Phương hướng & giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Lời mở đầu Việt Nam đang từng bước đi sâu vào tiến trình hội nhập vào guồng máy phát triển của thế giới và cụ thể chúng ta đã làm được những gì và những gì cần xem xét, những gì đang và sẽ phát sinh trong quá trình phát triển này? Đây là vấn đề tưởng như là muôn thủa với bất kì quốc gia nào trên thế giới, cả những nước phát triển cao, những nước đang phát triển và nhất là với một nước như Việt Nam thì những vấn đề này càng trở nên nóng bỏng từng ngày. Thực tế những năm qua đã cho thấy tình hì

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh phát triển kinh tế của nước ta đang thay đổi rõ nét và một nền kinh tế gần gũi nhiều biến động mà chúng ta rất dễ nhận thấy là nền kinh tế tư nhân và với Việt Nam, việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa đang diễn ra như thế nào? Kinh tế tư nhân – một thành phàn kinh tế gần gũi, nhạy bén với thời cuộc song cũng biến đổi không ngừng, và cũng gặp phải không ít những vấn đề phát sinh. Khi nền kinh tế Việt Nam đi theo con đường phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thì Kinh tế tư nhân ngày càng tự khẳng định được chỗ đứng quan trọng của mình. Nội Dung Hội nghị BCH trung ương Đảng khoá IX nêu rõ “Kinh tế tư nhân kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước” Hội nghị cũng đã chỉ ra những đóng góp to lớn, những mặt yếu kém cơ bản cùng những nguyên nhân chính dẫn tới những mặt yếu kém đó. Tuy nhiên thực tế cho thấy, cho đến nay Kinh tế tư nhân vẫn phát triển theo quán tính cũ với nhiều hạn chế, mặc dù những thành tựu đạt được ngày càng lớn song hạn chế thì vẫn chưa được khắc phục. Trong bài viết này nhằm hi vọng phân tích những biểu hiện cụ thể của những thành tựu, yếu kém cùng nguyên nhân cơ bản của tình hình và định hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trượng định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cũng là nhằm góp phần đuă nghị quyết và chính sách. Phạm vi của Kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay : Sau 20 năm đổi mới, Kinh tế tư nhân từ chỗ từng bị chủ trương cải tạo và xoá bỏ giờ đây đã dần được khôi phục và có nhiều thành công đáng kể, đồng thời đang trên đà phát triển nhanh chóng : Chỉ tính riêng từ năm 1995 đến năm 2002 số lượng doanh nghiệp không thuộc thành phần kinh tế nhà nước tăng gần 3 lần (từ 17.143 doanh nghiệp lên 49.492 doanh nghiệp) đặc biệt số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh từ khi ban hành Luật doanh nghiệp ; số lượng cơ sở Sản xuất – Kinh doanh cá thể tăng mạnh từ khi có Nghị định của Chính phủ về phát triển trang trại. Cụ thể, để có cái nhìn tổng thể về vị thế của khu vực kinh tế tư nhân qua bảng sau: Loại hình cs kinh doanh Số cơ sở Số lao động Bình quân LĐ / 1 cơ sở 1. Doanh nghiệp 1.1. DN có vốn trong nước - Doanh nghiệp nhà nước - Doanh nghiệp tập thể - Doanh nghiệp tư nhân - Công ty hợp doanh - Công ty TNHH - Công ty cổ phần 1.2. DN có vốn đầu tư nước ngoài 2. CS Sản xuất - Kinh doanh cá thể 56.737 54.723 5231 3858 24.903 14 18.733 1989 2014 2.625.744 3.840.142 3.244.126 1.846.209 140.770 304.785 397 722.187 229.778 596.575 7.379.152 67,2 59,3 352,9 36,5 12,2 28,4 38,6 115,5 295,9 1,7 Về cơ cấu ngành, số doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là Doanh nghiệp tư nhân có vấn đầu tư trong nước tập trung cao vào lĩnh vực dịch vụ (kể cả thương mại). Theo vùng hành chính, số doanh nghiệp tập trung ở vùng Đông Nam Bộ (>1/3 số doanh nghiệp nói chung) kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước (32%) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (71,5%) trong đó vùng Đồng Bằng sông Cửu Long đứng đầu về số doanh nghiệp tư nhân. Nhờ tăng thêm số lượng cơ sở kinh doanh, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp tích cực vào việc tăng sản phẩm xã hội. Chỉ riêng trong lĩnh vực Công nhiệp, giá trị sản xuất của khu vực không thuộc thành phần kinh tế nhà nưcứoc đã có tốc độ tăng đều khoảng 20% và thúc đẩy các khu vực khác tăng nhanh tư khi có Luật doanh nghiệp. Những thành tựu cơ bản trên do tính ưu việt của chính khu vực KTTN mà qua đấy cho thấy chính sách của Đảng và Nhà nước đã phát huy được KTTN – với quy mô mỗi cơ sở sản xuất không lớn và hướng kinh doanh đa dạng cùng sự nhạy bén nhu cầu của xã hội, có khả năng đi vào từng “ngõ - ngách” của cuộc sống. Việt Nam đang trong quá trình phát triển manh mẽ với những biến đổi không ngừng, bây giờ vẫn đang trong tiến trình khai sáng, tìm tòi và định hướng những con đường phát triển sao cho đúng đắn và hiệu quả nhất. Như chúng ta đều biết, lịch sử Việt Nam được nhắc đến với bao trang sử vẻ vang hào hùng, với những bài hoc đáng được lưu giữ trong sử sách, thế nhưng bên cạnh đó còn có bao khó khăn, tàn dư và hậu quả của quá khứ do chiến tranh mang lại. Chính vì thế việc định hướng cho sự phát triển của hiện tại là hết sức cần thiết. Với trong quá trình phát triển này, điều gì là tất yếu khách quan? điều gì là nhân tố chủ quan? Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần chính là một tất yếu khách quan trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với 6 thành phần kinh tế, trong đó khu vực KTTN đã bao gồm 2 thành phần là Kinh tế cá thể tiểu chủ và Kinh tế tư bản tư nhân đã phần nào cho thấy sự quan trọng, đa dạng và cần thiết của việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vai trò của Kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay : Thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường : Một vai trò rất quan trọng và cũng dễ nhận thấy nhất chính là sư nhạy bén với xu hướng mới của KTTN năng động, linh hoạt trong việc thay đổi ngành nghề kinh doanh, nhằm thoả mãn nhu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Vai trò này của KTTN cũng một phần là do chính đặc điểm của KTTN mang lại. Đó là : Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân, một trong những động lực thúc đẩy Xã hội phát triển : Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay đã cho thấy lợi ích của mỗi cá nhân là động lực trước hết và chủ yếu thúc đẩy Xã hội phát triển. Nền kinh tế thị trường tồn tại mấy trăm năm vẫn chủ yếu dựa trên lợi ích cá nhân, tôn trọng lợi ích cá nhân. Vấn đề là nhà nước với tư cách là tổ chức quản lý xã hội cần định hướng, dẫn dắt lợi ích cá nhân hoà với lợi ích xã hội. Thực tế cho thấy nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã quá đề cao lợi ích nhà nước mà coi nhẹ lợi ích cá nhân do đó làm thui chột động lực phát triển Kinh tế xã hội. Trong khi chuyển đổi sang kinh tế thị trường, với việc coi trọng lợi ích cá nhân đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Kinh tế tư nhân với mô hình sản xuất hàng hoá : Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là sản phẩm của nền Xã hội hoá, nó được phát triển cùng với sự xác lập của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa và gắn liền với nền đại công nghiệp. Trước đó đơn vị cơ bản của nền kinh tế xã hội là gia đình dựa trên cơ sở huyết thống trên công trường thủ công, với hình thức sản xuất – doanh nghiệp, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất tăng lên nhiều, trình độ xã hội hóa cũng được phát triển nhanh chóng. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Với mục tiêu cao nhât là lợi nhuận nên KTTN sẵn sàng thay đổi phương thức kinh doanh mới nhằm tạo ra giá trị thặng dư cao nhất. Cơ chế hoạt động tất yếu của nó là không ngừng chỉ ra giá trị thặng dư thành tích lũy thêm của sự phát triển kinh tế và đây cũng chính là mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và dự đoán rằng mô hình tổ chức doanh nghiệp đã, đang và sẽ còn tiếp tục là một mô hình tổ chức kinh tế có hiệu quả, phù hợp kinh tế thị trượng hiện đại. Kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường : Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến một nền sản xuất lớn, hiện đại (sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chính là một minh chứng thuyết phục cho điều đó). Và kinh tế thị trường cũng khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có sở hữu tư nhân và KTTN. KTTN là sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị trường và tự nó lớn lên trong cơ chế thị trường ở Việt Nam, muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thig phải phát triển kinh tế tư nhân nói chung và mô hình tổ chức doanh nghiệp nói riêng. Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động : Do tính chất của KTTN thường hoạt động với quy mô tương đối nhỏ nhẹ, ngành nghề đa dạng đòi hỏi sự khéo léo và thủ công chính vì vậy nhu cầu về lao động là rất cao. Khu vực KTTN đã thu hút 95% lao động xã hội. Tuy nhiên lực lượng lao động này chủ yếu trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thuộc các hộ kinh doanh cá thể với lao động thủ công, lao động đạt tỉ lệ thấp. Mối quan hệ trực tiếp giữa chủ doanh nghiệp với công nhân đã không còn là mối quan hệ đối kháng mà đã mang tính chất hợp tắc với mục tiêu nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sản suất - kinh doanh cần chú ý phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ tay nghề và điều kiện vật chất tinh thần của công nhân. Bên cạnh đó còn hình thành mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp với các hộ nông dân cung cấp nông sản, nguyên vật liệu. Bên cạnh đó trong điều kiện Cách mạng khao học công nghệ phát triển, việc tăng cường đội ngũ trí thức trong các doanh nghiệp cũng được quan tâm đặc biệt, có như vậy mới nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang nhiều yếu tố tích cực : KTTN đặc biệt là các doanh nghiệp, đại diện cho 1 lực lượng sản xuất mới, góp phần quan trọng vào giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết những vấn đề xã hội gay gắt (lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo …) Các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN thông qua các hoạt động của mình cũng góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, gắn vơi các giai tầng xã hội và mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Sự phát triển của KTTN góp phần tăng tính cộng đồng dân tộc, yếu tố dân tộc, hình ảnh của dân tộc trong cộng đồng quốc tế là một minh chứng nhằm tăng cường hình ảnh Việt Nam, yếu tố Việt Nam trong tiến trình hội nhâoj kinh tế quốc tế. Thực trạng phát triển của Kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay : Sự phát triển về số lượng của khu vực kinh tế tư nhân : - Về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ : Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn và tăng nhanh. Tính đến cuối năm 2003, cả nước có 2,7 triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp, 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa. So với năm 2000 thì số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm 51,89%; số hộ sản xuất công nghiệp chiếm 30,21%; giao thông vận tải chiếm 11,63%; xây dựng chiếm 0,81%; các hoạt động khác chiếm 5,64%. - Về doanh nghiệp thuộc khu KTTN: Năm 1991, cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp thì đến 1992 có 5189 doanh nghiệp, năm 1995 có 15.276 doanh nghiệp , năm 1999 là 287.000 doanh nghiệp. Trong giai đaonj 1991 – 1999, bình quân mỗi năm tăng thêm 5000 doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự tăng vượt bậc của doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Sau gần 4 năm thực thi luật doanh nghiệp, đến cuối năm 2003 đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng kí, đưa tổng số doanh nghiệp đăng kí lên gần 120.000 doanh nghiệp. Trong số các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN thì loại hình doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 70%, tiếp đến là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Cho đến nay, chưa có số liệu chính xác về số doanh nghiệp không còn hoạt động. Tuy nhiên, theo số liệu của Sở Kế hoạch và đầu tư, một số tỉnh , thành phố, thì tỷ lệ số doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN trên địa bàn không có liên hệ với cơ quan thuế là không đáng kể. ở thành phố Hồ Chí Minh, đến tháng 7 năm 2002 có xấp xỉ 900 trong tổng số 27.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng 3%. Trong khi đó, ở thành phố Hà Nội tỉ lệ này khoảng 3,3%. Theo số liệu của tổ công tác thi hành luật doanh nghiệp, trên phạm vi cả nước, số doanh nghiệp đang hoạt động chiếm khoảng 80 – 85% số doanh nghiệp đăng kí. Như vậy, số doanh nghiệp giải thể không hoạt động ở nước ta thấp hơn nhiều nước khác (Mỹ có 10% số doanh nghiệp giải thể trong năm đầu hoạt động, tỷ lệ này ở các nước DECO là 20 – 40%). Về quy mô vốn, lao động và lĩnh vực, địa bàn kinh doanh : Cho đến nay khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 28,8% năm 2002. Mức vốn đăng kí trung bình/doanh nghiệp cũng có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo tổng kết 4 năm thi hành luật doanh nghiệp, thời kì 1991 – 1999 vốn đăng kí trung bình/doanh nghiệp là đần 0,57 tỷ Đồng. Năm 2000 là 0,96 tỷ Đồng. Năm 2002 là 2,8 tỷ Đồng. 3 tháng đầu năm 2003 là 2,6 tỷ Đồng. Tính chung mức vốn đăng kí trung bình của doanh nghiệp là khoảng 1,25 tỷ Đồng. Khu vực KTTN chủ yếu là các doanh nghiệp đã mở rộng các hoạt động kinh doanh trong hầu hết các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. KTTN không còn chỉ hoạt động nông nghiệp, thương mại mà đã mở rộng hoạt động trong các ngành Công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, tư vấn … Đánh giá : Kết quả đạt được : KTTN đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển Kinh tế – Xã hội ở nước ta. - Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực KTTN là tạo công an việ làm. Trong điều kiện ở nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề Kinh tế – Xã hội cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay đang trong quá trình cải cách không tạo thêm được nhiều việc làm mới; Khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN chính là nơi thu hút tạo việc làm mới cho xã hội. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội với khoảng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm 2000 – 2002 các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm việc mới. Hầu hết các doanh nghiệp cùng góp phần chủ yếu đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực một bộ phận lớn lao động nông nghiệp đã được thu hút vào các doanh nghiệp và thích ứng với phát triển sản xuất công nghiệp. Sự phát triển của KTTN không chỉ góp phần tạo việc làm, mà còn có tác dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cân đối ở nước ta hiện nay. - Khu vực KTTN đã đóng góp phần quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối năm 2003, KTTN đã góp khoảng 8% GDP. Tuy nhiên theo các nhà kinh tế thì con số thực tế còn lớn hơn nhiều. Vì thực tế còn nhiều hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp nhỏ đã không trực tiếp đứng tên trong một số hợp đồng giao dịch hoặc ủy thác cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc các kênh khác nhau ở khâu cuối cùng của quá trình sản xuất. Trong những năm gần đây, khu vực KTTN có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế đát nước. Trong 4 năm 2000 – 2003 tốc độ tăng trưởng kinh tế của KTTN trong công nghiệp đạt mức 20%/năm. Trong nông nghiệp, đã có đóng góp đáng kể trong trồng trọt, chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến, xuất khẩu, nhờ sự phát triển của khu vực KTTN, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hó, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. - Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách. Theo số liệu của bộ Thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. KTTN là nguồn lực chủ yếu để phát triển các mặt hàng mới bởi chính đặc điểm của khu vực này. Nhờ đó mở rộng thị trường xuất khẩu, một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng. - Đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng phát triển nhanh từ khoảng 6,4% năm 2001 lên > 7% năm 2002. Nguồn thu từ thuế công – thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Bên cạnh đó còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài. VAT trong nhập khẩu và các khoản phí khác. - KTTN còn góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội, đóng góp phần quan trọng giữ vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. - KTTN còn góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, xóa đói giảm nghèo. - KTTN tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ dần tính đọc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước, tạo được cho người kinh doanh cơ chế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế đổi mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển như thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, vốn và thị trường khoa học công nghệ … Tất cả đều cho thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta không thể thực hiện được nếu không có sự tham gia của khu vực KTTN . 4.2Những vấn đề đang đặt ra : Trong những năm quam cũng như đã phát biểu trên đây chúng ta đã phần nào thấy được những đóng góp quan trọng của KTTN, song bên cạnh đó, với một thành phần kinh tế còn mới mẻ nên sẽ còn không ít những vấn đề đặt ra cần tháo gỡ, vậy những vấn đề đó là gì? Thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN ở nước ta mới được thành lập, > 90% với doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương, khó đứng vững trong cạnh tranh. Theo số liệu của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, hơn 61% doanh nghiệp mới thành lập thiếu nguồn lực cơ bản như vốn, năng lự quản lý, thị trường, đất đai, khó tiếp cận với nguồn cung ứng hỗ trợ. Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta nhìn chung năng lực cạnh tranh thấp, trình độ của Việt Nam và năng lực quản lý kém, công nhân thiếu kinh nghiệm, tay nghề về lao động còn kém chưa qua trường lớp đào tạo chính quy, không có được những lao động lành nghề, nhiều chủ Việt Nam còn hạn chế về trình độ quản lý, không có khả năng xây dựng dự án kinh doanh và xây dựng dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng theo quy định. Thứ ba, do chạy theo nhu cầu và lợi ích, thậm chí có tính tức thời nên cơ cấu các cơ sở KTTN chưa thật hợp lú, chỉ tính riêng các doanh nghiệp, đặc biệt là DNTN, cơ cấu đã có phần thiên nhiều về kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, kể cả thương mại, khách sạn, nhà hàng, số lượng các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ cao cấp còn rất ít. Thứ tư, các doanh nghiệp mới tập trung phát triển ở một số thành phố lớn trong khi đó ở nhiều vùng nông thôn miền núi, hầu như có rất ít các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN, dẫn tới cơ cấu theo vùng, miền mất cân đối và bất hợp lý. Thứ năm, nhiều đơn vị KTTN chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đòng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương… đối với người lao động, lý do là do cả 2 phía, phía người lao động cũng hoặc do không biết hoặc do biết nhưng không dám đòi hỏi. Thứ sáu, một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật trốn, lậu thuế, kinh doanh trái phép làm hàng giả, chưa thực hiện đúng các quy đinh về đăng kí kinh doanh. Thứ bảy, quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp vẫn còn yếu kém, bất cập như thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh, chưa thực hiện đầy đủ chế đọ báo cáo theo quy định. Trên đây mới chỉ là những hạn chế của chính khu vực KTTN, bên cạnh đó còn có nhiều rào cản từ phía các cơ quan nhà nước cũng như các điều kiện của môi trường kinh doanh , có thể kể đến vài rào cản điển hình: Một là: Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức và dư luận xã hội chưa thực sự có cách nhìn đồng thuận về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân cũng như các doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do tâm lý quán tính mà cách nhìn về “con buôn” vẫn còn ám ảnh, cho đến nay vẫn chưa thực sự quán triệt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân KTTN của Đảng và nhà nước ta. Chính vì vậy mà những nhà đầu tư còn giữ thái độ hoài nghi, do dự, một bộ phận cán bộ công chức nhà nước thì chưa tin tưởng, không nhiệt tình giúp đỡ và cũng chưa nhận được sự ủng hộ của một bộ phận xã hội đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đây là vấn đề bức xúc cần tháo gỡ, vì thế thấy rằng cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng KTTN là đối lập với định hướng Xã hội chủ nghĩa, gây nên tâm lý dè dập, e ngại, đồng thời một số ít doanh nghiệp có biểu hiện sai tría nên đã khiến nhiều người có cái nhìn không thiện cảm, coi KTTN là thành phần trốn lậu thuế, làm ăn phi sản phẩm… Chính những điều này đã làm giảm sự kích thích ý chí kinh doanh và tinh thần lập nghiệp của một bộ phận dân cư, đặc biệt là các doanh nhân. Vì vậy cần khắc phục cách nhìn trái với đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời tiếp tục quán triệt quan điểm phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Hai là: Cơ chế chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ cũng là một rào cản không nhỏ đói với hệ thống pháp lý còn nhiều điều chưa minh bạch, với nhiều khe hở làm cho nhiều nhà đầu tư không có niềm tin cho sự đầu tư của mình. - Những ưu đãi đối với các ngành, lĩnh vực chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là đối với vùng sâu , vùng xa… - Thủ tục xin cấp đầu tư còn quá phức tạp và khó khăn với nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian và tốn kém, dễ khiến các nhà đầu tư nản lòng… - Chưa phát huy hết tác dụng các ciing cụ của chính sách thương mại đầu tư, một số công cụ chưa thực sự công khai, rõ ràng như việc hạn chế nhập khẩu. - Các biện pháp hạn chế buôn lậu, trốn thuế chưa thật hiệu quả nên tình trạng hàng nhập lậu lan tràn, trốn lậu thuế khá phổ biến gây thiệt hại cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc. - Chính sách đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. - Chưua có chính sách cụ thể và thiết thực để khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường nghiên cứu và triển khai nhằm phát triển khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ còn hết sức sơ khai, chưa tạo điều kiện