Phương hướng & giải pháp nâng cao hiệu quả vốn của Công ty Bánh kẹo Tràng An

Lời nói đầu Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế có sự quản của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đại hội Đảng khoá VI (12/1986) khoá VII (6/1991) khoá VII (7/1996) và các nghị quyết trung ương tiếp theo nhất là các nghị quyết trung ương IV khoá VIII đã đề ra các chủ trương, chính sách lớn về đổi mới về phát triển kinh tế xã hội. Hội nghị lần thứ 6 (lần 1).Ban chấp hành trung ương đảng khoá VIII về nhiệm vụ kinh tế xã hội 1999 đề ra phương hướng và mục tiêu

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & giải pháp nâng cao hiệu quả vốn của Công ty Bánh kẹo Tràng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng quát về kinh tế xã hội 1999 và đến năm 2000 là tiếp tục công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong đó vấn đề đầu tư và phát triển nghị quyết nêu rõ: "Đổi mới đồng bộ các chính sách, thể chế và thủ tục có liên quan tới môi trường và điều kiện sản xuất kinh doanh (như thành lập doanh nghiệp, đất đai, vốn, khoa học, công nghệ lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước, thuế....) nhằm thật sự khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, mọi doanh nghiệp cần kiệm, hăng hái bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, làm giàu cho mình và góp phần xây dựng đất nước, chú trọng khai thác tiềm năng đầu tư phát triển kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ban hành chính sách ưu đãi đặc biệt (cao hơn mức bình thường) đối với mọi trường đầu tư không dựa vào nguồn vốn nước nhà trong hai năm 1999-2000 kể cả đầu tư trực tiếp nước ngoài "Trong đầu tư Đảng ta coi đầu tư vốn có tầm quan trọng đặc biệt khuyến khích, ưu đãi mọi thành phần kinh tế bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh". Vì thế để các doanh nghiệp có thể tồn tại trước sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường đồng thời phát huy hết hiệu quả sản xuất kinh doanh thì động lực để doang nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đó là vốn. Do đó vấn đề đặt ra đối với mọi doanh nghiệp là quản trị vốn ra sao cho có hiệu quả nhất và đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để thấy được một doanh nghiệp thực hiện, giải quyết vấn đề này hiệu quả hay không hiệu quả ta phân tích việc sử dụng vốn của doanh nghiệp đó.Cụ thể ở đây là: công ty bánh kẹo Tràng An-Hà Nội. Chuyên đề được kết cấu gồm những chương sau: ã Chương I: Cơ sở ký thuyết của vấn đề hiệu quả sử dụng vốn. ã ChươngII: Phân tích tình hình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng của công ty bánh kẹo Tràng An. ã Chương III: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Do trình độ còn hạn hẹp, chắc chắn chuyên đề này không tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, tháng 6/2000 CHƯƠNG I cơ sở lý thuyết của vấn đề hiệu quả sử dụng vốn I-/ Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp: 1.1 Khái niệm về vốn: Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa Mác đã tìm thấy qui luật vận động của tư bản( vốn) mà qui luật này nếu ta trừu tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy một điều bổ ích bằng công thức : SLD T-H . .......SX..........H'-T' TLSX Từ công thức này cho thấy bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh cũng phải đều trải qua ba giai đoạn: mua-sản xuất-bán hàng và điều quan trọng nhất đối với mỗi người sản xuất, mỗi nhà doanh nghiệp chính là phải biết phân bổ các yếu tố của tiền vốn, đầu tư (khi chuyển hoá sức lao động và tư liệu sản xuất) nhằm tạo ra nhiều của cải cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cả xã hội công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của dòng vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong trường hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng chứ nó chưa đem lại những lợi thiết thực cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội tích luỹ vốn (tư bản) theo Mác là "Sử dụng giá trị thặng dư cho tư bản, hay chuyển hoá gía trị thặng dư thành tư bản". Một nhà kinh tế học người Hàn Quốc tên là Sang Sung Part đã định nghĩa về vốn như