Lời nói đầu
Từ sau đại hội Đảng VI (1986) nước ta chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế mới đã đem lại những kết quả nhất định. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển đổi rõ rệt, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và dần dần phát triển đều đặn vững chắc.
Trong quá trình phát triển và thành công đó, có sự đóng góp đáng kể và quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là khi xuất
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Xuất nhập khẩu ở Công ty thực phẩm miền bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế đối nội cũng như đối ngoại, tạo nền tảng cho sự phát triển và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được chú trọng.
Với sự quan tâm khuyến khích và đầu tư thích đáng của Nhà nước, hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ra đời và phát triển nhưng có không ít những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên... Chính vì vậy, hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Tuy nhiên làm thế nào để kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả-đó là câu hỏi được đặt ra với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay. Để trả lời tốt câu hỏi này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả một cách khoa học khách quan. Từ đó giúp cho họ có các giải pháp hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh của mình.
Qua thời gian thực tập tại công ty thực phẩm miền Bắc (203 Minh Khai-Hà Nội), được sự giúp đỡ của các cán bộ phòng kế hoạch và thị trường và một số phòng ban khác, đặc biệt là sự hướng dẫn của cô giáo TS. Nguyễn Thị Hồng Thuỷ, em chọn đề tài: “Phương hướng và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc-FONEXIM”.
Nội dung luận văn bao gồm:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc.
Chương I
Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế trị trường
I. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm về kinh doanh
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về kinh doanh. Nếu loại bỏ các phần khác nhau về phương tiện, phương thức, kết quả cụ thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu: Kinh doanh là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
Kinh doanh được phân biệt với các hoạt động khác bởi các hoạt động chủ yếu sau:
- Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện được gọi là chủ thể kinhdoanh. Chủ thể kinh doanh có thể là các cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp.
- Kinh doanh phải gắn liền với thị trường. Thị trường và kinh doanh gắn liền với nhau như hình với bóng- không có thị trường thì không có hoạt động kinh doanh.
- Kinh doanh phải gắn với sự vận động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn cần phải biết cách thực hiện vận động đồng vốn đó không ngừng. Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột trong công thức tư bản của C. Mác, có thể xem công tức này là công thức kinh doanh: T - H - SX..- H’ - T’: Chủ thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ (T) mua những tư liệu sản xuất (H) để sản xuất ra những hàng hoá (H’) theo nhu cầu của thị trường và đem những hàng hoá này đem bán cho khách hàng trên thị trường nhằm thu được số tiền lớn hơn (T’).
- Mục đích chủ yếu của kinh doanh là sịnh lời - lợi nhuận ( T’- T >0).
2. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của qua trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Nó không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh. Điều này do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề kinh doanh.
Nhà kinh tế học người Anh Adam smith cho rằng “hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”, nhà kinh tế học Pháp Ogiephri cũng quan niệm như vậy, ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan niệm điểm này khó giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí mở rộng sử dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng ta có cũng hiệu quả.
Quan niêm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí đã tiêu hao. Nhưng xét trên quan điểm triết học Mác-Lê Nin thì sự vật và hiện tượng đều có quan hệ ràng buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng rẽ. Hơn nữa sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh thay đổi. Theo quan điểm này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét đến phần kết quả bổ xung và chi phí bổ xung.
Quan niệm thứ ba: Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
Quan niệm thứ tư cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của CNXH, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiêu quả kinh doanh. Quan điểm này ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng phong phú, nhiều hình nhiều vẻ phản ánh trong các chỉ tiêu mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống là điều kiện khó khăn.
Để làm sáng tỏ bản chất và đi đến một khái niêm hiệu quả kinh doanh hoàn chỉnh theo định hướng trên, chúng ta phải xuất phát từ những luận điểm của triết học của Mác- Lê nin và những luận điểm của lý thuyết hệ thống
3. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Trong công tác quản lý kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh doanh được biểu hiện ở những dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiêu quả. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý kinh doanh. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và mức hiêu quả từ đó đề ra những biện pháp nâng cao hiêụ quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3.1.Hiêu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiêu quả kinh doanh thu được từ hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Biểu hiện chungcủa hiệu quả cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho nền kinh tế qốc dân là sự đóng góp của hoạt động kinh doanh vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Trong quản lý kinh doanh không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong hoạt động của từng người, từng doanh nghiệp, mà còn phải tính toán và quan trọng hơn phải đạt được hiệu quả kinh tế xã hội đối với nền kinh tế quốc dân. Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên sơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp. Tuy vậy, có thể có những doanh nghiệp không đảm bảo được hiệu quả (làm ăn thua lỗ) nhưng nền kinh tế vấn thu được hiêu qủa. Tuy nhiên tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó chỉ có thể chấp nhận được trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan mang lại. Các doanh nghiệp thương mọi phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội vì đó chính là điều kện và tiền đề cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nhưng để doanh nghiệp quản tâm đến hiêu quả kinh tế xã hội chung của nền kinh tế quốc dân, nhà nước cần có các chính sách nhằm đảm kết hợp hài hoà lợi ích của xã hội và lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân người lao động.
3.2.Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường kinh doanh của nó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào những tín hiệu về giá cả, thị hiếu của thị trường để giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?
Các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh trong những điều kiện cụ thể về trang thiết bị, trình độ kỹ thuật, khả năng tài chính, trình độ tổ chức và quản lý. Các doanh nghiệp đưa ra thị trường những sản phẩm của mình với một chi phí cá biệt nhất định và doanh nghiệp nào cũng cố gắng tiêu thụ sản phẩm của mình sao cho có thể đạt được hiệu quả cá biệt cao nhất. Như vậy khi đưa các hàng hoá của doanh nghiệp ra thị trường, doanh nghiệp phải căn cứ vào giá cả thị trường cũng như xu hướng vận động của giá cả, cung-cầu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thực tế, chi phí mà các doanh nghiệp thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh là một bộ phận của chi phí lao động xã hội. Nhưng ở mỗi doanh nghiệp mà chúng ta cần đánh giá hiệu quả thì chi phi lao động đó lại được thể hiện dưới dạng những chi phí cụ thể:
Giá thành sản xuất hay chi phí sản xuất.
Chi phí ngoài sản xuất.
Bản thân mỗi loại chi phí trên cũng có nhiều những chi phí bộ phận khác nữa. Đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên đây nhưng cũng không thể không đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí để có thể xem xét sự ảnh hưởng của các loại chi phí bộ phận đối với chi phí tổng hợp nói chung.
Việc đánh giá hiệu quả cá biệt của từng doanh nghiệp có tác dụng rất thiết thực giúp doanh nghiệp tìm ra được hướng giảm chi phí cá biệt nhằm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
3.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản:
Một là, để thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí trong hoạt động kinh doanh.
Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn lấy một phương án có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu đươcj với chi phí bỏ ra. Chẳng hạn tính toán mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí sản xuất (giá thành), hoặc một đồng vốn bỏ ra...
Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy trong công tác quản lý kinh doanh, bất kỳ công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí dù với một lượng lớn hay nhỏ đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chi phí trên hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau. (Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính là mức độ chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án). Mục đích chủ yếu của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án (hoặc các cách làm khác nhau cùng thực hiện một nhiệm vụ ) từ đó cho phép lựa chọn một cách làm có hiệu quả cao nhất.
Trên thực tế, để thực hiện một nhiệm vụ nào đó, người ta không chỉ tìm thấy một cách (một phương án, một con đường, một giải pháp) mà có thể đưa ra nhiều cách làm khác nhau. Mỗi cách làm đó đòi hỏi lượng đầu tư vốn, lượng chi phí khác nhau, thời gian thực hiện và thời gian thu hồi vốn đầu tư cũng khác nhau. Vì vậy, muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao, người làm công tác quản lý và kinh doanh thương mại không nên tự mình vào một cách làm mà phải vận dụng mọi sự hiểu biết đưa ra nhiều phương án đó để chọn ra một phương án có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong thương mại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau song chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết, xác định quan hệ tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là, trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án, người ta so sánh mức hiệu quả ấy của các phương án khác nhau. Mức chênh lệch ấy chính là hiệu quả so sánh (3) Nguồn: PGS.PTS. Đặng Đình Đào, Kinh tế TMDV tổ chức và quản lý kinh doanh, NXB Thống kê năm 2000, Hà Nội trang 255 – 258.
.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
4.1. Các nhân tố bên trong
a) Lực lượng lao động
Người ta thường nhắc đi nhắc lại luận điểm: Khoa học công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. áp dụng kĩ thuật tiến bộ mới là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Nhưng chỉ trang bị máy móc, thiết bị kĩ thuật tiên tiến thôi chưa đủ, một vấn đề không kém phần quan trọng là vai trò của người lao động. Chúng ta biết rằng thứ nhất, máy móc dù tối tân đến đâu cũng đều do con người tạo ra. Nếu không có lao động sáng tạo của con người sẽ không có những máy móc, thiết bị đó. Thứ hai, máy móc thiết bị dù hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kĩ thuật, trình độ sử dụng của người công nhân thì mới phát huy được tác dụng, tránh lãng phí, thậm chí hỏng hóc.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, lực lượng lao động của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các mặt sau: thứ nhất, bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới .. .. có hiệu quả hơn trước hoặc cải tiến kĩ thuật nâng cao năng suất, hiệu suất so với trước. Thứ hai, trực tiếp điều khiển máy móc thiết bị tạo ra kết quả của doanh nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng công suất của máy móc thiết bị, tận dụng nguyên vật liệu trực tiếp làm tăng năng suất, tăng hiệu quả từng nơi làm việc. Thứ ba, lao động có kỷ luật,chấp hành đứng mọi quy định về thời gian, về quy trình kĩ thuật sản xuất sản phẩm, quy trình bảo dưỡng máy móc thiết bị dẫn đến kết quả không phải chỉ tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả mà còn tăng độ bền, giảm chi phí sửa chữa thiết bị máy móc .. ..Ngoài ra, chất lượng sản xuất còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác phối hợp, khả năng thích ứng với những thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp.
b) Trình độ phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng kĩ thuật tiến bộ vào sản xuất
Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Như vậy, cơ sở vật chất kĩ thuật là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh. Mức độ chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bị tác động mạnh mẽ bởi trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình duy trì bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt.
Hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, có vai trò ngày càng lớn mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta, phù hợp với xu thế chung đó, hầu hết các doanh nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ngày càng cải tiến và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải thiện và nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật cho mình.
c) Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư, nguyên liệu của doanh nghiệp
Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất vật chất nào cũng phải có đủ 3 yếu tố: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó vật tư, nguyên liệu là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Do vậy số lượng, chủng loại, cơ cấu, tính đồng bộ của việc cung ứng nguyên liệu, chất lượng nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu và do đó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước tiên việc cung cấp đầy đủ, có chất lượng cao nguyên liệu cho sản xuất sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút khách hàng, nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cần chú ý là đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất, tỷ trọng chi phí kinh doanh sử dụng nguyên vật liệu chiếm rất lớn trong cơ cấu chi phí kinh doanh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nên việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu có một ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, chất lượng hoạt động của nhân sự còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được một hệ thống cung ứng nguyên liệu thích hợp trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người cung ứng, bảo đảm khả năng cung ứng vật tư, nguyên liệu đầy đủ kịp thời, chính xác, đúng nơi cần thiết, tránh tình trạng không có vật tư để sản xuất hay vật tư quá nhiều gây ứ đọng vốn...
d) Hệ thống trao đổi xử lý thông tin
Hiện nay với sự bùng nổi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi hẳn nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó tin học và điện tử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông tin được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh và nền kinh tế thị trường hiện nay là nền kinh tế thông tin hoá. Để kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế phát triển, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, thông tin về công nghệ, thông tin về tình hình cung cầu, hàng hoá, dịch vụ, thông tin về giá cả, thông tin về tỷ giá... Không những thế các doanh nghiệp còn rất cần biết về kinh nghiệm thành công, thất bại của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, biết được thông tin về các thay đổi trong các chính sách kinh tế của Nhà nước và các liên quan đến thị trường của doanh nghiệp.
Những thông tin kịp thời chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không quan tâm đến thông tin một cách thường xuyên, liên tục, không nắm bắt được thông tin một cách kịp thời, chính xác dễ bị thất bại.
Nhu cầu thực tế to lớn của các doanh nghiệp đòi hỏi xã hội phải phát triển mạnh hệ thống thông tin liên lạc bằng nhiều hình thức khác nhau, từ việc phát triển báo chí, truyền thanh, truyền hình đến việc phát triển các hoạt động bưu chính viễn thông. Trong kinh doanh nếu biết mình, biết người và biết được các đối thủ cạnh tranh thì sẽ có chính sách để thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách để phát triển quan hệ hợp tác chặt chẽ để hỗ trợ nhau trong kinh doanh. Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp cho thấy nắm chắc được các thông tin cần thiết và biết xử lý các thông tin đó kịp thời đúng đắn trong kinh doanh là một yếu tố, một điều kiện hết sức quan trọng để thắng lợi trong cạnh tranh và kinh doanh đạt lợi nhuận cao.
Nhân tố quản trị doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì nhân tố quản trị ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản trị doanh nghiệp hiện đại luôn chú trọng đến việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác định đúng các chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp là cơ sở đầu tiên đem lại hiệu quả và kết quả hoặc phi hiệu quả, thất bại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Bởi vậy nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là lãnh đạo doanh nghiệp (quản trị viên cao cấp), bằng phẩm chất và tài năng của mình, có vai trò quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì thành đạt cho một tổ chức, một công ty, trong các nhiệm vụ phải hoàn thành, người cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp phải chú ý đến hai nhiệm vụ chủ yếu là:
Xây dựng tập thể thành một hệ thống đoàn kết, năng động với chất lượng cao.
Dìu dắt tập thể dưới quyền, hoàn thành mục đích và mục tiêu một cách vững chắc và ổn định. ở bất kỳ môt doanh nghiệp nào, hiệu quả kinh doanh đều phụ thuộc lớn vào tổ chức cơ cấu bộ máy quản trị, khả năng xác định chính xác mục tiêu, phương hướng kinh doanh có lợi nhất cho doanh nghiệp của những người lãnh đạo doanh nghiệp.
4.2. Nhân tố môi trường bên ngoài
a) Môi trường pháp lý
Bao gồm luật, các văn bản dưới luật, quy trình, quy phạm kỹ thuật sản xuất... Tất cả các quy định pháp luật về sản xuất kinh doanh đều tác động trực tiếp đến hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không phải chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả của riêng mình, mà còn phải chú ý bảo đảm lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong xã hội. Với tư cách một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành mọi luật phát quy định, với các hoạt động liên quan đến thị trường ngoài nước, doanh nghiệp không thể không nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các hoạt động trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó.
b) Môi trường văn hoá xã hội
Trình độ việc làm, điều kiện xã hội, trình độ giáo dục, phong cách lối sống, những đặc điểm truyền thống, tâm lý xã hội... Mọi yếu tố văn hoá xã hội đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp theo cả hai hướng tích cực hoặc không tích cực. Trình độ văn hoá cao sẽ tạo thuận lợi lớn cho doanh nghiệp đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao và có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức cần thiết nếu có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Phong cách sống công nghiệp tạo thuận lợi cho việc thực hiện kỷ luật lao động, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh và ngược lại.
c) Môi trường chính trị
ổn định thể chế chính trị, xu hướng chính trị, tương quan giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội... Cũng có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là điều kiện tiền đề cho việc phát triển các hoạt động đầu tư, phát triển các hoạt động kinh tế. Vấn đề đầu tư lại tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất kinh doanh.
d) Môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng
Tình trạng môi trường, xử lý phế thải, ô nhiễm, các ràng buộc xã hội về môi trường... đều tác động trong một chừng mực nhất định đến hiệu quả kinh doanh. Một môi trường trong sạch, thoáng mát sẽ trực tiếp làm giảm chi phí kinh doanh để cải thiện môi trường bên trong doanh nghiệp và tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động làm tăng hiệu quả kinh doanh và ngược lại. Cơ sở hạ tầng đóng vai trò rất quan trọng đối với việc trực tiếp giảm chi phí kinh doanh để xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là cơ sở hạ tầng tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời gian vận chuyển hàng hoá của doanh nghiệp và do đó tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, khi điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém còn ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu tư hoặc gây cản trở đối với hoạt động cung ứng vật tư, kỹ thuật, mua bán hàng hoá và do đó tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
e) Môi trường quốc tế
Các xu hướng chính trị trên thế giới, chính sách bảo hộ và mở cửa của thế giới, chiến tranh... ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động mở rộng thị trường mua bán của doanh nghiệp và vì thế tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Môi trường khu vực ổn định là cơ sở để các doanh nghiệp trong khu vực tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển kinh doanh trong toàn khu vực.
f) Môi trường công nghệ
Tình hình nghiên cứu triển khai khoa học kỹ thuật mới, đầu tư cho khoa học công nghệ... đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
g) Môi trường kinh tế
Tăng trưởng kinh tế quốc dân, các chính sách kinh tế của chính phủ, lạm phát, biến động tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh... luôn luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng thu nhập quốc dân, biến động của tiền tệ, các chính sách kinh tế, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh... luôn là các nhân tố tác động trực tiếp đến các quyết định cung cầu của từng doanh nghiệp và từ đó tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Nhìn chung, các nhân tố bên trong và bên ngoài đều tạo ra những cơ hội và nguy cơ đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và nó tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh tồn tại một cách khách quan, gây ra những khó khăn và cũng như các điều kiện thuận lợi tác động đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp (4) Nguồn: GS.TS. Ngô Đình Giao, Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp, NXB KHKT Hà nội, năm 2000, trang416 - 424.
.
II. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1. Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả của sản xuất kinh doanh
Hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau và nó còn phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố đó. Do đó khi xem xét, đánh giá hiệu quả cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau:
- Bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, trước hết thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn hàng của Nhà nước giao cho các doanh nghiệp hoặc các hợp đồng kinh tế Nhà nước đã ký kết với doanh nghiệp. Vì đó là nhu cầu và là điều kiện bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, của nền kinh tế hàng hoá.
Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá, đòi hỏi doanh nghiệp phải quyết định việc sản xuất và bán những hàng hoá mà thị trường cần, nền kinh tế cần, chứ không phải bán hàng hoá mà bản thân doanh nghiệp có.
- Bảo đảm sự kết hợp hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động.
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ lợi ích trên, trong đó lợi ích của người lao động được xem là động lực trực tiếp, bởi lẽ người lao động là yếu tố quyết định việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh lại phải được thoả mãn cho nhu cầu của người lao động, cho tập thể và cho Nhà nước, căn cứ vào chi phí đã đầu tư cho việc đạt tới hiệu quả ấy.
- Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và bảo đảm yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội, của ngành, của địa phương và cơ sở. Hơn nữa trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét, đánh giá hiệu quả kinh doanh phải coi trọng tất cả các hoạt động các lĩnh vực, các khâu của quá trình kinh doanh và phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ, tác động qua lại của các tổ chức, các lĩnh vực trong một hệ thống theo những mục tiêu đã xác định.
- Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Chỉ có như vậy, chỉ tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh, phương án kinh doanh của doanh nghiệp mới có đủ cơ sở khoa học và thực hiện, bảo đảm lòng tin của người lao động, hạn chế được những rủi ro, tổn thất. Chỉ có như vậy, nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh doanh mới phù hợp với điều kiện thực tiễn của cơ sở, nói cách khác, các chỉ tiêu hiệu quả mới có đủ điều kiện để thực hiện.
- Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi tính toán đánh giá hiệu quả, một mặt phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã tiêu thụ và giá trị thu nhập của những hàng hoá đó theo giá cả thị trường, mặt khác phải tính đủ chi phí đã chi ra để sản xuất và tiêu thụ những hàng hoá ấy. Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị đó là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Ngoài ra, còn đòi hỏi các nhà kinh doanh phải tính toán đúng đắn, hợp lý lượng sản phẩm dở dang, bán thành phẩm cần thiết cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Điều đó còn cho phép đánh giá đúng khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ theo cả hiện vật và giá trị, tức là cả giá trị sử dụng và giá trị cả hàng hoá mà thị trường cần (1).
2. Giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế chủ yếu nhằm bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, có liên quan tới tất cả mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó, nó chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, có nhân tố làm tăng hiệu quả và có nhân tố lại giảm hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp, cần phải thực hiện ._.tốt các mối quan hệ kinh tế chủ yếu sau:
- Mối quan hệ giữa tốc độ tăng sản lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường, hàng hoá sản xuất ra và tổng sản lượng. Trong đó phải nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá trên thị trường, giảm hàng hoá tồn kho và bán thành phẩm, sản xuất dở dang.
- Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả sản xuất kinh doanh và tăng các nguồn chi phí để đạt tới kết quả đó. Trong đó, tốc độ tăng kết quả phải nhanh hơn tốc độ tăng chi phí.
- Mối quan hệ giữa kết quả của lao động sống và chi phí chi ra để duy trì và phát triển sức lao động. Điều đó đòi hỏi tốc độ tăng năng suất lao động phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân và tiền công lao động.
- Mối quan hệ giữa kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí sử dụng tài sản lưu động. Trong đó, bảo đảm cho tốc độ tăng kết quả nhanh hơn chi phí sử dụng tài sản để đạt kết quả ấy.
- Mối quan hệ giữa kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí sử dụng tài sản cố định. Trong đó bảo đảm cho tốc độ tăng kết quả nhanh hơn chi phí sử dụng tài sản cố định.
- Mối quan hệ giữa tăng vốn đầu tư và tăng năng lực sản xuất mới. Trong đó tăng năng lực sản xuất mới nhanh hơn tốc độ tăng vốn đầu tư để đạt tới tốc độ tăng năng lực mới (3),(1) Nguồn: PGS. Phạm Hữu Huy, Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp, Hà nội - 1998, trang 247 - 251.
.
3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
3.1.Chỉ tiêu tổng quát
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Để đánh giá có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm chỉ tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết cụ thể để tính toán.
Các chỉ tiêu chi tiết cụ thể phải phù hợp, phải thống nhất công thức đánh giá hiệu quả chung:
Hiệu quả kinh doanh =
Kết quả thu được
Chi phí bỏ ra
(1)
Kết quả thu được trong kinh doanh thương mại đo bằng các chỉ tiêu như doanh thu và lợi nhuận thực hiện. Còn chi phí bỏ ra như lao động, vốn cố định, vốn lưu động...
Công thức (1) phản ánh sức sản xuất (hay sức sinh lời) của các chỉ tiêu phản ánh chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng có thể tính bằng cách so sánh nghịch đảo.
Hiệu quả kinh doanh =
Chi phí bỏ ra
Kết quả thu được
(2)
Công thức (2) phản ánh sức hao phí của các chỉ tiêu bỏ ra nghĩa là để có một kết quả thu được thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí bỏ ra.
3.2. Hệ thống các chỉ tiêu bộ phận
1/ Doanh thu bình quân một lao động.
W =
DT
N
DT : Doanh thu
N: Số lao động
Chỉ tiêu này phản ánh lao động có thể làm được bao nhiêu đồng doanh thu trong một kỳ.
2/ Mức sinh lời của một lao động.
B =
P
N
P: Lợi nhuận hay lãi thực hiện.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của mỗi người lao động đối với xí nghiệp vào lợi nhuận hay kết quả kinh doanh.
3/ Hiệu quả sử dụng TSCĐ.
H1 =
DT
G
G: nguyên giá bình quân tài sản cố định.
Chỉ tiêu này biểu hiện mức tăng kết quả kinh doanh của mỗi đơn vị giá trị TSCĐ nhưng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế tổng hợp nhất của vốn cố định thường được sử dụng là mức doanh lợi.
4/ Mức doanh lợi của vốn cố định.
H1 =
DT
G
Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện
Vốn cố định bình quân
=
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền lãi hoặc số thu nhập thuần tuý trên một đồng tiền vốn cố định hoặc số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng lợi nhuận hoặc lãi thực hiện. Chỉ tiêu này có thể so sánh với kỳ trước hoặc kế hoạch để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
5/ Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
H3 =
Lợi nhuận
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng kết quả kinh doanh của mỗi đơn vị giá trị tài sản lưu động.
6/ Số vòng quay của vốn lưu động.
H3 =
Doanh thu bán hàng (trừ thuế doanh thu)
Vốn lưu động bình quân
Số ngày của một lần chu chuyển.
N =
T
H4
=
T.VL
DT
VL: Vốn lưu động bình quân.
H4: Biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh có khả năng mang lại bao nhiêu đồng vốn doanh thu hay thể hiện khả năng số vòng quay của vốn lưu động, mức đảm nhận của một đồng vốn lưu động hoặc số ngày của một kỳ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp.
7/ Mức doanh lợi của vốn lưu động.
H5 =
P
VL
Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện
Vốn lưu động bình quân
=
Mức doanh lợi của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận.
8/ Hiệu quả sử dụng chi phí.
H3 =
Doanh thu
Chi phí
Hiệu quả sử dụng chi phí phản ánh doanh thu đạt được khi bỏ ra một đồng chi phí.
III. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta
1. Sự cần thiết và vai trò của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước trên thế giới thông qua hành vi mua bán. Đây là một hình thức trao đổi tích cực, nó vừa thể hiện mối quan hệ xã hội vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của quốc gia. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể thoả mãn đông đủ nhu cầu của mình, cho dù đó là những nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông qua thương mại quốc tế, một nước có thể mở rộng khả năng, tiêu dùng, tận dụng máy móc trang thiết bị của một nước khác cho sự phát triển của mình khi những điều kiện sản xuất trong nước đó cho phép. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài.
Tiền đề của sự trao đổi hàng hoá là sự phân công lao động sản xuất. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng được mở rộng, quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng phát triển. Do vậy, thương mại quốc tế gắn chặt với chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội. Mặt khác, theo lý thuyết lợi thế so sánh, trao đổi mua bán quốc tế làm cho các bên tham gia đều có lợi cho dù một trong các bên có lợi thế tuyệt đối hơn về mọi mặt hàng hoá.
Thương mại quốc tế đặc biệt cần thiết cho việc chuyên môn hoá sâu để có được hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại, làm cho chi phí sản xuất giảm. Nó sẽ mở rộng quy mô và phạm vi trao đổi hàng hoá đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của sản xuất, tiêu dùng, kích thích xuất hiện những nhu cầu mới từ những tập quán, sở thích khác nhau, trình độ sản xuất khác nhau của các nước trên thế giới. Bởi vì quan điểm chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của nước mình không chỉ bằng tiềm lực sẵn có trong nước mà còn bằng việc vận dụng những tiềm năng của nước ngoài.
Có thể nói, nhu cầu trao đổi đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng từ khi ra đời của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất đóng kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước. Chế độ tư bản chủ nghĩa gắn chặt thị trường dân tộc với thị trường thế giới, gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế và ngoại thương đã trở thành điều không thể thiếu được đối với phương thức sản xuất đó.
Đối với Việt Nam, thương mại quốc tế với vai trò là ngành mũi nhọn phục vụ sản xuất và tiêu dùng tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội nhưng thương mại quốc tế lại là cầu nối quan trọng chuyển giao khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy thương mại quốc tế luôn luôn giữ vị trí tiên phong trong quá trình tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, thương mại quốc tế là tất yếu khách quan tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Nhận thực rõ tầm quan trọng của thương mại quốc tế trong việc phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tạo ra điều kiện tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế bằng việc mở cửa nền kinh tế, sẵn sàng làm bạn với các nước trên thế giới và trong khu vực, gia nhập các tổ chức quốc tế, mở cửa để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thương mại quốc tế ở nước ta hiện nay
Với đường lối xã hội nền kinh tế mở, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, đó là những đòi hỏi của khách quan và của thời đại”. Do đặc điểm kinh tế xã hội, đường lối xây dựng nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn, nhiệm vụ cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế trong giai đoạn hiện nay là:
- Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
- Phát huy lợi thế so sánh về nguồn lao động và tài nguyên của đất nước.
- Phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, nâng cao đời sống của người lao động.
- Mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá thị trường. Hoạt động theo phương thức mở cửa, từng bước gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Thị trường trong nước và thị trường nước ngoài trên nguyên tắc bảo đảm độc lập chủ quyền dân tộc, an ninh quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi, phát huy lợi thế so sánh từng ngành, từng địa phương, từng khu vực và trên toàn thế giới.
- Đổi mới cơ chế quản lý và chính sách xuất nhập khẩu theo hướng mở rộng quyền tiếp xúc với thế giới bên ngoài, quyền hoạt động xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp, chuyển hoạt động thương mại quốc tế sang hạch toán, bảo đảm tính hiệu quả, đồng thời tăng cường quản lý ở tầm vĩ mô, bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại quốc tế, khuyến khích mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu.
Như vậy, với nhiệm vụ và trách nhiệm to lớn của thương mại quốc tế là tất yếu khách quan để các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu, đáp ứng với công cuộc đưa Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới, phát huy lợi thế so sánh của đất nước.
3. Nội dung của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
3.1.Nghiên cứu thị trường thế giới
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất và lưu thông ở đó có thị trường.
Ta có thể hiểu thị trường theo hai giác độ: Thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá-tiền tệ. Theo cách khác, thị trường là tổng thể khối lượng cầu có khả năng thanh toán và khối lượng cung có khả năng đáp ứng theo mỗi mức giá nhất định.
