Phương hướng & giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh Nhập khẩu tại Công ty XNK Thiết bị Vật tư thông tin

Chương I : Những lý luận cơ bản của hoạt động kinh doanh nhập khẩu I. Nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường: 1. Thực chất của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá: Theo Các Mác, thương mại quốc tế là sự mở rộng hoạt động ngoại thương ra khỏi phạm vi một nước, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh Nhập khẩu tại Công ty XNK Thiết bị Vật tư thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các quốc gia. Kinh doanh nhập khẩu là sự mở rộng của các quan hệ mua bán trong nước ra nước ngoài. Trước đây khi chưa có quan hệ trao đổi hàng hoá thì cá nhân mỗi con người cũng như mỗi quốc gia đều phải tự thoả mãn lấy nhu cầu của mình, do đó nhu cầu bị hạn chế. Quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá xuất hiện trên cơ sở của quá trình phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hóa và sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất. Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và các tác động của quy luật kinh tế khách quan làm cho phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng và sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng lớn. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu được thực hiện bởi các thương nhân Việt Nam được phép kinh doanh nhập khẩu trao đổi mua bán hàng hoá với thương nhân của các nước khác. Kinh doanh nhập khẩu khác so với kinh doanh nội địa ở chỗ: Thứ nhất, hàng hoá kinh doanh được đưa ra khỏi biên giới của một nước; thứ hai, việc mua bán được thực hiện bởi hai thương nhân có quốc tịch khác nhau; thứ ba, đồng tiền dùng để thanh toán là đồng tiền ngoại tệ đối với ít nhất là một bên hoặc cả hai bên. Chính vì vậy, công việc kinh doanh nhập khẩu là một công việc khó khăn, phức tạp và chịu nhiều rủi ro. Trong quá trình công nghiệp hóa, sự chuyển dịch cơ cấu nhập khẩu không chỉ phản ánh sự tiến hoá của các hình thái nhu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi từng quốc gia, mà còn phản ánh sự phân bố lại năng lực sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy, công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là một định hướng vô cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất nước đến thành công. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hoá: Nhập khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thương mại ở phạm vi quốc tế, nhập khẩu thể hiện nhu cầu về hàng ngoại của quốc gia chủ thể. Sự chuyển dịch cơ cấu nhập khẩu giữ vai trò quyết định làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung cả nước do hai chức năng cơ bản của nó là: Làm chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Nhập khẩu có những vai trò sau: * Đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân về các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất nhưng chưa đủ. * Đảm bảo các yếu tố đầu vào cho sản xuất trong nước (các yếu tố này trong nước không có hoặc có nhưng hạn chế hoặc chi phí đắt hơn). * Tạo ra thị trường trao đổi rộng lớn, tạo ra sự cạnh tranh giữa sản xuất trong nước và sản xuất ngoài nước buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải hoạt động có hiệu quả hơn. * Làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước. * Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. * Tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Theo quan điểm của Đảng ta thì phát triển kinh tế ngoại thương nhằm khắc phục tình trạng tự cấp, tự túc của nền kinh tế, đưa đất nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hơn thế nữa góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước: vốn, công nghệ, sử dụng tài nguyên có hiệu quả. Chính vì vậy trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 1997 - 2001, một trong những mục tiêu mà Đảng đề ra là: "Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu,... Kim ngạch xuất khẩu bình quân năm tăng 24%-28%, nâng mức xuất khẩu bình quân đầu người năm 2001 lên khoảng 170 USD; Phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân năm 22% - 24%”. II. Hiệu quả và các hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu: 1. Quan niệm về hiệu quả và hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp, đồng thời là vấn đề rất phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh cũng đều hướng tới hiệu quả kinh tế, họ đều có một mục đích chung là làm thế nào để một đồng vốn bỏ ra kinh doanh mang lại hiệu quả cao nhất với mức sinh lãi nhiều nhất. Vấn đề hiệu quả không phải chỉ là mục đích theo đuổi của các nhà doanh nghiệp, mà ngay cả đối với một quốc gia vấn đề hiệu quả cũng được đặt lên hàng đầu. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng hiệu quả trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói chung, kinh tế ngoại thương nói riêng và nhấn mạnh: “Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 6 ). Vậy hiệu quả là gì? Như thế nào là có hiệu quả? Có thể hiểu rõ về bản thân phạm trù hiệu quả, bản chất và biểu hiện của nó chúng ta mới đưa ra được những nhận định đúng đắn về hoạt động của một doanh nghiệp, một nền kinh tế hay một phương án kinh doanh là có hiệu quả hay không? Có nên tiếp tục hay chấm dứt một hoạt động kinh doanh nào đó? Nên đưa ra các giải pháp để tiếp tục duy trì hay đổi mới để nâng cao hiệu quả. Như vậy, có thể nói thiệu quả là điều kiện cơ bản để xác định phương hướng hoạt động của một doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Xét về bản chất của phạm trù hiệu quả, trong những hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau mang bản chất khác nhau. Đối với xã hội tư bản, quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp tư bản nên mọi quyền lợi về kinh tế, chính trị, xã hội,... đều dành cho nhà tư bản. Chính vì vậy, việc phấn đấu nâng cao hiệu quả thực chất là nhằm đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho nhà tư bản, còn đời sống của người lao động không vì thế mà được nâng cao. Trong xã hội Xã hội Chủ nghĩa, quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về nhân dân nên việc nâng cao hiệu quả kinh tế là nhằm đem lại cho mọi người dân trong xã hội cuộc sống ấm no và tốt đẹp hơn. Xét về nội dung của phạm trù, có rất nhiều khái niệm khác nhau: Theo khái niệm rộng, hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Nếu ký hiệu K là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau. C là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. E là hiệu quả. Ta có công thức hiệu quả chung là: E = K-C (1) Hiệu quả tuyệt đối K E = ------- (2) Hiệu quả tương đối C Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Tuỳ từng góc độ có những khái niệm về hiệu quả khác nhau: * Hiệu quả tổng hợp: Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. Hiệu quả tổng hợp còn được gọi là hiệu quả kinh tế- xã hội bao gồm: + Hiệu quả kinh tế: Chỉ xét trên khía cạnh kinh tế của vấn đề, mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó. + Hiệu quả chính trị xã hội: Là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị xã hội như giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, vấn đề môi trường,... Đôi khi hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội mâu thuẫn với nhau. Ví dụ như trong một doanh nghiệp sản xuất có những phương án sản xuất mang lại lợi nhuận cao, nhưng nếu xét dưới góc độ ảnh hưởng đến môi trường sinh thái thì có thể nó không được chấp nhận. * Hiệu quả trực tiếp: Là hiệu quả được xem xét trong phạm vi một đối tượng cụ thể. Ví dụ một doanh nghiệp. * Hiệu quả gián tiếp - Hiệu quả tương đối: Là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa hiệu quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí. * Hiệu quả kinh doanh: của một doanh nghiệp là một đại lượng so sánh giữa đầu vào và đầu ra, so sánh giữa chi phí kinh doanh bỏ ra và kết quả kinh doanh thu được. Phản ánh lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh của mình. Hiệu quả hoạt động kinh doanh nào đó đều có tính hai mặt: Hiệu quả cá biệt đứng trên góc độ vi mô một doanh nghiệp và hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội đứng trên góc độ vĩ mô tức là xem xét mức độ đóng góp của doanh nghiệp vào nền kinh tế quốc dân. Nhưng đối với một doanh nghiệp cụ thể thì chủ yếu quan tâm đến hiệu quả về mặt tài chính tức là doanh lợi đạt được của từng thương vụ, từng mặt hàng xuất nhập khẩu, có thể có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi nếu xét trên khía cạnh tài chính. Nhưng nếu xét trên khía cạnh kinh tế - xã hội như vấn đề môi trường, giải quyết công ăn việc làm, tích luỹ ngoại tệ cho đất nước, góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng thu cho ngân sách Nhà nước... thì có thể không đem lại lợi ích gì có khi còn bất lợi. Đứng trên góc độ của một nhà quản lý tham gia vào hoạch định chính sách kinh tế thì khi đánh giá xem xét hiêụ quả hoạt động của một doanh nghiệp hay bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải tính đến hiệu quả kinh tế- xã hội trước khi đưa ra quyết định vì "hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển". Để cho các nhà doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội chung thì Nhà nước cần có những chính sách đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân người lao động. Có thể biểu diễn khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bằng công thức sau: Lợi ích thu được = Tiền bán ra - Tiền chí phí Tiền bán ra Hoặc lợi ích thu được = ------------------ Tiền chi phí ở đây, ta cần phân biệt giữa kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả là trạng thái cuối cùng của một hoạt động nào đó, bất kỳ một hoạt động nào bao giờ cũng đem lại một hiệu quả nhất định. Nhưng không phải kết quả nào cũng đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp, chỉ có những kết quả đạt được với mức chi phí hợp lý, tiết kiệm nhất và đáp ứng được những mục tiêu đặt ra mới được coi là hiệu quả. Như vậy, có thể nói kết quả là biểu hiện về mặt lượng của hoạt động kinh doanh (ví dụ doanh thu), còn hiệu quả biểu hiện về mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh để tạo ra kết quả đó. Ví dụ, đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chẳng hạn vấn đề không phải chỉ là xuất nhập khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng hoá, mà còn là với chi phí bao nhiêu để có được kim ngạch xuất nhập khẩu như vậy. Bản chất của hiệu quả là phải đạt được lợi ích cao nhất với chi phí thấp nhất. Tức là: Tiền bán ra - Tiền chi phí = Lợi nhuận (Kết quả ) Tiền bán ra nhiều hơn - Tiền chi phí = Lợi nhuận nhiều hơn Tiền bán ra được càng nhiều - Chi phí bỏ ra càng nhỏ = Lợi nhuận càng cao hơn Nếu theo nghĩa rộng, kinh doanh là một quá trình phức tạp gồm nhiều khâu từ nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường, quyết định phương án kinh doanh, chuẩn bị điều kiện để tiến hành sản xuất kinh doanh, tổ chức sản xuất kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó cho đến khâu phân phối, tiêu thụ chúng sao cho có hiệu quả nhất. Còn hiểu theo nghĩa hẹp, kinh doanh là quá trình bỏ vốn vào lĩnh vực sản xuất, lưu thông hoặc dịch vụ để sau một thời gian có thể thu hồi được một lượng vốn lớn hơn lượng vốn bỏ ra ban đầu. Như vậy, khi nói đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là phải nói đến hiệu quả trên từng khâu, từng công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là nâng cao hiệu quả từng bộ phận, từng khâu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để xác định phương án kinh doanh: Sản xuất, kinh doanh cái gì? Khối lượng bao nhiêu? Sản xuất kinh doanh như thế nào? Phân phối và bán cho ai?. Trong một doanh nghiệp thương mại cụ thể thì hiệu quả kinh doanh chính là lợi nhuận đạt được với chi phí thấp nhất tức là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; là việc sử dụng hợp lý nguồn vốn kinh doanh; cũng có thể là mức chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp. Yếu tố tạo thành hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại khác so với yếu tố tạo thành hiệu quả của một doanh nghiệp sản xuất. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì hiệu quả kinh doanh có được chi phí sản xuất cá biệt của một sản phẩm, dịch vụ nhỏ hơn chi phí xã hội trung bình cần thiết để tạo ra sản phẩm, dịch vụ đó. Chi phí cá biệt << Chi phí xã hội trung bình cần thiết à Có hiệu quả cao. Chi phí cá biệt = Chi phí xã hội trung bình cần thiết à Không có hiệu quả. Chi phí cá biệt > Chi phí xã hội trung bình cần thiết à Lỗ. Chi phí cá biệt của một doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý lao động, trình độ quản lý sản xuất,... Còn đối với doanh nghiệp thương mại kinh doanh xuất nhập khẩu thì chi phí bỏ ra để kinh doanh xuất nhập khẩu có thể gồm các loại chi phí sau: Đối với hàng xuất khẩu (Thường bán theo giá FOB). 1. Giá thu mua ở nơi sản xuất. 2. Các sắc thuế gián thu trừ thuế xuất nhập khẩu. 3. Phí bao bì và kẻ ký mã hiệu. 4. Tiền vận chuyển từ nơi sản xuất đến cửa khẩu. 5. Phí giám định (Kiểm tra chất lượng, số lượng, bao bì). 6. Phí kiểm dịch (Nếu hàng xuất khẩu là động thực vật). 7. Phí hải quan. 8. Phí bốc dỡ hàng lên tàu. 9. Phí lấy giấy chứng nhận xuất xứ (C/O). 10. Phí lấy vận đơn. 11. Thuế xuất khẩu. 12. Thuế giá trị gia tăng (Từ 01/01/2000). 13. Trích quỹ dự phòng (tức quỹ dự trữ để trang trải những rủi ro thương mại, thường 3% doanh số bán). 14. Lãi tiền vay (Nếu doanh nghiệp đi vay vốn). 15. Những chi phí khác phát sinh trong quá trình giao nhận, vận chuyển, lập và thu chứng từ. 16. Chi phí giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng. 17. Tiền lương và tiền thưởng cho cán bộ giao dịch của thương vụ có liên quan. Chi phí nhập khẩu phải bao gồm các chi phí sau: 1. Giá mua theo điều kiện CIF (chiếm tỷ lệ chủ yếu). 2. Phí qua kho (làm thủ tục) ở cảng. 3. Phí dỡ hàng lên bờ. 4. Phí thủ tục hải quan. 5. Thuế nhập khẩu. 6. Thuế thu thập doanh nghiệp. 7. Phí giao dịch đàm phán. 8. Lãi vay ngân hàng (Nếu doanh nghiệp vay vốn). 9. Tiền lương và tiền thưởng cho cán bộ, công nhân viên giao dịch trực tiếp đến thương vụ đó. Trong việc sản xuất kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng việc tính đúng, tính đủ các loại chi phí có vai trò rất quan trọng trong việc tính toán hiệu quả tài chính của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đó. Vì những tính toán sai lầm sẽ dẫn đến những ảo tưởng về kết quả kinh doanh nghĩa là bản chất lỗ lại hiểu nhầm thành lãi và ngược lại, dẫn đến những quyết định sai lầm trong phương án kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần xem xét một cách toàn diện cả về mặt không gian và thời gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trước mắt không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ kinh doanh tiếp theo. Hoặc nếu hiệu quả trước mắt thấp nhưng về lâu dài có lợi thì không nên bỏ qua. Về mặt không gian, hiệu quả kinh doanh chỉ đạt được một cách hoàn thiện khi hoạt động của từng bộ phận, từng khâu mang lại hiệu quả và không làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh: Hiệu quả và việc nâng cao hiệu quả là mục tiêu không chỉ của các doanh nghiệp mà còn là mục tiêu của cả nền kinh tế. Biểu hiện cụ thể của hiệu quả và nâng cao hiệu quả trong một doanh nghiệp là đạt kết quả cao hơn chi phí thấp hơn, nghĩa là với một đồng vốn nhất định lợi nhuận thu được cao nhất. Còn đối với nền kinh tế, việc nâng cao hiệu quả biểu hiện ra là: Sử dụng hợp lý các nguồn lực (vốn, lao động, tài nguyên,...); tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người cao, thất nghiệp giảm, môi trường được bảo vệ... Mục tiêu của doanh nghiệp nói chung là lợi nhuận. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao lợi nhuận là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh. Thứ nhất, có thể nói rằng cần thiết phải nâng cao hiệu quả là do sự khan hiếm về nguồn lực. Đối với nền kinh tế, do các yếu tố về vật chất như vốn, nguồn tài nguyên và yếu tố con người là có hạn. Còn đối với một doanh nghiệp thì có sự hạn chế ở nguồn vốn kinh doanh, hạn chế do yếu tố về con người hay hạn chế do yếu tố thời gian. Thứ hai, do sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động kinh doanh có hiệu quả. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả mới đủ sức cạnh tranh với đối thủ, được người tiêu dùng chấp nhận và do đó tồn tại được nền kinh tế thị trường. Thứ ba, do yếu tố luật pháp, nếu một doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả thua lỗ thì có thể bị giải thể theo luật phá sản và giải thể doanh nghiệp. Nên các doanh nghiệp đều cố gắng, năng động trong việc tìm hướng kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả. Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì uy tín trên thị trường sẽ cao, khả năng huy động vốn (vay vốn Ngân hàng, thu hút vốn cổ đông,...) vào kinh doanh sẽ dễ dàng hơn. Thứ tư, lợi ích của từng người lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu kết quả càng cao thì lợi ích thu được càng lớn, nghĩa là lợi ích của từng người lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào chính hiệu quả mà họ đạt được. Thứ năm, do sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế nước ta vào khu vực và thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả hơn. 3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh NK: Nhập khẩu là việc trao đổi hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất trong nước và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cuả người dân. Song việc mua bán trao đổi ở đây có những nét riêng, phức tạp hơn mua bán trong nước: Bạn hàng trong giao dịch mua bán là những người có quốc tịch khác nhau; thị trường thì rộng lớn rất khó kiểm soát; mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn; đồng tiền thanh toán thường là đồng tiền mạnh; hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác;... Chính vì thế mà hoạt động này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, chúng ta có thể kể ra một số yếu tố chính sau: - Các yếu tố thuộc về môi trường: +Yếu tố luật pháp: Mỗi quốc gia đều có những bộ luật riêng chi phối đến hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. Riêng trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu thì phải chịu sự chi phối không chỉ luật pháp trong nước mà còn phải tuân theo luật pháp của nước bạn hàng và luật pháp quốc tế quy định về hoạt động nhập khẩu. Dù các quốc gia có theo hệ thống luật pháp nào đi chăng nữa nhưng tựu chung lại các yếu tố luật pháp ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trên các mặt sau: . Quy định về bạn hàng được phép kinh doanh nhập khẩu. . Quy định về giao dịch, hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ. . Quy định về giá cả, các loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu. . Quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, bao bì, mã ký hiệu,... . Quy định về vấn đề tự do mậu dịch hay bảo hộ mậu dịch. Như vậy, một mặt các yếu tố luật pháp có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tăng doanh số bán, tăng lợi nhuận kinh doanh. Nhưng mặt khác có thể tạo ra những rào chắn để ngăn cản và hạn chế khả năng của doanh nghiệp trong việc khai thác cơ hội kinh doanh và mở rộng hoạt động kinh doanh. + Yếu tố kinh tế: Thực tế là các chính sách kinh tế mà Nhà nước sử dụng để tác động lên toàn bộ nền kinh tế và hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Có thể là các chính sách sau: . Chính sách tài chính: Chủ yếu là thuế và các ưu đãi của Nhà nước về vốn. . Chính sách tiền tệ: Chủ yếu là chính sách lãi suất, chính sách dự trữ ngoại tệ và chính sách tỷ giá hối đoái. . Yếu tố lạm phát và một số chính sách kinh tế khác. Các công cụ kinh tế mà Nhà nước sử dụng để quản lý hoạt động nhập khẩu có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ví dụ, như các công cụ thuế quan (TBs) và phi thuế quan (NTBs). Thuế quan là loại thuế đánh vào một đơn vị hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích điều tiết lượng hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu, điều tiết cung-cầu đối với hàng hoá đó trong nước; hạn chế hay khuyến khích xuất nhập khẩu các mặt hàng cụ thể. Đối với chính sách tỷ giá hối đoái cũng có ảnh hưởng lớn đến xuất nhập khẩu: Khi tỷ giá hối đoái xuống thấp nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ sẽ có tác dụng khuyến khích nhập khẩu. Trái lại, khi tỷ giá thấp sẽ gây nhiều bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu trở nên đắt khó bán ra nước ngoài, không cạnh tranh được với các nước có cùng mặt hàng xuất khẩu; Đồng thời cũng gây bất lợi cho việc thu về ngoại tệ do không xuất khẩu được, khối lượng ngoại tệ ngày càng bị xói mòn do khuynh hướng gia tăng nhập khẩu để có lợi nhuận. Khi tỷ giá hối đoái lên, tình hình diễn biến ngược lại thuận lợi cho xuất khẩu và bất lợi cho nhập khẩu. Do đó, vấn đề là Nhà nước cần phải can thiệp để bình quân tỷ giá hoặc để cho thị trường thả nổi tự định đoạt tỷ giá một cách tự do. + Các yếu tố về khoa học công nghệ và môi trường sinh thái: Khoa học công nghệ phát triển, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá được mở rộng do đó chi phí sản xuất thực tế được đánh giá dưới hình thức nguồn lực huy động sẽ giảm xuống khi quy mô sản xuất tăng. Nghĩa là giá cả hàng hoá sẽ rẻ hơn, chất lượng cao hơn nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại kinh doanh nhập khẩu nhờ việc sử dụng những thành tựu của khoa học có thể tìm hiểu và nắm bắt chính xác hơn các thông tin về thị trường, về bạn hàng, về đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, các doanh nghiệp có thể sử dụng chúng vào việc phân tích và dự đoán xu hướng biến động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. + Yếu tố chính trị: Sự cấm vận kinh tế của một số nước lớn đối với các nước nhỏ, chiến tranh sắc tộc, nội chiến, sự bất ổn về hệ thống chính trị,... đều ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa các nước và ảnh hưởng đến các hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. + Yếu tố môi trường cạnh tranh: Cạnh tranh một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp động lực vươn lên bằng cách đầu tư các phương tiện hiện đại, nâng cao hiệu quả để giảm chi phí và giá thành. Nhưng mặt khác nó dễ dàng đẩy lùi các doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc phản ứng rất chậm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Những yếu tố ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh như khách hàng, đối thủ cạnh tranh, bạn hàng... + Yếu tố thuộc về đồng tiền thanh toán: Trong buôn bán quốc tế đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với một trong hai bên tham gia (có khi là ngoại tệ đối với cả hai bên). Chính vì đặc điểm này mà khi đồng tiền được sử dụng làm phương tiện thanh toán biến động thì lợi ích của một trong hai bên sẽ bị tổn hại. Do vậy, trong thanh toán quốc tế hai bên đều quy định thống nhất với nhau về loại đồng tiền thanh toán và thường là những ngoại tệ mạnh, ổn định như USD, Bảng Anh, Yên Nhật,... - Yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Nếu như các yếu tố thuộc về môi trường ảnh hưởng một cách gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp và nằm ngoài tầm kiểm soát thì các yếu tố thuộc về doanh nghiệp lại ảnh hưởng một cách trực tiếp và trong tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Bao gồm: + Ban lãnh đạo doanh nghiệp: Là bộ phần đầu não của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, đề ra mục tiêu, đồng thời giám sát, đánh giá và điểu chỉnh quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trình độ của Ban lãnh đạo ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. + Cơ cấu tổ chức bộ máy: Hình thức tổ chức bộ máy ảnh hưởng đến quá trình truyền đạt và thu nhận thông tin từ Ban lãnh đaọ đến người có liên quan. Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ loại trừ được những méo mó và nhiễu trong quá trình truyền tin. + Các nguồn lực trong doanh nghiệp: Con người: Đội ngũ cán bộ kinh doanh xét về mặt số lượng và chất lượng là nguồn lực quan trọng nhất, bởi hoạt động nhập khẩu chỉ có thể được tiến hành thông qua những cán bộ kinh doanh nhập khẩu cụ thể. Vốn kinh doanh: Cho thấy quy mô hoạt động của doanh nghiệp, với vốn kinh doanh lớn doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh đa dạng các mặt hàng. Các nguồn lực khác: Hệ thống cơ sở vật chất được sử dụng vào việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh như: văn phòng, trang thiết bị văn phòng (máy tính, điện thoại, fax...). 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu: Xác định được đúng đắn các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó người quản lý có thể đề ra các biện pháp tác động lên các yếu tố này để nâng cao hiệu quả. Các yếu tố ảnh hưởng bao gồm nhiều loại khác nhau: Có yếu tố ảnh hưởng tăng, có yếu tố ảnh hưởng giảm, có yếu tố chủ quan, có yếu tố thuộc về khách quan. Các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp như đã nêu ở trên tất nhiên cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh thì khi nói đến hiệu quả, chủ yếu đề cập đến lợi nhuận mà nó thu được từ hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí bỏ ra để có được khoản thu nhập đó. Xuất phát từ công thức tính lợi nhuận thu được từ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá: Lợi nhuận kinh doanh trước thuế = Lãi gộp - Chi phí lưu thông = Tổng doanh thu - Tổng chi phí kinh doanh + Lãi phụ = Tổng doanh thu - (Giá vốn + Chi phí lưu thông + Thuế gián thu ) + Lãi phụ Cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp thương mại: Khối lượng hàng hoá tiêu thụ thực tế, kết cấu sản lượng hàng hoá bán ra, giá bán hàng hoá, giá vốn, chi phí lưu thông, chi phí bán hàng... Vì vậy, để nâng cao lợi nhuận kinh doanh hay hiệu quả của doanh nghiệp nhất thiết phải tăng khối lượng hàng tiêu thụ, tăng giá bán và giảm chi phí (Chi phí thu mua, chi phí bán hàng, chi phí lưu thông,...), mở rộng mạng lưới kinh doanh. 4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu: Để đánh giá hiệu quả hoạt động của mình các doanh nghiệp tiến hành công tác hạch toán kinh doanh, tức là xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả. Đánh giá chính xác các kết quả đạt được và tìm ra nguyên nhân tích cực, tiêu cực, từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trong chuyên đề tốt nghiệp này, khi đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu ta xem xét trên hai góc độ: Hiệu quả tài chính của hoạt động kinh doanh nhập khẩu và hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 4.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính. 4.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình sử dụng vốn: Hệ thống chỉ tiêu này cho thấy tính chất hợp lý của việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, với số vốn đã có doanh nghiệp phân bổ đã hợp lý chưa? sự thay đổi kết cấu các loại vốn có ảnh hưởng gì đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp? đánh giá khả năng tự tài trợ vốn, khả năng huy động vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn. Về tình hình phân bổ vốn được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau: + So sánh giữa tổng tài sản cuối kỳ với tổng tài sản đầu kỳ của doanh nghiệp xem việc tăng giảm đã hợp lý chưa. + Tỷ suất đầu tư chung phản ánh tình hình chung về đầu tư vốn cho việc trang bị cơ sở vật chấp kỹ thuật như mua sắm và xây dựng tài sản cố định: Trị giá hiện có + Đầu tư tài + Chi phí xây của TSCĐ chính dài hạn dựng cơ bản Tỷ suất =-------------------------------------------------------------- x 100% đầu tư chung Tổng tài sản + Tỷ suất đầu tư tài sản cố định: Phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị và xây dựng tài sản cố định. Trị giá hiện có của tài sản cố định Tỷ suất đầu tư = -------------------------------------------- x 100% tài sản cố định Tổng tài sản + Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn: Phản ánh tình hình sử dụng vốn đầu tư vào liên doanh, mua cổ phần, cổ phiếu. + Xem xét sự tăng giảm của tỷ trọng tài sản lưu động/Tổng tài sản. Về kết cấu nguồn vốn: Cho phép xem xét khả năng tự tài trợ vốn và khả năng huy động vốn. + So sánh tổng nguồn vốn cuối kỳ và tổng nguồn vốn đầu kỳ. + Xác định tỷ trọng từng nguồn vốn cụ thể/ Tổng nguồn vốn + Tỷ suất tự tài trợ: Cho thấy khả năng tự chủ về tài chính- khả năng tự bảo đảm tài chính và tính chủ động trong kinh doanh. Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tự = ------------------------------- x 100% tài trợ Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu phản ánh tình hình công nợ và khả năng thanh toán. + So sánh giữa tổng phải thu và tổng phải trả: Cho thấy mối quan hệ giữa chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Thường thì càng chiếm dụng được nhiều vốn thì càng có lợi cho công việc kinh doanh nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. + Tỷ số giữa tài sản lưu động/ Nợ ngắn hạn tăng cho thấy khả năng thanh toán tốt và ngược lại. Ngoài ra còn dùng một số chỉ tiêu: Các khoản có thể sử dụng để thanh toán nhanh Hệ số thanh toán = -------------------------------------- nhanh Các khoản nợ ngắn hạn Gồm các khoản: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, đầu tư tài chính ngắn hạn đến hạn, các khoản phải thu đến hạn. Tổng tiền Chỉ số thanh toán = ------------------------ tức thời Nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán (Số tiền có thể dùng để thanh toán ) Hệ số thanh toán = ---------------------------------------------- chung Số tiền phải thanh toán Hiệu quả của vốn kinh doanh: Số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được chưa thể đánh giá đúng đắn chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, không so sánh được hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp có quy mô vốn khác nhau. Để đánh giá hiệu quả sử dụng của vốn kinh doanh người ta dùng các chỉ tiêu sau: + Hệ số sinh lời của tài sản kinh doanh: P Tổng lợi nhuận từ kinh doanh HKD = ------- = ---------------------------------------------- C Tổng số tài sản kinh doanh bình quân + Mức sinh lời của vốn lưu động phản ánh hiệu quả sử dụng của một đồng vốn lưu động vào kinh doanh. Tổng lãi kinh doanh Mức sinh lợi của đồng = ----------------------------------------._. vốn lưu động Vốn cố định bình quân năm + Thời gian hoàn vốn: Đối với những thương vụ có thời gian dài, doanh nghiệp cần phải tính đến thời gian hoàn vốn. C: Vốn kinh doanh, được tạo thành từ nhiều nguồn. C Tp: Thời gian hoàn vốn, thời gian cần thiết để tổng Tp = --------- doanh thu có thể hoàn lại toàn bộ vốn bỏ ra. DT DT: Doanh thu. 4.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời: Hoạt động kinh doanh khẩu về cơ bản là giống các hoạt động kinh doanh thông thường khác, nhưng nó vẫn có những đặc trưng khác biệt. Trong điều kiện không có tín dụng (Tức là không tính đến yếu tố giá trị của đồng tiền theo thời gian- Lãi suất ). Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ. Trong hoạt động xuất khẩu “kết quả” được thể hiện bằng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, và “chi phí” là số tiền bản tệ bỏ ra. Ngược lại, trong hoạt động nhập khẩu “chi phí đầu vào” là số ngoại tệ phải chi ra để mua hàng, còn “kết quả đầu ra” lại tính bằng bản tệ. Vì vậy, tỷ suất ngoại tệ được thể hiện bằng hai đơn vị tiền tệ: Ngoại tệ và bản tệ. Đánh giá số đồng ngoại tệ bỏ ra để có được một lượng bản tệ đối với nhập khẩu và số đồng bản tệ bỏ ra để thu được ngoại tệ từ xuất khẩu. DTXK(Ngoại tệ ) + Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu: HXK = ---------------------------- CPXK(Bản tệ ) DTNK(Bản tệ ) + Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu: HNK = ---------------------------- PNK( Ngoại tệ ) Mục tiêu là phải tiết kiệm ngoại tệ. Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ trong trường hợp xuất nhập khẩu liên kết. Hoạt động xuất nhập khẩu liên kết còn gọi là buôn bán đối lưu gồm những hoạt động: + Hàng đổi hàng (Barter ) + Trao đổi bù trừ (Compensation) + Mua bán đối lưu (Counter Perchase) + Trao đổi bồi hoàn (offset) + Mua lại sản phẩm (Buy Back) Trong những hoạt động này đồng tiền có vai trò rất hạn chế chỉ làm công cụ tính toán giá cả và làm công cụ ghi chép. Hiệu quả tài chính của hoạt động xuất nhập khẩu liên kết (Hlk) là kết quả tổng hợp của hiệu quả tài chính xuất khẩu và hiệu quả tài chính nhập khẩu. Do đó, HLK = HXK x HNK DTXK DTNK Hay HLK = ----------- x ---------- CPXK CPNK Chỉ tiêu doanh thu: Là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. n DT = ồ Giá bán mặt hàng (i) x Số lượng mặt hàng (i) i=1 Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận cao là mục tiêu của doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp thương mại, lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa số tiền thu về lớn hơn số tiền chi phí bỏ ra. Được biểu hiện dưới hai dạng: Số tuyệt đối và số tương đối. + Dạng tuyệt đối: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí kinh doanh + Dạng tương đối là tỷ số giữa doanh thu và chi phí bỏ ra kinh doanh. Một số chỉ tiêu tương đối dùng để đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp. . Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu: Lợi nhuận kinh doanh PDT =------------------------------ x 100 % Tổng doanh thu Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được trên một đơn vị lưu chuyển hàng hoá. Do vậy, tỷ suất lợi nhuận này càng lớn kết quả hoạt động kinh doanh càng cao và ngược lại. Việc sử dụng tỷ lệ này không cho phép so sánh được hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. .Tỷ suất lợi nhuận theo vốn: Lợi nhuận kinh doanh Pv = -------------------------------------------- x 100% Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận theo vốn phản ánh khả năng sinh lời trên một đồng vốn bỏ ra. Đồng thời phản ánh hiệu quả sử dụng vốn, tỷ suất này cho phép so sánh hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cùng ngành và khác ngành. Trong trường hợp có thể lấy lãi suất tiền gửi ngân hàng để đánh giá mức doanh lợi của vốn tự có. . Nếu tỷ suất lợi nhuận theo vốn = Lãi suất tiền gửi ngân hàng, ta có thể nói doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ở mức trung bình. . Nếu tỷ suất lợi nhuận theo vốn < lãi suất tiền gửi ngân hàng, thì cần phải xem xét lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí: Lợi nhuận kinh doanh PCP = ------------------------------- x 100% ồ chi phí kinh doanh Cho biết một đồng chi phí bỏ ra thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hiệu quả tài chính trong điều kiện có tín dụng: Để đẩy mạnh xuất nhập khẩu người xuất khẩu thường bán chịu hàng cho người mua và ngược lại người mua ứng trước tiền hàng cho người bán là điều thường xảy ra trong hoạt động xuất nhập khẩu. Giá trị của đồng tiền ảnh hưởng bởi hai yếu tố: Số lượng và thời gian (giá trị của tiền tệ theo thời gian thể hiện bằng mức lãi suất). + Trường hợp lãi tức đơn: Lãi tức chỉ tính theo số vốn gốc mà không tính thêm lãi tức tích luỹ phát sinh từ các thời đoạn trước đó. Lãi tức đơn được tính theo công thức: I: Lãi tức đơn I = P x S x t P: Số vốn vay S: Lãi suất đơn (%) t: Thời gian trước khi rút vốn (thanh toán) + Trường hợp lãi tức kép: Tiền lãi của thời đoạn trước sẽ được cộng vào vốn để tính lãi cho thời đoạn tiếp theo. t Pt = P x (1 + i ) 4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu: * Mức đóng góp cho Ngân sách Nhà nước: Gồm thuế, tiền thuê đất, thuê tài sản cố định... Mức đóng góp cho Ngân sách Nhà nước Tỷ lệ = ---------------------------------------------- Tổng vốn kinh doanh * Tỷ giá hối đoái thực tế của dự án kinh doanh so với tỷ giá hối đoái chính thức của Ngân hàng. Tỷ giá này càng nhỏ hơn càng tốt. Tỷ giá hối đoái = Hiện giá chi phí của phương án của dự án tính bằng Việt Nam * Tiết kiệm ngoại tệ: Lượng ngoại tệ phải chi ra cho nhập khẩu giảm (ít) hơn so với xuất khẩu. Chi phí ngoại tệ Chi phí ngoại tệ cần Tiết kiệm ngoại tệ = nếu nhập khẩu - nhập khẩu * Tăng thu ngoại tệ: Thực chất ở đây là xuất khẩu nhiều hơn so với nhập khẩu. Thu ngoại tệ Chi phí ngoại tệ cho Tăng thu ngoại tệ = do xuất khẩu - xuất khẩu 4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động: Lao động là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng lao động có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động là một trong những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. * Chỉ tiêu năng suất lao động: Tổng doanh thu W =------------------------------------------------ Tổng lao động hiện có (bình quân ) W: năng suất lao động bình quân. Chỉ tiêu này phản ánh mức bán ra trên một thời kỳ lao động. * Chỉ tiêu mức sinh lợi bình quân đạt được trên một lao động: Lợi nhuận đạt được trong kỳ PLĐ = ------------------------------------------------ Tổng lao động hiện có (bình quân) Hai chỉ tiêu W và PLĐ càng lớn thì hiệu quả sử dụng lao động càng cao. * Hiệu suất sử dụng số lượng lao động: Tổng lao động đang có việc làm bình quân HLĐ =---------------------------------------------------------- Tổng lao động hiện có (bình quân) * Hiệu suất sử dụng thời gian lao động: Tổng số thời gian (ngày công) lao động thực tế HLĐ = ---------------------------------------------------------------- Tổng số thời gian (ngày công) lao động theo định mức -Số ngày theo niên lịch- Số ngày nghỉ theo chế độ 4.4. Đánh giá hiệu quả kinh doanh theo từng hợp đồng nhập khẩu: - Sự cần thiết: Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thực hiện các hoạt động kinh doanh nhập khẩu thông quan các hợp đồng kinh tế về nhập khẩu. Cùng một thời điểm có thể có nhiều các hợp đồng được ký kết ngưng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp lại hạn chế. Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải tiến hành phân tích, đánh giá và lựa chọn những phương án (hợp đồng ) có hiệu quả nhất. - Nội dung: Trong thực tế để tính toán kết quả kinh doanh có lãi hay không, nên thực hiện thương vụ (hợp đồng) nhập khẩu đó người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Trong đó: Tổng doanh thu = QXK(NK) x G x T QXK(NK) : Khối lượng hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu G : Đơn giá T : Tỷ giá tại thời điểm thanh toán. Mục đích tổng lợi nhuận càng cao càng tốt. + Thời gian thu hồi vốn của hợp đồng càng ngắn càng tốt nhằm tránh rủi ro trong việc bị chiếm dụng vốn, tăng vòng quay của vốn. + Tỷ lệ lãi của doanh số bán hàng: So sánh ồ Mức lãi tuyệt đối / Doanh số bán hàng nhập khẩu. III. Phương hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Với quan điểm xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và với chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế, đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu. Các đối tượng được Nhà nước cho phép tham gia vào lĩnh vực nhập khẩu hiện nay đã được mở ra rất rộng. Không chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mới có quyền tham gia kinh doanh nhập khẩu mà ngay cả các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn hay các công ty cổ phần có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật (cụ thể luật thương mại, luật doanh nghiệp,...) cũng có thể tham gia kinh doanh nhập khẩu. Điều này tạo cơ hội cho tất cả các thành phần và loại hình kinh tế nhưng cũng tạo sự cạnh tranh gay gắt. Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hóa cụ thể có quy luật vận động riêng, quy luật đó được thể hiện qua những biến đổi về nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hoá ấy trên thị trường. Nắm vững các quy luật của thị trường hàng hoá để vận dụng giải quyết hàng loạt vấn đề của thực tiễn kinh doanh. Nghiên cứu thị trường hàng hoá cần phải xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thế giới. Phải hiểu rõ giá trị, công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã của hàng hoá, nắm vững giá cả hàng hoá, mức giá cho từng điều kiện mua hàng, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu... để lựa chọn mặt hàng kinh doanh. Một nhân tố cần lưu ý là tỉ suất ngoại tệ của từng mặt hàng. Trong xuất nhập khẩu, tỉ suất ngoại tệ là tỉ số giữa số tiền bản tệ có thể thu mua được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu (xuất khẩu). Nếu tỉ suất ngoại tệ lớn hơn tỉ giá hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng đó kinh doanh là có hiệu quả. Ngoài ra, việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không chỉ dựa vào tính toán, ước tính và những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn dựa vào kinh nghiệm của nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu thế biến động của giá cả trên thị trường trong và ngoài nước. Trong hoạt động kinh doanh thương mại nói chung cũng như hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, bạn hàng là những cá nhân hoặc tổ chức có quan hệ giao dịch với công ty, nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá hay hay dịch vụ, các hợp đồng hợp tác kinh tế hay hợp các khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá. Khách hàng trong thương mại quốc tế có thể chia ra làm ba loại chính: các hãng hay công ty, các liên đoàn kinh tế, các tổ chức cơ quan Nhà nước. Dựa trên các kết quả nghiên cứu dung lượng thị trương, giá cả để lựa chọn nước giao dịch. Khi cần chọn một nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước cần nghiên cứu tình hình sản xuất, khả năng chất lượng hàng nhập khẩu, chính sách, tập quán thương mại của nước đó. Điều kiện địa lý cũng là một vấn đề cần quan tâm vì nó cho phép ta sử dụng được ưu thế về địa lý là người mua, để tăng khả năng cạnh tranh và giảm chi phí về vận chuyển, bảo hiểm... Khi chọn một nước để xuất khẩu hàng hoá cũng cần phải nghiên cứu dung lượng thị trường tại nước đó, yêu cầu của nước đó đối với hàng hoá (dịch vụ)... Việc lựa chọn hàng hoá giao dịch cần dựa trên cơ sở nghiên cứu về: . Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và khả năng kinh doanh để khả năng cung cấp (đối với nhập khẩu) lâu dài thường xuyên, khả năng liên kết kinh doanh, khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật để ta thấy được ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán. . Thái độ, quan điểm kinh doanh là vươn tới chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền về kinh doanh. Tìm hiểu uy tín và quan hệ thương nhân trong kinh doanh cũng là điều kiện quan trọng cho phép đi đến các quyết định nhanh chóng có hiệu quả. Lựa chọn thương nhân giao dịch, tốt nhất nên chọn người xuất khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian. Tuy vậy, trong một vài trường hợp như muốn xâm nhập thị trường mới thì việc sử dụng trung gian với tư cách đại lý môi giới lại rất có hiệu quả, hoặc sử dụng trung gian để nắm bắt kịp thời thông tin về hàng hoá thị trường. Ngoài việc căn cứ vào các yếu tố mang tính khoa học trên, việc lựa chọn đối tác giao dịch còn tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và tryền thống trong mua bán của mình. Người ta sử dụng nhiều biện pháp để nghiên cứu thị trường hàng hoá, lựa chọn bạn hàng qua sử dụng báo chí, ấn phẩm hay nghiên cứu trực tiếp. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả luôn gắn liền với thị trường, là một yếu tố cấu thành thị trường, giá cả luôn biến động và chịu sự tác động của nhiều nhân tố như cung cầu về hàng hoá, cạnh tranh giữa những người bán, người mua, sự độc quyền trong mua bán lạm phát tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, trong mua bán quốc tế, người ta còn tính chi phí bảo hiểm, vận chuyển vào giá hàng hoá. Chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin trong thời gian qua. I. Giới thiệu về công ty - Quá trình hình thành , chức năng, nhiệm vụ của công ty. 1. Quá trình hình thành. Tên doanh nghiệp: Công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin. Tên giao dịch quốc tế: Equipment and material of information inport- export company. Viết tắt: EMi.Co. Trụ sở chính: 5A Thi Sách- Hà Nội. Chi nhánh: 64 Trương Định- Q3- Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty EMi.Co được thành lập: - Căn cứ vào quyết định số 1261 (QĐ ngày 24/04/1994 của Bộ trưởng Bộ văn hoá Thông tin về việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước theo nghị định số 388 (HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng- nay là Chính phủ). - Căn cứ vào quyết định số 23 (QĐ 93 ngày 01/10/1994 của giám đốc công ty phát triển truyền thanh - truyền hình chuyển giao cửa hàng kinh doanh điện máy thuộc chi nhánh Ratmex Hà Nội vào Công ty xuất nhập khẩu Thiết bị vật tư Thông tin (EMi.Co). - Căn cứ vào nhu cầu phát triển của ngành thông tin, điện máy và nhu cầu xã hội. - Xét đề nghị của ông trưởng phòng Tổ chức tổng hợp. Công ty EMi.Co là một doanh nghiệp của Nhà nước có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản bằng tiền ngoại tệ và tiền Việt Nam tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và hạch toán kinh doanh độc lập. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gồm hai hoạt động: Hoạt động nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin và hoạt động sản xuất lắp ráp các sản phẩm cuả ngành phát thanh truyền hình. Trong đó hoạt động nhập khẩu gồm: Hoạt động nhập khẩu theo kế hoạch do cấp trên giao (Tổng giám đốc đài tiếng nói Việt Nam) và hoạt động tự doanh. Trong những năm vừa qua hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty có những khó khăn và thuận lợi sau: * Đặc điểm: Là một đơn vị kinh doanh nhập khẩu trong lĩnh vực chuyên về vật tư thiết bị phát thanh truyền hình, trong đó hoạt động nhập khẩu là chủ yếu. Mặt hàng nhập khẩu được quy định theo tính chất của ngành phát thanh - truyền hình: Đầu thu, ăng ten thu ký hiệu vệ tinh, máy phát hình, máy phát sóng phát thanh, thiết bị cho sân khấu điện ảnh, thiết bị để lưu trữ âm nhạc về điện ảnh, máy ghi âm, ăng ten và một số các mặt hàng khác. Hàng xuất khẩu lại rất hạn chế mà lại không phải thuộc lĩnh vực chuyên kinh doanh của Công ty đó là một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ. * Những thuận lợi: - Công ty gần như độc quyền trong việc cung cấp các vật tư thiết bị của ngành cho thị trường trong nước. - Công ty có mối quan hệ truyền thống, lâu dài với nhiều hãng nổi tiếng nên có khi được bạn hàng ưu đãi về giá cả, phương thức và thời gian thanh toán. - Công ty có đội ngũ nhân viên lành nghề, được vay ngoại tệ ở ngân hàng mà không phải thế chấp tài sản. Công ty được sự ủng hộ mạnh mẽ nhiệt tình của cấp trên. - Thị trường hoạt động của công ty rất lớn đầy tiềm năng do cơ sở hạ tầng của ngành hiện nay còn rất yếu và lạc hậu. * Những khó khăn: - Khó khăn nhập khẩu cũng như kinh phí cho hoạt động này thường chậm. - Hoạt động thu nhập nắm bắt thông tin về thị trường mặt hàng nhập khẩu còn yếu, các mặt hàng xuất khẩu thì lại rất hạn chế. - Các chính sách của Nhà nước ban hành, về lĩnh vực này còn nhiệu điều chưa phù hợp. 2. Chức năng và nhiệm vụ: * Chức năng: - Bám sát sự chỉ đạo của Đảng uỷ cấp trên và Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng của Đài và các ngành, phát huy vai trò làm chủ tập thể của cán bộ công nhân viên. Triển khai thực hiện tốt mục tiêu định hướng của ngành và kinh doanh có hiệu quả. - Phát huy được tính sáng tạo trong kinh doanh theo cơ chế thị trường khi nguồn kinh phí của ngành hạn hẹp, tìm kiếm phát triển đa dạng hoá loại hình kinh doanh tạo hiệu quả kinh doanh. - Tập trung đẩy mạnh hàng sản xuất trong nước thay thế hàng nhập ngoại tạo công công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên, coi trọng chất lượng sản phẩm, giá cả hợp lý tạo cơ sở ổn định vững chắc hoạt động của Công ty và tăng uy tín với khách hàng. - Được phép xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin phục vụ phát thanh - truyền hình - thông tin. * Nhiệm vụ: Là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc đài tiếng nói Việt Nam, Công ty được Nhà nước giao cho các nhiệm vụ chính sau: - Kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thiết bị toàn bộ và vật tư, linh kiện phụ tùng phục vụ cho sự nghiệp phát triển ngành phát thanh- truyền hình- thông tin. - Khảo sát, thiết kế, tư vấn kỹ thuật thuộc lĩnh vực truyền thanh, phát thanh truyền hình, thông tin. - Làm dịch vụ quảng cáo trong phạm vi toàn quốc trên các loại hình: Phát thanh, truyền hình, báo chí biển báo, pano, ápphích và bảng hiệu điện tử. - Thực hiện hợp đồng uỷ thác, xuất nhập khẩu, đại lý, ký gửi cho các thành phần kinh tế và kinh doanh khách sạn lữ hành. - Là một doanh nghiệp cũng như mọi doanh nghiệp khác, công ty có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động dinh doanh xuất nhập khẩu hoàn thành kế hoạch do cấp trên giao, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho đội ngũ công nhân viên chức. 3. Cơ cấu tổ chức quản lý: Cơ cấu tổ chức của công ty EMi.Co được mô tả như sau: Công ty có một hệ thống các phòng nghiệp vụ và mạng lưới hoạt động kinh doanh gồm 5 đơn vị trực thuộc hạch toán trong Công ty. Ban giám đốc phụ trách chung toàn bộ hoạt động của Công ty, tiếp nhận các kế hoạch của Tổng Giám đốc đài tiếng nói Việt Nam giao. Phòng tổ chức tổng hợp. Định kỳ báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh theo tuần, tháng, quý, năm. Bước đầu thi hành công tác kiểm toán nội bội, sắp xếp bố trí cán bộ, đào tạo và phân loại người lao động để bố trí đúng người đúng việc, đóng dấu và lưu trữ công văn chứng từ xuất nhập khẩu... Phòng kế hoạch tài chính: Có nhiệm vụ cân đối, tạo nguồn vốn, quản lý và sử dụng vốn, giao dịch với ngân hàng, quản lý tài chính luân chuyển và quản lý chứng từ kinh doanh, tổ chức hạch toán kinh tế tổng hợp báo cáo kết quả kinh doanh theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước ban hành. Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Ký kết các hợp đồng kinh doanh và tổ chức thực hiện. Thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh. Chi nhánh: Thực hiện chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu về các loại vật tư thiết bị phát thanh - truyền hình - thông tin tại thành phố Hồ Chí Minh. Mọi hoạt động của chi nhánh đều chịu sự giám sát điều hành từ Công ty. Các trung tâm: Thực hiện theo chức năng nhiệm vụ cụ thể mà Công ty giao cho trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn xí nghiệp sản xuất kinh doanh thiết bị vật tư phát thanh- truyền hình có nhiệm vụ sản xuất một số thiết bị mà ngành có khả năng đồng thời lắp ráp, các linh kiện đã được nhập từ nước ngoài thành sản phẩm hoàn chỉnh và bán ra thị trường... II. Các đặc điểm kinh tế chủ yếu có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh, vừa là môi trường của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá. - Khách hàng: Là một công ty chuyên kinh doanh nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin và hoạt động sản xuất lắp ráp các sản phẩm của ngành phát thanh truyền hình, thị trường nhập khẩu của công ty là các nước Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc, ý, Anh, Pháp, Singapo và mặt hàng nhập khẩu thì thuộc lĩnh vực phát thanh truyền hình như ăng ten, đầu thu, máy ghi âm... - Đối thủ cạnh tranh: Do hoạt động trong nền kinh tế thị trường nên tất yếu công ty phải có đối thủ cạnh tranh dù đó là doanh nghiệp nhà nước hay bất kỳ hình thức doanh nghiệp nào cũng vậy. Đối thủ cạnh tranh của công ty chủ yếu là các công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin trong ngành và các đài phát thanh và truyền hình. Chẳng hạn như đài truyền hình Việt Nam cũng có công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Chủ yếu là công ty phải cố gắng làm sao để giảm được chi phí trong quá trình nhập khẩu thiết bị cũng như đảm bảo được hàng giao đúng thời gian và chất lượng phải tốt thì công ty sẽ ký kết được hợp đồng với nhiều khách hàng. - Các nhà cung ứng nguồn hàng cho công ty chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển có công nghệ kỹ thuật hiện đại trong lĩnh vực này như Anh, Pháp, ý, Nhật .. Việc lựa chọn phương án tạo nguồn hàng nhập khẩu là rất quan trọng và phức tạp. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết của công ty về thị trường nước ngoài cũng như nhu cầu trong nước, hơn nữa còn tuỳ thuộc rất nhiều vào chính sách ngoại thương của chính phủ. Nói về các mặt hàng trong lĩnh vực thông tin thì đây là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng, đất nước ta còn rất nghèo do vậy để phát triển đất nước thì việc thu thập và nắm bắt những thông tin trên thế giới sẽ có tác động tới tình hình kinh tế, xã hội trong nước. III. Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian qua: 1. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua. 1.1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty theo doanh số nhập khẩu các mặt hàng. Năm 2002 là năm thứ 6 thực hiện nghị quyết lần thứ 8 của Đảng và cũng là năm công ty EMi.Co tiếp tục thực hiện định hướng về đổi mới công nghệ hiện đại hoá ngành phát thanh - truyền hình nhằm mục tiêu phục vụ tốt sự nghiệp phát triển ngành. Trước tình hình có những thuận lợi nhưng gặp nhiều khó khăn: Nổi bật là cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước Châu á, tình hình thiên tai nặng nề và nhất là kế hoạch kinh phí dùng để mua sắm thiết bị năm 2002 của ngành rất hạn chế, việc đấu thầu có những quy định chặt chẽ hơn, Nhà nước thay đổi chế độ thu thuế, lao động trong công ty dôi dư nhiều, việc làm ít... Trong bối cảnh như vậy công ty đã phải bằng mọi cố gắng nỗ lực cao nhất trong hoạt động kinh doanh để đáp ứng mục tiêu phục vụ việc đổi mới phát triển ngành phát thanh - truyền hình đồng thời mở rộng hoạt động kinh doanh đối với các đơn vị ngoài ngành và xã hội, tạo ra hiệu quả kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, tăng mức nộp Ngân sách Nhà nước và đảm bảo thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Do công nghệ trong ngành phát thanh truyền hình còn chưa phát triển nên hoạt động nhập khẩu của công ty là chủ yếu, hàng xuất khẩu còn rất hạn chế mà lại không phải thuộc lĩnh vực chuyên kinh doanh của công ty đó là một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Có thể phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của công ty qua một số chỉ tiêu sau: Bảng1: Doanh số nhập khẩu các mặt hàng. Đơn vị: Tỷ đồng Các mặt hàng Năm 1999 2000 2001 1. Đầu thu, ăng ten thu ký hiệu vệ tinh 0 4,2 6,08 2. Máy phát hình 18,42 0 23,72 3. Máy phát sóng phát thanh 22,2 24,57 30,6 4. Thiết bị cho sân khấu điện ảnh 6,6 9,45 7,3 5. Thiết bị lưu trữ âm nhạc về điện ảnh 5,2 4,8 4,1 6. Máy ghi âm, ăng ten 3,8 4,2 4,7 7. Các mặt hàng khác 3,5 6,7 7,0 Tổng cộng 57,72 49,42 86,5 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh hàng năm. Hoạt động nhập khẩu của công ty bao gồm hoạt động nhập khẩu theo kế hoạch chiếm hơn 60% đóng vai trò chủ đạo nhưng lại tăng không đều qua các năm cụ thể là năm 2000 tăng so với năm 1999 là 4% nhưng tốc độ tăng năm 2001 so với năm 2000 lại là 22%; điều này cho thấy hoạt động nhập khẩu theo kế hoạch do cấp trên giao đã tăng lên; nguyên nhân của hiện tượng này là nhu cầu các thiết bị phát thanh truyền hình trong nước tăng lên để đáp ứng với yêu cầu đổi mới và phát triển của nền kinh tế. Còn hoạt động tự doanh và uỷ thác chỉ chiếm hơn 35% trong toàn bộ hoạt động nhập khẩu của công ty nhưng cũng đạt được mức tăng trưởng cao. Các mặt hàng nhập khẩu mang tính chất của ngành phát thanh truyền hình cho nên việc lắp ráp đòi hỏi phải có kỹ thuật và giá cả các mặt hàng này là tương đối cao. Khách hàng của công ty là các tổ chức kinh tế có thể họ buôn bán các mặt hàng này cũng có thể họ phục vụ cho mạng lưới thông tin trong công tác của mình, các tổ chức xã hội (nhà văn hoá, các rạp chiếu phim, sân khấu...) và công ty EMi.Co nhập hàng để phát triển trong chính ngành phát thanh - truyền hình của đất nước: Cung cấp cho đài tiếng nói Việt Nam, đài phát thanh truyền hình Việt Nam và các đài truyền hình khác trong cả nước. Nói tóm lại, những mặt hàng nhập khẩu của công ty chủ yếu phục vụ cho các tổ chức rất ít khi cung cấp cho các cá nhân cho nên các mặt hàng không mang tính đại trà. Để đánh giá việc nhập khẩu ở từng thị trường ta xét một số chỉ tiêu liên quan đến các mặt hàng nhập khẩu trong một số năm. Trong năm 1999 Công ty nhập chủ yếu ở thị trường máy phát máy, phát hình với doanh số là 18,4 tỷ đồng, máy phát thanh từ thị trường Nhật là 16 tỷ đồng, thị trường Đài Loan là 5 tỷ đồng, Pháp là 0. Sang năm 2000 doanh số nhập máy phát thanh từ Đài Loan là 5,5 tỷ tăng 10%, từ Nhật là 18,5 tỷ tăng 11,1%, từ thị trường Pháp là 0. Thiết bị lưu giữ nhập từ Pháp là 1,8 tỷ (giảm 33% so với năm 1998), từ Mỹ là 2,2 tỷ (tăng 100%). Năm 2001 máy phát thanh nhập từ thị trường Đài loan và Nhật Bản là chủ yếu nhưng vẫn có sự chênh lệch từ hai thị trường này. Mặt hàng nhập từ Nhật chiếm 60,98% tổng doanh số trong khi đó từ Đài Loan là 15,56%. Nhìn một số chỉ tiêu cho thấy doanh số nhập khẩu mặt hàng máy phát thanh của công ty chủ yếu là từ thị trường Nhật và tăng đều qua các năm, trong khi đó thị trường Trung Quốc chỉ mới bắt đầu cung cấp cho công ty từ năm 2000 với doanh số của năm này là 7,5 tỷ đồng. Theo số liệu của bảng 1 ta thấy tổng doanh số các mặt hàng nhập khẩu năm 2000 giảm so với năm 1999 nhưng sang năm 2001 đã đạt được mức tăng trưởng rất cao, trong đó mặt hàng máy phát sóng phát thanh và máy phát hình có tỷ lệ tăng cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số nhập khẩu khoảng 35%. Năm 2000 doanh số nhập khẩu maý phát sóng phát thanh đạt 24,57 tỷ đồng tăng 11% so với năm 1998, năm 2000 đạt 30,6 tỷ đồng tăng 25% so với năm 1999. Chỉ thông qua doanh số nhập khẩu mặt hàng này cũng đã thấy được hiệu quả về độ tăng và nhu cầu về vật tư thiết bị phát thanh truyền hình ngày càng cao. Đây là cơ hội rất tốt cho công ty mở rộng thị trường cung ứng cho các đơn vị, doanh nghiệp trong nước cũng như các cá nhân, công ty tư nhân có nhu cầu mua. Công ty EMi.Co đã áp dụng nhiều biện pháp để tăng lượng hàng nhập khẩu như quản lý và sử dụng vốn một cách hợp lý giảm chi phí kinh doanh, hoàn thiện trình độ và nghiệp vụ nhập khẩu cho nhân viên, đồng thời công ty cũng sẽ nhập những dây chuyền lắp ráp hiện đại của nước ngoài để từng bước giảm được chi phí sản xuất cũng như nâng cao chuyên môi cho công nhân viên trong việc lắp ráp các loại thiết bị thông tin. Nhìn chung tình hình nhập khẩu của công ty qua các năm có sự tăng trưởng cao. Tuy có sự giảm sút trong một số mặt hàng nhưng đó chỉ là sự giảm sút do có sự tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ và nhiều yếu tố bên ngoài khác. Và với sự định hướng đúng đắn của công ty cùng sự chỉ đạo của cấp trên, hiệu quả kinh doanh của công ty trong tương lai sẽ ngày càng phát triển hơn. 1.2. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty Đánh giá khái quát tình hình tài chính sẽ cung cấp một cách tổng quát nhất tình hình tài chính năm 2001 của công ty có khả quan không. Điều đó sẽ cho phép chủ doanh nghiệp thấy rõ được thực chất của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không và dự đoán được khả năng phát triển hay chiều hướng suy thoái để từ đó có những giải pháp hữu hiệu trong quá trình quản lý. Bảng 2: Phân tích tình hình phân bổ vốn năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 156.684.489.574 97,15 59.130.979.119 90,7 I. Tiền 30.317.384.830 18,8 35.463.873.227 54,4 II. Các khoản phải thu 100.204.965.555 62,13 8.607.9283.256 13,2 III. Hàng tồn kho 12.177.081.532 7,55 5.088.049.691 7,8 IV. TSLĐ khác 13.985.057.657 8,67 9.971.127.945 15,3 B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 4.595.340.725 2,85 6.059.457.377 9,3 I. Tài sản cố định 4.425.340.725 2,74 5.854.457.377 8,98 II. Đầu tư tài chính dài hạn 170.000.000 0,11 205.000.000 0,32 Tổng tài sản 161.279.830.299 100 65.190.436.496 100 Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2001. Qua số liệu ở bảng trên cho thấy tổng số vốn cuối kỳ so với đầu năm giảm xuống 96.089.393.803 đồng với số tương đối là 59,57%. Điều đó có thể đánh giá rằng quy mô về vốn của doanh nghiệp đã giảm xuống. Nhưng cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp lại được tăng cường, thể hiện rõ tình hình tăng thêm TSCĐ 1.429.116.625 đồng với số tương đối tăng 6,24%. Khoản đầu tư dài hạn tăng lên 35 triệu đồng do góp vốn liên doanh, điều đó sẽ tạo nguồn lợi tức lâu dài cho doanh nghiệp. Việc đầu tư chiều sâu mua sắm thêm trang thiết bị được đánh giá thông qua chỉ tiêu tỷ suất đầu tư. Tỷ suất này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp.Tỷ suất đầu tư được định bằng công thức: Loại B(tài sản ) x 100 Tỷ suất đầu tư = --------------------------------- ồ số tài sản ở đầu năm tỷ suất đầu tư là: EMBED Equation.3 Cuối kỳ, tỷ suất này là: EMBED Equation.3 tăng: 6,45% Nhìn vào sự tăng lên của tỷ suất đầu tư, chủ doanh nghiệp sẽ thấy năng lực sản xuất có xu hướng tăng lên. Nếu các tình hình khác không đổi (vẫn phát triển bình thường) thì đây là hiện tượng khả quan. Vốn bằng._.tốt với những doanh nghiệp có cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh để họ hỗ trợ mình khi cần thiết trên nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi. Bên cạnh đó cần có mạng lưới thông tin chính xác, kịp thời về những nơi có khả năng cung cấp mặt hàng mình cần, đảm bảo đúng qui cách, chất lượng thoả mãn nhu cầu của phía đối tác. Đồng thời công ty cũng cần một hệ thống tập trung hàng có hiệu quả góp phần đưa hàng về đúng nơi và đúng thời gian yêu cầu. Công ty có thể ký hợp đồng dài hạn với những nơi cung cấp có uy tín về những mặt hàng có nhu cầu ổn định, thường xuyên để khi cần thiết có thể đáp ứng ngay tạo lòng tin cho khách hàng. + Công ty cần đề ra các tiêu chuẩn nhất định về các mặt hàng xuất nhập khẩu để nâng cao chất lượng hàng hoá. Có như vậy, Công ty mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại lâu dài. Đây là biện pháp rất quan trọng đối với thiết bị vật tư thông tin - ngành hàng nhập khẩu quan trọng đòi hỏi độ chính xác và chất lượng cao. + Ngoài ra, trong việc nắm bắt nguồn hàng kinh doanh Công ty nên tiết kiệm chi phí trung gian, chi phí giao dịch kinh doanh. Tổ chức tìm kiếm nguồn hàng xuất nhập khẩu không qua khâu trung gian, tức là thực hiện kinh doanh theo phương châm: Mua tận gốc, bán tận ngọn - giúp công ty giảm chi phí trung gian không cần thiết, mà giá cả là theo thị trường nên có thể làm tăng lợi nhuận. Triệt để tiết kiệm các chi phí khác nhau như chi phí lưu kho, chi phí vận chuyển bốc dỡ, hạn chế tối đa những khoản bị phạt hợp đồng, giảm chi phí trả lãi tiền vay, chi phí điện tín... hạ thấp giá thành nhập khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. + Tổ chức lao động hợp lý: Giảm lao động gián tiếp, tăng cường lao động trực tiếp làm nhiệm vụ kinh doanh để qua đó nâng cao hiệu quả của cán bộ công nhân viên, góp phần nâng cao hiệu quả của chi phí kinh doanh. + Tăng cường công tác quản lý tài chính, tiến hành công tác phân tích chi phí kinh doanh một cách thường xuyên, tránh tình trạng buông lỏng công tác quản lý chi phí kinh doanh, xem xét một cách thường xuyên các định mức chi phí theo khoản mục chi phí để có sự điều chỉnh kịp thời nhằm tiết kiệm chi phí. Khuyến khích mỗi người, mỗi phòng quan tâm đến công tác chi phí kinh doanh và có biện pháp giảm chi phí kinh doanh. Việc giảm chi phí kinh doanh là một việc làm hết sức khoa học và quan trọng. Nhưng giảm chi phí kinh doanh không có nghĩa là cắt xén các khoản chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh mà hạ thấp chi phí kinh doanh phải gắn liền với tiết kiệm và sử dụng hiệu quả. 4. Tập trung đẩy mạnh hàng sản xuất của công ty thay thế hàng nhập ngoại: Hiện nay, xu hướng chung của các nước phát triển là dần dần chuyển giao công nghệ, sản xuất các mặt hàng dùng nhiều lao động sang các nước đang phát triển khi giá nhân công của họ tăng lên, hoặc khi giá trị xuất khẩu các mặt hàng đó không cao bằng các sản phẩm công nghiệp khác mà họ đã chiếm lĩnh được trên thị trường thế giới. Do đó, xu hướng nhập các sản phẩm khi sản xuất đòi hỏi nhân công nhiều như linh kiện điện tử của các nước sẽ có xu hướng tăng lên. Vì thế, công ty cần nắm bắt ngay những thay đổi này để quyết định các mặt hàng sẽ cần phát triển sản xuất, lắp ráp hơn. EMi.Co là một doanh nghiệp Nhà nước, do ảnh hưởng của nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển, cơ sở hạ tầng kém, khoa học công nghệ lạc hậu; bên cạnh đó kinh phí dùng để mua sắm thiết bị của ngành còn hạn chế nên hoạt động chính của công ty là nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin và sản xuất lắp ráp các sản phẩm của ngành phát thanh - truyền hình. Để có thể kịp thời nắm bắt những cơ hội khi nền kinh tế thế giới đang thay đổi, công ty nên tập trung vốn, tìm kiếm và đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, đầu tư trang thiết bị công nghệ phát triển, dần dần sản xuất ra những mặt hàng có tính năng cao, giá cả hợp lý thay thế hàng ngoại nhập và xuất khẩu sang thị trường quốc tế. Đây sẽ là một bước tiến mới, rất quan trọng, làm tăng lợi nhuận của Công ty, phát huy được tính sáng tạo, năng động trong kinh doanh, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên... Công ty nên thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài. Đây là hình thức tương đối tốn kém nhưng mang lại nhiều thuận lợi cho công ty, đặc biệt trong khai thác thị trường mới, đảm bảo cho công ty kinh doanh an toàn có lãi. Ngoài ra, đó còn là nơi giao dịch, ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với doanh nghiệp nước ngoài, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại có thể xảy ra cũng như bảo vệ quyền lợi của công ty. Với hoạt động xuất khẩu, công ty cũng có thể chọn đại lý của mình ở nước ngoài như các nước Mỹ, Anh, Singapo... về các mặt hàng như linh kiện điện tử... đòi hỏi lượng lao động nhân công nhiều. Đây là giải pháp ít tốn kém hơn, đảm bảo cho công ty có thể bán hàng tới tận tay nơi có yêu cầu, giảm bớt chi phí trung gian qua người nhập khẩu và đẩy mạnh được hàng sản xuất của công ty, hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mà công ty đã sản xuất và lắp ráp được. 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau: Vốn là một vấn đề mang tính cập dập của nhiều công ty hiện nay. Trên cơ sở Công ty được cấp vốn bổ sung bằng Ngân sách Nhà nước qua từng năm, Công ty sẽ tự cấp vốn bằng hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. Quản lý chặt về vốn sẽ giúp Công ty hoạt động hiệu quả và không gây ra tình trạng thất thoát không rõ nguyên nhân và qua các năm Công ty có thể biết được vốn của mình đã tăng hay giảm để từ đó có giải pháp thích hợp trong kỳ hoạt động tới. Công ty có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách ưu tiên cấp vốn cho những mặt hàng kinh doanh đem lại lợi nhuận cao. Tăng vòng quay vốn lưu động cũng là giải pháp cần được chú trọng. Với số vốn lưu động hạn chế. Công ty càng đẩy mạnh vòng quay vốn lưu động thì càng có nhiều cơ hội thu lợi nhuận. Muốn vậy, phải tổ chức tốt quá trình kinh doanh từ khai thác nguồn hàng, nắm bắt nhu cầu tiêu thụ hàng nhanh chóng, thu hồi vốn ngay... để chuẩn bị cho những vụ kinh doanh tiếp theo. Bên cạnh đó để mở rộng kinh doanh, vốn lưu động chỉ đáp ứng được 54,67% nhu cầu kinh doanh, rõ ràng Công ty phải vay một số lượng vốn rất lớn, nhất là những thương vụ kinh doanh có giá trị lớn. Nếu chỉ trông chờ vào các khoản vốn bổ sung của Nhà nước và các khoản vay Ngân hàng thì phải chiụ sức ép lớn về lãi suất tiền vay ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty. Qua nghiên cứu thực tế, một số doanh nghiệp Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp khai thác các nguồn vốn rất có hiệu quả. Công ty cũng có thể tham khảo, cụ thể là: - Khai thác nguồn vốn từ liên doanh liên kết. Với một số thương vụ lớn Công ty có thể kêu gọi các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức khác cùng góp vốn tham gia kinh doanh. Đây là biện pháp tăng vốn rất nhanh, Công ty có thể liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước, với các đơn vị tư nhân hay các tổ chức doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, Công ty có thể liên kết với các tổ chức xuất nhập khẩu khác thuộc cùng lĩnh vực để tạo thành một tổ chức mang tính hiệp hội vừa bảo vệ lợi ích của mình vừa tạo điều kiện cho Công ty tiếp cận thị trường nước ngoài. - Huy động vốn từ đội ngũ công nhân viên trong Công ty. Công ty nên tổ chức vay vốn của cán bộ công nhân viên trong đơn vị với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất tiền gửi ngân hàng và thấp hơn mức lãi suất tiền vay. Đây là hình thức vay vốn hết sức sáng tạo, linh hoạt: Hai bên có thể thoả thuận mức lãi suất thích hợp, tăng nguồn vốn cho Công ty, giảm chi phí kinh doanh, giảm lãi suất tiền vay đồng thời gắn trách nhiệm của mỗi cá nhân với Công ty chặt chẽ hơn. 6. Các giải pháp về phát triển con người: Hiệu quả kinh doanh của Công ty phụ thuộc rất lớn vào từng cán bộ kinh doanh. Cán bộ kinh doanh có năng