng của thị trường chứng khoán đã được nhận thức lại. Năm 1968. luật khuyến khích phát triển thị trường vốn được ban hành. Công ty đầu tư hàn quốc được thành lập chịu trách nhiệm đối với việc phát hành chứng khoán. Nhằm thu hút sự quan tâm của công chúng vào thị trường chứng khoán, cổ tức được bảo đảm sẽ trả bằng lãi suất kỳ hạn 1 năm. Ngoài ra, các công ty niêm yết được hưởng những ưu tiên nhất định về tài chính và thuế. Bên cạnh đó luật khuyến khích phát hành công khai được ban hành năm 1972. Theo luật này, chính phủ buộc các doanh nghiệp tư nhân có khả năng phải phát hành ra công chúng và bất cứu công ty nào không phát hành công khai sẽ gặp khó khăn trong việc tìm nguồn vốn qua hệ thống ngân hàng. Kế hoạch sở hữu cổ phiếu của nhân viên cũng được đưa ra nhằm mở rộng nhu cầu về cổ phiếu. Nhờ những chính sách này mà thị trường chứng khoán đã được mở rộng rất nhanh trong giai đoạn này. 2.3. Giai đoạn củng cố hệ thống (1977-1985) Uỷ ban chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán cùng với ban giám sát chứng khoán được thành lập nhằm quản lý và giám sát thị trường một cách có hiệu quả. Sự công bằng trong giao dịch được củng cố bằng việc đưa vào thực hiện quy chế chống lại các giao dịch tay trong quyền quản lý của các cổ đông gốc nắm đa số cổ phiếu trong công ty được bảo vệ ở nhiều cấp độ bằng một số quy định về đấu thầu và không được mua nhiều hơn 10% cổ phiếu có quyền bỏ phiếu, nếu không có sự đồng ý trước của uỷ ban. Mạng lưới công khai thông tin công ty được kiểm tra lại toàn bộ. Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán, ban giám sát chứng khoán có thể kiểm soát tài chính và hoạt động của các công ty niêm yết khi cần phải bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Với những sửa đổi trên, thị trường chứng khoán Hàn quốc trở nên công bằng hơn với hệ thống quản lý và định chế thị trường có nhiều ưu điểm. 2.4. Giai đoạn đại chứng hoá và quốc tế hoá (1986 đến nay) Từ năm 1986, kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng nhanh trong bối cảnh '' 3 thấp'': lạm phát thấp, giá dầu thấp, lãi suất thấp và đã trải qua thời kỳ đen tối của cán cân thanh toán. Dựa trên cơ sở kinh tế tăng trưởng, nhu cầu về tài chính trực tiếp của các công ty và cả nhu cầu về đầu tư chứng khoán của công chungs đều tăng lên. Bởi vậy thị trường chứng khoán có cơ hội mở rộng cả về cung lẫn cầu. Chỉ số cổ phiếu kết hợp mới chỉ đạt 180 vào cuối năm 1985 đã tăng lên trên 1000 vào tháng năm 1989 khối lượng giao dịch trung bình hàng ngày đã tăng từ 20 triệu USD năm 1985 lên 320 triệu USD năm 1989. Những đợt tăng giá cổ phiếu đã mang lại nhiều lợi nhuận cho cả các công ty dự định phát hành chứng khoán lẫn những người đầu tư chứng khoán: Nhiều công ty tư nhân đã tranh nhau phát hành công cộng vào cuối những năm 80 số lượng các công ty niêm yết đã tăng từ 342 công ty năm 1985 lên 690 công ty năm 1989. Cùng thời gian này, số lượng vốn huy động được thông qua thị trường chứng khoán trong năm 1989 đã đạt 26.000 tỷ USD trong khi năm 1985 con số này chỉ đạt 4tỷ USD và vượt xa số vốn huy động thông qua tài chính gián tiếp. Điều này cho thấy đã có sự chuyển đổi về hình thức huy động vốn của công ty từ tài chính gián teps sang tài chính trực tiếp. Với chính sách đại chúng hoá thị trường chứng khoán . số lượng những người đầu tư trên thị trường chứng khoán đã tăng lên rất nhanh . Các công ty chứng khoán này đèu được hiện đại hoá thông qua việc mở rộng vốn cổ phiếu và tự động hoá hoạt động của mình. Chương II Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. I. Thực trạng hoạt động kinh tế ở Việt nam . 1. Thực trạng hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam. Bước vào năm 1998 trong yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng , trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt của hoạt động ngân hàng và ảnh hưởng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực; toàn hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam tiếp tục phát huy nội lực, với truyền thống thống nhất ý chí hành động, sự nỗ lực vượt bậc, sự điều hành kiên quyết và tập trung của lãnh đạo các cấp đã vượt qua khó khăn, thử thách đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đến hết quý I/1998, tăng trưởng nguồn vốn đạt 21.000 tỷ đồng, tiền gửi dân cư tăng 9% so với mỗi năm 1997 . Đặc biệt ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam phát hành trái phiếu, từ ngày 20-5-1998, chỉ trong thời gian 20 ngày đã huy động tổng mức 1000 tỷ đồng gồm cả vốn Việt nam đồng và ngoại tệ. Nguồn vốn huy động đã sẵn sàng giải ngân chỉ tiêu kế hoạch tín dụng nhà nước giao năm 1998 với mức vốn 4000 tỷ đồng, trong đó cho các dự án trọng điểm như thuỷ điện Yaly 750 tỷ đồng; tầu chở dầu thô 23,5 triệu USD, xi măng Bát sơn, Bưu chính viễn thông và các dự án chuyển tiếp khác. Trả nợ nước ngoài đúng hẹn đạt 22 triệu USD, cùng kỳ năm 1997 ; dư nợ tín dụng đầu tư phát triển tăng 6,7%; cải tiến công tác thanh toán tập trung, nâng cao khả năng thanh toán nhanh trong toàn hệ thống; thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước, của