Để nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nhằm ứng xử kịp thời mỗi nhà kinh tế phải nhất thiết tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường thế giới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt trong công tác xuất nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả trên thế giới là tiền đề quan trọng bảo đảm cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất. Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu tiết kiệm đang là vấn đề bức xúc đối với mỗi doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới tốt nhất là nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất của mỗi ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà còn cả lĩnh vực sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nghiên cứu thị trường phải trả lời các câu hỏi: xuất nhập khẩu cái gì, dung lượng thị trường đó ra sao, sự biến động của hàng hoá trên thị trường thế giới như thế nào, chiến thuật kinh doanh cho từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đề ra.
3.2.Lựa chọn đối tác kinh doanh
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chủ thể kinh doanh luôn có rất nhiều bạn hàng, tuy nhiên để kinh doanh có hiệu quả đồng thời tránh được các rủi ro trong kinh doanh, chủ thể kinh doanh phải biết lựa chọn trong số các bạn hàng để lựa chọn ra một đối tác tốtnhất cho hoạt động kinh doanh của mình. Đây là một vấn đề khó khăn và tế nhị, các chủ thể kinh doanh có thể lựa chọn đối tác kinh doanh theo nhiều cáchkhác nhau trong các trường hợp khác nhau. Song căn cứ thông thường được dùng để lựa chọn đó là:
- Quan điểm kinh doanh của đối tác.
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
- Khả năng kinh doanh của đối tác.
- Uy tín cùng các mối quan hệ trong kinh doanh của đối tác.
- Con người (xét về mọi mặt: tư cách đạo đức, tài năng,...) đại diện cho đối tác trong khi kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ.
Ngoài các cơ sở trên, trong việc lựa chọn đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu, chủ thể kinh doanh thường lựa chọn những bạn hàng có thể trực tiếp làm chức năng xuất nhập khẩu để hạn chế những hoạt động trung gian không cần thiết, bên cạnh đó các bạn hàng có quan hệ làm ăn lâu dài quen thuộc sẽ được ưu tiên khi lựa chọn.
Muốn kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả cần lựa chọn một cách sáng suốt và chính xác đối tác làm ăn của mình.
3.3.Lập phương án kinh doanh
Sau khi đã có kết quả của công việc nghiên cứu thị trường và phân tích giá cả cũng như xác định được đối tác làm ăn buôn bán, chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành lập phương án kinh doanh, đây là hoạt động cụ thể trong tương lai của đơn vị kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Các bước công việc gồm có:
- Đánh giá tổng quát về thị trường và các bạn hàng: Dựa trên cơ sở phân tích về thị trường, về bạn hàng, về giá cả,... để rút ra các kết luận tổng thể về mặt thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh.
- Lựa chọn mặt hàng xuất nhập khẩu cụ thể và điều kiện giá cả, phương thức kinh doanh thời gian kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Đề ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được trong kinh doanh gồm mục tiêu về doanh số, mục tiêu về lợi nhuận, mục tiêu uy tín, vị thế,... Đây là một công việc cần thiết vì muốn làm tốt công việc nào đó cần phải biết rõ mình cần phải làm gì để từ đó có những biện pháp thực hiện cụ thể phù hợp.
- Xây dựng các biện pháp, phương thức thực hiện. Đây chính là công cụ để thực hiện mục tiêu đặt ra từ trước.
- Sơ bộ đánh gía hiệu quả kết quả của quá trình kinh doanh: Ta thấy sau một quá trình kinh doanh (một chu kỳ kinh doanh, thường là 1 tháng hoặc 1 năm) người kinh doanh phải đánh giá tình hình kinh doanh của mình.
Nếu không đánh giá được hiệu quả kinh tế hoặc đánh giá sai thổi phồng thì hậu quả sẽ khó lường dẫn đến rủi ro thua lỗ trong các giai đoạn kinh doanh tiếp theo. Chính vì vậy trong khi lập kế hoạch kinh tế cũng cần phải đánh giá sơ bộ về kết quả mà dự án kinh doanh sẽ đem lại từ đó sẽ hạn chế được các rủi ro trong khi thực hiện.
Tóm lại, việc lập phương án kinh tế là rất quan trọng và cần thiết vì một phương án kinh doanh được lập ra một cách khoa học dựa trên cơ sở của sự phân tích tỉ mỉ đúng đắn và chính xác về thị trường, bạn hàng và về bản thân chủ thể kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến sự thành hay bại của hoạt động kinh doanh nói chung và của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng.
3.4.Giao dịch và ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
Sau khi đã tiến hành 3 phần công việc trên, chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành giao dịch nắm các đầu mối buôn bán tức là tìm kiếm các bạn hàng trong và ngoài nước với mục đích có thể lựa chọn được bạn hàng phù hợp để hoạt động kinh doanh có hiệu quả (an toàn và có lãi) bởi vì trên thực tế có nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu bị phá sản do đối tác kinh doanh không có đủ độ tin cậy và khả năng kinh doanh lại hạn chế.
Với nhiều hình thức giao dịch như gặp gỡ trực tiếp để bàn bạc, đàm phán thoả thuận hoặc thông qua thư từ, điện tín... nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có thể tìm hiểu được thị trường bạn hàng trong và ngoài nước để tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Để nắm bắt bạn hàng được tốt doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần gặp gỡ trực tiếp với bạn hàng để biết được thực trạng của bạn hàng như vậy mới đảm bảo độ tin cậy và an toàn trong kinh doanh.
Kết quả của việc giao dịch là phải đưa đến một thoả thuận nào đó trong mối quan hệ kinh doanh, khi các bên tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu đã đi đến được những thoả thuận trong quan hệ buôn bán kinh doanh thì đi đến ký kết hợp đồng ngoại thương. Ký kết hợp đồng cần lưu ý mấy điểm sau:
- Hợp đồng cần được trình bày sáng sủa rõ ràng, phản ánh đúng nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ nhiều cách hiểu.
- Hợp đồng cần đầy đủ, đề cập tới mọi vấn đề tránh việc phải áp dụng tập quán một nước để giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập tới. Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ pháp luật quốc tế cũng như luật pháp của các bên tham gia ký kết hợp đồng.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ mà các bên tham gia ký kết hợp đồng thông thạo.
- Người ký kết hợp đồng phải có đầy đủ thầm quyền chịu trách nhiệm về nội dung được ký kết.
Tóm lại là trong hợp đồng ký kết phải có đầy đủ các nội dung và mức độ thống nhất cần thiết, tránh những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra.
3.5.Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu
Hợp đồng xuất nhập khẩu được thực hiện tốt hay không đều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu và uy tín của họ trong kinh doanh sẽ giảm đi kéo theo thị trường có thể bị thu hẹp lại do phía bạn hàng và đối tác chấm dứt hợp tác kinh doanh. Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm và cố gắng không để xảy ra sai sót vì những sai sót sẽ gây ra thiệt hai cho các bên, là cơ sở phát sinh khiếu nại phải yêu cầu đối tác thực hiện các nhiệm vụ theo hợp đồng.
4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu
Hiện nay trong hoạt động kinh doanh, để phản ánh hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
a) Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu
Là lượng bản tệ (nội tệ) phải chi để có được một đơn vị ngoại tệ.
Kxk =
Fxk
Tx
> R (1)
P
Kxk
Trong đó:
Kxk: Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu.
Fxk: Chi phí đầy đủ bằng nội tệ cho một lô hàng xuất khẩu.
Tx: Số ngoại tệ thu được khi bán hàng.
R: Tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ với nội tệ.
Nếu bất phương trình (1) thoả mãn có nghĩa là xuất khẩu có hiệu quả.
b) Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu
Kxk =
Q.P
Tx
< R (2)
P
Kxk
Trong đó:
Knk: Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu.
Q: Khối lượng lô hàng nhập khẩu.
P: Giá cả của lô hàng ở trong nước tính bằng nội tệ.
Tn: Số ngoại tệ phải chi ra để nhập khẩu lô hàng.
Nếu bất phương trình (2) được thoả mãn có nghĩa là nhập khẩu có hiệu quả.
c) Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của nhập khẩu
Kxk =
Dxk - Fxk
Fxk
x 100
Dxk: Doanh thu ngoại tệ thuần tuý.
Fxk: Chi phí đầy đủ trong nước đối với xuất khẩu (quy ra ngoại tệ).
Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm lợi nhuận trên chi phí đầy đủ để xuất khẩu lô hàng.
d) Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của nhập khẩu
Nxk =
Fx C
C
x 100
Nnk: Chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu.
Fnk: Chi phí sản xuất hàng hoá tương tự hàng hoá nhập khẩu quy ra ngoại tệ.
C: Chi phí bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá.
Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm lợi nhuận trên vốn ngoại tệ bỏ ra để nhập khẩu lô hàng.
e) Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
Pnk = Q (P - F)
Pxn: Lợi nhuận của một mặt hàng xuất hoặc nhập khẩu.
Q: Khối lượng hàng xuất nhập khẩu.
P: Giá trị một đơn vị hàng hoá.
F: Chi phí đầy đủ một đơn vị hàng hoá.
Chỉ tiêu này giúp ta phân biệt lợi nhuận của từng mặt hàng, lô hàng hoặc chuyển hàng.
- Tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
SPX N = S Qi(Pi- Fi)
i = 1
n
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp. Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, người ta còn sử dụng chỉ tiêu tương đối như mức doanh lợi, chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, năng suất lao động...
Chương II
Thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm
miền Bắc
Trong những năm gần đây, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, tham gia tích cực vào nền kinh tế thị trường, đồng thời với chính sách và cơ chế mới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta trở nên sôi động, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này. Với sự mở rộng con số, qui mô, cũng như sự thay đổi phong cách làm ăn của các doanh nghiệp đã dẫn đến tình trạng cạnh trong xuất nhập khẩu hết sức hễt sức khốc liệt. Khác với các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc vừa đáp ứng cho nhu cầu sản xuất vừa đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được xác định trong 3 lĩnh vực chủ yếu: sản xuất, kinh doanh,và dịch vụ du lịch khách sạn. Để đánh giá thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty trước hết ta khái quát qua sự hình thành và phát triển cũng như cơ cấu tổ chức của công ty, qua đó đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng.
I. Lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty thực phẩm miền Bắc, có tên giao dịch quốc tế The Northern Foodstuff Company-FONEXIM, là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trên cả ba lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, du lịch khách sạn. công ty có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
Năm 1981 thành lập công ty rau quả trực thuộc Bộ Ngoại thương (nay là Bộ thương mại).
Năm 1991, công ty thực phẩm công nghệ miền Bắc sát nhập với công ty Rau Quả thành công ty thực phẩm miền Bắc trực thuộc Tổng công ty thực phẩm Bộ Thương mại.
Đến tháng 8/1999, Bộ Thương mại đã quyết định sát nhập các đơn vị phía Bắc vào Công ty thực phẩm miền Bắc.
Công ty thực phẩm miền Bắc
Bộ thương mại
Công ty thực phẩm XK Nam Hà
Xí nghiệp thực phẩm Thăng long
Công ty bánh kẹo Hữu Nghị
Trại chăn nuôi Vũ Thư Thái Bình
Chi nhánh thực phẩm Tôn Đản
Trong cơ chế cũ, tuy là một đơn vị kinh doanh nhưng công ty bị hạn chế bởi chính sách quản lý chung của Nhà nước theo kiểu kế hoạch hoá tập trung, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước sắp đặt trước bằng các kế hoạch, từ xuất nhập khẩu mặt hàng gì? ở đâu? bán cho ai? Cho đến giá bao nhiêu? đều được quy định trước. Do đó, công ty không thể chủ động phát huy khả năng và nguồn lực của mình.
Đại hội Đảng VI với chủ trương chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong đó có công ty thực phẩm miền Bắc. Với việc giao quyền chủ động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đã tạo điều kiện cho công ty thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên đó cũng là một thách thức lớn đối với công ty. Để tồn tại và phát triển hoà nhập với xu thế mới của đất nước và thế giới, công ty đã từng bước bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức kinh doanh phù hợp với quy mô và khả năng sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo, bồi dưỡng, tăng cường kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công ty, nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng mặt hàng xuất nhập khẩu, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động của mình, công ty đã trải qua nhiều khó khăn do tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến phức tạp nhưng công ty vẫn đứng vững và phát triển, ngày càng mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, mở rộng các quan hệ kinh tế với các bạn hàng nước ngoài như Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Ba Lan... ở trong nước, công ty có quan hệ với nhiều doanh nghiệp như công ty bánh kẹo Trường An, Hải Châu, Hải Hà, các cơ sở ở các tỉnh phía Bắc, các tư nhân ở các chợ lớn như Đồng Xuân, Hàng Da, các siêu thị lớn trong thành phố Hà Nội... Ngoài ra, công ty còn tiến hành tổ chức sản xuất và kinh doanh dịch vụ, khách sạn-du lịch. Công ty đầu tư, mở rộng, nâng cấp mạng lưới bán lẻ, tiến hành xuất nhập khẩu tại chỗ thu ngoại tệ, áp dụng biện pháp hữu hiệu để tổ chức nguồn hàng xuất nhập khẩu, định giá mua bán trên cơ sở căn cứ vào thị trường, thu thập thông tin, mở hội nghị khách hàng, rút kinh nghiệm... Qua đó, công ty thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, hướng nhập khẩu vào những mặt hàng chủ yếu phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đem lại hiệu quả kinh doanh cao đúng với chức năng ngành hàng, đúng hướng kinh doanh.
Hiện nay, công ty có 19 đơn vị trực thuộc ở các tỉnh trong cả nước:
1. Xí nghiệp chế biến, thực phẩm.
Số 9, Đường Lạc Trung-Quận Hai Bà Trưng-Hà Nội.
2. Xí nghiệp Bánh kẹo Hữu Nghị.
Số 9, Đường Lạc Trung-Quận Hai Bà Trưng-Hà Nội.
3. Xí nghiệp thực phẩm Thái Bình.
Phường Phú Khánh-Tx Thái Bình.
4. Chi nhánh công ty thực phẩm miền Bắc tại Hải Phòng.
Số 7 Minh Khai-Tp. Hải Phòng.
5. Chi nhánh công ty thực phẩm miền Bắc tại Tp.Hồ Chí Minh.
Số 52 Yên Thế, Phường 2, Quận Tân Bình-Tp.Hồ Chí Minh.
6. Chi nhánh công ty thực phẩm miền Bắc tại Việt Trì-Khách sạn Hà Nội
219 Đại lộ Hùng Vương-Tp.Việt Trì (Phú Thọ).
7. Nhà máy bánh quy cao cấp Hữu Nghị.
Phường Phương Liệt-Thanh Xuân-Hà Nội.
8. Chi nhánh công ty thực phẩm miền Bắc tại Lạng Sơn.
Thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn.
9. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 1.
Đường Làng Tám, Phường Giáp Bát, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
10. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 2.
215 Minh Khai, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
11. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp 203 Minh Khai.
203 Minh Khai, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
12. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 3.
Hàng Chiếu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
13. Khách sạn Nam Phương.
210 Trần Quang Khải, 217 Tôn Đản, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
14. Trung tâm thuốc lá.
210 Trần Quang Khải, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
15. Trung tâm rượu bia, nước giải khát.
210 Trần Quang Khải, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
16. Trạm kinh doanh thực phẩm công ty thực phẩm miền Bắc tại Nam Định
227 Vị Xuyên-Nam Định.
17. Trạm kinh doanh thực phẩm công ty thực phẩm miền Bắc tại Ninh Bình.
337 Đường Trần Hưng Đạo, Tx Ninh Bình.
18. Trạm kinh doanh thực phẩm công ty thực phẩm miền Bắc tại Quảng Ninh.
22 Đường Hoà Lạc, Thị xã Móng Cái, Quảng Ninh.
19. Trạm kinh doanh thực phẩm công ty thực phẩm miền Bắc tại Bắc Giang.
142 Đường Thánh Thiện, Tx Bắc Giang (Tỉnh Bắc Giang).
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty
Để thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài thì tổ chức bộ máy quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ khuyến khích người lao động trong công ty làm việc có chất lượng và năng suất cao. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty bao gồm:
Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty thực phẩm miền Bắc
Giám đốc
Các XN sản xuất
Các cửa hàng
XN bánh quy
Các chi nhánh
Các khách sạn
Phòng kỹ thuật
Phòng kinh doanh
Phòng kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế hoạch
PGĐ XNK
PGĐ Kinh doanh
PGĐ sản xuất
Đứng đầu công ty là Giám đốc do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm. Giám đốc điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty trước pháp luật, trước Bộ Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên chức của công ty về việc tồn tại và phát triển của công ty cũng như các hoạt động: Ký kết hoạt động, thế chấp vay vốn, tuyển dụng nhan viên, bố trí sắp xếp lao động... Giám đốc có trách nhiệm tổ chức bộ máy quản lý, mạng lưới kinh doanh cho phù hợp với nhiệm vụ của công ty và phân cấp quản lý của Bộ.
Dưới Giám đốc còn có 3 Phó Giám đốc phụ trách 3 mảng hoạt động của công ty:
- Phó Giám đốc phụ trách xuất nhập khẩu.
- Phó Giám đốc phụ trách hoạt động kinh doanh nội địa.
- Phó Giám đốc phụ trách sản xuất.
Các phòng ban cùng với Ban Giám đốc điều hành toàn bộ công việc của công ty từ việc tổ chức lao động đến việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Phòng kinh doanh: Là phòng chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước. Phòng kinh doanh tham mưu cho Giám đốc về:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty dựa trên thông tin ở phòng kế hoạch.
- Tham mưu cho Giám đốc về các hợp đồng xuất nhập khẩu, thực hiện kế hoạch do công ty giao cho, tham gia các hoạt động phối hợp chung của công ty.
- Mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
- Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu và lập phương án xuất nhập khẩu.
- Tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng hoá của công ty trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc.
- Nghiên cứu, tìm kiếm biện pháp thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá của công ty.
- Tổ chức các nguồn hàng nội địa, quan hệ chặt chẽ với các nhà sản xuất ngành hàng thực phẩm.
Phòng kế hoạch và thị trường: Tham mưu cho Giám đốc về:
- Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm từ các số liệu báo cáo định kỳ của các bộ phận khác trong công ty, từ tình hình thực tế của thị trường, xây dựng phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh và kế hoạch dài hạn.
- Điều tiết kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng quý, hàng năm theo nhu cầu sản phẩm trên thị trường, điều tiết kế hoạch vận chuyển hợp lý.
- Có kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị theo kế hoạch.
- Có trách nhiệm về chất lượng và bảo quản vật tư trong kho, quản lý tốt các kho của công ty.
- Nghiên cứu và tìm các biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của công ty.
Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho Giám đốc về:
- Quản lý toàn bộ nguồn vốn, các tài liệu, số liệu về kế toán tài chính, quyêt toán, tổng kiểm kê tài sản hàng năm theo định kỳ của Nhà nước.
- Báo cáo về tài chính lên cơ quan cấp trên và nộp các khoản ngân sách cho Nhà nước theo quy định.
- Tính toán các thương vụ kinh doanh của các đơn vị, cơ sở trực thuộ._.sẽ bảo đảm hơn về chất lượng, mẫu mã.
- Duy trì sản xuất các mặt hàng truyền thống kết hợp sản xuất các mặt hàng sản phẩm khác nếu tính toán có lãi và thị trường có nhu cầu. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sản phẩm của công ty sản xuất ra phải đảm bảo về chất lượng, mẫu mã đẹp, vệ sinh tốt. Đồng thời sản xuất phải gắn liền với kinh doanh và việc tiêu thụ sản phẩm. Phải xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, từ đó làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch sản xuất. Xác định sản xuất là mũi nhọn của công ty hiện nay.
- Hoàn thiện việc xây dựng các định mức kinh tế, kỹ thuạt trong sản xuất, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm để có điều kiện cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại đang có mặt trên thị trường.