lực, trình độ nghiệp vụ vững vàng thì kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty chắc chắn sẽ cao. Do đó, Công ty cần có biện pháp để phát triển con người một cách toàn diện cả về số lượng và chất lượng cụ thể: - Thực hiện phân phối công bằng theo kết quả lao động của từng bộ phận đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên, xây dựng chế độ thưởng phạt, khuyến khích trả lương xứng đáng với kết quả lao động; do đó cán bộ công nhân viên an tâm gắn bó với Công ty nỗ lực xây dựng Công ty phát triển. - Cải tiến lề lối làm việc, động viên cán bộ công nhân viên phát huy tính sáng tạo dám nghĩ, dám làm, chủ động tìm kiếm việc làm... sắp xếp ổn định đội ngũ các phòng ban, trung tâm, xí nghiệp, cử cán bộ đi học các lớp nghiệp vụ, quản lý kinh tế, lý luận chính trị để nâng cao trình độ. - Có chế độ tuyển dụng đội ngũ cán bộ và các chuyên viên, kỹ sư giỏi. Phát hiện và bồi dưỡng cán bộ kinh doanh, cán bộ quản lý giảo có năng lực trong Công ty bố trí họ vào đúng vị trí xứng đáng nhờ đó họ có thể phát huy được lợi thế của mình và đem lại kết quả cao cho Công ty. 7. Xác định một chiến lược kinh doanh đúng đắn: Hiện nay, Công ty EMi.Co vẫn chưa xác định được cho mình một chiến lược kinh doanh dài hạn, kế hoạch kinh doanh của Công ty chủ yếu được xây dựng trên cơ sở kế hoạch của từng năm. Vì vậy, việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn là rất cần thiết nhằm mục tiêu: Nâng cao lợi nhuận, tăng thế và lực trên thị trường cũng như sự an toàn trong kinh doanh của Công ty. Chiến lược kinh doanh của Công ty phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Phải nhằm vào mục tiêu tăng thế lực của Công ty và giành lợi thế cạnh tranh. Nghĩa là chiến lược phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của Công ty, tập trung các biện pháp để tận dụng thế mạnh và khắc phục yếu điểm mang tính sống còn. - Phải đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh của Công ty. - Xác định phạm vi kinh doanh, mục tiêu và những điều kiện cơ bản để thực hiện mục tiêu. - Dự đoán môi trường kinh doanh trong tương lai. - Có chiến lược dự phòng. Chiến lược kinh doanh của Công ty thực chất là một chương trình hành động tổng quát hướng tới việc thực hiện các mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp. Trong thời gian tới Công ty cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp cụ thể trên các mặt sau: 7.1. Xác định cho mình thị trường trọng điểm và mặt hàng trọng điểm. Là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên doanh nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin và hoạt động sản xuất lắp ráp các sản phẩm của ngành phát thanh truyền hình, để tồn tại và kinh doanh có hiệu quả, Công ty nên xác định cho mình những nguồn cung cấp hàng có trọng điểm - nguồn có chất lượng hàng tốt nhất và giá cả hợp lý như Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc... Về mặt hàng kinh doanh thì qua các năm hoạt động Công ty cũng xác định được một số mặt hàng trọng điểm như: ăng ten, đầu thu maý phát hình, máy ghi âm... 7.2. Đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Hiện nay, Công ty mới chỉ dừng lại ở hình thức kinh doanh chủ yếu là nhập khẩu và lắp ráp các sản phẩm của ngành phát thanh truyền hình. Công ty có thể tham gia vào lĩnh vực liên doanh liên kết sản xuất với các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước. Đàm phán, ký kết hợp đồng để trở thành bạn hàng cung ứng nguyên liệu ngoại nhập và là đơn vị tiêu thụ sản phẩm lâu dài cả tổ chức sản xuất trong nước. Đồng thời liên kết với bạn hàng nước ngoài để tạo ra nguồn hàng nhập khẩu và nơi xuất khẩu hàng ổn định. Đối với những dự án lớn có độ rủi ro cao thì Công ty có thể liên kết với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác để phân tán rủi ro. 7.3. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Bên cạnh việc xác định cho mình một số loại mặt hàng trọng điểm, Công ty nên thực hiện công việc kinh doanh theo hướng đa dạng hoá các loại mặt hàng. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh có thể nói đã trở thành phương châm chung trong kinh doanh. Với việc đa dạng hoá mặt hàng, Công ty sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh và lợi nhuận trong một chừng mực nhất định nào đó sẽ lớn hơn. Tuy nhiên, nếu chú trọng quá cao vào việc đa dạng hoá mặt hàng thì lượng vốn của Công ty sẽ bị trải ra trên nhiều lĩnh vực và như vậy công ty sẽ không thể tập trung vốn của mình cho một vài hoạt động kinh doanh lớn. Mặt khác, công ty cũng không có được những hiểu biết sâu sắc về thị trường, về sản phẩm mà mình kinh doanh do đó nếu gặp phải sự cạnh tranh của các đối thủ khác thì doanh nghiệp khó có thể giữ được ưu thế của mình. Vì vậy, để cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty có hiệu quả cao Công ty nên kết hợp một cách linh hoạt giữa việc đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và mặt hàng trọng điểm đồng thời thu hẹp hoặc loại bỏ những mặt hàng kinh doanh không có hiệu quả hoặc hiệu quả không cao. 7.4. Củng cố và giữ mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng cũ đồng thời tìm hiểu và mở rộng mối quan hệ với những bạn hàng, khách hàng mới trên cơ sở giữ được chữ tín và có sách lược mua bán tạo điều kiện thuận lợi cho người mua và người bán. Trong cơ chế cạnh tranh thì việc có được bạn hàng là rất khó, giữ được mối quan hệ lâu dài với bạn hàng còn khó hơn. Mà có được những bạn hàng, khách hàng quen thuộc, tin tưởng nhau là điều cốt yếu để giành được thắng lợi trên thương trường. Muốn vậy thì phong cách làm việc, cách cư xử của Công ty với bạn hàng phải thể hiện được chữ tín, Công ty phải biết giúp đỡ, bảo đảm lợi ích chính đáng cho bạn hàng, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi những mối quan hệ lâu dài, mất nhiều công sức gây dựng. Tuy nhiên cũng phải thường xuyên đánh giá về tương lai triển vọng của bạn hàng từ đó có cơ hội tập trung vào các bạn hàng có trọng điểm nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn. Trong sự đa dạng của các hoạt động kinh doanh đòi hỏi Công ty phải luôn tìm hiểu và mở rộng mối quan hệ với những bạn hàng và khách hàng mới. Việc mở rộng và phát triển các mối quan hệ với bạn hàng mới phải dực trên cơ sở củng cố những mối quan hệ với bạn hàng và khách hàng cũ. Mối quan hệ với bạn hàng có thể dựa trệ cơ sở của mặt hàng kinh doanh, thị trường kinh doanh hoặc qua việc liên kết cùng kinh doanh. Giữ được chữ tín là điều quan trọng để Công ty có được những mối quan hệ mới với bạn hàng. ở đây chữ tín được thể hiện ở mấy điểm chính sau: chất lượng của sản phẩm phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu của bạn hàng, khách hàng; khâu thanh toán phải nhanh gọn, đúng hạn; tuân thủ hợp đồng ký kết; giao hàng đúng thời hạn;... và đặc biệt phải có thái độ trung thực, chân thành, sẵn sàng giúp đỡ bạn hàng nếu họ gặp khó khăn. Ngoài ra, một sách lược thu mua và bán hàng tạo điều kiện thuận lợi cho ngườn bán và người mua cũng là một biện pháp quan trọng giúp Công ty củng cố lòng tin với bạn hàng, khách hàng cũ, mở rộng mối quan hệ với bạn hàng mới. Trong quá trình tìm kiếm bạn hàng mới, Công ty phải hết sức thận trọng, ít nhất cũng phải nắm bắt được một cách chính xác, đầy đủ các thông tin sau về bạn hàng: - Loại hình kinh doanh của bạn hàng, thời gian đã tham gia kinh doanh, ai là người chịu trách nhiệm kinh doanh chính trong quan hệ kinh doanh. - Uy tín của bạn hàng trên thương trường. - Thực trạng kinh doanh của họ hiện nay (về vốn, cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ,...) - Công ty đã làm ăn với họ hay chưa? III. Kiến nghị với Nhà nước Để làm tốt công tác xuất nhập khẩu, ngoài sự nỗ lực của bản thân Công ty thì những chính sách, cơ chế và biện pháp quản lý hợp lý của Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho công ty EMi.Co nói riêng và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung có cơ hội để phát triển. 1. Hoàn thiện môi trường cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay đối với Nhà nước là phải hoàn thiện môi trường cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. Môi trường hoạt động ta đề cập ở đây gồm: môi trường chính trị, pháp luật và kinh tế. Môi trường pháp lý: Hiện nay có nhiều hạn chế mà lớn nhất là ban hành quá nhiều văn bản quy định về từng mặt hàng, thiếu một cơ sở chung, đồng thời các văn bản này lại thay đổi luôn hàng năm. Sự thay đổi của văn bản điều chỉnh cụ thể là cần thiết, song thay đổi khi thiếu cơ sở chung và thay đổi thường xuyên dễ dẫn đến những lệch lạc và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh. Cụ thể chính sách xuất nhập khẩu hiện còn áp dụng song song hai biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế. Về biện pháp hành chính biểu hiện ra là: lệnh ràng buộc như “cấm”, “ngưng”, “hạn chế” nên đã hình thành quan hệ “xin”và “cho”,... buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi cách xoay xở để được “cấp”, được “cho”,...do vậy mà xem nhẹ việc nâng cao nghiệp vụ, tìm thị trường bạn hàng và đây cũng là những kẽ hở dẫn đến tham nhũng, hối lộ, mua bán quota. Vì vậy, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện các chính sách để tạo thành hành lang pháp luật thông thoáng cho các doanh nghiệp theo hướng sau: - Tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh, hạn chế dần sự độc quyền trong kinh doanh, xoá bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, làm lũng đoạn thị trường. Từ đó tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp có khả năng đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu một cách bình đẳng. - Có các biện pháp sớm gia nhập các công ước quốc tế đa phương (Công ước Viên 1980), ký kết các Hiệp định thương mại với nước ngoài nhằm tạo cơ sở hạ tầng cho việc thực hiện tự do buôn bán, mở rộng thị trường, là cơ sở pháp lý trong việc giải quyết các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngoaị thương. - Làm rõ thêm các chính sách khuyến khích xuất khẩu: giảm thuế xuất khẩu, mở rộng trợ cấp xuất khẩu đặc biệt đối với nông sản, bãi bỏ các công cụ hành chính và chỉ nên sử dụng trong trường hợp bất khả kháng, cấp bách và chỉ có hiệu lực trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp. - Đối với chính sách nhập khẩu cần đảm bảo thực hiện mục tiêu đổi mới, hiện đại hoá thiết bị công nghệ, phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hoá, nhập nguyên liệu cho chế biến hàng xuất khẩu, tiếp tục hạn chế hàng tiêu dùng, nhất là hàng xa xỉ, ngăn chặn nhập hàng chất lượng thấp, hàng nhập lậu. - Tuân thủ cơ chế đăng ký kinh doanh thay thế cho cơ chế “xin”, “cho” trong kinh doanh tạo sự bình đẳng giữa các bên trong kinh doanh xuất nhập khẩu. - Nhà nước cần ban hành các quy định về quản lý vốn và ngoại tệ một cách chặt chẽ, để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá bảo vệ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. - Cần hạn chế ban hành và đi đến loại bỏ các văn bản dưới luật không cần thiết (do từng Bộ, Ban ngành ban hành) để tránh chồng chéo mâu thuẫn nhau làm cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu tiến thoái lưỡng nan không biết phải thực hiện theo văn bản nào. - Xác định cơ quan tài phán để giải quyết các tranh chấp về mặt hành chính của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Môi trường kinh tế: Nhà nước cần xây dựng thị trường vốn vững mạnh hơn, nhanh chóng hình thành thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường vốn, thu hút các nguồn vốn trung, dài hạn qua Ngân hàng và các Công ty tài chính để đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư phát triển. Vấn đề này hiện nay còn nhiều vững mắc, mà trong kinh doanh xuất nhập khẩu, lượng vốn cần là rất lớn, nếu không có sự trợ giúp của Nhà nước thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khó huy động đủ vốn, làm giảm khả năng hoạt động của họ. Nhà nước cần có biện pháp để mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ, thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước và phát triển ra thị trường thế giới. Đổi mới chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực; tăng cường tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển; bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và giảm lạm phát. Đổi mới chính sách thuế theo hướng đơn giản hoá, ổn định. Chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường, góp phần ổn địn sức mua của đồng Việt Nam. Kiềm chế lạm phát ở mức thích hợp, huy động và vay vốn có hiệu quả. Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm chính trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, quản lý ngoại tệ, tạo điều kiện ổn định thị trường, giảm rủi ro trong kinh doanh thương mại quốc tế, có như thế mới làm an tâm được các đơn vị tham gia vào quan hệ xuất nhập khẩu. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giá cả và đổi mới công tác quản lý giá cả. Có chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại hối hợp lý thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được nhập khẩu, từng bước làm cho đồng tiền Việt Nam có giá trị chuyển đổi. Quản lý Nhà nước: Nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước; từng bước đơn giản hoá các thủ tục trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu; thực hiện triệt để vai trò của Nhà nước về kinh tế nhưng quản lý phải khoa học, phải tạo động lực cho các hoạt động kinh tế phát triển. Tránh tình trạng quan liêu trong quản lý, thay đổi các chính sách quá nhanh chóng, không tạo ra một vùng đệm cho sự thích nghi của các doanh nghiệp gây ra tổn thất nặng nề cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải thực hiện tốt các chức năng: _ Chức năng định hướng: Đầu tư phát triển trực tiếp vào một số lĩnh vực quan trọng; thiết lập khuôn khổ pháp luật, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn, khắc phục mặt hạn chế của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân... - Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự hạch toán của doanh nghiệp. - Chức năng thông tin (về giá cả, thị trường thế giới và trong nước, về tiến bộ khoa học công nghệ... ), thông qua đường dây “nóng”giữa Nhà nước và doanh nghiệp, hoặc thông qua các cuộc hội thảo như “diễn đàn doanh nghiệp”... 2. Kiến nghị về công tác Hải quan. Ngành Hải quan cần cải cách thủ tục hành chính và đổi mới công tác hải quan nhằm giảm bớt sự chờ đợi, giải phóng nhanh chóng hàng hoá, giảm bớt sự đi lại của chủ hàng. Để hàng hoá có thể được xuất khẩu hoặc nhập khẩu đưa vào tiêu thụ một cách nhanh chóng. Ngoài ra việc cải tiến thủ tục Hải quan sẽ góp phần xoá bỏ tệ quan liêu, cửa quyền, gây phiền hà, hạch sách, tạo thuận tiện nhanh chóng cho hoạt động xuất nhập khẩu. Thực hiện được điều này trước mắt ngành Hải quan phải: - Sửa đổi bổ sung chính sách, chế độ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, công khai hoá những vấn đề đã được cải tiến nhằm tạo thuận lợi cho chủ hàng. - Cải tiến quy chế quy trình thủ tục Hải quan theo hướng đơn giản hoá, tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá cho phù hợp với yêu cầu của hoạt động xuất nhập khẩu nhằm đem lại hiệu quả thiết thực về kinh tế - xã hội. - Tăng cường thanh tra kiểm tra chống buôn lậu, tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. 3. Kiến nghị với Bộ Thương mại: - Ưu tiên cử đại diện ở nước ngoài là viên chức đang trực tiếp làm kinh doanh xuất nhập khẩu ở các doanh nghiệp. - Hàng tháng nên có các cuộc hội thảo trao đổi về tình hình thị trường trong và ngoài nước giữa Bộ và các doanh nghiệp, để cung cấp các thông tin cho doanh nghiệp đồng thời lắng nghe ý kiến các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. - Bộ nên có sự dự đoán về tình hình thị trường trong và ngoài nước, có định hướng kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp. 4. Kiến nghị với Bộ Văn hoá - Thông tin: - Cung cấp thông tin mới trong lĩnh vực phát triển công nghệ thiết bị vật tư thông tin. - Giới thiệu, công bố các kết quả nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật đã được triển khai trong ngành. - Thực hiện việc trao đổi ý kiến, kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp trong nước về kỹ thuật. - Giới thiệu hoạt động của các tổ chức, công ty trong ngành, thực hiện việc thống nhất toàn quốc trong các lĩnh vực: Quy hoạch công nghệ, kiến thiết cơ bản, phát triển kỹ thuật để xuất nhập khẩu... Kết luận Hiệu quả và nâng cao hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung là một vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Đây là vấn đề được sự quan tâm không chỉ các nhà lãnh đạo trong một doanh nghiệp mà còn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, EMi.Co là một doanh nghiệp Nhà nước còn đang gặp rất nhiều khó khăn nhưng thời gian qua đã đạt được những kết quả kinh doanh đáng khích lệ, Công ty đã tự mình vượt qua nhiều thử thách, sử dụng vốn có hiệu quả, kinh doanh có lãi, từng bước nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Bên cạnh những thắng lợi đó, Công ty cũng còn những vấn đề bức xúc nên được quan tâm xem xét như công tác tổ chức Marketing, sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng với các phòng kinh doanh khi tiến hành một hợp dồng kinh doanh xuất nhập khẩu... Trong báo cáo thực tập của mình, về mặt lý thuyết em đã đi sâu vào trình bày những lý luận có liên quan đến những đặc thù kinh doanh xuất nhập khẩu, thị trường, chiến lược thị trường và các khâu xuất nhập khẩu hàng của Công ty. Về mặt thực tiễn, em đã nghiên cứu và trình bày những vấn đề liên quan đến đặc thù kinh doanh của Công ty, công tác xuất nhập khẩu của Công ty trong những năm qua, từ đó nêu lên một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Do thời gian thực tập và trình độ còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tiễn để hoàn thành báo cáo luận văn tốt nghiệp này, em sẽ không tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp, giúp đỡ của các thầy cô giáo, các cô chú làm việc tại Công ty xuất nhập khẩu vật tư thông tin, em xin chân thành cảm ơn. Và em xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Khoa Khoa học Quản lý - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đặc biệt là cô giáo - TS Đoàn Thị Thu Hà đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Chương I : 1 Những lý luận cơ bản của hoạt động 1 kinh doanh nhập khẩu 1 I. Nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường: 1 1. Thực chất của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá: 1 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hoá: 2 II. Hiệu quả và các hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu: 3 1. Quan niệm về hiệu quả và hiệu quả kinh doanh: 3 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh: 11 3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh NK: 13 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu: 17 4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu: 18 4.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính. 19 4.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình sử dụng vốn: 19 4.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời: 22 4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu: 26 4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động: 27 4.4. Đánh giá hiệu quả kinh doanh theo từng hợp đồng nhập khẩu: 29 III. Phương hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. 30 Chương II: 33 Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh 33 nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin trong thời gian qua. 33 I. Giới thiệu về công ty - Quá trình hình thành , chức năng, nhiệm vụ của công ty. 33 1. Quá trình hình thành. 33 2. Chức năng và nhiệm vụ: 35 3. Cơ cấu tổ chức quản lý: 36 II. Các đặc điểm kinh tế chủ yếu có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty. 37 III. Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian qua: 38 1. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua. 38 1.1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty theo doanh số nhập khẩu các mặt hàng. 38 1.2. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty 42 1.3. Đánh giá tình hình lợi nhuận của công ty: 46 1.4. Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty. 48 1.5. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: 51 1.6. Đánh giá các mặt hoạt động khác. 52 2. Các giải pháp công ty áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu của công ty. 54 3. Một số nhận xét về hiệu quả hoạt động của Công ty 54 3.1. Nhận xét về hoạt động của công ty. 54 3.2. Những khó khăn, tồn tại và những thuận lợi trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty. 55 Chương III : 60 phương hướng và giải pháp 60 chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động 60 kinh doanh nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin. 60 I. Phương hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty trong các năm tới: 60 II. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin. 62 1. Tập trung nghiên cứu hoạt động thị trường: 63 2. Đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu: 65 3. Tiến hành phân bổ chi phí hợp lý và có biện pháp để hạ thấp chi phí kinh doanh: 65 4. Tập trung đẩy mạnh hàng sản xuất của công ty thay thế hàng nhập ngoại: 68 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau: 69 6. Các giải pháp về phát triển con người: 71 7. Xác định một chiến lược kinh doanh đúng đắn: 72 7.1. Xác định cho mình thị trường trọng điểm và mặt hàng trọng điểm. 73 7.2. Đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. 73 7.3. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. 74 7.4. Củng cố và mở rộng mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng . 74 III. Kiến nghị với Nhà nước 76 1. Hoàn thiện môi trường cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. 76 2. Kiến nghị về công tác Hải quan. 80 3. Kiến nghị với Bộ Thương mại: 81 4. Kiến nghị với Bộ Văn hoá - Thông tin: 81 Kết luận 83 Tài liệu tham khảo 89 Tài liệu tham khảo 1. GS. PTS Đỗ Hoàng Toàn, TS Phan Kim Chiến, TS Đoàn Thị Thu Hà - Chính sách trong quản lý kinh tế- xã hội (Giáo trình) - NXB Khoa học và kỹ thuật 2000. 2. TS Mai Văn Bưu - Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước (Giáo trình) - NXB Khoa học và kỹ thuật 1999. 3. TS Bùi Xuân Lưu - Kinh tế ngoại thương (Giáo trình) - NXB Giáo dục 1996 4. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế - NXB Thống kê 1995. 5. TS Nguyễn Năng Phúc - Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - NXB thống kê 1998. 6. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nền kinh tế quốc dân Việt Nam - NXB Khoa học 1995 7. Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 - NXB Thống kê 1998. 8. Thời báo kinh tế Việt Nam số tháng 3.4.5.6.7 năm 2000. 9. Tạp chí ngoại thương các số tháng 4.5.6.7.8 năm 2000. 10. Các tài liệu, báo cáo của Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư thông tin. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0488.doc