sau:" dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích luỹ là khoản thu nhập thường có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật vốn được chia thành hai phần vốn có định và vốn tồn kho, là các tư liệu sản xuất được sản xuất bằng hiện vật được sản xuất hay được xuất khẩu. Từ định nghĩa của nhà kinh tế học Sang Sung Part chúng ta rút ra một số nhận xét : Một là: Vốn không chỉ biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc dưới dạng tiền tệ. Hai là : Trong nền kinh tế thị trường vốn không chỉ là nhưng lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi mà còn là giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất. Ba là : Tiền chỉ là vốn nếu nó được đầu tư sinh lợi. Trên cơ sỏ kế thừa các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế chính trị Mác-xít và các nhà kinh tế học khác thì vốn hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia, còn vốn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc đã tích luỹ của một cá nhân hay một quốc gia. Đối với một doanh nghiệp vốn là toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu và giá trị đầu tư tiếp theo trong sản xuất kinh doanh hay xét theo góc độ tài sản (bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động) thì tài sản này trong kinh doanh được gọi là vốn. 1.2 Vai trò của vốn trong kinh doanh: Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế kĩ thuật, dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến hành hoạt động kinh doanh được doanh nghiệp phải nắm giữ một lượng vốn nào đó. Số vốn này thể hiện giá trị toàn bộ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy vốn kinh doanh có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh bao giờ cũng là cơ sở, là tiền đề để doanh nghiệp tính toán hoạch định các chiến lược và kế hoạch kinh doanh.Trên ý nghĩa đó vốn là điều kiện quan trọng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh là một trong những tiêu thức để phân loại doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp vào loại, nhỏ hay trung bình và là một trong những tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả các nguồn hiện có và trong tương lai về sức lao động nguồn cung ứng, phát triển mở rộng thị trường. Bởi vậy các doanh nhân thường ví ''buôn tài không bằng dài vốn''. Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường huy động được vốn mới chỉ là bước đầu, quan trọng hơn và quyết định hơn là nghệ thuật phân bổ, sử dụng vốn với hiệu quả cao nhất ảnh hưởng đến vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Bởi vậy mọii doanh nghiệp cần phải có chiến lược bảo toàn và sử dụng hiệu qủa vốn kinh doanh. Thực tế Việt Nam sau hơn 11 năm đổi mới nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến quan trọng và đạt được những thành tựu lớn lao, nhưng chúng ta vẫn là nước nghèo nàn, mức sống vẫn còn thấp. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư cho cả nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển công nghiệp nói riêng là rất cần thiết hơn bao giờ. Theo nhiều số liệu thống kê cho biết tổng vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội năm 1995 ước tính khoảng hơn 62.000 tỷ đồng,tăng 19% so với năm1994 trong đó nguồn vốn do các doanh nghiệp tự đầu tư là hơn 5.000 tỷ đồng (riêng khấu hao cơ bản là 2.500 tỷ đồng ) nhân dân và các công ty tư nhân đầu tư khoản 16.000tỷ đồng, còn các công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp khoảng gần 1,9 tỷ USD tương đương với hơn 20.000tỷ đồng Việt Nam, để thực hiện chương trình kinh tế quan trọng cho quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá chúng ta phải huy động được một số vốn nhất định là từ 45 đến 50 tỷ USD (1996-2000) trong đó nguồn vốn tích luỹ tư trong nứớc từ 20 đến25 tỷ USD chiếm khoảng 15% GDP, đạt khoảng 50% tổng nhu cầu vốn bao gồm : vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước từ 8 đến 10 tỷ USD, vốn tiết kiệm từ các hộ gia đình, các tổ chức tài chính từ 6 đến 8 tỷ USD. Như vậy trong khi tạo ra các tiền đề và triển khai quá trình phát triển của một doanh nghiệp hay bất kì một lĩnh vực nào đều không thể thiếu vai trò của vốn và vốn chính là chìa khoá để công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. II-/ Phân loại vốn trong doanh nghiệp : A-/ Phân loại vốn dưới góc độ tài sản: Vốn của doanh nghiệp biểu hiện dưới dạng giá trị được gọi là tài sản. Căn cứ vào tính chất luân chuyển của tài sản, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia làm hai loại sau: * Loại 1: tài sản lưu động: TSLĐ sản xuất TSLĐ lưu thông TSLĐ tài chính Tàì sản lưu động * Loại 2: Tài sản cố định: TSCĐ hữu hình TSCĐ vô hình TSCĐ tài chính Tài sản cố định B-/ Phân loại vốn dưới góc độ nguồn hình thành: Căn cứ vào nguồn hình thành (tài trợ) toàn bộ vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn nợ phải trả. Vốn góp Lợi nhuận chưa chia Vốn chủ sở hữu khác Vốn chủ sở hữu * Vốn chủ sở hữu : * Công nợ phải trả: Công nợ phải trả Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn Như vậy tài sản và nguồn vốn chỉ là hai mặt khác nhau của vốn. Một tài sản có thể được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau,ngược lại một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều tài sản, về mặt lượng tổng tài sản bao giờ cũng bằng tổng nguồn hình thành tài sản. Bởi vì chúng là hai mặt khác nhau của cùng một lượng vốn.Ta có đẳng thức: Tài sản = Nguồn vốn Hay: Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ phải trả Hoặc: TSLĐ + TSCĐ = Vốn chủ sở hữu + Công nợ phải trả Từ cách phân loại trên nếu xét theo góc độ chu chuyển của vốn thì vốn được chia làm hai phần: vốn cố định và vốn lưu động. 2.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh: Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động(TLLĐ). Các doanh nghiệp còn cần các đối tượng lao động khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao động (như nguyên nhiên, vật liệu, bán thành phẩm....) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là tài sản lưu động, còn hình thái giá trị gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp sản xuất thường chia tài sản lưu động thành hai loại: tài sản lưu động sản xuất và tài lưu động lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm các loại nguyên nhiên, vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm dở dang.... đang trong quá trình dự trữ sản xuất và chế biến. Còn tài sản lưu động lưu thông bao gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, khoản vốn trong thanh toán các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ, để hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông các doanh nhgiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban đầu tư ban đầu nhất định. Vì vậy cũng có thể nói vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư mua sắm các tài sản lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động là biểu hiện của tài sản lưu động nên đậc điểm vận động của nó chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, dự trữ sản xuất, sản xuất, lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lập lại chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động.Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ.Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất vốn lưu động lại hoàn thành một vòng chu chuyển. Tóm lại: Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp được tiến hành liên tục thường xuyên. Từ nhận xét này thì: ăVốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Trong cùng một thời điểm vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới những dạng hình thái khác nhau, vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Khi đó để quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau. Ngược lại vốn không đủ thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn quá trình sản xuất sễ bị trở ngại hoặc gián đoạn. ă Vốn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư, tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp vốn lưu động nhiều hay ít cho thấy số lượng vật tư hàng hoá dự trữ ở các khâu tương ứng, mặt khác tốc độ luân chuyển vốn lưu động phản ánh tình hình kỹ thuật, loại sản phẩm, công nghệ sản xuất, trình độ lành nghề của công nhân và các tổ chức hoạt động tiêu thụ mua sắm của doanh nghiệp. Có thể nói vốn lưu động là một bộ phận không thể thiếu được đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động giẩm thấp tương