3. Về hoạt động khách sạn- du lịch và dịch vụ cho thuê kho bãi
- Tiếp tục cải tạo và nâng cấp khách sạn Nam Phương và khách sạn Hà Nội. Đẩy mạnh hoạt động lữ hành. Tích cực tìm nguồn khách bằng các biện pháp: Tăng cường quảng cáo tiếp thị du lịch, đón khách từ xa, từ nhiều nguồn, linh hoạt trong cơ chế giá bán phòng. Tăng cường các dịch vụ ăn uống, giải trí, vận chuyển đưa đón khác, đi đôi với chính sách tiết kiệm trong sử dụng điện, nước, các chi phí khác...
- Bằng mọi cố gắng duy trì hoạt động khách sạn, du lịch đảm bảo doanh thu và công suất sử dụng phòng như năm 2001.
- Về dịch vụ cho thuê kho bãi: Trước hết tiếp tục ký hợp đồng cho thuê kho bãi, liên doanh với các đơn vị bạn hàng cùng xây dựng kho chứa hàng. Đồng thời phải sửa chữa một số diện tích kho, xưởng bị hư hại. Tận dụng sử dụng mặt bằng, đất đai của công ty hiện có để tăng doanh thu cho công ty.
Như vậy, từ nay đến thế kỷ 21, công ty vẫn kiên trì lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của mình: Sản xuất chế biến, kinh doanh dịch vụ, du lịch khách sạn. hoạt động sản xuất chế biến của công ty triệt để khai thác nguồn hàng trong nước nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của nhân dân, đầu tư mạnh về sản xuất bánh quy cao cấp, nước giải khát và rượu vang. Hoạt động kinh doanh của công ty cần phải mở rộng thị trường tiêu thụ tăng doanh số bán ra, trong đó tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Muốn vậy phải nhập khẩu về những loại hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty. Đồng thời công ty cũng nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại về để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, bao bì, mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp để nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và phục vụ cho xuất khẩu. Ngoài ra, công ty còn tham gia hội chợ ở nước ngoài để giới thiệu sản phẩm của mình, tăng cường mối quan hệ với các nước trong khối ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước trong khối EU, và thâm nhập thị trường Đông Âu và Nga... Sắp tới, công ty tiến hành cổ phần hoá từng phần nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc
Trong những năm qua, các hoạt động của công ty nói chung cũng như các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đã đạt được những kết quả tương đối tốt. Không chỉ đem lợi nhuận mà còn đem lại uy tín cho công ty, tạo ra những nền tảng ban đầu rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Tuy nhiên như đã phân tích, vẫn còn có những nhân tố gây khó khăn, cản trở việc nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. Những tồn tại trong thời gian qua cũng còn là những vấn đề cần suy nghĩ và giải quyết. Để có thể đứng vững và phát triển trong những năm tiếp theo, công ty cần phải không ngừng đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của mình. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao và hoàn thiện hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường ở công ty
Trong cơ chế thị trường, vấn đề trở thành trung tâm của mọi hoạt động kinh tế là rất là bất kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nào cũng cần phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường vì nó quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp.
Trước đây việc nghiên cứu thị trường nước ngoài là không quan trọng bởi xuất nhập khẩu theo nghị định thư của Nhà nước nên bạn hàng là do Nhà nước chỉ định. Nhưng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh, công ty phải tự tìm bạn hàng giao dịch, thị trường cũ quen biết, thị trường mới mở rộng thì việc nắm vững thị trường nước ngoài là công việc có ý nghĩa rất quan trọng đối với công ty hiện nay. Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài ở công ty mới ở mức trung bình, khái quát như nắm được tình hình chung về kinh tế, chính trị, xã hội ở thị trường đó về bạn hàng cũng chỉ nắm sơ qua về loại hình kinh doanh của họ, đại diện của họ, mối quan hệ cũ của họ với công ty hoặc qua sự giới thiệu bộ Thương mại. Do đó trong thời gian tới các phòng ban trong công ty cần đẩy mạnh hơn nữa công tác này theo các hướng sau:
- Hướng thứ nhất: Thành lập một bộ phận chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kỹ thuật Marketing, có nghiệp vụ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu để chủ động tìm bạn hàng, hiểu biết về uy tín của khách hàng, bạn hàng, đặc biệt quan hệ làm ăn lâu dài với họ. Thông qua đó nắm được chính xác chế độ chính sách, pháp luật của từng nước, nắm rõ uy tín về tài chính, cơ sở vật chất và tình hình kinh doanh của bạn hàng cần giao dịch, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng tên giao dịch của đối tác.
- Hướng thứ hai: Tổ chức thiết lập cơ quan đại diện cả công ty tại nước ngoài.
Điều này sẽ giúp cho công ty giám sát việc thực hiện hợp đồng của khách hàng, bạn hàng nước ngoài, nắm thông tin một cách nhanh chóng, chính xác nhất. Cơ quan đại diện của công ty sẽ tạo ra những thuận lợi sau cho công ty:
+ Đưa tên tuổi của công ty vào danh bạ thương mại của các doanh nghiệp nước đó.
+ Thực hiện việc đàm phán trực tiếp một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất.
+ Việc Marketing được cụ thể chi tiết, chính xác nhất.
+ Qua đại diện của công ty có thể mua hàng trực tiếp ở nước ngoài với giá FOB là giá thấp nhất, giành quyền thuê tàu, bảo đảm thủ tục thanh toán. Hoặc khi xuất khẩu với giá CIF là giá cao nhất, giảm rủi ro cho hàng hoá tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
+ Đại diện của công ty giám sát chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng bên bạn. Công ty nên đặt đại diện ở nước nào mà công ty có quan hệ làm ăn nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Công ty sẽ cử cán bộ có đủ năng lực, trình độ về ngoại thương, ngoại ngữ là người có tâm huyết với công ty. Thời gian phải ấn định mỗi nhiệm kỳ là 2 năm để cán bộ đó có đủ thời gian thiết lập quan hệ ngoại giao và yên tâm với công việc phải có báo cáo về thường xuyên. Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của đại diện.
Việc nghiên cứu thị trường qua đại diện nhằm giải quyết không chỉ đơn thuần vấn đề xác định rõ yêu cầu của thị trường mà còn có tác dụng giúp cho công ty lựa chọn bạn hàng và mặt hàng có hiệu quả.
- Hướng thứ ba: Nắm bắt thông tin về thị trường thông qua cá hình thức thông tin gián tiếp qua Bộ Thương mại, các vụ, thậm chí cả hình thức gián điệp (nếu cần). Mạnh dạn sử dụng đội ngũ cộng tác viên, có chế độ thưởng phạt thích hợp thoả đáng, có thể là 0,5% giá trị hợp đồng cho ai dẫn được khách vào ký kết hợp đồng ngoại thương.
- Hướng thứ tư: Đặc biệt chú trọng về chính sách tiền tệ của các nước mà công ty có quan hệ làm ăn chủ yếu ở Châu á, Châu Âu đặc biệt là các nước trong khối ASEAN. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đã ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ làm ăn của hai nước. Vì thanh toán theo đồng USD do đó điều này gây ra cho cả phía Việt Nam và phía bạn sự thiệt thòi lớn. Riêng trong năm 2001 giảm 55,8% so với năm 1999 là năm có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất của công ty. Điều này đòi hỏi công ty trong quan hệ buôn bán quốc tế phải tìm hiểu chính sách tiền tệ, dự đoán được tỷ giá hối đoái. Các thông tin đặc biệt quan trọng làm ảnh hưởng trực tiếp đên hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Do đó lựa chọn đồng tiền thanh toán có lợi nhất.
Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải tăng cường cán bộ kinh doanh giỏi, nghiệp vụ cao, có trình độ ngoại ngữ, tin học để kịp thời nắm bắt và xử lý thông tin nhanh nhất, giúp cho công ty giải quyết đầu ra một cách nhanh nhất, giảm tồn kho và sản xuất kinh doanh những mặt hàng kinh doanh có hiệu quả cao. Điều đó quyết định việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
2. Mở rộng thị trường và đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu
Những năm gần đây hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta ngày càng phát triển, chỉ riêng trong lĩnh vực thực phẩm đã có rất nhiều doanh nghiệp tham gia cung ứng cho thị trường với những loại hình sở hữu khác nhau. Vì vậy, việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu trong đó mở rộng thị trường xuất khẩu là hết sức cần thiết bởi cơ cấu xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu những năm qua là quá thấp, luôn luôn phải nhập siêu. Thông qua công tác nghiên cứu thị trường, công ty có những thông tin để đánh giá về thị trường xuất khẩu mà sản phẩm công ty dự định xâm nhập vào.
Hiện nay, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty chủ yếu là hoạt động nhập khẩu với thị trường chủ yếu là các nước châu á như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. Đây là những thị trường trọng điểm có quan hệ làm ăn lâu dài, đòi hỏi công ty phải tập trung khai thác, những mặt hàng mà hiện nay kinh doanh đang có hiệu quả: đường, sữa, dầu ăn... đồng thời cũng tích cực nghiên cứu tìm kiếm những mặt hàng mới trên cơ sở tính toán làm sao thu được lợi nhuận, được thị trường trong nước chấp nhận. Đối với thị trường này, công ty nên có những đại diện cuả mình để kịp thời thông báo thay đổi về tình hình hàng hoá mà công ty quan tâm, nếu không có đại diện thì công ty có thể sử dụng các thông tin của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, mặt khác không ngừng tìm kiếm những thị trường mới. Hiện nay mặt hàng xuất khẩu của công ty duy nhất là cao su nên để tăng cường hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu một mặt công ty phải tích cực tìm kiếm những thị trường cho sản phẩm cao su, mặt khác cần phải đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu thông qua hình thức xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất khẩu uỷ thác. Chỉ có như vậy công ty mới có khả năng mở rộng được thị trường xuất khẩu của mình từ đó làm tăng kim ngạch xuất khẩu.