cho việc trao đổi, mua bán các sản phẩm khoa học công nghệ trên thị trường. Ba là : Công cuộc cải cách hành chính vòn là một mặt chưa theo kịp với các yêu cầu đổi mới kinh tế. - Tổ chức bộ máy nhà nước vừa cồng kềnh, vừa kém hiệu quả. - Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chưa đủ năng lực, trình độ, chậm đổi mới tư duy, coi việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, của cơ quan mình đối với khu vực KTTN như là việc “ban ơn”, “phát lộc”. - Thủ tục hành chính rườm rà làm cho các doanh nghiệp mấy nhiều thời gian, tiền bạc và mất thời cơ kinh doanh. Chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp ở nước ta còn cao hơn các nước khác trong khu vực. Bốn là : Môi trường pháp lý cũng đàng là rào cản đối với kinh tế tư nhân. Với hệ thống pháp luật, chính sách chưa đầy đủ, chồng cheó, một số văn bản luật chưa theo kịp với các chế tài quy định trong luật doanh nghiệp. Việc thi hành luật chưa nghiêm túc. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng về khuyến khích phát triển KTTN chưa được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đúng. Đôi khi những văn bản luật chưa xuất phát từ lợi ích cảu hộ kinh doanh, cuả doanh nghiệp mà chủ yếu là thoe tư duy, mong muốn của cơ quan mình. - Việc hướng dẫn, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp còn nhiều lúng túng, cán bộ công chức với năng lực yếu kém và quá chú trọng đến lợi ích cá nhân cùng với nhiều tư duy cũ kĩ đã gây khó khăn phiền hà cho doanh nghiệp. Năm là : kinh tế tư nhân đang bị bất lợi trong cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chí phí trung gian vẫn tiếp tục tăng làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp còn phải đóng nhiều loại cước phí, lệ phí cao như giá điện, gas, dầu … ở nước ta vẫn cao hơn nhiều nước khác trong khu vực. Điều này tác động đến hạn giá thành sản phẩm trên thị trường nội địa, làm giảm kahr năng cạnh tranh và hạn chế trong việc chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới. - Tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước (hàng không, hàng hải, bưu chính – viễn thông…) cũng có tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh cảu khu vực KTTN - Việc tiếp cạn các nguồn lực của KTTN cũng gặp nhiều khó khăn nhất là về mặt bằng sản xuất và vốn tín dụng. Phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam : Quan điểm cơ bản trong phát triển kinh tế tư nhân : Đổi mới trong nhận thức về kinh tế tư nhân theo định hướng Xã hội chủ nghĩa : Hội nghị trung ương Đảng khóa IX đã nhấn mạnh : “Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để tạo ra sự thống nhất cao. Một số cơ chế, chính sách cảu nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của KTTN, đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quản lú có buông lỏng và có nhiều sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy KTTN phát triển đúng hướng.” Do vậy, vấn đề trước tiên về nhận thức cần làm rõ chính là vấn đề sở hữu gắn với thành phần kinh tế và trách nhiệm của Đảng nói chung và Đảng viên nói riêng trong phát triển KTTN. Khi vấn đề này còn chưa được làm rõ thì “vật cản” cho sự phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ còn tồn tại trong các nhận thức và trong chỉ đạo thực tiễn, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều cơ hội và thách thức : Trước thời kì đổi mới, trong nhận thức mọi người đều coi kinh tế quốc doanh và hợp tác xã là kinh tế Xã hội chủ nghĩa còn lại các khu vực khác là kinh tế phi Xã hội chủ nghĩa nên tìm cách ngăn cản phát triển, và tiến hành cải tạo. Tuy vậy, các thành phần kinh tế này vẫn tồn tại dưới dạng kinh tế ngầm, không kiểm soát được.Trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương đổi mới, trong đó việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường cí sự quản lý của nhà nước. Từ đó được hồi sinh và có chiều hướng phát triển về số lượng song cũng còn nhiều khó khăn, kể cả trong nhận thức và thực tiễn hoạt động. Cần thống nhất và kiên quyết hơn trong việc thực hiện đường lối của Đảng. Thực tiễn cho thấy, nhiều vấn đề đường lối, chủ trương cảu Đảng đã nêu trontg Nghị quyết nhưng chưa được thực hiện một cách kiên quyết và nhất quán. Trong vấn đề kinh tế tư nhân cũng vậy, nhiều quan điểm và hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, tạo lập môi trường có lợi về thể chế và … xã hội cho phát triển kinh tế tư nhân, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, tăng