Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

Phần mở đầu Lý do chọn đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất trong hệ thống bảo đảm xã hội. Bảo hiểm xã hội có bản chất nhân văn sâu sắc nhằm mục đích ổn định cuộc sống của người lao động. Nó luôn theo suốt cả cuộc đời người lao động từ khi còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ thai sản đến khi trưởng thành người lao động được hưởng các chế độ ốm đau, tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN), khi về già được hưởng chế độ hưu trí và khi qua đời được hưởn

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chế độ mai táng phí. Thông qua phương tiện đồng tiền, bảo hiểm xã hội thực hiện các hoạt động thu, chi bảo hiểm xã hội - đây là nội dung chính của chính sách tài chính bảo hiểm xã hội. Các hoạt động bảo hiểm xã hội cần phải có nguồn tài chính làm phương tiện, song mục tiêu của các hoạt động tài chính bảo hiểm xã hội không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục đích an sinh xã hội. Xuất phát từ bản chất tốt đẹp của bảo hiểm xã hội nên ngay từ khi mới thành lập nước Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến hoạt động này. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, chính sách bảo hiểm xã hội luôn gắn liền và phát triển cùng với các thời kỳ phát triển của đất nước. Trong thời kỳ bao cấp, chính sách tài chính bảo hiểm xã hội cũng mang nặng tính bao cấp. Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chính sách tài chính bảo hiểm xã hội nói riêng đã được Nhà nước điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên trong việc thực hiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội đã bộc lộ một số nội dung cần phải được nghiên cứu để hoàn chỉnh tiếp như: Nhận thức về tài chính bảo hiểm xã hội như thế nào cho đúng, quỹ bảo hiểm xã hội có độc lập với ngân sách hay không, tài chính bảo hiểm xã hội có phải là tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu hay không... Và theo nội dung đổi mới thì việc thực hiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội có gì thuận lợi, khó khăn, và còn những tồn tại gì cần giải quyết? Đây chính là những vấn đề thời sự cần phải được nghiên cứu một cách có hệ thống. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam” làm luận văn Thạc sỹ của mình. Mục đích nghiên cứu -Tổng hợp và hệ thống hoá những vấn đề lý luận về bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội. -Đánh giá thực trạng về tài chính bảo hiểm xã hội, thực tế quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam trong thời gian qua. -Đề xuất phương hướng nhằm hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời gian tới. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của Đảng được đề ra trong các kỳ đại hội VI,VII,VIII và IX về lĩnh vực kinh tế xã hội. Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống, khái quát, tổng hợp, thống kê và phân tích. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài làm rõ thêm những nội dung liên quan đến chính sách tài chính bảo hiểm xã hội như nhận thức về tài chính của bảo hiểm xã hội như thế nào cho đúng, quỹ bảo hiểm xã hội có độc lập với ngân sách hay không, tài chính bảo hiểm xã hội có phải là tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu hay không... Đánh giá thực trạng về tài chính bảo hiểm xã hội, thực tế quản lý tài chính BHXH ở Việt nam trong thời gian qua. Trình bày một cách hệ thống nội dung chính sách tài chính trong thời kỳ đổi mới. Nêu lên phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu chính sách tài chính bảo hiểm xã hội mà chủ yếu là chính sách thu, chi của 5 chế độ bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt nam quản lý còn chính sách bảo hiểm y tế do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài chưa đề cập đến. Tuy nhiên Bảo hiểm y tế đã sát nhập vào bảo hiểm xã hội nên phần điều kiện tổ chức thực hiện đề tài có đề cập một số phần nhỏ để đảm bảo tính thống nhất trong việc tổ chức thực hiện. 6. Kết cấu của luận văn Để làm rõ mục đích nghiên cứu nên trên ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài có cấu trúc 3 chương chính như sau: Chương 1- Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội và tài chính bảo hiểm xã hội. Chương 2-Thực trạng chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam. Chương 3-Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong những năm tới. Chương 1- Cơ sở lý luận về Bảo Hiểm Xã Hội và tài chính Bảo Hiểm Xã Hội 1.1. Những vấn đề cơ bản về BHXH và tài chính Bảo Hiểm Xã Hội 1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của Bảo hiểm xã hội 1.1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời và phát triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở Châu âu. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp cộng đồng để đối phó với những khó khăn về kinh tế - xã hội do bị ngừng hoặc giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, chết đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Bảo hiểm xã hội là một nội dung lớn nhất và ổn định nhất của an sinh xã hội. Trong bất cứ xã hội nào có nền kinh tế thị trường, nhu cầu bảo hiểm xã hội luôn luôn là yêu cầu thiết yếu của cuộc sống của cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động (sau đây gọi tắt là người lao động). ở hầu hết các nước trên thế giới, dưới các hình thức khác nhau, bảo hiểm xã hội đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay, từ tự phát đến tự giác, từ tự nguyện đến bắt buộc, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, tùy theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng quốc gia. Đến giữa thế kỷ 20, bảo hiểm xã hội đã được thừa nhận trong bản Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có đoạn viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thỏa mãn các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người...”. Năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra Công ước số 102 về chế độ BHXH để khuyến cáo các nước thành viên Liên hiệp quốc thực hiện. Theo quy định của tổ chức ILO, Bảo hiểm xã hội có 9 chế độ trợ cấp: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thai sản Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Trợ cấp hưu trí Trợ cấp tử tuất Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp tàn tật (mất sức lao động) Ngày nay, bảo hiểm xã hội đã phát triển rộng khắp các nước trên thế giới với các hình thức phong phú đa dạng nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. ở nước ta, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, chỉ có công nhân viên chức và lực lượng vũ trang mới là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, Nhà nước đảm bảo đối tượng này những trợ cấp khác nhau bằng tiền hoặc hiện vật. Nguồn chi trả bảo hiểm xã hội do ngân sách Nhà nước cấp trên cơ sở đóng góp của các xí nghiệp và của Nhà nước, người lao động không phải trực tiếp đóng góp. Chuyển sang cơ chế thị trường, người lao động trong mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. Khi đó bảo hiểm xã hội không phải chỉ có sự đảm bảo, sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với công nhân viên chức mà là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của mọi người lao động khi họ giảm hoặc mất khả năng lao động. Theo Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành. Bao gồm các chế độ sau: Chế độ trợ cấp ốm đau Chế độ trợ cấp thai sản Chế độ trợ cấp tai nạn lao động Chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp Chế độ trợ cấp hưu trí Chế độ trợ cấp tử tuất Ngoài ra, theo Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/3/2001 thì bảo hiểm xã hội còn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. 1.1.1.2.Bản chất BHXH, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại Bảo hiểm xã hội là một hệ thống các chế độ trợ cấp nhằm góp phần thay thế thu nhập (tiền lương hoặc tiền công) của người lao động khi gặp phải những trường hợp rủi ro bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí hoặc tử tuất để đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ bằng cách hình thành một quỹ tài chính để trợ cấp do các bên liên quan đến việc sử dụng lao động và bản thân người lao động đóng góp. Bảo hiểm xã hội ra đời là yêu cầu khách quan đối với người lao động và xã hội. Xét từ phía người lao động, trong quá trình lao động sản xuất, kinh doanh, người lao động luôn gặp phải những trường hợp rủi ro khách quan như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu... làm cho họ bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công để đảm bảo cuộc sống; hoặc người lao động bị chết mà con cái ở tuổi vị thành niên, bố mẹ già yếu mất nơi nương tựa. Vì thế để có nguồn tài chính thay thế cho thu nhập từ tiền lương, tiền công nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình người lao động khi gặp rủi ro hoặc già yếu tất yếu khách quan phải tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội. Xét từ phía xã hội, quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lực lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ trong quá trình sản xuất công tác họ còn phải làm nhiệm vụ người mẹ sinh đẻ, nuôi con, chăm sóc con lúc ốm đau... Trong thời gian thai sản, nuôi con nhỏ, chăm sóc con lúc ốm đau họ phải nghỉ lao động nên mất nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công. Để đảm bảo nguồn tài chính cho các nhu cầu đó tất yếu khách quan phải tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội thích hợp. Mặt khác, do sự vận động của các quy luật nội tại của nền kinh tế thị trường đặc biệt là quy luật cạnh tranh nên trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp gặp phải rủi ro khách quan hoặc chủ quan dẫn đến sản xuất kinh doanh đình trệ, phá sản, người lao động có thể bị thất nghiệp, mất thu nhập không đảm bảo cuộc sống, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, đời sống, trật tự, an ninh xã hội. Vì thế để đảm bảo nền kinh tế-xã hội phát triển cân bằng, ổn định, bền vững, cuộc sống của người lao động ổn định trước những rủi ro khách quan Nhà nước phải có những biện pháp. Một trong những biện pháp đó là tạo dựng quỹ bảo hiểm xã hội. Nhà nước có thể thông qua phân phối lại Ngân sách Nhà nước để đóng góp một phần vào quỹ bảo hiểm xã hội hoặc Nhà nước bắt buộc các doanh nghiệp cũng phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Số tiền các doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội được hạch toán vào giá thành sản phẩm và được người tiêu dùng chấp nhận thông qua việc chấp nhận giá sản phẩm. Chính vì tính chất xã hội, tính chất cộng đồng này nên quỹ bảo hiểm cho người lao động mới có tên là quỹ bảo hiểm xã hội. Thực chất người sử dụng lao động nộp phí vào quỹ bảo hiểm xã hội là nộp thay cho người tiêu dùng sản phẩm để đảm bảo an toàn cho xã hội. Người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội không phải chỉ do chính bản thân người lao động đóng góp theo quy định mà cả chủ sử dụng lao động và Nhà nước cũng góp phần. Tuy nhiên bảo hiểm xã hội cũng là một loại hình bảo hiểm tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường, giữa bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại có nhiều điểm giống và khác nhau, nhưng có một số điểm giống và khác nhau cơ bản đó là: Giống nhau: Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại đều hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù cho số ít. Nghĩa là số đông người tham gia đóng bảo hiểm để bảo hiểm cho số ít người không may bị rủi ro. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại chủ yếu do các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp. Khác nhau: Hoạt động của bảo hiểm xã hội là những hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì an sinh xã hội. Thu của bảo hiểm xã hội dùng để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội. Nếu thu không đủ chi, Ngân sách Nhà nước trợ cấp. Hầu hết các nước trên thế giới, Ngân sách Nhà nước đều cấp bù cho quỹ bảo hiểm xã hội một khối lượng rất lớn như: Đan mạch Nhà nước cấp hỗ trợ 81%, Ai len là 66%..., ở nước ta, theo chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành, người lao động và chủ sử dụng lao động đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội 20% tiền lương. Trong quãng thời gian người lao động nghỉ hưu, quỹ bảo hiểm xã hội chỉ đủ chi trả cho 8 năm, từ năm thứ 9 Ngân sách Nhà nước cấp bù. Nhưng mục đích của loại hình bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. Các hoạt động bảo hiểm thương mại được thực hiện theo Luật Công ty và Luật doanh nghiệp, phải hạch toán kinh doanh, phải đóng thuế cho Nhà nước và nếu thua lỗ không được Nhà nước cấp bù. Đó là những điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm xã hội và các loại bảo hiểm thương mại. 1.1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội Hoạt động bảo hiểm xã hội là loại hoạt động dịch vụ công mang tính xã hội cao lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động của bảo hiểm xã hội có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị xã hội. -Bảo hiểm xã hội tạo ra mạng lưới an toàn xã hội cho những đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, góp phần ổn định an ninh chính trị xã hội. Trong cuộc sống hoạt động của con người, họ luôn phải đối mặt với những rủi ro như ốm đau, tai nạn, tuổi già... làm giảm khả năng lao động dẫn đến tình trạng thu nhập thấp hoặc mất khả năng lao động, dưới hình thức huy động các nguồn vốn đóng góp từ người lao động, chủ sử dụng lao động, Nhà nước bảo hiểm xã hội trợ cấp và khắc phục những khó khăn về kinh tế cho người lao động. Nếu không có nguồn tài chính đảm bảo cho người lao động khi mất thu nhập thì họ có thể đi vào con đường xấu của tệ nạn xã hội. Tệ nạn đó sẽ làm cho xã hội trở nên rối ren, nền kinh tế-chính trị-xã hội mất ổn định. Trên giác độ đó bảo hiểm xã hội góp phần tạo lập hệ thống an toàn chính trị-xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội. - Bảo hiểm xã hội góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất. Hoạt động mạnh mẽ và rộng khắp của bảo hiểm xã hội giúp người lao động yên tâm làm việc, tạo tâm lý ổn định thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, khả năng lao động cao của người lao động. Sự an tâm làm việc góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội. - Bảo hiểm xã hội làm tăng sự gắn bó mật thiết giữa người lao động, chủ sử dụng lao động và Nhà nước. Khi chủ sử dụng lao động thực hiện trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội để người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội thì họ đã tạo được sự tin tưởng của người lao động đối với chủ sử dụng lao động, khuyến khích người lao động toàn tâm toàn ý, phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình công tác, gắn bó lâu dài với chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó nếu trong quá trình sản xuất, người lao động gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn... họ không thể tham gia sản xuất được doanh nghiệp vẫn phải trả thu nhập cho người lao động, nhưng sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ. Điều này là một gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp, lợi ích của doanh nghiệp bị đe dọa nếu không có bảo hiểm xã hội đứng ra gánh chịu cho họ. Thông qua việc tổ chức, duy trì hoạt động bảo hiểm xã hội, Nhà nước đã đảm bảo cho mọi người, mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần đảm bảo cho ổn định kinh tế chính trị xã hội. - Bảo hiểm xã hội góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Trong quá trình hoạt động, bảo hiểm xã hội thực hiện thu các khoản đóng góp và giải quyết các chế độ cho người lao động. Với nguyên tắc hoạt động lấy số đông bù cho số ít, trong những khoảng thời gian nhất định quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời có những khoản tiền nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội góp phần tăng trưởng quỹ và tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước. - Bảo hiểm xã hội thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động. Biểu hiện cụ thể là thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động có thu nhập cao với những người lao động có thu nhập thấp, giữa những người lao động đang lao động với những người lao động đang nghỉ việc vì nhiều lý do khác nhau qua đó BHXH đã trở thành một công cụ quan trọng trong việc tái phân phối thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH, thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì và bảo vệ công bằng xã hội. Một số nội dung về tài chính Bảo hiểm xã hội 1.1.2.1.Bản chất tài chính bảo hiểm xã hội, phân biệt quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách nhà nước Để hiểu rõ bản chất tài chính của bảo hiểm xã hội ta tìm hiểu tài chính bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội. Tài chính được đặc trưng bởi sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế-xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hay thể nhân) trong xã hội. Tài chính bảo hiểm xã hội là thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính, là một khâu trong hệ thống tài chính quốc gia (tài chính bảo hiểm gồm các khâu: tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính bảo hiểm thương mại) tham gia vào quá trình phân phối, sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động khi gặp rủi ro, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chúng ta có thể thấy rõ qua sơ đồ sau: (Giáo trình Tài chính học,Trang23, ĐH Tài chính-Kế toán HN, 1998) Quỹ bảo hiểm xã hội là một thuật ngữ chỉ nội dung vật chất của tài chính bảo hiểm xã hội, nó chỉ số lượng bằng tiền nhiều hay ít, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và được dùng để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định. Về mặt lý luận, để hình thành một khâu tài chính phải xuất phát từ các lý do: -Mỗi khâu tài chính phải là một quỹ tiền tệ được tạo lập và sử dụng cho một mục đích nhất định. -Mỗi khâu tài chính phải gắn với một chủ thể cụ thể. -Các quan hệ tài chính xếp vào một khâu tài chính nếu hoạt động tài chính có cùng tính chất, đặc điểm, vai trò và đồng nhất về các hình thức; quan hệ tài chính phù hợp với mục đích sử dụng của tiền tệ. Như vậy, tài chính bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội là hai thuật ngữ khác nhau nhưng lại có nhiều nội dung đồng nghĩa với nhau nên trên thực tế nói đến tài chính bảo hiểm xã hội thì thực chất cũng là nói đến các mối quan hệ trong sự tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Vì thế để hiểu bản chất của quỹ bảo hiểm xã hội cũng như hiểu bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội phải đi sâu phân tích các mối quan hệ kinh tế-xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ bao gồm nhiều nội dung, mỗi nội dung được hình thành từ một chế độ, chính sách cụ thể. Để phân tích bản chất tài chính bảo hiểm xã hội trước hết phải phân loại nội dung quỹ bảo hiểm xã hội theo các tiêu thức. Có nhiều cách phân loại nội dung quỹ bảo hiểm xã hội, mỗi tiêu thức phân loại lại có những ý nghĩa nhất định. Để nghiên cứu bản chất tài chính bảo hiểm xã hội nên tiêu thức phân loại nội dung của quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu phân theo nguồn hình thành và nội dung chi của quỹ vì trong các nội dung kinh tế-xã hội của quỹ bảo hiểm xã hội thì thu và chi là những nội dung chủ yếu của quỹ. Nguồn hình thành quỹ BHXH (thu của quỹ BHXH) Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có hai nguồn chính là nguồn đóng góp của các đối tượng thuộc diện bắt buộc (gọi tắt là nguồn bắt buộc) theo quy định và nguồn đóng góp của các đối tượng tự nguyện (gọi tắt là nguồn tự nguyện). Về mặt hình thức, hai nguồn này tuy có khác nhau về phạm vi, đối tượng và mức độ đóng góp, song nội dung kinh tế-xã hội lại tương đối đồng nhất với nhau ở những điểm sau: -Cả hai nguồn này đều có chung một mục đích là hình thành quỹ bảo hiểm xã hội để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do các bên tham gia đóng góp, là quỹ tài chính trung gian độc lập với ngân sách nhà nước. -Mức thu bảo hiểm xã hội từ hai nguồn này và cơ chế chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội đều do Nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập theo nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau vì vậy quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang nội dung kinh tế vừa mang nội dung xã hội rất đậm nét. Quỹ bảo hiểm xã hội luôn luôn phải được bảo tồn và phát triển để đảm bảo đủ lượng tiền tệ cần thiết chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội đúng thời gian, đúng đối tượng và đủ số lượng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được phép đầu tư phát triển và các hoạt động đầu tư này đều theo quy định của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh. Như vậy, dù quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nguồn bắt buộc hay tự nguyện và mục đích chi trả cho các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nào thì đều có chung những nội dung kinh tế-xã hội nêu trên. Chi của quỹ Bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành để chi cho các chế độ BHXH theo nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy quỹ bảo hiểm xã hội chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi nguồn thu của bảo hiểm xã hội. Hiện nay bảo hiểm xã hội nước ta đang áp dụng cho năm chế độ. Cả năm chế độ này đều có nguồn thu để chi trả trong đó thu 15% để chi trả cho hai chế độ là hưu trí và tử tuất, thu 5% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Năm chế độ cụ thể mà quỹ bảo hiểm xã hội Việt nam chi trả là: Các chế độ hưu trí, tử tuất (thường gọi là các chế độ dài hạn): Chế độ trợ cấp hưu trí có được khi người lao động đủ thời gian tham gia bảo hiểm xã hội và đủ tuổi đời thì được hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng. Trường hợp người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi đời thì được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần. Chế độ trợ cấp tử tuất gồm tiền mai táng phí cho thân nhân của đối tượng khi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bị chết, tiền trợ cấp tuất hàng tháng được chi trả cho thân nhân đối tượng hoặc giao tiền trợ cấp một lần cho gia đình họ (nếu không có người hưởng định xuất hàng tháng). Chế độ trợ cấp hưu trí và tử tuất bắt nguồn từ việc bảo hiểm nguồn thu nhập cho người lao động khi đã già yếu, hết tuổi lao động, mất sức lao động vĩnh viễn và qua đời mà bất kỳ người lao động nào cũng phải trải qua. Trách nghiệm đóng bảo hiểm hưu trí, tử tuất thuộc về người lao động và người sử dụng lao động vì khi còn khoẻ, người lao động làm việc cho người sử dụng lao động thì khi về già, người sử dụng lao động phải có một phần trách nhiệm bảo đảm cuộc sống cho họ. Việc tiến hành bảo hiểm hưu trí và tử tuất nếu không có tổ chức bảo hiểm bắt buộc của xã hội, của Nhà nước thì bản thân người lao động cũng phải tìm một hình thức nào đó để tự lo cho mình nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống lúc già yếu, lúc qua đời. Đặc điểm của bảo hiểm hưu trí và tử tuất là nó thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối có tính chất hoàn trả, lợi ích được hưởng tương ứng với nghĩa vụ đóng góp. Bản chất kinh tế-xã hội của quỹ bảo hiểm xã hội chi cho chế độ hưu trí và tử tuất phản ánh quan hệ kinh tế (quan hệ lợi ích) giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động và người sử dụng lao động đóng bảo hiểm hưu trí, tử tuất nhằm mục đích đảm bảo lâu dài, ổn định cuộc sống cho bản thân người lao động và gia đình họ khi già yếu không có khoản thu nhập từ lao động. Mức hưởng trợ cấp hưu trí phụ thuộc vào mức đóng góp và thời gian đóng phí bảo hiểm ít hay nhiều còn thời gian hưởng hưu trí là không có giới hạn, hưởng đến khi chết mà tuổi thọ của từng người lao động lại khác nhau nên tính hoàn trả không đồng đều, cùng thời gian đóng như nhau nhưng người nào sống lâu hơn thì được hưởng hưu trí nhiều hơn, thậm chí hưởng nhiều hơn cả mức đóng góp. Phần hưởng nhiều hơn đó được quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo, đó chính là tính chất xã hội, tính cộng đồng của bảo hiểm xã hội. Chế độ hưu trí và tử tuất thường được gọi là chế độ dài hạn vì từ khi người lao động tham gia bảo hiểm đến khi nghỉ hưu được hưởng chế độ hưu trí phải trải qua một thời gian dài 30 năm. Số dư của quỹ bảo hiểm xã hội thực chất là số tiền ứng trước của người lao động và người sử dụng lao động cho mục đích bảo hiểm hưu trí. Trong suốt 30 năm đó, quỹ vẫn thuộc sở hữu của người lao động có tham gia đóng góp. Như vậy ta có thể thấy điều kiện tồn tại và phát triển của quỹ bảo hiểm xã hội chi cho chế độ hưu trí và tử tuất là: -Muốn được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí và tử tuất thì người lao động, người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Quyền lợi được hưởng bảo hiểm xã hội tương ứng với mức đóng góp và thời gian đóng góp bảo hiểm của từng người lao động. -Số dư tạm thời nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội thuộc về sở hữu của người lao động, có tính chất dài hạn nên có thể đầu tư phát triển kinh tế-xã hội nhằm bảo toàn, phát triển quỹ và nó phải được tồn tích mà không được sử dụng vào mục đích khác. -Mức đóng góp bảo hiểm hưu trí, tử tuất phải được cơ cấu vào tiền lương, tiền công và được hạch toán vào giá thành sản phẩm để tạo nguồn tài chính cho người lao động và người sử dụng lao động đóng góp phí bảo hiểm. -Phải có cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm đến từng người lao động thuộc các đối tượng khác nhau để tạo điều kiện cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền tham gia bảo hiểm hưu trí và tử tuất phù hợp với khả năng của họ. Các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Trong quá trình lao động, người lao động thường gặp phải rủi ro bất ngờ không lường trước được như ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp làm giảm hoặc mất khả năng lao động tạm thời đối với những trường hợp nhẹ hoặc mất khả năng lao động vĩnh viễn, chết người đối với những trường hợp nặng. Nguyên nhân dẫn đến những rủi ro bất ngờ đối với người lao động có thể bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan và khách quan của người lao động và người sử dụng lao động gây ra. Ví dụ như tai nạn lao động có thể do nguyên nhân chủ quan từ người lao động không tôn trọng kỷ luật lao động, an toàn lao động để xảy ra tai nạn lao động; cũng có thể do nguyên nhân khách quan như nồi hơi bị nổ, sự cố về điện, máy móc... gây ra tai nạn; cũng có thể do công tác an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phòng chống độc hại không tốt dẫn đến người lao động bị ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Hậu quả khi xảy ra các rủi ro đó người lao động không những mất nguồn thu nhập từ lao động mà còn phải tăng thêm chi phí cho việc chăm sóc y tế nếu bị nặng thì tàn phế suốt đời hoặc chết người. Bên cạnh đó những lao động nữ còn có một thiên chức đó là làm mẹ. Trong thời gian sinh và nuôi con nhỏ, lao động nữ phải nghỉ làm việc dẫn đến giảm một phần thu nhập do lao động. Đối với người sử dụng lao động, thì khi người lao động bị rủi ro đó không những ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh mà còn phải bỏ ra nhiều chi phí để khắc phục hậu quả đột xuất cho các rủi ro đó gây ra dẫn đến tình hình tài chính của đơn vị càng gặp khó khăn hơn. Để có nguồn thu nhập ổn định cuộc sống cho người lao động trong khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, ổn định kinh tế tài chính cho người sử dụng lao động tất yếu phải có quỹ bảo hiểm, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trích nộp phần thu nhập để đóng góp vào quỹ BHXH cho các mục đích trên. Thông thường, để ổn định kinh tế cho doanh nghiệp nguồn đóng góp để tạo lập quỹ bảo hiểm cho các rủi ro này được Nhà nước cho phép hạch toán vào giá thành sản phẩm để người tiêu dùng trong xã hội gánh chịu. Tính chất độc hại, không an toàn trong sản xuất kinh doanh gây ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động xảy ra khác nhau ở các ngành, các doanh nghiệp nhưng do nhu cầu của các sản phẩm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng cuộc sống mang tính chất xã hội vì thế mọi doanh nghiệp, mọi thành viên xã hội tiêu dùng sản phẩm đều phải có nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động khi xảy ra rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy bản chất kinh tế-xã hội của các chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với người lao động phản ánh mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống cho người lao động và ổn định sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động và xã hội. Từ đó ta có thể rút ra điều kiện tồn tại và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là: -Để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và ổn định kinh tế cho người sử dụng lao động khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp tất yếu phải có quỹ bảo hiểm. Trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp vào quỹ bảo hiểm thuộc về người lao động và người sử dụng lao động. Số chi phí này được hạch toán đầy đủ vào giá thành để tạo nguồn tài chính cho người sử dụng lao động nộp phí bảo hiểm. -Hình thức tổ chức và quản lý quỹ bảo hiểm cho mục đích này có thể để một phần nhất định ở đơn vị sử dụng lao động để giải quyết kịp thời nhu cầu phát sinh ở đơn vị khi người lao động bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và một phần nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định. -Phân phối mang tính chất bồi hoàn cho các chế độ này thường được diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định để đảm bảo kịp thời cho người lao động nếu bị rủi ro. Với tính chất đó, quỹ bảo hiểm xã hội dùng để chi trả cho các chế độ này là phải được cân đối trong một thời gian nhất định thường là 1 năm theo nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội đủ bù đắp chi trả cho các chế độ đó trong năm. Qua sự phân tích trên đây, ta có thể rút ra tổng quát về bản chất tài chính bảo hiểm xã hội như sau: Tài chính bảo hiểm xã hội là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội tập trung, thống nhất do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước theo pháp luật quy định, phân phối sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động (tiền lương, tiền công); phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được tham gia đầu tư phát triển, góp phần ổn định kinh tế-xã hội của đất nước. Chủ thể nguồn tài chính bảo hiểm xã hội là những người sở hữu quỹ bảo hiểm xã hội, đó là các bên tham gia đóng bảo hiểm xã hội mà đại diện của nó là Hội đồng quản lý._. bảo hiểm xã hội Việt nam. Như vậy, đặc điểm tạo lập và sử dụng quỹ BHXH thể hiện như sau: -Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời, tồn tại và gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. -Phân phối quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả và không hoàn trả lớn hơn so với mức phí đóng góp thể hiện tính chất xã hội của các hoạt động bảo hiểm xã hội. -Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Trình độ kinh tế-xã hội càng phát triển thì các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng càng mở rộng, nhu cầu thoả mãn về bảo hiểm xã hội đối với người lao động càng được nâng cao và khi kinh tế phát triển người lao động có thu nhập cao càng có điều kiện tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội ta cần phân biệt sự giống và khác nhau giữa quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội theo kế hoạch của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Từ khái niệm Ngân sách Nhà nước ta rút ra đặc điểm phân phối của Ngân sách Nhà nước như sau: -Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung, là khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và hoạt động gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, Ngân sách Nhà nước gắn với chủ thể duy nhất là Nhà nước. -Ngân sách Nhà nước mang tính pháp lý cao. Hoạt động thu-chi của Ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước và được tiến hành trên cơ sở pháp luật quy định -Phân phối của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. -Các quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước phản ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia (lợi ích chung) và nó chi phối các lợi ích khác nhằm đảm bảo cho nền kinh tế-xã hội của đất nước ổn định, phát triển với tốc độ cao. Từ đây ta có thể thấy những điểm giống và khác nhau của quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách Nhà nước. Những điểm giống nhau: -Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia, chúng có mối quan hệ hữu cơ trong quá trình tạo lập và sử dụng cho mục đích hoạt động của từng quỹ. -Hoạt động của Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời mà hoạt động của chúng nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người lao động tuỳ theo mục đích sử dụng của mỗi quỹ. -Việc tạo lập và sử dụng Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều biểu hiện dưới hình thức tiền tệ (giá trị), thu-chi của Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều được quy định bằng pháp luật và quản lý quỹ theo nguyên tắc cân đối thu và chi. Những điểm khác nhau: -Điều kiện ra đời và phát triển của Ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội khác nhau. Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước càng mở rộng thì thu-chi quỹ Ngân sách Nhà nước càng lớn. Quỹ bảo hiểm xã hội ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá với quan hệ thuê mướn nhân công. Khi kinh tế phát triển, thu nhập tiền lương càng cao thì phạm vi các chế độ bảo hiểm xã hội càng mở rộng, mức độ thoả mãn cho người lao động của bảo hiểm càng cao. Đây là cơ sở khách quan cho sự ra đời, phát triển của bảo hiểm xã hội, cũng là cơ sở cho định hướng phát triển bảo hiểm xã hội trong thực tiễn. -Quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả. Chủ thể đóng góp và hưởng thụ Ngân sách Nhà nước tách rời nhau (trừ quan hệ tín dụng Nhà nước). Các chủ thể có nghĩa vụ đóng góp các khoản thu vào Ngân sách Nhà nước do pháp luật quy định không được Nhà nước hoàn trả trực tiếp. Ngược lại các chủ thể được hưởng thụ các khoản chi Ngân sách Nhà nước cũng không phải hoàn trả lại số tiền mà Nhà nước đã chi. Đây là cơ sở khách quan cho hiện tượng trốn lậu các khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước và thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước mà trong quản lý Ngân sách Nhà nước phải có biện pháp khắc phục. Quan hệ phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Việc hoàn trả không biết trước chính xác về quy mô, thời gian và không gian, thường mức hoàn trả lớn hơn nhiều lần so với phí bảo hiểm đóng góp (nó mang tính chất xã hội, tính chất cộng đồng). Đặc điểm này đã chi phối đến quá trình quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội. -Quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước phản ánh quan hệ lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia và chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân, nhằm đảm bảo cho nền kinh tế-xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển ổn định. Còn quan hệ phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội trước hết là vì lợi ích của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sau đó mới đến lợi ích của đơn vị, lợi ích của xã hội. Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội không thuộc nội dung thu-chi của Ngân sách Nhà nước, nó tồn tại độc lập với Ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội và Ngân sách Nhà nước đều là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Mỗi khâu tài chính đều có một chủ thể riêng trong đó Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính giữ vị trí chủ đạo phản ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia còn quỹ bảo hiểm xã hội chỉ phản ánh lợi ích của các bên tham gia đóng bảo hiểm xã hội. 1.1.2.2.Phân biệt tài chính BHXH và tài chính doanh nghiệp Trước hết, ta phải hiểu khái niệm, đặc điểm của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục đích doanh lợi trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Tài chính doanh nghiệp là khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau: -Tính chất đa sở hữu là nét đặc trưng của tài chính doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh chủ doanh nghiệp phải có một số vốn kinh doanh bằng hoặc lớn hơn vốn pháp định của Nhà nước quy định. Mặt khác, doanh nghiệp muốn có kỹ thuật hiện đại để sản xuất ra sản phẩm có thể đứng vững trong cạnh tranh thì phải có số vốn kinh doanh lớn. Điều đó dẫn đến sự đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vì thế trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp mang tính chất đa sở hữu là phổ biến. -Tài chính doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ: luôn thay đổi hình thái biểu hiện vì quá trình tạo lập và sử dụng vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố sản xuất; được sử dụng cho mục đích tích luỹ là chính chứ không phải cho mục đích tiêu dùng; nó luôn hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tài chính doanh nghiệp ngoài tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung hay rút bớt tuỳ theo nhu cầu mở rộng hoặc thu hẹp quá trình sản xuất kinh doanh. -Các quan hệ tài chính nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng tài chính doanh nghiệp đều gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nghĩa là mọi hoạt động thu chi của tài chính doanh nghiệp đều nhằm mục đích doanh lợi. Từ bản chất của tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp ta có thể thấy những điểm giống nhau và khác nhau giữa tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp. Những điểm giống nhau: -Tài chính bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp đều là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Chúng ra đời, tồn tại và phát triển đều do mục đích của chủ thể trong xã hội đòi hỏi. -Việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp đều biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và theo Pháp luật quy định. Những điểm khác nhau; -Điểm khác nhau đầu tiên của quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp là mục đích hoạt động của hai loại hình này. Quỹ bảo hiểm xã hội hoạt động không nhằm mục đích doanh lợi. Hoạt động thu, chi của quỹ bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống của người lao động khi gặp rủi ro khi giảm hoặc mất thu nhập. Mọi hoạt động của tài chính doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh kiếm lời. Hay nói cách khác lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu chi phối hoạt động của tài chính doanh nghiệp, lợi nhuận quyết định sự ra đời tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. -Quan hệ phân phối quỹ BHXH và tài chính doanh nghiệp cũng khác nhau. Quan hệ phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Quan hệ phân phối của tài chính doanh nghiệp mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghĩa là việc đóng góp vốn để tạo lập quỹ tài chính doanh nghiệp là do các chủ doanh nghiệp đóng góp vốn đó vẫn thuộc quyền sở hữu của các chủ doanh nghiệp. Sau quá trình kinh doanh, việc phân phối lại lợi nhuận hoặc lỗ của doanh nghiệp phải dựa vào tỷ lệ góp vốn của từng chủ sở hữu để phân chia. Tính chất phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp khác nhau nên cơ chế quản lý quỹ của chúng cũng khác nhau. -Nội dung vật chất của quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp đều là những quỹ tiền tệ nhưng tài chính doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt dùng cho kinh doanh không dùng cho mục đích tiêu dùng. Trong quá trình kinh doanh hoạt động vốn kinh doanh phải được bảo toàn và phát triển. Ngược lại quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ nhằm mục đích tiêu dùng để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động tham gia khi gặp rủi ro. Mức tiêu dùng của quỹ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào khả năng nguồn thu tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội và chi quỹ bảo hiểm xã hội không được vượt quá số thu của quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo nguyên tắc cân đối thu chi của quỹ bảo hiểm xã hội. Vì thế, trong quá trình quản lý quỹ bảo hiểm xã hội phải luôn luôn xem xét tính cân đối của quỹ đặc biệt là các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn, không chỉ có biện pháp bảo toàn và phát triển số vốn tam thời nhàn rỗi mà còn phải dự báo, dự phòng được các biến cố thay đổi trong tương lai làm mất cân đối thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội. Hoạt động của quỹ chủ yếu là theo nguyên tắc tương hỗ bảo hiểm xã hội lấy số đông bù số ít. -Bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp cũng khác nhau. Tính chất đa sở hữu tạo ra cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp chặt chẽ và hiệu quả với sự điều hành và quản lý của hội đồng quản trị và sự kiểm soát của ban kiểm soát doanh nghiệp. Bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội là Bảo hiểm xã hội Việt nam trực thuộc Thủ tướng Chính phủ có chức năng thực hiện sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt nam không phải là chủ sở hữu quỹ bảo hiểm xã hội mà các bên tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội mới là chủ sở hữu quỹ. Đại diện các bên tham gia đóng bảo hiểm xã hội là Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt nam có chức năng chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc thực hiện thu chi quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Cơ chế tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm xã hội trình bày trên đây mang tính chất của cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước mà không bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế như cơ chế quản lý doanh nghiệp. Thực ra cơ quan bảo hiểm xã hội là một tổ chức công quyền do Nhà nước lập ra để thực hiện sự nghiệp bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước giao cho. Giữa quỹ bảo hiểm xã hội và tài chính doanh nghiệp có một mối quan hệ. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu do chủ sử dụng lao động và người lao động đóng góp trong đó có một nguồn không nhỏ từ tài chính doanh nghiệp. Do vậy sự cân đối và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội luôn gắn liền với sự phát triển của tài chính doanh nghiệp. 1.2. Kinh nghiệm về tài chính BHXH ở một số nước trên thế giới Trên thế giới, nhất là những nước có nền kinh tế phát triển, hoạt động bảo hiểm xã hội đã có từ rất lâu và rất đa dạng, phong phú. Sau đây ta nghiên cứu về kinh nghiệm tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội và chi quỹ bảo hiểm xã hội. 1.2.1.Kinh nghiệm về tạo lập quỹ Bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội ở các nước được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Tuy nhiên tỷ lệ đóng góp của các đối tượng ở mỗi nước không giống nhau mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, chính sách xã hội và quan điểm của mỗi Nhà nước. Phần đóng góp của người sử dụng lao động thường được tính trên cơ sở số lượng lao động thuê mướn trong doanh nghiệp. Tỷ lệ này được tính một mức trên tổng quỹ lương và theo pháp luật quy định. Phần đóng góp của người sử dụng lao động được hạch toán vào chi phí kinh doanh của người sử dụng lao động. Người lao động cũng phải đóng góp một phần với tư cách là đối tượng được thụ hưởng sự phân phối của quỹ bảo hiểm xã hội. Khoản đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội ở các nước cũng được xác định theo tỷ lệ phần trăm trên mức tiền lương hoặc tiền công mà họ được hưởng. Bên cạnh sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội thì Nhà nước cũng luôn luôn hỗ trợ quỹ khi các khoản đóng góp của hai đối tượng trên không đủ đáp ứng chi tiêu của quỹ hoặc khi có sự biến động khủng hoảng làm cho quỹ bị thâm hụt. Sự can thiệp này tuỳ thuộc vào nền kinh tế-xã hội của mỗi nước. Trong ba nguồn đóng góp trên thì nguồn đóng góp từ người sử dụng lao động là chủ yếu. Tuy nhiên tỷ lệ đóng góp ở mỗi nước có sự khác nhau, các tỷ lệ đó có thể thích hợp ở nước này nhưng có thể không được chấp nhận ở nước khác. Việc xây dựng các tỷ lệ đóng góp của mỗi bên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, lịch sử của từng nước từ đó cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội ở mỗi nước cũng khác nhau. Nói chung ở các nước đã có nền kinh tế phát triển như: Đức, ý, Mỹ... thì áp dụng cơ chế toại thu, toại chi, thu trong năm chủ yếu chi hết trong năm. Còn các nước có kinh tế đang phát triển thì nói chung áp dụng cơ chế tạo lập quỹ tích luỹ, số dư hàng năm được sử dụng đầu tư tăng trưởng. Có thể xem xét ở một số quốc gia tiêu biểu sau: Cộng hoà Pháp: Từ thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của cứu trợ công cộng và tương hỗ BHXH đã ra đời. Năm 1910 đã có luật về hưu trí cho công nhân. Năm 1930 luật về bảo hiểm xã hội đã được ban hành, luật này quy định 5 chế độ bảo hiểm bắt buộc gồm bảo hiểm bệnh tật, thai sản, thương tật, tuổi già và tử tuất. Nguồn đóng góp quỹ từ người lao động và người sử dụng lao động trong đó người sử dụng lao động đóng 4% và người lao động đóng 4% trên mức lương và chế độ bảo hiểm này chỉ áp dụng đối với những người lao động có mức lương thấp hơn quy định. Ngày nay, ở Pháp các chế độ bảo hiểm xã hội gồm tất cả các chế độ theo quy định của ILO. Nguồn tài trợ hết sức phức tạp. Cụ thể: -Quỹ bảo hiểm y tế, thai sản, thương tật, chết. Sự đóng góp vào quỹ này được tách biệt ra hai khoản là đóng góp cho rủi ro phi nghề nghiệp và đóng góp cho rủi ro nghề nghiệp. Đối với rủi ro nghề nghiệp, nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên lương trong đó người lao động đóng 6,8% và người sử dụng lao động đóng 12,8%. Đối với rủi ro phi nghề nghiệp như tai nạn lao