thống đốc ngân hàng nhà nước về an toàn hoạt động ngân hàng, về an toàn tín dụng, tăng dự trữ buộc đảm bảo nhu cầu chỉ tiêu của khách hàng; kinh doanh ngoại hối quản lý ngoại tệ theo đúng các quy định của chính phủ và của ngân hàng nhà nước; tỷ lệ nợ quá hạn thấp, kết quả kinh doanh lãi đạt 305 kế hoạch và nộp đầy đủ nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Về tổ chức bộ máy ngân hàng đầu tư và phát triển , Việt nam đã xây dựng được một hệ thống 65 chi nhánh tỉnh, thành phố trong cả nước, có mô hình tổ chức gọn nhẹ phù hợp với đặc điểm đầu tư phát triển và phù hợp với đặc thù trên từng địa bàn lãnh thổ, đội ngũ cán bộ ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam được tăng cường về số lượng và chất lượng , cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 52,6% so với tổng số cán bộ, xây dựng ý thức hết mình vì sự nghiệp chung, đoàn kết trên dưới vì sự nghiệp của ngành, phối hợp tốt mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng, phát huy sức mạnh nội lực sáng tạo của quần chúng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, thường xuyên đào tạo bồi dưỡng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực quản trị điều hành cho lãnh đạo các cấp, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ nghiệp vụ, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam. Đã mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế một cách nhanh chóng và hoạt động có hiệu quả với gần 500 ngân hàng đại lý, 65 ngân hàng có quan hệ giao dịch thanh toán, quan hệ tín dụng, hợp tác đào tạo cán bộ . Do mở rộng quan hệ quốc tế đã khai thác được việc đào tạo cán bộ, tiếp cận với công nghệ ngân hàng hiện đại, khai thác được nhiều khoản vay, thực hiện một khối lượng thanh toán hàng năm 400 triệu USD. Trong quá trình đổi mới và phát triển . Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam luôn lấy phương châm hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mucj tiêu trên cơ sở phục vụ đầu tư phát triển , tăng trưởng kinh tế mà không ngừng tăng doanh lợi của ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát. coi việc chăm lo nguồn lực con người là động lực của sự phát triển , coi quản trị điều hành là khâu quyết định sự thành đạt trong kinh doanh, coi hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại tăng cường kiểm tra kiểm soát là những công cụ quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả và an toàn trong kinh doanh, quyết định năng lực và điều kiện hội nhập. 2. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp . Tính từ năm 1991 cho đến cuối năm 1997 mới cổ phần hoá được 18 doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn là 121.348 triệu đồng gồm; phân theo ngành. Bảng số 2: Danh sách các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần Ngành giao thông vận tải 4 doanh nghiệp Ngành công nghiệp 7 doanh nghiệp Ngành xây dựng 1 doanh nghiệp Ngành chế biến nông lâm,thuỷ sản 3 doanh nghiệp Ngành dịch vụ 3 doanh nghiệp Phân theo lãnh thổ Thành phố Hồ chí Minh 10 doanh nghiệp Thành phố Hà nội 1 doanh nghiệp Thành phố Hải phòng 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An 1 doanh nghiệp Tỉnh ninh Bình 1 doanh nghiệp Tỉnh Bình định 1 doanh nghiệp Tỉnh cà Mau 1 doanh nghiệp Thành phố Đà nẵng 1 doanh nghiệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp Nguồn: Báo cáo của ban cổ phần hoá, Bộ tài chính Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 doanh nghiệp nhà nước bán toàn bộ cho công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại nhà nước nắm giữ ít nhất là 18 %, cao nhất là 51% cổ phần của công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần hiện nay có 11 doanh nghiệp hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là công ty cổ phần cơ điện lạnh, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp vốn giảm dần như xí nghiệp VIFOCO, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long an, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tầu thuyền Bình định. Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển , có tiến bộ về mọi mặt, nhà nước và doanh nghiệp người lao động đều có lợi. Cụ thể: Đối với các doanh nghiệp (số liệu của 18 doanh nghiệp) Bảng 3 : Mức tăng bình quân của chỉ tiêu Vốn tăng bình quân 45% năm Doanh thu tăng bình quân 56,9% năm Lợi nhuận tăng bình quân 70,2% năm Nộp ngân sách tăng bình quân 98% năm Thu nhập của người lao động 20% năm Tăng bình quân Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1% năm Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6% năm (Nguồn: báo cáo của ban cổ phần hoá - Bộ tài chính ) - Đối với nhà nước: Do sản xuất phát triển , doanh thu tăng, lợi nhuận tăng nên tiền thuế của các công ty cổ phần nộp cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nước . Ngoài ra, nhà nước còn thu được 37.724 triệu đồng từ các nguồn sau: Tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng Phần lợi tức của nhà nước từ các công ty cổ phầ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0788.doc
Tài liệu liên quan