đối nhu cầu vốn lưu động không cần thiết doanh nghiệp cần tìm các biện pháp phù hợp tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất 2.1.2/ Đặc điểm của vốn lưu động : Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào thành phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất, do đó để tái sản xuất cần phải thu hồi vốn lưu động và vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao, đồng thời góp phần mở rộng qui mô sản xuất, cải thiện mức sống của công nhân viên. Vốn lưu động luôn thay đổi theo hình thái biểu hiện: trong quá trình luân chuyển với tốc độ nhanh hơn so với vốn cố định, xết về mặt lượng để quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành thường xuyên liên tục tiền thu về phải luôn lớn hơn giá trị vốn ban đầu bỏ ra ( T'' > T ) . Trong quá trình chuyển đổi hình thái đó các giai đoạn của vòng tuần hoàn luôn đan xen nhau không tách biệt hẳn điều đó có nghĩa là trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động luôn luôn vận động đồng thời dưới các hình thức khac nhau. Bên cạnh đó hình thái hiện vật của vốn lưu động là những đối tượng lao động của quá trình sản xuất cho thấy vốn lưu động có đặc điểm luân chuyển không ngừng, vì thế quản trị vốn lưu động cần nắm bắt tình hình chu chuyển vốn, kịp thời khắc phục những hiệu ứng tiêu cực trong sản xuất đảm bảo cho sản xuất được tiến hành liên tục. Tóm lai: Vốn lưu động là đối tượng tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nó chuyển đổi từ hình thái này sang hình thái khác sau đó trở về ban đầu. Một vòng khép kín đó là một chu kỳ vận động của vốn lưu động. 2.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của vốn cố định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh: Trong nền kinh tế thị trường việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định của doanh nghiệp đuề phải thanh toán, chi trả bằng tiền,số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình và vô hình được gọi vốn cố định của doanh nghiệp. Vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình Vốn cố định đối với một doanh nghiệp khi bắt đầu thành lập được coi là nền tảng cho sự ra đời và hoạt động của doanh nghiệp. Vốn cố định của doanh nghiệp có thể được sử dụng cho các hoạt động đầu tư dài hạn (mua sắm, lắp đật, xây đựng các tài sản cố định hữu hình và vô hình) Và các hoạt động kinh doanh thường xuyếnản xuất các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Vì thế để có thể sử dụng hiệu quả vốn cố định trong các hoạt động đầu tư dài hạn, doanh nghiệp phải thực hiện đúng các qui chế đầu tư và xây dựng từ khâu chuẩn bị đầu tư, lập dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh được các hoạt động đầu tư kém hiệu quả. Mặt khác vốn cố định còn có vai trò to lớn đối với doanh nghiệp sau khi kết thúc mỗi chu kỳ kinh doanh, chính vì thế doanh nghiệp cần phải duy trì một lượng vốn tiền tệ khi thúc mỗi vòng tuần hoàn bằng số vốn này doanh nghiệp có thể thu hồi vốn hoặc mở rộng được số vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra ban đầu để đầu tư, mua sắm các tài sản cố định tính theo thời giá hiện tại và số vốn tích luỹ này được lấy từ quĩ khấu hao tài sản cố định. 2.2.2/ Đặc điểm của vốn cố định: Vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên qui mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định qui mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định có thể khái quát những đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau: Một là : Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm điều do đặc điểm của tài sản cố định được sư dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định. Hai là: Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức khấu hao) tương ứng phần giá trị hao mòn. Ba là: Sau nhiề chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển, sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định của doanh nghiệp. Tóm lại: Vốn có định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. III-/ Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính và phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.1 Đánh giá khái quát tình hình tài chính: Để phân tích khái quát tình hình tài chính