động, tai nạn đi lại (từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại) khoản đóng góp được thu trên lương do người sử dụng lao động đóng toàn bộ, tỷ lệ đóng góp được xác định tuỳ theo số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp. -Quỹ trợ cấp hưu trí, goá bụa, trợ cấp gia đình. Đối với trợ cấp hưu trí người sử dụng lao động phải đóng 9,8% còn người lao động đóng 6,55% trên mức lương của người lao động. Đối với trợ cấp goá bụa người lao động còn phải đóng góp 0,1% tiền lương. Đối với trợ cấp gia đình người lao động, người sử dụng lao động phải đóng góp toàn bộ với tỷ lệ là 5,4% lương của người lao động. Như vậy nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội ở Pháp từ người sử dụng lao động và người lao động tương đối đa dạng và khá cao. Theo thống kê bình quân hàng năm nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội ở Pháp từ người sử dụng lao động chiếm đến 50% trong tổng số còn người lao động khoảng 30%, Nhà nước 18% còn từ nguồn khác 2%. Tỷ lệ đóng góp của người lao động cũng khá cao, nếu tính tổng cộng các chế độ mà người lao động phải nộp là 13,45% lương hàng tháng. Cơ chế thu cao là một gánh nặng cho người lao động và người sử dụng lao động nhưng cũng là điều kiện tốt cho hệ thống bảo hiểm xã hội ở Pháp trở thành một trong những hệ thống tốt nhất thế giới. Mỹ: Các chế độ bảo hiểm xã hội ở Mỹ bao gồm: trợ cấp hưu trí, tử tuất, trợ cấp y tế, trợ cấp thương tật. Nguồn tài trợ cho các chế độ trợ cấp này là từ thuế phúc lợi xã hội mà chính quyền liên bang thu. Trong số tiền lương của người lao động chính quyền sẽ khấu trừ bớt số thuế cố định sau đó đưa khoản thu này vào các quỹ bảo hiểm xã hội với mức khấu trừ là người sử dụng lao động : 13,65%; người lao động : 7,65%. Để được hưởng trợ cấp, người đóng bảo hiểm xã hội phải nộp đến một mức nào đó. Một người đóng bảo hiểm xã hội nếu nộp đủ 590USD thì được 1 điểm thụ hưởng, mỗi người phải có đủ 40 điểm và đóng trong 10 năm trước khi nghỉ hưu. Như vậy cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Mỹ vừa theo tỷ lệ trích nộp vừa phải thu đến một “ngưỡng” do chính quyền quy định. Tỷ lệ này không quá cao như ở Pháp. Cộng hoà Liên bang Nga: Đây là quốc gia xã hội chủ nghĩa cũ nay trở thành nước tư bản ở Đông âu. Các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ở Nga cũng bao gồm: trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí... Nguồn hình thành quỹ BHXH được tài trợ chủ yếu từ các nguồn: -Người sử dụng lao động đóng góp: là 35,4% trên tổng quỹ lương. - Người lao động đóng góp: là 1% trên mức lương. - Nhà nước: Nếu quỹ bảo hiểm xã hội thâm hụt thì Ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ để đảm bảo việc chi trả các chế độ trợ cấp. Tại một số nước Đông á: ở Thái lan chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội bao gồm: trợ cấp thương tật, ốm đau, thai sản, mất khả năng lao động, tử tuất, tuổi già, thất nghiệp. Nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội từ người lao động đóng góp 1/3, giới chủ đóng góp 1/3 và Nhà nước đóng góp 1/3. Ví dụ như chế độ trợ cấp thất nghiệp thì tất cả người lao động đóng góp 5% trên mức lương của mình, giới chủ đóng góp 5% trên tổng quỹ lương và Nhà nước đóng góp 5% trên tổng quỹ lương. ở Nhật bản sự đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội cũng tương đối cao. Người lao động đóng góp từ 3,5% đến 4,6% trên mức lương của mình, giới chủ đóng góp từ 25,5% đến 30,5% còn Nhà nước trợ cấp cho quỹ bảo hiểm xã hội theo nhu cầu thiếu hụt. ở Philipine người lao động đóng góp 6,55% trên mức lương của mình, người sử dụng lao động đóng góp từ 7,35% còn Nhà nước trợ cấp phần thiếu hụt của quỹ bảo hiểm xã hội. Ngoài những nguồn thu chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước thì quỹ bảo hiểm xã hội của các nước còn được bổ sung thêm từ các nguồn khác như lãi đầu tư quỹ, tiền phạt vi phạm luật, thủ tục phí, bán ấn phẩm... Nhưng tỷ trọng từ thu các nguồn khác rất thấp trong tổng nguồn thu của quỹ. Ta có thể tham khảo cơ cấu các nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội ở một số nước có nền kinh tế phát triển từ bảng sau: Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn thu của quỹ BHXH (trang 30) Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn thu của quỹ BHXH Quốc gia Người sử dụng lao động đóng góp Người lao động đóng góp Nhà nước tài trợ Nguồn khác Đức 40,1 19,8 26,3 3,8 Bỉ 41,8 26,7 21,6 9,9 Đan mạch 6,9 5,1 87,6 6,4 Tây ban nha 52,9 17,3 27,8 2,0 Pháp 51,0 28,8 17,7 2,5 Hy lạp 48,1 27,4 15,7 8,8 Italia 50,5 15,9 30,6 3,0 Hà lan 19,9 41,7 22,6 15,8 Bồ đào nha 41,8 20,8 32,4 5,0 Anh 26,1 15,8 42,8 15,3 (Nguồn: Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH Việt nam) Ta có thể thấy, tuy quỹ bảo hiểm xã hội hoạt động tương đối độc lập nhưng lại gắn bó chặt chẽ với Ngân sách Nhà nước. 1.2.2.Kinh nghiệm về chi Bảo hiểm xã hội : Quỹ BHXH được sử dụng để chi vào các nội dung quan trọng sau: -Trợ cấp bảo hiểm xã hội theo các chế độ -Quản lý hành chính -Đầu tư tăng trưởng quỹ. Trong đó chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng lớn nhất, quan trọng nhất thường chiếm trên 80% tổng số chi của quỹ. Các khoản chi quản lý hành chính, chi đầu tư tăng trưởng không cố định, phụ thuộc vào quy mô tổ chức, cách quản lý của mỗi hệ thống bảo hiểm xã hội ở từng nước. *Chi các chế độ Bảo hiểm xã hội Ta sẽ đi vào xem xét một số cơ chế chi trả chế độ bảo hiểm xã hội ở một số nước có nền kinh tế thị trường. Việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội này được tiến hành theo luật định ở từng nước và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống bảo hiểm xã hội. Chi trợ cấp hưu trí Có nhiều phương thức chi trả trợ cấp hưu trí. Một số nước chi trả theo mức đồng nhất, là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Một số nước lại định mức trợ cấp theo mức lương đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu . Một số nước khác lại kết hợp cả hai cách: Trong phần trợ cấp có phần cơ bản là mức đồng nhất cộng thêm phần tỷ lệ theo mức lương đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu . Tuy nhiên, xu hướng chung là trợ cấp theo mức thu nhập đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu phù hợp với đa số trường hợp là đóng bảo hiểm xã hội theo thu nhập. Mức trợ cấp hưu trí của một số nước có nền kinh tế thị trường như sau: ở Mỹ mức trợ cấp hưu trí đồng nhất tối thiểu là 122 USD/tháng tính trên thu nhập được bảo hiểm cho tới khi nghỉ hưu. ở Anh mức trợ cấp hưu trí là 32,85 bảng/tuần cộng thêm 1,25% thu nhập được bảo hiểm trong năm. ở Pháp mức trợ cấp hưu trí là 50% thu nhập bình quân (mức bình quân của 10 năm có thu nhập cao nhất). ở Indonexia mức trợ cấp hưu trí được trả một lần tương ứng với số đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động đã đóng góp trong suốt quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cộng với khoản lãi tăng thêm. ở Philippine mức trợ cấp hưu trí được nhận là 1,5% lương bình quân của 120 tháng cuối cộng với mức từ 42% đến 102% tiền lương bình quân của 10 tháng lương. Chi trợ cấp ốm đau ở các nước, chi trợ cấp ốm đau của quỹ bảo hiểm xã hội nhằm bù đắp các chi phí y tế và thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro ốm đau phải nghỉ việc. Để được nhận khoản trợ cấp này, người lao động phải có thời gian đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. Mức cụ thể ở một số nước như sau: ở Pháp mức trợ cấp ốm đau tương đương một phần tiền lương (về nguyên tắc là bằng 1/2 tháng lương), từ ngày nghỉ ốm thứ 31 trở đi người đóng bảo hiểm được trợ cấp 2/3 tháng lương, số ngày được trợ cấp không quá 6 tháng. Trợ cấp chi phí khám chữa bệnh theo cơ chế trợ cấp toàn bộ chi phí khám bệnh và một phần chi phí chữa bệnh (30% chi phí y tế và phẫu thuật, từ 0% đến 60% chi phí thuốc men, 40% chi phí xét nghiệm) theo phiếu chữa bệnh. ở Nga mức trợ cấp ốm đau do tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp được chi bằng 100% mức lương tháng. Nếu ốm đau không do tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp tỷ lệ trợ cấp có thể là 100%, 80%, 60% hoặc 50% phụ thuộc vào số năm công tác. ở Thái lan người lao động được hưởng trợ cấp thương tật hoặc ốm đau không do công việc xảy ra, khi đã đóng bảo hiểm xã hội không dưới 3 năm và phải đang trong thời kỳ 15 tháng trước ngày nhận dịch vụ y tế. Mức trợ cấp là 50% tiền lương trong thời gian nghỉ việc. Thời gian được hưởng trợ cấp không quá 90 ngày một lần ốm và không quá 180 ngày trong năm dương lịch. Trợ cấp thai sản Trợ cấp thai sản được áp dụng khác nhau ở mỗi nước tuỳ thuộc theo điều kiện kinh tế-xã hội. Ví dụ như: ở Thụy điển trợ cấp thai sản cho người lao động khi sinh đẻ được chi trong vòng 12 tháng kể từ khi sinh con và trong 4 năm đầu tiên của đứa trẻ. Mức trợ cấp bằng 90% tiền lương nhưng không quá 60 cuaron/ người. Ngoài ra quỹ bảo hiểm xã hội còn trợ cấp 10 ngày nghỉ cho người bố và 60 ngày nghỉ cho mỗi gia đình trong 1 năm để chăm sóc đứa trẻ. Điều kiện để được hưởng trợ cấp là phải đăng ký ở quỹ ít nhất là trước 8 tháng khi sinh. ở Pháp người lao động nữ được trợ cấp 100% chi phí khi sinh đẻ, chi phí y tế trong 4 tháng trước khi sinh con. Khi sinh, người được bảo hiểm được trợ cấp thu nhập 16 tuần nghỉ (6 tuần trước và 10 tuần sau khi sinh), nếu sinh đôi thì được nghỉ 26 tuần hưởng trợ cấp (8 tuần trước và 18 tuần sau khi sinh). ở Đức người lao động nữ sinh con được nghỉ 6 tuần trước khi sinh hưởng nguyên lương, sau khi sinh con được nghỉ 1 năm hưởng 50%-60% lương. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Tại hầu hết các nước đều quy định trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp phụ thuộc vào mức độ thương tật với phương thức trợ cấp có thể là chi một lần hoặc dài hạn. ở Pháp người lao động bị tai nạn dẫn đến thương tật được trợ cấp dài hạn. Nếu người được bảo hiểm vẫn còn thực hiện được một hoạt động kiếm sống thì được hưởng trợ cấp là 30% mức lương bình quân (bình quân của 10 năm lương cao nhất). Nếu người được bảo hiểm không còn thực hiện được một hoạt động kiếm sống thì được hưởng trợ cấp là 50% mức lương bình quân. ở Anh người lao động bị tai nạn lao động tạm thời được hưởng 8 tuần như trợ cấp ốm đau. Kể từ tuần thứ 8 trở đi mức đồng đều được hưởng là 25 bảng/tuần cộng với 15,45 bảng cho vợ và 0,3 bảng cho con. Đối với trợ cấp dài hạn tối đa là 53,6 bảng/tuần cho mức thương tật là 100%. ở Thái lan mức trợ cấp ngắn hạn là 60% lương, tối thiểu là 2000 bạt/tháng, tối đa là 9000 bạt/tháng. Người lao động được nhận trợ cấp tai nạn lao động ngắn hạn phải nghỉ việc từ 3 ngày trở lên, thời hạn hưởng tối đa là 52 tuần. Trợ cấp tử tuất Trợ cấp tử tuất là chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng ở hầu hết các nước có hệ thống bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp tử tuất được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất là trợ cấp một mức đồng nhất. Cách thứ hai là trợ cấp theo mức thu nhập của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước khi chết, có thể là bằng 50% mức lương hưu hoặc bằng 40% đến 100% mức thu nhập khi còn sống. *Chi quản lý hành chính quỹ: Để vận hành tốt guồng máy của hệ thống bảo hiểm xã hội cần phải có chi phí quản lý hành chính quỹ bảo hiểm xã hội. Có hai hình thức chi cho chi phí quản lý hành chính. Một là được chính phủ tài trợ. Điều này thường có ở những nước mà Nhà nước bảo hộ phần lớn việc chi trả trợ cấp xã hội. Hai là khoản chi quản lý hành chính được xác định theo một tỷ lệ nhất