3. Đa dạng hoá các phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu
Cùng với việc đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh thì việc đa dạng hoá các hình thức nhập khẩu có ảnh hưởng tích cực trong cạnh tranh, từ đó có thể đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên việc áp dụng các hình thức xuất nhập khẩu mới sẽ ngày càng đòi hỏi người làm công tác xuất nhập khẩu phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, nắm vững quy trình xuất nhập khẩu.
Mỗi phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu có những lợi thế riêng, nên việc đa dạng hoá các phương thức kinh doanh sẽ tận dụng được lợi thế của từng phương thức. Song tuỳ từng mặt hàng, tuỳ từng thị trường cụ thể mà công ty lựa chọn cho mình một phương thức kinh doanh thích hợp. Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty hẹp, chỉ có mặt hàng cao su cho nên trước mắt chưa mở rộng được mặt hàng xuất khẩu công ty nên tập trung vào hình thức xuất khẩu uỷ thác vì đây là hình thức đem lại hiệu quả nhanh mà không phải bỏ vốn đầu tư. Mặt khác ngoài việc tiếp tục thực hiện những phương thức kinh doanh truyền thống, công nên áp dụng một số hình thức khác như hình thức đổi hàng, hình thức này vừa giúp cho công ty tăng được kim ngạch xuất nhập khẩu đồng thời tránh được những thủ tục phiền hà cho cả hai bên khi tiến hành các phương thức khác.
4. áp dụng chính sách giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt
Giá cả là một yếu tố mà bất cứ nhà kinh doanh nào nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng phải biết áp dụng phù hợp nhất mà trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Ngoài việc nhập khẩu về cho sản xuất, công ty còn nhập để kinh doanh nên các quyết định về giá có tác động đến khối lượng bán, doanh thu và lợi nhuận của công ty. Xác định giá cả để chiếm ưu thế trong cạnh tranh là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với công ty. Trong cơ chế thị trường mở hiện nay, công ty gặp nhiều đối thủ cạnh tranh kinh doanh cùng ngành hàng nên chính sách giá cả sai lầm có thể đưa đến hậu quả lớn, nếu giá quá cao sẽ mất khách hàng, giảm lượng bán, giảm khả năng cạnh tranh, song nếu định giá quá thấp sẽ làm cho khách hàng nghi ngờ về chất lượng hàng hoá. Để có thể xác định giá phù hợp, nhanh chóng tiêu thụ được hàng hoá nhập khẩu một cách thuận tiện thì công ty làm một số việc sau:
- áp dụng chính sách giá linh hoạt, thay đổi theo từng thời điểm cụ thể, từng khách hàng cụ thể. Chính sách giá mềm dẻo không cứng nhắc sẽ làm cho khách hàng ở mọi khả năng có thể tìm đến công ty mua hàng.
- Có chính sách ưu đãi, khuyến khích khách hàng như giảm giá, chiết khấu, khuyến mại đối với khách hàng mua với số lượng lớn.Công ty cần hạ giá đối với những mặt hàng tồn kho, chất lượng kém.
5. Tổ chức các hình thức dịch vụ phục vụ khách hàng
Để chiến thắng trong cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngoài yếu tố giá cả và chất lượng thì dịch vụ là công cụ khá quan trọng trong việc đẩy mạnh doanh số tiêu thụ. Công ty nên đẩy mạnh các dịch vụ kèm theo khi bán hàng nhập khẩu. Cụ thể, công ty có thể bán hàng vận chuyển theo yêu cầu của khách hàng, bán tại những địa chỉ mà khách hàng yêu cầu với những phương thức bán hàng khác nhau như bán thu tiền ngay, bán trả góp,... với nhiều hình thức thanh toán: tiền mặt, séc... ngoài ra công ty có thể sửa chữa nâng cấp các cửa hàng của mình, sửa chữa mới các phương tiện hiện có của công ty cũng như nâng cao thái độ phục vụ khách hàng để ngày càng thu hút nhiều khách hàng đến với công ty. Đồng thời tích cực tham gia các hội chợ triễn lãm thương mại ở trong nước nhằm giới thiệu các mặt hàng mà công ty kinh doanh. Công ty cũng cần tổ chức các hội nghị khách hàng thường xuyên và có định kỳ, thông qua hội nghị khách hàng công ty có những thông tin chính xác về phía khách hàng về những ưu nhược điểm, những vướng mắc trong buôn bán, những thiêu sót trong quan hệ của công ty...
6. Nâng cao trình độ chuyên môn và áp dụng chế độ khuyến khích vật chất đối với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là yếu tố quan trọng cho việc thực hiện của công ty nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hiện nay với gần 700 cán bộ công nhân viên nhưng số người làm công tác xuất nhập khẩu lại quá ít, chỉ có 3 người ở phòng kế hoạch và thị trường đảm nhận từ khâu giao dịch đến ký kết hợp đồng, trong đó có 3 người có trình độ Đại học còn 1 người có trình độ trung cấp. Trước đây công ty cũng có 1 phòng xuất nhập khẩu nhưng do thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý nên phòng xuất nhập khẩu bị xoá bỏ và giao cho phòng kế hoạch và thị trường đảm nhận. Vì vậy để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu thì nhiệm vụ trước mắt và lâu dài là công ty cần phải bổ sung và đào tạo lại đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu. Công ty nên tuyển thêm 2 người vào làm công tác xuất nhập khẩu, những người này phải có trình độ, được đào tạo qua các trường: Đại học KTQD, Ngoại thương, Thương mại và phải có kiến thức thương mại quốc tế, kỹ năng và kỹ thuật giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng, phải hiểu biết về chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải có quy chế thưởng phạt và gắn trách nhiệm rõ ràng của mỗi nhân viên xuất nhập khẩu với từng mặt hàng và từng hợp đồng được ký. Cụ thể công ty có thể thưởng 0,5% giá trị lợi nhuận của một hợp đồng cho nhân viên nào ký được hợp đồng có hiệu quả hoặc tìm đối tác đến ký hợp đồng với công ty.
III. Những kiến nghị về phía Nhà nước
1. Tăng cường sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
Để khuyến khích hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà nước cần nhiều biện pháp như hỗ trợ về mặt tài chính, tín dụng, miễn giảm thuế xuất nhập khẩu những mặt hàng và lĩnh vực cần thiết, trợ giá một số mặt hàng xuất khẩu. Giúp đỡ người sản xuất và kinh doanh về khoa học kỹ thuật và thông tin thị trường, tạo điều kiện để người kinh doanh xuất nhập khẩu làm tốt công tác tiếp thị, trực tiếp tìm hiểu bạn hàng và thị trường tiêu thụ. Phát huy vai trò của phòng thương mại và công nghiệp và các tổ chức làm dịch vụ tiếp thị hỗ trợ các doanh nghiệp cải tiến công tác thông tin kinh tế, nhất là thông tin về thị trường và đối tác, một mặt phục vụ công tác lãnh đạo và quản lý, mặt khác đáp ứng nhu cầu của nhà sản xuất kinh doanh ở trong nước cũng như của giới kinh doanh nước ngoài về hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Phát triển mạnh các hình thức quan hệ trực tiếp và lành mạnh giữa những người sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu, chống độc quyền, ép giá, từng bước hình thành các hiệp hội xuất khẩu đối với từng ngành hàng và tham gia các hiệp hội buôn bán quốc tế. Để khuyến khích xuất nhập khẩu mạnh hơn nữa, cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, quản lý mặt hàng xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch, giảm thủ tục hành chính đặc biệt là trong việc cấp giấy phép, xử lý kịp thời tỷ giá hối đoái theo hướng khuyến khích xuất khẩu và điều tiết nhập khẩu hợp lý. Nhập khẩu cần được kiểm soát chặt chẽ bằng cả chính sách thuế, công tác hải quan và các biện pháp hành chính cần thiết. Điều quan trọng là sản xuất trong nước phải đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu hết sức đa dạng của các đối tượng tiêu dùng và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh đối với hàng nước ngoài.
Phải xây dựng chiến lược hàng hoá xuất nhập khẩu cho từng địa phương, từng lĩnh vực, từng vùng trong thời gian dài, tạo ra những mặt hàng chủ yếu. Giải quyết đồng bộ các biện pháp từ vốn đầu từ thuộc nhiều nguồn khác nhau đến cơ chế chính sách của Nhà nước, từ sản xuất khai thác đến chế biến, tiêu thụ, dần tạo ra bạn hàng ổn định trên thị trường thế giới.
Một mặt chúng ta tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời cần thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu những gì trong nước có khả năng sản xuất có hiệu quả. Nhà nước có chính sách rõ ràng, công khai quy định việc bảo hộ sản xuất trong nước trong từng thời gian với từng mặt hàng cần thiết, trước hết đối với những mặt hàng có nhu cầu lớn, thiết yếu, co điều kiện phát triển về quy mô, nâng cao được chất lượng, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng trong nước.
Nhà nước cần phải quan tâm và có biện pháp tích cực trong việc buôn lậu, trốn thuế và gian lận thương mại nhằm giúp cho các doanh nghiệp trong nước trong đó công ty thực phẩm miền Bắc đứng vững trên thị trường và kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời Nhà nước phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên tránh “Đầu voi đuôi chuột”. Cơ quan giám sát phải độc lập về hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ kiểm tra giám sát, tránh được tình trạng làm ăn chia, thông đồng với bọn buôn lậu và gian lận thương mại gây thất thoát cho nền kinh tế làm mất đi động lực cạnh tranh của sản xuất trong nước.