toàn doanh nghiệp cần thực hiện ba nội dung sau: ăDựa trên chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI ) để đánh giá chung ba yếu tố:qui mô, tính năng động và quá trình sinh lợi của doanh nghiệp: ROA = ROA là tích của hệ số quay vòng vốn với tỷ lệ lãi thuần trên doanh thu vốn đầu tư được xác định là tổng cộng tài sản. Mặt khác ROA còn có hai ý nghĩa : *Một là : nó cho phép liên kết hai con số cuối cùng của hai báo cáo tài chính cơ bản: lãi thuần của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và tổng cộng tài sản của bảng cân đối kế toán. *Hai là: nó kết hợp ba yếu tố cơ bản cần phải xem xét ngay từ đầu trước khi đi vào chi tiết. Đó là qui mô của doanh nghiệp được phản ánh qua tài sản, qui mô hoạt động và tính năng được phản ánh qua doanh thu và quá trìnhlời được phản ánh bằng giá trị của chỉ tiêu ROA qui mô của doanh nghiệp là căn cứ để diễn giải mọi sự việc và tính năng động thể hiện mức độ phát triển hay suy thoái của doanh nghiệp, còn quá trình sinh lợi phản ánh tình hình tài chính và phưong hướng hành động của doanh nghiệp. ăDựa trên các báo cáo tài chính dạng so sánh để đánh giá xu hướng và triển vọng của doanh nghiệp: các báo cáo tài chính trình bày số liệu tài chính của hai hay nhiều kỳ được gọi là các báo cáo tài chính dạng so sánh. Báo cáo tài chính dạng so sánh cung cấp những thông tin quan trọng về xu thế và mối quan hệ của hai hay nhiều năm, do vậy báo cáo tài chính dạng so sánh đựoc đánh giá là có ý nghĩa cao hơn so với báo cáo tài chính dạng so sánh cần đảm bảo các yêu cầu sau đối với các báo cáo tài chính đơn lẻ: + Sự sắp xếp các mục của các báo cáo đơn lẻ phải giống nhau. + Nội dung và phươn pháp tính các khoản trên các báo cáo đơn lẻ là như nhau. Với báo cáo dạng so sánh doanh nghiệp có thể nghiên cứu mọi khoản mục có những biến động lớn để phân tích xác định nguyên nhân của từng biến động, từ đó đi đến kết luận những biến động đó là thảo đáng hay không thoả đáng. Từ báo cáo so sánh ta phân tích theo chiều ngang để làm nổi bật biến động của một khoản mục nào đó qua thời gian với phưong pháp này thì sự thay đổi về lượng, về tỷ lệ của các khoản mục theo thời gian cũng được làm rõ. ăDựa trên các báo cáo tài chính dạng so sánh qui mô chung để đánh giá kết cấu và biến động về kết cấu tài sản, giúp cho doanh nghiệp đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh và quá trình sinh lợi của doanh nghiệp. Mặc dù bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập cung cấp những thông tin rất hữu ích cho việc đánh gía sức mạnh tài chính, khả năng, rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng việc xác định những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, vì thế để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp chúng ta sử dụng các chỉ tiêu sau: Tỷ suất tài trợ = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp, chỉ tiêu này tính ra càng lớn chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng cao. Tỷ số đảm bảo nợ dài hạn = 3.2 Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: 3.2.1/ Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản cố định (hay VCĐ) Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng nguyên giá TSCĐ đem lại mấy đồng doanh thu thuần Tỷ suất hao phí của TSCĐ = Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra được 1 đồng doanh thu thì doanh nghiệp cần tiêu hao hết bao nhiêu dòng nguyên giá tài sản cố định. Chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt. Tỷ suất sinh lợi của TSCĐ = Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1đồng nguyên giá TSCĐ khi tham ra vào sản xuất thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt 3.2.2/ Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ( hay VLĐ ): Khả năng sinh lợi của TSCĐ (VLĐ) = Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1đồng vốn lưu động khi tham gia vào sản xuất thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này tính ra càng lớn càng tốt. Tỷ suất hao phí của TSCĐ = Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng doanh thu thuần tạo ra trong kỳ tiêu hao bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt. Hiệu số luân chuyển VLĐ (HI) = Chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay của vốn thực hiện được trong 1 kỳ phân tích Hệ số đảm nhận của VLĐ (Hđ) = Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng doanh thu doanh nghiệp thu được trong kỳ thì cần tiêu hao hết bao nhiêu đồng VLĐ. Chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt. Hiệu suất sử dụng TSLĐ (VLĐ) = Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng doanh thu thuần. Kỳ luân chuyển bình quân (K1) = Chỉ tiêu này phản ánh thời gian cần thiết để vốn lưu động thực hiện được 1vòng quay. Chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt. ă Vốn lưu động bình quân được tính theo công thức sau: VLĐ bình quân = VLĐ bình quân quý = VLĐ bình quân năm = Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng - các khoản giảm trừ doanh thu Các khoản giảm trừ doanh thu = doanh thu hàng bán bị trả lại + Thuế TTĐB (hoặc VAT) + Giảm giá hàng bán + Chiết khấu hàng bán 3.3 Chỉ tiêu về khả năng thanh toán: Tỷ suất thanh toán hiện hành = Chỉ tiêu này phản ánh tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Tỷ suất này tính ra càng nhỏ hơn 1 càng tốt. Tỷ suất thanh toán tức thời = Tỷ suất này nếu lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan. Còn nếu nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Chương II Phân tích tình hình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn của công ty bánh kẹo tràng an I-/ Khái quát về công ty: 1.1 Hoàn cảnh ra đời và chức năng nhiệm vụ của công ty: 1.1.1 Thời kỳ kinh tế tập trung (2 giai đoạn): * Giai đoạn từ 3/1973 trở về trước: Hoạt động với hình thức là một xí nghiệp công tư hợp doanh từ năm 1958 đến 1960. Từ 1960 đến tháng 3 năm 1973 có tên là xí nghiệp bánh mứt kẹo Hà Nội. Nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các loại bánh mứt, kẹo phục vụ cho nhân dân thủ đô và các tỉnh bạn. Giai đoạn này sản lượng kẹo trung bình đạt 1.000 tấn/năm; sản lượng bánh, mứt đạt 500 tấn/năm. Số lượng cán bộ công nhân viên đến đầu năm 1973 là 670 người. * Giai đoạn từ tháng 3 năm 1973 đến hết năm 1988: Theo Quyết định số 53/QĐUB ngày 29/3/1973 của Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội, xí nghiệp bánh mứt kẹo Hà Nội được tách thành hai xí nghiệp đó là xí nghiệp bánh mứt kẹo trực thuộc Sở Thương nghiệp Hà Nội và xí nghiệp kẹo Hà Nội trực thuộc Sở Công Nghiệp Hà Nội. Nhiệm vụ chính của xí nghệp kẹo Hà Nội là chuyên sản xuất các loại kẹo dạng cứng và dạng mềm. Sản lượng hàng năm đạt từ 1.000 - 1.300 tấn/năm. Só lượng cán bộ công nhân viên tính đến năm 1988 là 423 ngưòi. Xí nghiệp đóng tại Dịch Vọng, Từ Liêm, Hà Nội. Do đây là thời kỳ bao cấp nên nhà nước đã cấp vốn, nguyên vật liệu và phân phối sản phẩm còn xí nghiệp chỉ lo tổ chức sản xuất đảm bảo kế hoạch được giao. 1.1.2 Thời kỳ kinh tế thị trưòng (2 giai đoạn): * Giai đoạn từ 1989 đến 1992: Theo Quyết định số 169/QĐUB ngày1 tháng1 năm 1989 của UBND thành phố Hà Nội: quyết định sát nhập xí nghiệp chế biến bột mì Nghĩa Đô thuộc Sở lương thực Hà Nội vào xí nghiệp keọ Hà nội, đồng thời đổi tên thành nhà máy kẹo Hà Nội. Nhiệm vụ chính chuyên sản xuất các loại bánh kẹo với sản lượng hàng năm đạt từ 1.500-2.000 tấn. Ngoài ra còn sản xuất các loại nước ngọt và rượu nhẹ có ga với sản lượng hàng năm 200.000 lít. Số lượng lao động là 1.087 người, đến năm 1992 tinh giảm biên chế theo chế độ 176/CP giảm 384 người. Nhà máy đóng ở thị trấn Nghĩa Đô, Tư Liêm, Hà Nội. Giai đoạn này do không được nhà nước bao cấp nên nhà máy phải tự lập kế hoạch thu mua vật tư, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. * Giai đoạn từ 1992 đến nay: Theo thông báo số 1113/CNn ngày 12/11/1992 của Bộ Công Nghiệp Nhẹ và Quyết định số 3128/QĐUB ngày 8/12/1992 của UBND thành phố Hà Nội về việc thành lập công ty bánh kẹo Tràng An, là doanh nghiệp nhà nước theo quyết định số 388/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng. Nhiệm vụ chính là sản xuất đa dạng các loại bánh kẹo cung cấp cho thị trường trong và thủ đô Hà Nội, sản lượng hàng năm đạt 2.000 - 2.500 tấn. Ngoài ra do yêu cầu của cơ chế thị trường, công ty được bổ xung thêm nhiệm vụ mở các chi nhánh, đại lý để tiêu thụ sản phẩm của công ty và các sản phẩm liên doanh đồng thời