định trên phần đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động hoặc tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên tổng nguồn thu, thông thường khoảng từ 5%-10% tổng thu quỹ bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ này ở các nước cũng hoàn toàn khác nhau phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, cách quản lý của từng hệ thống bảo hiểm xã hội . *Chi đầu tư tăng trưởng quỹ: ở bất kỳ nước nào quỹ bảo hiểm xã hội nhàn rỗi cũng được dùng để đầu tư tăng trưởng, hoạt động đầu tư này đã làm cho quỹ bảo hiểm xã hội trở thành các trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế nhiều nước. Các khoản chi cho đầu tư bao gồm: chi mua chứng khoán, chi phí cho hoạt động cho vay, chi quản lý hoạt động đầu tư, tổn thất trong quá trình đầu tư... Khoản chi này không được bù đắp từ nguồn đóng góp bảo hiểm xã hội do người lao động, người sử dụng lao động mà được bù đắp bởi nguồn lợi nhuận do chính hoạt động đầu tư đem lại. Chính vì vậy đối với các khoản chi cho đầu tư được kiểm soát chặt chẽ và luôn tính đến hiệu quả mang lại. Mặc dù nguyên tắc hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội ở các nước là cân bằng thu chi, vô vị lợi, những khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động không để bù đắp mọi nguồn chi của quỹ nhưng việc cân đối thu chi quỹ bảo hiểm xã hội luôn phải có sự can thiệp của Chính phủ và được bù đắp thêm từ các nguồn khác. Sự cân đối thu chi quỹ bảo hiểm xã hội được thể hiện như sau: Tổng các khoản chi (chi trợ cấp chế độ, chi quản lý, chi đầu tư...) = Thu từ sự đóng góp của người lao động + Thu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động + Tài trợ của Ngân sách Nhà nước + Thu từ nguồn khác (lãi đầu tư, thủ tục phí...) Với phương thức cân đối thu chi, quỹ bảo hiểm xã hội ở một số nước thuộc khu vực Nhà nước cụ thể là thuộc khu vực tài chính công đã khắc phục những thất bại, khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường bảo đảm quyền lợi của người lao động trong xã hội. Chương 2-Thực trạng chính sách tài chính bảo Hiểm Xã Hội ở Việt nam 2.1. Thực trạng chính sách tài chính BHXH trước năm 1995 2.1.1. Thực trạng chính sách tài chính BHXH trước năm 1961 Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ ta đã sớm tiếp thu chính sách bảo hiểm xã hội đang áp dụng hiện hành ở Pháp và được vận dụng thực hiện ở Việt nam đối với viên chức, công chức làm việc cho chính quyền cũ. Chính sách này đã hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu dựa vào sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động. Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy quy định một số chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm ổn định tình hình kinh tế-xã hội. Trong số đó Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/1/1945, Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/6/1946 quy định công chức phải đóng bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ từ 6-10% tiền lương; cơ quan, đơn vị (công quỹ) cũng phải nộp theo tỷ lệ từ 7-10% quỹ tiền lương. Như vậy người lao động và chủ sử dụng lao động phải nộp từ 13-20% tiền lương. Các chế độ bảo hiểm xã hội người lao động được hưởng là hưu trí và tử tuất. Về chế độ hưu trí: hàng tháng người lao động đã nghỉ hưu được hưởng không quá 50% tiền lương trước khi nghỉ hưu. Về chế độ tử tuất: Thân nhân người đóng bảo hiểm xã hội được nhận tiền mai táng phí và một khoản trợ cấp có giá trị tương đương với 50 kg thóc. Các chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội chỉ mới được ban hành chưa được triển khai thực hiện thì đất nước ta bước vào cuộc kháng chiến c._.ợng. Chủ quản ngành bảo hiểm xã hội Việt nam cũng phải không ngừng hoàn thiện các biện pháp quản lý công tác chi trả như: quy trình chi trả hợp lý, chứng từ sổ sách kế toán đặc biệt là bộ chứng từ gốc để thanh toán. +Chi trả kịp thời là nhằm giảm bớt khó khăn, đảm bảo ổn định cuộc sống cho đối tượng. Nội dung của nguyên tắc này là bảo hiểm xã hội Việt nam phải quy định rõ ràng thời gian chi trả và tổ chức thực hiện chi trả đúng thời gian đó. Ví dụ: đối với các chế độ chi trả hàng tháng thì thời gian để chi trả đến tay đối tượng hợp lý nhất là thực hiện vào đầu tháng. Còn các chế độ ốm đau, thai sản nên quy định số ngày cụ thể từ khi nhận đủ giấy tờ, hồ sơ hợp lệ đến khi phải tổ chức chi trả đến tay đối tượng... Trên cơ sở quy định thời gian đó, bảo hiểm xã hội Việt nam tổ chức các hình thức chi trả kịp thời, thuận lợi không gây phiền hà cho đối tượng. +An toàn, hiệu quả là một trong những yêu cầu cần thiết được đặt ra đối với công tác chi trả nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thất thoát, mất mát tiền của nhưng đồng thời cũng giảm được chi phí, tiết kiệm cho quỹ BHXH. Để đảm bảo an toàn và có hiệu quả cho côn tác chi trả phải đổi mới hình thức chi trả, sử dụng mô hình chi trả thuận lợi nhất, an toàn, rẻ tiền và hiệu quả cao, bố trí các trang thiết bị, phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác chi trả. 3.2.2.2. Nội dung cần hoàn thiện chính sách chi Bảo hiểm xã hội *Về tỷ lệ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội Nhìn tổng quát thì trên mặt bằng quy định tại Công ước 102 của ILO và kinh nghiệm của các nước khác thì tỷ lệ hưởng bảo hiểm xã hội ở nước ta là cao trong khi mức đóng bảo hiểm xã hội của nước ta lại thấp hơn các nước và công tác đầu tư tăng trưởng quỹ lại chưa phát triển còn bị hạn chế rất nhiều. Từ thực tế đó có thể càng khó bảo toàn quỹ bảo hiểm xã hội, trong tương lai không xa quỹ bảo hiểm xã hội sẽ mất cân đối thu và chi lúc đó Ngân sách Nhà nước tất yếu sẽ phải trợ giúp mới đảm bảo chi trả đủ cho các đối tượng. Để hạn chế sự mất cân đối giữa thu và chi của quỹ ngay từ bây giờ phải xem xét mức hưởng và điều kiện hưởng của một số chế độ. -Về trợ cấp hưu trí: Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí ở nước ta: Điều 145 Bộ Luật Lao động quy định: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có thời gian đóng BHXH từ 20 năm. Quy định điều kiện nghỉ hưu như vậy là phù hợp tình hình thực tế nước ta và phù hợp với đa số các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong một số ngành nghề đặc thù, tuổi về hưu lại quá thấp, có trường hợp như quân đội 38-40 tuổi đã về. Hoặc phổ biến đối với các ngành nghề nặng nhọc, độc hại được Nhà nước cho phép về hưu trước 5 tuổi so với quy định. Nghị định 93/CP bổ sung đối với nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi có đủ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện viết đơn xin nghỉ hưu cũng được giải quyết. Như vậy trên thực tế Nhà nước cho phép người lao động được nghỉ hưu trước 5 tuổi nếu người lao động có đủ số năm đóng bảo hiểm xã hội và tự nguyện về hưu. Việc giảm tuổi nghỉ hưu theo Nghị định 93/CP còn có ý nghĩa cân đối cung cầu về lao động trong giai đoạn hiện nay. Nhưng giảm 5 tuổi về hưu của người lao động lại có ảnh hưởng rất lớn đến cân đối quỹ bảo hiểm xã hội vì các lý do sau: +Giảm 5 năm đóng bảo hiểm xã hội +Tăng chi lương hưu cho người lao động thêm 5 năm (tính theo bình quân) +Tăng chi phí mua bảo hiểm y tế cho người về hưu thêm 5 năm nữa. Theo số liệu thu-chi bảo hiểm xã hội năm 1999, bình quân một người đóng bảo hiểm xã hội trong 1 năm được 998.000 đồng (lấy tròn là 1.000.000 đồng), trong khi đó người về hưu phải chi bình quân một năm là 3.500.000 đồng. Con số này cũng nói lên người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội 3,5 năm mới đủ tiền để nuôi bản thân trong 1 năm khi về hưu hoặc phải có 3 người tham gia đóng bảo hiểm xã hội mới nuôi được 1 người về hưu. Như vậy nếu giảm tuổi về hưu 5 năm cũng có nghĩa là quỹ bảo hiểm xã hội sẽ phải giảm bằng 22,5 năm đóng bảo hiểm xã hội của một người. Nếu tính bằng tiền thì quỹ bảo hiểm xã hội sơ bộ sẽ phải chi thêm hàng ngàn tỷ đồng, tương đương 1/4 số thu bảo hiểm xã hội của năm 1999. Đây là vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến quỹ bảo hiểm xã hội. Tổ chức ILO cũng đã khuyến cáo đến các nước thành viên về ảnh hưởng của việc giảm tuổi nghỉ hưu đến quỹ bảo hiểm xã hội. Hiện nay xu hướng của các nước trên thế giới là tăng tuổi về hưu. đối với nước ta cũng phải tính đến việc tăng tuổi nghỉ hưu để đảm bảo cân đối quỹ. -Về tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí. Theo Điều 67 Công ước 102 của ILO quy định: người về hưu có 1 vợ được hưởng 40% tiền lương. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, người lao động có mức thu nhập cao, tích luỹ lớn thì tỷ lệ trợ cấp hưu trí thường là thấp hơn ở những nước có thu nhập thấp. Ví dụ ở Pháp: trợ cấp hưu trí bằng 50% tiền lương của người lao động trước khi nghỉ hưu. Nhưng mức trợ cấp 50% đó còn được cộng thêm các chính sách xã hội được đảm bảo như: nhà ở, trợ cấp gia đình... để đảm bảo đời sống tối thiểu của người nghỉ hưu và còn nuôi thêm 1vợ. Đối với nước ta, dựa trên mức lương trung bình 300.000đồng/tháng mà quy định mức trợ cấp hưu trí từ 40% đến 50% tiền lương thì rõ ràng không thể đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động. Vì vậy, trong thời gian trước mắt, nước ta chưa thể kéo tỷ lệ trợ cấp hưu trí xuống thấp như mức quy định tại Công ước 102 của ILO được. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của người lao động được tăng cao lúc đó sẽ nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ trợ cấp hưu trí xuống để tạo điều kiện cho việc cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Nhìn lại lịch sử phát sinh và phát triển bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời gian vừa qua cũng có thời kỳ Nhà nước quy định tỷ lệ trợ cấp hưu trí bằng 50% tiền lương. Đó là thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nhưng chính sách này chưa được thực hiện thì nước ta lại bước vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. -Về trợ cấp ốm đau, thai sản. Vấn đề cơ bản cần phải hoàn thiện đối với chế độ này là cần phải quy định thời gian dự bị tức là bổ sung điều kiện để hưởng chế độ trợ cấp này. Kinh nghiệm một số nước cho thấy họ cũng quy định điều kiện và mức hưởng các chế độ này rất chặt chẽ. Như ở Thái lan mức đóng BHXH ốm đau, thai sản là 4,5% tiền lương nhưng chế độ ốm đau chỉ được hưởng 50% tiền lương và phải có thời gian đóng bảo hiểm xã hội dự bị là 90 ngày trong thời gian trước khi ốm 15 tháng mới được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau và phải đóng BHXH không ít hơn 210 ngày trong thời kỳ 15 tháng trước khi sinh con thì mới được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, mức hưởng là 50% tiền lương trong vòng 60 ngày cho mỗi lần sinh con và được trợ cấp cho 2 con (Điều 65, 67 Luật An sinh xã hội hiện hành của Thái lan). ở nước ta, trước năm 1975, Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam thực hiện hình thức khoán chi cho 2 chế độ này. Từ ngày 1/1/1995, Bảo hiểm xã hội Việt nam thực hiện chi trả theo chứng từ thực tê. Trên cơ sở chứng từ thu, chi thực tế do đơn vị sử dụng lao động trực tiếp chi, hàng tháng Bảo hiểm xã hội Việt nam quyết toán cho đơn vị sử dụng lao động theo chứng từ chi thực tế. Do đổi mới cơ chế, nên thời gian đầu người lao động chưa quen, cho rằng Bảo hiểm xã hội Việt nam gây khó dễ phiền hà. Nhưng đến nay, người lao động và người sử dụng lao động đều đã quen với cơ chế mới. Đến nay, cơ chế thực chi, thực thanh toán cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế. Một số đơn vị, đặc biệt là các đơn vị sản xuất kinh doanh thiếu việc làm, người lao động đã lạm dụng chế độ trợ cấp ốm đau để tăng thêm thu nhập khi không có việc làm, dẫn đến tiền chi chế độ ốm đau, thai sản tăng lên rất nhanh có đơn vị tăng lên 5%, thậm chí lên 10% vượt cả mức đóng bảo hiểm xã hội. Trước tình hình thực tế đó cần phải tăng cường công tác kiểm tra ở các đơn vị sử dụng lao động đồng thời Nhà nước cần quy định ngay thời gian dự bị bổ sung cho hai chế độ này. *Về công tác quản lý chi bảo hiểm xã hội Với mục tiêu chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và đảm bảo an toàn, hiệu quả công tác quản lý chi cho các đối tượng bảo hiểm xã hội trong thời gian tới cần tập trung đổi mới hoàn thiện các vấn đề chủ yếu sau: -Hoàn thiện công tác chi trả cho các đối tượng. Hiện nay, công tác chi trả hàng tháng cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội được thực hiện chủ yếu bằng 2 hình thức: +Chi trả trực tiếp. +Chi trả qua đại lý. Trong điều kiện nước ta chưa thực hiện việc mở tài khoản cá nhân đến từng người thì hai hình thức chi trả này vẫn phải được áp dụng trong hệ thống chi trả bảo hiểm xã hội. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương có thể vận dụng các hình thức chi trả cho phù hợp, nhằm đảm bảo chi trả kịp thời, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên ngoài hai hình thức chi trả truyền thống trên, trong tình hình nước ta còn nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giật... mà phương tiện chuyển trở chuyên dụng cho vận chuyển tiền mặt đến các địa điểm chi trả lại còn thiếu thì cần thiết phải cải tiến thêm một bước các hình thức chi trả. Đó là mở thêm tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng nông nghiệp liên xã (ngân hàng cấp 4) để rút ngắn quãng đường vận chuyển tiền mặt đến các địa điểm chi trả. Đối với các phường, xã có điều kiện thì có thể mở rộng hình thức chi trả trực tiếp, có thể dùng lệ phí chi và lệ phí thu để ký hợp đồng lâu dài với cán bộ chuyên trách làm công tác bảo hiểm xã hội tại xã, phường. Mỗi xã, phường có thể ký hợp đồng với 1 hoặc 2 người làm 2 nhiệm vụ chủ yếu: thu bảo hiểm xã hội ở xã, phường và trực tiếp chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở xã, phường. Phương hướng hoàn thiện này rất phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động bảo hiểm xã hội ở cấp xã, phường mà vẫn có hiệu quả, không làm tăng chi phí. 3.2.3. Hoàn thiện khoán chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam 3.2.3.1. Nội dung của chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam Nội dung của chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam bao gồm: -Chi phí cho người lao động bao gồm lương và các khoản có tính chất lương: tổng quỹ lương được xác định trên cơ sở tổng số biên chế được giao và ngạch bậc của cán bộ, công chức quy định tại Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ và các chế độ liên quan đến chính sách tiền lương của Nhà nước. -Kinh phí quản lý hành chính bao gồm: chi hành chính, chi nghiệp vụ và chi khác được xác định trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn, chế độ theo quy định của Nhà nước. Cụ thể các khoản chi: thanh toán các dịch vụ công cộng, mua vật tư, văn phòng phẩm, chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác phí, chi đoàn ra, đoàn vào, chi sửa chữa thường xuyên... -Chi đặc thù của ngành bảo hiểm xã hội như: chi phí thu bảo hiểm xã hội, chi phí chi bảo hiểm xã hội, chi phí chuyển tiền và các chi phí đặc thù khác theo quy định của Chính phủ. Khoán chi hoạt động bộ máy ngành Bảo hiểm xã hội phải đi liền với khoán biên chế. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7, khoá VIII đã chỉ rõ: “Chỉ đạo thí điểm việc khoán biên chế và chi phí hành chính ổn định một số năm để khuyến khích việc giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành chính”. Như vậy, khoán biên chế và khoán kinh phí hoạt động là một trong những nội dung được quan tâm trong chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Thực hiện khoán biên chế tức là khoán quỹ lương đi đôi với việc khoán chi phí hành chính bởi lẽ tổng quỹ tiền lương bao gồm lương và các khoản có tính chất lương. Chi phí hành chính bao gồm các khoản chi hành chính, chi nghiệp vụ được tính trên cơ sở biên chế được giao. Vì vậy, khoán biên chế và khoán chi quản lý bộ máy phải đảm bảo yêu cầu: -Không tăng biên chế của đơn vị và không làm tăng tổng kinh phí so với trước khi chưa khoán. -Bảo đảm được chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, hoàn thành công việc được giao với chất lượng không được thấp hơn trước khi giao khoán. Mục tiêu của khoán biên chế và khoán chi hoạt động bộ máy là để khuyến khích việc giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành chính. Phần kinh phí tiết kiệm được có thể bổ sung: chi quỹ phúc lợi, khen thưởng, cải thiện đời sống cán bộ công chức, chi cho công tác đào tạo, lập quỹ dự phòng... Mức khoán kinh phí hoạt động bộ máy được xác định trên cơ sở biên chế và mức chi bình quân đầu người. 3.2.3.2. Phương án khoán chi bộ máy BHXH Việt nam Để thực hiện chủ trương khoán chi và khoán biên chế một cách hiệu quả, ngành BHXH phải thực hiện tốt những nội dung sau: -Toàn ngành phải phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, quản lý tài chính chặt chẽ, chi tiêu đúng chế độ, đúng định mức, tiêu chuẩn quy định. Sử dụng kinh phí có hiệu quả. Quán triệt đầy đủ các quy định trong các văn bản của Thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính và Bảo hiểm xã hội Việt nam. Xây dựng và tổ chức thảo luận phương án khoán chi, kế hoạch triển khai cụ thể của đơn vị với tinh thần dân chủ, công khai để mọi người cùng thống nhất thực hiện. -Hạn chế tối đa việc tuyển dụng thêm biên chế. Trường hợp thật cần thiết cần tuyển dụng thêm thì phải thực hiện đúng quy định và nằm trong số biên chế được giao. -Rà soát lại chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị, từng bộ phận trong đơn vị; xây dựng lề lối làm việc, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, từng đơn vị. Bố trí sắp xếp cán bộ, viên chức đúng người đúng việc. Xây dựng khối lượng công việc và giao nhiệm vụ cụ thể từng cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chức danh của họ. -Tăng cường tiền lương, tiền công cho cán bộ viên chức trong ngành (không quá 1 lần tiền lương theo quy định) phải căn cứ vào số kinh phí tiết kiệm được và kết quả lao động của từng đơn vị, từng cá nhân. Có chế độ thưởng, phạt thích đáng để khuyến khích từng đơn vị. Các cá nhân mắc phải vi phạm, khuyết điểm trong công tác thì không thực hiện tăng tiền lương. Những cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong nghành thì thưởng xứng đáng. -Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tiết kiệm kinh phí đối với những khoản chi điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, tiếp khách, hội nghị, công tác phí ... 3.2.4. Hoàn thiện quản lý quỹ và thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ 3.2.4.1. Nguyên tắc quản lý quỹ Từ ngày 1/1/1995, quỹ Bảo hiểm xã hội Việt nam được quản lý thống nhất, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ trong các trường hợp mất cân đối thu-chi, quỹ không có khả năng thanh toán để bảo vệ lợi ích người lao động. Việc hình thành quỹ BHXH tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập và giao cho BHXH Việt nam quản lý đánh dấu một bước ngoặt trong cải cách BHXH nước ta. Mặt khác, quỹ còn được quản lý theo cơ chế tự quản 3 bên (Nhà nước, chủ sử dụng lao động, người lao động) mà đại diện là Hội đồng quản lý BHXH Việt nam là phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Từ khi quỹ được quản lý thống nhất và hạch toán độc lập, số thu của quỹ ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước, việc chi trả cho đối tượng được kịp thời, đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng và an toàn, hiệu quả. Đánh giá chung mô hình tổ chức quản lý quỹ tập trung thống nhất vào một đầu mối là phù hợp với thực tế nước ta và phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới. Đây là một thành công bước đầu trong công cuộc cải cách Bảo hiểm xã hội ở nước ta. Trong thời gian tới, quỹ Bảo hiểm xã hội Việt nam nhất thiết phải được quản lý tập trung thống nhất vào một đầu mối, không chia nhỏ quỹ cho các Bộ, ngành quản lý. Về vai trò của Nhà nước đối với quỹ BHXH Việt nam: Theo Bộ Luật Lao động, Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995, Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995, Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đều thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với quỹ Bảo hiểm xã hội. ở các mặt sau: -Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc khu vực Nhà nước thì hàng tháng với tư cách là người chủ sử dụng lao động, Bộ tài chính thay mặt cho Nhà nước chuyển tiền về các đơn vị để các đơn vị đó đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. -Nhà nước hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội trong các trường hợp mất cân đối thu-chi quỹ, không có khả năng chi trả cho các đối tượng do các yếu tố khách quan như: +Tăng lương. +Đổi tiền. +Lạm phát tăng cao. +Các doanh nghiệp bị phá sản không có khả năng đóng BHXH cho công nhân, nợ tồn đọng kéo dài. +Các trường hợp khách quan khác. -Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội đối với những người thuộc khu vực Nhà nước có thời gian công tác trước ngày 1/1/1995 và về hưu vì những đối tượng này cơ bản chưa đóng bảo hiểm xã hội. -Nhà nước bảo trợ các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ theo chỉ đạo của Chính phủ trong các trường hợp: +Khi bị thất thoát vốn, không thu hồi được thì Nhà nước bảo trợ toàn bộ số vốn bị thất thoát đó. +Các trường hợp lãi suất đầu tư thấp hơn tỷ lệ trượt giá, không bảo đảm được vốn thì Nhà nước bảo trợ, cấp đủ số tiền thâm hụt đó. 3.2.4.2. Hoàn thiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ *Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội có hiệu quả, cần phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau: -Phải đảm bảo yêu cầu của các quy luật khách quan trên thị trường vốn. Phải khẳng định các hoạt động thu-chi bảo hiểm xã hội là các hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nhưng các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ lại phải lấy lợi nhuận làm mục đích. Phải tuân theo yêu cầu của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường như: quy luật hình thành và vận động của lợi nhuận, quy luật cung cầu về vốn. Các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ là các hoạt động mang tính thị trường, gắn với thị trường và phải tuân theo các yêu cầu khách quan của thị trường, đi ngược với điều này sẽ dẫn đến không có hiệu quả trong hoạt động đầu tư. -Phải đảm bảo an toàn tuyệt đối. Hiểu an toàn tuyệt đối là hiểu theo nghĩa quỹ bảo hiểm xã hội phải được bảo tồn. Tất cả các hoạt động đầu tư làm cho quỹ thâm hụt phải có các biện pháp bổ sung đủ số thâm hụt đó. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phải được tăng trưởng, quỹ phải được lớn lên do đầu tư có lãi để đảm bảo lợi ích của người lao động. Việc phân cấp cho các chủ thể có trách nhiệm trong hoạt động đầu tư là gắn trách nhiệm rõ ràng cho các chủ thể đó nhằm bảo tồn và phát triển quỹ. Cụ thể: +Các hoạt động đầu tư do Chính phủ chỉ định, bảo lãnh thì Chính phủ phải có trách nhiệm bảo toàn quỹ. Nếu bị thất thoát hoặc lãi suất cho vay thấp hơn tỷ lệ trượt giá thì Chính phủ phải cấp bù ngay cho quỹ, chuyển tiền từ Ngân sách Nhà nước để cấp bù cho quỹ ít nhất phải bằng số tiền thâm hụt đó. Nếu lãi suất đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường tiền tệ thì Chính phủ cũng phải cấp bù số chênh lệch đó. +Khi Chính phủ phân cấp cho Hội đồng quản lý hoặc cho Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam được quyền đầu tư cho các dự án cụ thể thì Hội đồng quản lý hoặc Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt nam phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Nếu để thất thoát, thâm hụt hoặc lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường cũng đề phải chịu trách nhiệm đền bù cho quỹ. -Đầu tư cho quỹ phải có lãi. Lãi suất đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội phải đảm bảo: +Lãi suất cho vay/tỷ lệ trượt giá (lạm phát) +Lãi suất cho vayÂlãi suất vay. *Các định hướng cần hoàn thiện trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Về phân cấp đầu tư Mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ có quy định rõ: Bảo hiểm xã hội Việt nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội như: +Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước. +Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước. +Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ. Như vậy, trong 3 nội dung phân cấp đầu tư thì chỉ có nội dung thứ 3 là phải có sự chỉ định của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh còn 2 nội dung đầu Nhà nước phân cấp cho Bảo hiểm xã hội Việt nam được quyền quyết định đầu tư, Chính phủ không phải chỉ định và cũng không bảo trợ. Tuy nhiên sự phân cấp đó chưa thật sự phù hợp, chưa bảo đảm cho việc bảo tồn và tăng trưởng quỹ, chưa phân cấp rõ trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội Việt nam và của Chính phủ đối với việc tăng trưởng quỹ. Trên thực tế việc cho vay theo nội dung thứ 2 vẫn do Chính phủ chỉ định, kể cả việc chỉ định thời hạn cho vay, mức cho vay, lãi suất cho vay... nhưng lại không được bảo trợ. Vì vậy nên bổ sung nội dung phân cấp như sau: +Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước, mua công trái xây dựng Tổ quốc. +Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước được Thủ tướng cho phép và bảo trợ. +Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ, phải nói rõ danh mục các dự án và doanh nghiệp lớn được phép đầu tư. Có như vậy mới làm rõ được trách nhiệm, quyền hạn của bảo hiểm xã hội đến đâu còn lại là phải có sự chỉ định của Chính phủ. Về hình thức đầu tư: Ngoài các hình thức đầu tư như hiện nay, đề nghị Chính phủ cho phép mở rộng các hình thức đầu tư như: Cho phép quỹ được đầu tư dưới hình thức liên doanh, góp vốn cổ phần vào các ngành sản xuất kinh doanh đang có lãi cao và thu hồi vốn nhanh như: điện tử viễn thông, các khu công nghiệp kỹ thuật cao, chế biến dầu khí, sự nghiệp xã hội (xây nhà, trường học...) 3.3. Điều kiện để thực hiện việc hoàn thiện chính sách tài chính Bảo hiểm xã hội Để thực hiện việchoàn thiện cơ chế quản lý tài chính bảo hiểm xã hội và đưa chính sách đó vào thực tế cần phải có các điều kiện sau: 3.3.1. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động bảo hiểm xã hội nói chung và lĩnh vực quản lý tài chính bảo hiểm xã hội nói riêng. Cho đến nay, Nhà nước đã hình thành được hệ thống pháp lý cơ bản và tương đối đầy đủ để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực hoạt động bảo hiểm xã hội bao gồm các điều luật trong Bộ Luật Lao động, Pháp lệnh cán bộ công chức, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt nam và trong các Nghị định, Quyết định, Điều lệ và các Thông tư, văn bản pháp quy hướng dẫn sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, do tình hình thực tiễn đã thay đổi, một số văn bản pháp squy ban hành không còn phù hợp nữa, trở nên lỗi thời hoặc gây khó khăn trở ngại cho hoạt động của bảo hiểm xã hội. Trong thời gian tới, cần phải giải quyết các vấn đề sau: -Rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy đã ban hành trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. -Ban hành Nghị định mới trên cơ sở các văn bản: Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập bảo hiểm xã hội, Quyết định 606/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/9/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam và Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế vì hiện nay Bảo hiểm y tế đã sáp nhập vào Bảo hiểm xã hội Việt nam. -Ban hành các văn bản pháp quy để thực hiện loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện cho mọi người lao động nói riêng và mọi người dân sống trên nước Việt nam nói chung trong đó quy định rõ mức đóng, mức hưởng, đối tượng tham gia loại hình bảo hiểm này. -Khẩn trương xây dựng luật bảo hiểm xã hội tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động thu, chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Hiện nay Quốc hội, Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì cùng các Bộ, Ngành liên quan khác xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội để trình Quốc hội xem xét và phê chuẩn. Nhưng công việc tiến hành còn chậm. -Kiện toàn các chính sách, pháp luật khác có liên quan đến công tác quản lý thu, chi, đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. 3.3.2. Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và cán bộ Để điều hành tốt các hoạt động bảo hiểm xã hội cần có bộ máy hợp lý, đủ mạnh, đảm bảo linh hoạt và có đủ năng lực quản lý. Muốn vậy cần thực hiện: 3.3.2.1. Về tổ chức bộ máy Hiện tại, theo Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt nam, Quyết định 606/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/9/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam, hệ thống tổ chức bộ máy của bảo hiểm xã hội đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương theo mô hình 3 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và đi vào hoạt động đồng bộ từ ngày 1/10/1995. Bảo hiểm y tế cũng được tổ chức theo ngành dọc nhưng chỉ có 2 cấp: Trung ương và tỉnh. Đến nay, sau gần 10 năm hoạt động, mô hình 3 cấp đã làm tốt chức năng và nhiệm vụ do Chính phủ giao cho, góp phần phát triển sự nghiệp Bảo hiểm xã hội nước nhà, được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Trong thời gian tới, Bảo hiểm xã hội Việt nam cũng cần thiết giữ nguyên mô hình 3 cấp không chia lẻ quỹ cho các Bộ, Ngành quản lý, không thành lập bảo hiểm xã hội ngành. -Kiện toàn Hội đồng quản lý-cơ quan cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt nam trên cơ sở mở rộng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và số lượng thành viên của Hội đồng quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện thu, chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, bổ sung thêm chức năng nhiệm vụ của Hội đồng quản lý trong công tác đầu tư tăng trưởng, được quyền xem xét, lựa chọn thêm các phương án đầu tư cho thích hợp. 3.3.2.2. Về đội ngũ cán bộ Để tăng trưởng công tác quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, thực hiện khoán chi hoạt động bảo hiểm xã hội cần phải có một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Bảo hiểm xã hội là một ngành có chuyên môn sâu nhưng hầu hết số cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội hiện nay chủ yếu có chuyên môn về kinh tế, tài chính, xã hội chưa được đào tạo chuyên môn bảo hiểm xã hội. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong thời gian tới, công tác cán bộ ngành bảo hiểm xã hội tập trung thực hiện các mặt sau đây: -Xây dựng tiêu chuẩn hoá chức danh cán bộ, công chức của ngành trên cơ sở quy định của Nhà nước. -Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt là các chuyên gia giỏi, trẻ để thực thi nhiệm vụ và thay thế trong tương lai. -Nâng cao tình độ mọi mặt của cán bộ, công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong các năm tới: đội ngũ cán bộ, công chức của ngành phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Đào tạo tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực sau đây: -Nghiệp vụ cơ bản trong tác nghiệp thu, chi, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. -Nghiệp vụ về thẩm định. -Nghiệp vụ quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. -Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi. -Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách và các chế độ BHXH. -Thông tin về hoạt động bảo hiểm xã hội trên thế giới. -Ngoại ngữ. -Chính trị và nhân văn. -Xây dựng quy hoạch cán bộ trong tương lai để có lực lượng dự trữ và thay thế khi cần thiết. 3.3.3. Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật Hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc cho toàn bộ hệ thống BHXH Việt nam từ Trung ương đến địa phương. Tính đến hết năm 2002, hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam mới thực hiện xây dựng xong trụ sở Bảo hiểm xã hội tỉnh và 437 trụ sở Bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh như vậy còn khoảng 200 trụ sở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh chưa được xây dựng cần phải tiếp tục thực hiện và hoàn thành để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức làm việc, đảm bảo an toàn về tiền của. Hiện đại hoá biện pháp quản lý bằng công nghệ tin học Hiện nay, công tác quản lý thu, chi, quản lý đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội, công tác hạch toán kế toán, công tác quản lý cán bộ trong ngành bảo hiểm xã hội đã được quản lý qua một số chương trình phần mềm tuy nhiên việc sử dụng này còn chưa được áp dụng rộng rãi, hệ thống máy tính được trang bị còn ít, trình độ cán bộ sử dụng máy vi tính còn hạn chế. ở một số địa phương có xúc tiến việc xây dựng chương trình quản lý đối tượng, quản lý thu, chi song vẫn còn hạn chế lại chưa đồng bộ, chưa nối mạng nên tác dụng còn thấp. Trên thế giới, các nước có nền kinh tế phát triển như: Pháp, Mỹ, Đức, Nhật... đã sử dụng công nghệ tin học để quản lý BHXH trong nhiều năm nay. Các nước trong khu vực như Philipin, Thái lan, Singapore, Malaysia... cũng đã hoàn thiện nối mạng vi tính trong toàn quốc, toàn bộ công tác quản lý bảo hiểm xã hội của các nước này đều được sử dụng trên mạng vi tính rất thuận lợi cho công tác điều hành quản lý thu, chi và giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội. ở nước ta, trong giai đoạn tới, do khối lượng công tác quản lý thu, chi, quản lý đối tượng tăng lên gấp bội đòi hỏi cấp thiết phải được trang bị hệ thống công nghệ tin học đồng bộ, toàn bộ công tác quản lý BHXH phải được thực hiện bằng công nghệ tin học mới có khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Kết luận Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta, chính sách này đã góp phần quan trọng trong an sinh xã hội. Cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế-xã hội, việc đổi mới chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ngày càng trở nên cấp thiết. Những kết quả của luận văn nghiên cứu đã đạt được đó là: -Đề tài đã làm rõ các khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội, tài chính bảo hiểm xã hội, sự giống và khác nhau giữa tài chính bảo hiểm xã hội với Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp. Đây là những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong thời gian tới. -Luận văn đã đưa ra một số đánh giá về các nội dung của chính sách tài chính bảo hiểm xã hội nước ta những năm qua. -Luận văn đã đưa ra một số phương hướng và điều kiện hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở nước ta trong những năm tới. Hy vọng rằng những kết quả đã đạt được của đề tài nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0375.doc
Tài liệu liên quan