2. Cải tiến hệ thống thuế xuất nhập khẩu
Hiện nay, hàng hoá ưu tiên xuất khẩu cho nên mức thuế đối với hàng xuất khẩu thấp, song với hàng nhập khẩu thì biểu thuế nhập khẩu hiện nay của một số mặt hàng nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước mà ta chưa tự sản xuất được còn cao. Nhà nước cần phân loại mặt hàng nhập khẩu, từ đó xác định mức thuế đối với hàng phục vụ cho sản xuất trong nước thấp hơn so với mặt hàng nhập về để tiêu dùng vì nếu mức thuế nhập khẩu mặt hàng này cao dẫn đến giá thành cao và giá bán cao, khó cạnh tranh và khó đem lại hiệu quả cho các doanh nghiệp. Thêm vào đó, hiện nay mối quan tâm lớn nhất của công ty cũng như các doanh nghiệp khác là sự ổn định của biểu thuế xuất nhập khẩu. Nhưng do tình hình thị trường biến động, Nhà nước luôn thay đổi biểu thuế nhập khẩu đối với mặt hàng mà công ty kinh doanh. Vì vậy gây khó khăn cho công ty trong việc định giá và xây dựng lập kế hoạch nhập khẩu, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh. Do đó, Nhà nước cần điều chỉnh hợp lý biểu thuế xuất nhập khẩu để cho công ty lập kế hoạch kinh doanh ổn định, không bị động bởi thuế nhập khẩu luôn biến đổi.
3. Đổi mới chính sách giá cả và ổn định tỷ giá
Thực hiện chính sách giá cả hợp lý do thị trường điều tiết trên cơ sở có sự quản lý của Nhà nước, tránh tình trạng đầu cơ, tích trữ nhằm mục đích độc quyền gây mất ổn định giá cả trong nền kinh tế.
Nhà nước cần giữ sự ổn định tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền, thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết nhập khẩu hợp lý vì nhập khẩu đầu vào phục vụ cho sản xuất tăng lên dẫn đến giá thành đầu ra cũng tăng, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Nhà nước cần có chính sách ngoại hối hợp lý và chủ động đẩy lùi tình trang đola hoá trong lưu thông tiền tệ, từng bước làm cho đồng Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ. Nhà nước cần tiếp tục và hoàn thiện hệ thống giá cả hàng hoá đồng thời phải thực hiện tốt công tác quản lý giá.
4. Chính sách kinh tế đối ngoại
Giải pháp đặt lên hàng đầu cho thực hiện chiến lược phát triển là khai thông các mối quan hệ quốc tế. Chúng ta mới thực sự “mở cửa” quan hệ với bên ngoài trong vài năm gần đây, sự hoà nhập vào thị trường thế giới còn rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp ngại quan hệ với các đối tác nước ngoài một phần vì trước đây chưa làm không biết là sẽ ra sao khi quan hệ với họ, phần vì còn chưa đủ khả năng. Khoảng thời gian này chưa đủ củng cố và phát triển toàn bộ các hoạt động với một thị trường rộng lớn và phức tạp như vậy. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thiếu các mối quan hệ mua bán và sự phát triển thị trường từ phía Nhà nước. Nhà nước cần giúp các phương thức giúp các doanh nghiệp hoà nhập, hội nhập vào môi trường quốc tế như khuyến khích hội chợ, triển lãm quốc tế tại Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia giới thiệu sản phẩm của mình với các bạn hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tìm kiếm các nguồn đầu tư vốn, công nghệ trên cơ sở có thẩm định chặt chẽ, tìm kiếm các đối tác để liên doanh, chọn dự án đầu tư nước ngoài một cách có hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí vốn. Nhà nước còn mở rộng các hệ thống đại diện tiếp xúc đầu tư và đổi mới công nghệ tại các nước phát triển, thành lập các cơ quan đại diện ở nước ngoài để trực tiếp bắt mối, sàng lọc các nhà đầu tư, các nhà xuất nhập khẩu. Thông tin về các mối quan hệ này có thể công bố trên các báo chí, tập san chuyên ngành để thông báo cho các doanh nghiệp trong nước nắm bắt kịp thời tạo cơ hội kinh doanh và hoạt động ngoại thương.
Để có được các hiệu quả làm ăn kinh tế với các nước thì chế độ chính trị của nước ta cũng có vai trò quyết định quan trọng. Chính trị có ổn định thì mới tạo ra một sự đảm bảo về mặt luật pháp cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Họ sẽ có ý định làm ăn lâu dài chứ không vì lợi nhuận trước mắt. Góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta.
Kết luận
Những năm qua thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo ngành thương mại đã cùng các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
Hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những khó khăn trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cũng như về phía Nhà nước phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh hoạt động này.
Công ty thực phẩm miền Bắc đã đạt được một số thành tích trong quá trình hoạt động của mình đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu đã cung cấp những hàng hoá cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong nước trong lĩnh vực thực phẩm, góp phần nâng cao chất lượng của người tiêu dùng. Thành tích này của công ty còn khiêm tốn so với yêu cầu của xã hội. Trong hoạt động của mình, công ty gặp nhiều thuận lợi song cũng gặp phải không ít khó khăn. Công ty cần cố gắng hơn nữa trong vai trò hỗ trợ thúc đẩy sản xuất trong nước và sự phát triển của công ty.
Trong thời gian thực tập ở công ty, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu ở công ty và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu. Hy vọng góp một phần nhỏ vào quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty.
Qua đây em cũng chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Hồng Thuỷ và cán bộ của công ty thực phẩm miền Bắc đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Lời cam kết
Trong bài luận văn này có sử dụng một số trang, bài của một số tác giả trong một số sách, tạp chí. Tôi kính mong được sự thông cảm của các tác giả của các bài viết này và tôi xin chân thành cảm ơn.
Bài luận văn này do chính tôi nghiên cứu, biên soạn và trình bày. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về bài viết của mình trước khoa và nhà trường.
Tài liệu tham khảo
Tên sách:
PTS. Đỗ Đức Bình, Kinh doanh Quốc tế, NXB Giáo dục Hà Nội, Năm 2000.
PGS-PTS. Nguyễn Duy Bột, Thương mại Quốc tế, NXB Thống kê Hà Nội năm 2000.
PTS. Đặng Đình Đào, Kinh tế Thương Mại dịch vụ ( Tổ chức và quản lý kinh doanh), NXB Thống kê Hà Nội năm 1999.
PGS-PTS. Hoàng Minh Đường, Quản trị doanh nghiệp thương mại, NXB Thống kê Hà Nội năm 2000.
GS-TS. Ngô Đình Giao, Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp, NXB KHKT năm 2000.
PGS-PTS. Phạm Hữu Huy, Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp, Hà Nội năm 1998.
PTS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền, TS. Nguyễn Thị Hồng Thuỷ, Lý thuyết QTKD, NXB KHKT Hà Nội năm 2000.
PGS-PTS. Trần Chí Thành, Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế, NXB Giáo Dục Hà Nội năm 2000.
Tên tạp chí:
PTS. Hoàng Thịnh Lâm, Vì sao khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu kém, Tạp chí công nghiệp, cơ quan của Bộ công nghiệp- Số 7 ( Tháng 4 năm 2002).
Võ Thị Cẩm Ngọc, mấy suy nghĩ về thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh XNK, tạp chí thương mại , cơ quan của Bộ Thương mại , số 5(tháng 3/2002)
Nguyễn Thị Nhung, tỷ giá hối đoái trong kinh doanh XNK và xu hướng điều chỉnh, tạp chí kinh tế và dự báo, cơ quan ngôn luận của bộ kế hoạch và đầu tư, số 2 năm 2002.
Nguyễn Thông, những biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh XK năm 2002, tạp chí kinh tế và dự báo, cơ quan ngôn luận của bộ kế hoạch và đầu tư, số 3 năm 2002.
Lời nói đầu
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế trị trường
I. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm về kinh doanh
2. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
3. Phân loại hiệu quả kinh doanh
3.1.Hiêu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân
3.2.Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
3.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
4.1. Các nhân tố bên trong
4.2. Nhân tố môi trường bên ngoài
II. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1. Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả của sản xuất kinh doanh
2. Giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế chủ yếu nhằm bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
3.1.Chỉ tiêu tổng quát
3.2. Hệ thống các chỉ tiêu bộ phận
III. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta
1. Sự cần thiết và vai trò của thương mại quốc tế
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thương mại quốc tế ở nước ta hiện nay
3. Nội dung của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
3.1. Nghiên cứu thị trường thế giới
3.2. Lựa chọn đối tác kinh doanh
3.3. Lập phương án kinh doanh
3.4. Giao dịch và ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
3.5. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu
4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu
Chương II: Thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc
I. Lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty
3. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
3.1. Chức năng của công ty
3.2. Nhiệm vụ của công ty
III. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua
1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thực phẩm miền Bắc (1999-2001)
2. Tình hình bảo toàn và phát triển vốn
3. Tình hình tiền lương của cán bộ công nhân viên của công ty (giai đoạn 1999-2001)
III. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty
1. Đánh giá công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu
2. Phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc
3. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty
4. Đánh giá về thị trường xuất nhập khẩu
4.1.Thị trường quốc tế
4.2.Thị trường trong nước với hoạt động nhập khẩu
5. Đánh giá một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của công ty
5.1. Mặt hàng nhập khẩu
5.2. Mặt hàng xuất khẩu
6. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu
6.1. Xét các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận của quá trình sản xuất kinh doanh của công ty thực phẩm miền Bắc
6.2. Hiệu quả kinh doanh các mặt hàng của công ty
7. Đánh giá hoạt động xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc
7.1. Những thuận lợi của công ty thực phẩm miền Bắc
7.2. Những khó khăn của công ty và nguyên nhân
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc
I. Phương hướng sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian tới
1. Về kinh doanh
2. Về sản xuất, chế biến
3. Về hoạt động khách sạn- du lịch và dịch vụ cho thuê kho bãi
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc
1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường ở công ty
2. Mở rộng thị trường và đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu
3. Đa dạng hoá các phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu
4. áp dụng chính sách giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt
5. Tổ chức các hình thức dịch vụ phục vụ khách hàng
6. Nâng cao trình độ chuyên môn và áp dụng chế độ khuyến khích vật chất đối với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu
III. Những kiến nghị về phía Nhà nước
1. Tăng cường sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
2. Cải tiến hệ thống thuế xuất nhập khẩu
3. Đổi mới chính sách giá cả và ổn định tỷ giá
4. Chính sách kinh tế đối ngoại
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0404.doc