cung ứng, xuất - nhập khẩu các loại vật tư thiết bị ngành chế biến thực phẩm. Số lượng cán bộ công nhân viên từ năm 1992 đến 2000 dao động từ 678 đến 813 người. Địa điểm công ty: 800A-Đường Hoàng Quốc Việt - phường Nghĩa Đô-Quận Cầu Giấy-Hà Nội. Giai đoạn này công ty tự xây dựng kế hoạch, lo vật tư, liên doanh, liên kết sản xuất và tự tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo việc làm, thu nhập cho công nhân viên và nộp ngân sách cho nhà nước. 1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất: Bộ máy quản lý của công ty bánh kẹo Trang An được tổ chức theo cơ cấu hỗn hợp trực tuyến - chức năng. Các phòng ban chức năng chỉ thuần tuý làm công tác tham mưu cố vấn cho các nhà quản lý cấp cao và những người điều hành, các phòng ban này không có quyền chỉ đạo đối với đơn vị cấp dưới theo kiểu trực tiếp. Với cách quản lý này công ty giải phóng nhà quản lý cấp cao khỏi việc giải quết những vấn đề sự vụ, do đó có nhiều thời gian để xây dựng và lựa chọn các chiến lược phát triển. Ngoài ra cách quản lý này còn tạo điều kiện cho chuyên gia phát huy sáng kiến của mình. Hiện nay bộ máy quản lý của công ty gồm 82 người được chia thành một ban giám đốc và 6 phòng ban chức năng: - Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 3 phó giám đốc: + Giám đốc: là người có quyền lãnh đạo cao nhất, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước nhà nước và pháp luật. + Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất: chuyên trách việc điều hành giám sát hoạt động sản xuất và các chương trình nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới. + Phó giám đốc hành chính: phụ trách phòng hành chính tổng hợp + Phó giám đốc Marketing: phụ trách mọi hoạt động kinh doanh của công ty từ việc tìm nguồn hàng, nguồn tiêu thụ đến việc tìm nghiên cứu mở rộng thị trường, thành lập chi nhánh văn phòng đại diện. - Các phòng ban được tổ chức gọn nhẹ, đảm bảo cho quá trình quản lý diễn ra thông suốt, nhiệm vụ chung là kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước của công ty. Tham gia đề xuất với giám đốc những hiệu quả công tác quản lý. Ngoài nhiệm vụ chung mỗi phòng ban tuỳ thuộc chức năng riêng còn đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác, cụ thể: + Phòng Marketing (9 người): có chức năng tìm kiếm các nguồn hàng, xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, tìm hiểu giá cả, sự biến động cung cầu của vật tư hàng hoá, tổ chức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. + Phòng vật tư (31 người kể cả lái xe, nhân viên tiếp liệu, nhân viên giao hàng): chịu trách nhiệm thực hiện các hợp đồng mua bán vật tư, hàng hoá. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của phòng Marketing, phòng vật tư lập kế hoạch lịch trình mua nguyên vật liệu, ký kết hợp đồng mua hàng. + Phòng kế toán - tài vụ: theo dõi mọi hoạt động kinh tế của công ty phản ánh toàn diện một cách chính xác kết quả sản xuất cũng như hiệu quả kinh tế mà công ty đã đạt được, cung cấp những thông tin cần thiết cho lãnh đạo và các bộ phận có liên quan đề đề ra những biện pháp quản lý, tổ chức kinh doanh thích hợp. Đồng thời chịu trách nhiệm trước nhà nước, giám đốc về quản lý tài chính kế toán. + Phòng hành chính tổng hợp (9 người): chuyên trách các vấn đề đối nội, đối ngoại của công ty, quản lý văn thư lưu trữ, sửa chữa mặt bằng công ty. + Phòng nhân sự (4 người): có chức năng quản lý lao động toàn công ty,lập kế hoạch, sắp xếp lao động theo đúng chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo và tuyển dụng lao động. + Phòng kỹ thuật sản xuất (16 người): kết hợp với phòng vật tư các kế hoạch sản xuất ngắn hạn và dài hạn, xây dựng hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm, quản lý việc sửa chữa máy móc thiết bị, nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất. - Về bộ phận sản xuất: số lao động trực tiếp sản xuất là 519 người ( chưa kể quản đốc, nhân viên thống kê, nhân viên phục vụ, bốc vác...). Công ty tổ chức thành năm phân xưởng dưới sự chỉ đạo của phó giám đốc kỹ thuật. Trong đó ba phân xưởng sản xuất kẹo, một phân xưởng sản xuất bánh và._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0123.doc
Tài liệu liên quan