cường quản lý nhà nước và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò các tổ chức trong phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết đưa ra thì hợp lý nhưng thực tế không phải mọi lúc, mọi nơi đều thực hiện tốt. Nguyên nhân cảu tình hình trên có nhiều nhưng cơ bản nhất vẫn là chưa kiên quyết và nhất quán trong việc thực hiện. Vì vậy cần xem xét, làm rõ hơn nhận thức và phương hướng, giải pháp cụ thể trong phát triển kinh tế tư nhân. 5.1.2 Đổi mới tổ chức quản lý kinh tế tư nhân theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế qua việc định rõ tiêu chuẩn doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành kinh tế; định hướng rõ hơn chính sách ưu đãi các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng : Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu trong xu thế toàn cầu hóa hướng tới sự phát triển của mỗi quốc gia, Song đó cũng vừa là cơ hội, vừa là thách thức, đặc biệt đối với một nước như Việt Nam, một nước có nền kinh tế nhỏ còn đang trong quá trình đổi mới. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn đặt ra cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam nhiều thách thức. Nừu không có sự hỗ trợ của chính phủ với các biện pháp ứng phó tốt chỉ để vượt qua khó khăn và phát triển bền vững. Vì vậy về cơ bản chúng ta cần đánh giá được những thách thức chủ yếu như : Một là : Giá đầu vào cao : khiến doanh nghiệp Việt Nam khó cạnh tranh trong việc xuất khẩu và mở rộng. Hai là : Chi phí trung gian cao : Giá xăng dầu tăng, cước vận chuyển, tiền công, giá điện, ngoại tệ … tất cả đều tăng cao, đặc biệt nếu so với nhiều nước trong khu vực thì chi phí trung gian của Việt Nam là rất cao. Ba là : Máy móc thiết bị cũ, lạc hậu : khiến năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp … Bốn là : Kinh nghiệm, năng lực quản lý, công tác tiếp thị và hiểu biết về thị trường cảu Việt Nam còn yếu chưa có chiến lược phát triển lâu dài, ổn định và chiến lược cạnh tranh quốc tế. Năm là : Bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo và thủ tục hành chính còn phức tạp. Sáu là : doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như doanh nghiệp Việt Nam nói chung chưa có một nền tảng đạo đức kinh tế cần thiết. Chính điều này tạo nên tâm lý hoài nghi, e dè của các nhà đầu tư, để lựa chọn, họ sẽ chọn làm ăn với các công ty ngoại quốc hơn là các công ty trong nước. Một số chính sách cụ thể khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam : Chính sách đầu tư : Sau khi ban hành, chính sách đầu tư đã góp phần tạo môi trường đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân trên nhiều mặt : - Tiếp cận các nguồn lực được lợi hơn : giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về xây dựng kết cấu hạ tầng, vay vốn tín dụng. - Hỗ trợ đầu tư trên các mặt : cho thuê mặt bằng trong các khu công nghiệp, lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư, ưu tiên, ưu đãi một số ngành nghề liên quan tới công nghệ mới. - Bảo đảm an toàn cho hoạt đọng đầu tư; xúc tiến hình thành bảo lãnh tín dụng đầu tư, bảo hộ đầu tư, đảm bảo lợi ích và … hợp pháp cảu nhà đầu tư. Tuy nhiên chính sách đầu tư vẫn còn một số hạn chế sau: - Chưa thật chú trọng đúng mức đến khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước, có phần khuyến khích đầu tư với sự ưu đãi cho đầu tư nước ngoài nhiều hơn (thuế tư nhân doanh nghiệp và thời hạn thuê đất) đầu tư của nhà nưcosc vẫn chủ yếu tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước dù các doanh nghiệp này hoạt động chưa hiệu quả - Chưa chú trọng đến các công cụ quan trọng khác như lãi suất, bảo lãnh đầu tư. - Nhiều ưu dãi đối với các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ chưa đầu tư đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư nhất là đối với vùng sâu vùng xa. - Nhiều nội dung của chính sách khuyến khích đầu tư trong nước chưa được triển khai thực hiện đầy đủ và kịp thời. 5.2.2 ở tầm vĩ mô @Hỗ trợ tài chính :Như đã biết,thành phần KTTN ởVNvừa được khôI phục lại với thời gian không nhiều trong một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, do vậy ,vốn cho các hộ, các DNTN tất yếu phảI được quan tâm hỗ trợ bằng nhiều hướng và nhiều cách :Hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước(kể cả miễn, giảm thuế)hỗ trợ thông qua các dự án trong và ngoài nư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0423.doc
Tài liệu liên quan