Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010

Lời nói đầu Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức của quá trình hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam là một nước còn hơn 70% dân số sống và làm việc trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn sẽ còn chiếm vị trí hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong một vài thập niên đầu của thế kỷ này. Từ những thành tựu to lớn đã đạt được trong những năm qua, nhận thức được tầm qu

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an trọng của phát triển nông nghiệp-nông thôn , Đảng ta đã đề ra chủ trương, chính sách lớn để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Một trong những nội dung quan trọng hàng đầu là việc đề ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động và điều kiện sinh thái,...… cho phép phát triển một nền nông nghiệp sinh thái bền vững đa canh và có nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn. Sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những bước phát triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với nhịp độ khá cao và khá ổn định (bình quân tăng 4 -– 4,5%). Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của các vùng sinh thái và các địa phương trong cả nước, đã hình thành được nhiều vùng chuyên canh sản xuất xuất khẩu như: Lúa gạo vùng ĐBSCL, ĐBSH; cà phê vùng Tây Nguyên; cao su vùng ĐNB;…...Đặc biệt nâng cao được khối lượng hàng hoá và kim ngạch nông –- lâm -– thuỷ sản xuất khẩu (bình quân tăng 20%/năm); đã góp phần đáng kể trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, theo hướng CNH và HĐH, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá với tỷ suất hàng hoá ngày càng cao, khẳng định vị thế của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều bất cập cần phải tập trung nghiên cứu và giải quyết, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển CNH và HĐH, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp phát triển của nền Nông Nghiệp Việt Nam trong thời gian tới Trước xu thế hội nhập, đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên của hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) năm 19951996 và đang trong quá trình gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Tuy rằng xu thế hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội để trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thông tin…... tạo cơ sở và động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nhưng nông nghiệp Việt Nam cũng đang phải đối mặt trước những thách thức lớn về sự cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp trong môi trường tự do thương mại, mà trên thực tế Việt Nam chưa có mấy lợi thế, nhiều mặt còn yếu kém: về chất lượng, cơ cấu sản phẩm không phù hợp với thị trường thế giới…... kinh nghiệm và uy tín trên thị trường. Bên cạnh đó năng suất lao động xã hội và nông nghiệp còn thấp. Lao động trong nông nghiệp, nông thôn dư thừa nhiều, thu nhập thấp, sức ép về dân số, việc làm đang trở nên những vấn đề lớn có tính bức xúc của xã hội. Với 80% dân số sống trong khu vực nông nghiệp và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh sống dựa vàotrong lĩnh vực sản xuất nông -– lâm -– nghiệp. Nên vấn đề pháty huy các lợi thế và tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, không chỉ là yêu cầu đối với sự nghiệp phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là vấn đền có tính chiến lược, nhằm giải quyết có tính tổng thể về các quan hệ kinh tế -– xã hội…... trong nông thôn và nông nghiệp Tiếp tục đổi mới cơ cấu nông nghiệp và thể chế, chính sách, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hàng hoá nông nghiệp trên thị trường trong nước và thị trường thế giới là nội dung có tính cơ bản để Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Do vậy, xuất phát từ những thực tiễn khách quan trên, em xin nghiên cứu đề tài: "“Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 20012-2010".” Đây là một đề tài có nội dung phong phú và phức tạp nhưng trong điều kiện hạn chế về thời gian thực tập cũng như giới hạn về lượng kiến thức, kinh nghiệm thực tế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của các thầy cô cùng các cô, các bác ở Bộ Kế hoạch- Đầu tư - Kế hoạch để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáoT.S Phạm Ngọc Linh– Bộ môn Kinh tế phát triển- Khoa Kế hoạch & Phát triển cùng toàn thể cán bộ vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân- Bộ kế hoạch và đầu tư đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Hoàng Minh Tú phần I cơ cấu nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp trong phát triển kinh tế I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. 1. Khái niệm về cơ cấu 1. 1. khKhái niệm về cơ cấu của một ngành kinh tế trTrước khi đi đến khái niệm cơ cấu ngành của nền kinh tế, cần làm rõ nội dung của thuật ngữ “cơ cấu”. “ Cơ cấu” là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện một chức năng của chỉnh thể (tr 233, Từ điển Tiếng Việt- Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội). “Cơ cấu ngành của một nền kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành tương quan tỷ lệ, biểu thị mối liên hệ giữa các ngành đó của một nền kinh tế quốc dân. Định nghĩa trên đã nêu được nội dung cơ bản của cơ cấu ngành. Tuy nhiên, do lệ thuộc vào cách xác định cơ cấu ngành hiện nay trong định nghĩa mới mô tả mối quan hệ ngành ở một phạm vi hẹp và không đầy đủ: chỉ nóối đến tương quan giữa các bộ phận. Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống, Cơ cấu ngành của một nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền kinh tế và các mối quan hệ ổn định giữa chúng. Có thể có nhiều cách phân ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành. Song cho đến nay chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành kinh tế theo hệ thống "Sản xuất vật chất"(Material Production System-MPS). Và hệ thống phân ngành theo Hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts-SNA). Trong hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân làm hai khu vực: Sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất và không sản xuất được chia thành các ngành cấp I như công nghiệp, nông nghiệp... Các ngành cấp I được chia thành các ngành cấp II, chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như điện năng, nhiên liệu... Đặc biệt trong các ngành công nghiệp, người ta còn phân ra thành nhóm A và nhóm B (nhóm A là các ngành công nghiệp nặng, nhóm B là các ngành công nghiệp nhẹ). Theo hệ thống Tài khoản quốc gia các ngành kinh tế được phân chia thành 3 nhóm ngành lớn là Nông nghiệp , Công nghiệp- Xây dựng và dịch vụ. Ba ngành này bao gồm 20 ngành cấp I như: Nông nghiệp và lâm nghiệp, Thuỷ sản (nuôi trồng và khai thác), Khai mỏ và khai khoáng, chế biến... Các ngành cấp I lại chia nhỏ thành các ngành cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành càc ngành sản phẩm. Có nmhiều mức phân ngành khác nhau, tuỳtuỷ theo mức độ gộp hay chi tiết hoá đến chừng nào mà có được một tập hợp các ngành tương ứng. Ngoài ra, một số tác giả còn đưa ra các cách phân ngành riêng tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Với một cách phân ngành hợp lý và một đại lượng giá trị được chọn thống nhất, có thể xác định được chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt của cơ cấu ngành, đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. Loại chỉ tiêu định lượng thứ nhất này đã được sử dụng trong các nghiên cứu về phát triển liên quan đến cơ cấu ngành của nền kinh tế . Các chỉ tiêu loại một này chỉ cho biết số ngành kinh tế và quy mô của chúng trong sự so sánh tương đối với nhau và với tổng thể. Chỉ tiêu định lượng thứ hai có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng cân đối liên ngành ( của hệ MPS ) hay bảng Vào-Ra (I/O) (của hệ SNA). Các hệ số về liên hệ phía “ thượng lưu ”-CLAM CLAM- Viết tắt của: Coefficient de liaison en a mont và các hệ số liên hệ phía “hạ lưu”-CLAV CLAV- Viết tắt của: Coefficient de liaison en aval cũng là một trường hợp của loại chỉ tiêu này. Như vậy, theo định nghĩa cơ cấu ngành đưa ra và xét về mặt định lượng, ít ra phải có hai loại chỉ tiêu trên đây mới cho ta có được một sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ cấu ngành của một nền kinh tế. 1.2. Khái niệm về cơ cấu lao động. Để hiểu cơ cấu lao động, trước hết chúng ta phải xem xét: Nguồn nhân lực (NNL): là trình độ tay nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có, thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng. Cơ cấu nguồn nhân lực bao gồm: - Cơ cấu trạng thái hoạt động của NNL: Phân chia NNL thành hoạt động kinh tế (lực lượng lao động) và không hoạt động kinh tế ( Đi học, MSLĐ, nội trợ và không có nhu cầu việc làm) - Việc tạo lập cơ cấu NNL mới để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH -– HĐH (của mỗi quốc gia, vùng) phải nhằm phục vụ cho được sự chuyển dịch lớn cơ cấu lao động trong theo ba mặt chủ yếu là: + Cơ cấu trình độ lành nghề của đội ngũ lao động chuyển dịch theo hướng yêu cầu trí tuệ ngày càng cao, gắn với cơ cấu công nghiệp mới, đó là cơ cấu nhiều trình độ công nghệ, nhiều loại quy mô trong đó ưu tiên các loại trình độ tiên tiến thích hợp. Theo kinh nghiệm của thế giới, tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của tiến bộ kỹ thuật cần có cơ cấu chất lượng lao động theo các trình độ thích hợp tương ứng. + Cơ cấu phân công lao động theo ngành Theo tổng kết kinh nghiệm của các nhà kinh tế học thế giới, có mối tương quan chặt chẽ giữa bình quân GDP/ người và cơ cấu lao động làm việc trong các ngành KTQD: GDP/người càng cao thì tỷ trọng lao động làm việc trong nông nghiệp càng giảm, trong công nghiệp và dịch vụ càng tăng và ngược lại…... + Cơ cấu tổ chức lao động chuyển dịch theo hướng hình thành bộ máy và cơ chế vận hành mới của ba loại hình tổ chức phổ biến trong xã hội. Đó là: Bộ máy Nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp), Đảng, Đoàn thể; đội ngũ cán bộ công chức hành chính của bộ máy công quyền, sự phát triển số lượng tương quan với qui mô dân số và đòi hỏi chất lượng cao...… Các doanh nghiệp (kể cả hộ gia đình) sản xuất kinh doanh và dịch vụ phát triển theo yêu cầu của thị trường sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ Các cơ sở sự nghiệp (khoa học và giáo dục - đào tạo,…...) gồm đội ngũ cán bộ, viên chức, lao động khu vực sự nghiệp thuộc hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội, phục vụ trực tiếp cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Số lượng và chất lượng này tương quan với qui mô dân số, phân bố dân cư và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dịch vụ và chất lượng của kết quả phát triển của con người. Đối với mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi ngành còn phải chú ý đến cơ cấu lãnh thổ, vùng, miền để đảm bảo sự tương quan nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển bền vững. 1.3. Khái niệm cơ cấu đầu tư: 2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu ngành) đã được định nghĩa như sau: “là quá trình cải biên kinh tế xã hội từ nền kinh tế lạc hậu, mang tính chất tự cấp, tự túc bước vào chuyên môn hoà hợp lý, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế tế nói chung ”. Định nghĩa này mang nhiều tính chủ quan, mong muốn hơn là mô tả bản chất của sự việc, và thiếu một sự khái quát nhất định. Vì rằng không chỉ có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển (tự túc, tự cấp) mới có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Ngày nay, chính các nền kinh tế công nghiệp phát triển cũng phải thường xuyên điều chỉnh cơ cấu kinh tế để tiếp tục phát triển. Kết hợp với ý nghĩa của thuật ngữ “chuyển dịch ” có thể định nghĩa chuyển dịch cơ cấu ngành nhgư sau: Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Theo định nghĩa này, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chỉ xẩy ra sau một khoảng thời gian nhất định (vì nó là một quá trình) và sự phát triển của các ngành phải dẫn đến thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này được biểu hiện ở những mặt sau: - Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Sự kiện này chỉ có thể nhận biết được khi hệ thống phân loại ngành là đủ chi tiết. Trong trường hợp chỉ xéết đến những ngành gộp thì không thể biết được những ngành sản phẩm mới hình thành hay ngành sản phẩm đã mất đi trong một ngành đã có. - Sự tăng trưởng về quy mô và nhịp độ khác nhau giữa các ngành. Sự thay đổi cơ cấu diễn ra- hay nói cách khác có sự chuyển dịch cơ cấu ngành- chỉ khi có sự phát triển không đồng đều giữa các ngành sau mỗi giai đoạn. Nhịp độ tăng trưởng ngành là chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế từ thời điểm t0 đến thời điểm t1: m1- m0 D mt gt = --------- x 100 = --------- x 100 mo mo Trong đó: - gt : là tốc độ tăng trưởng của ngành trong thời đoạn t= t1-t0; - m1, m0: quy mô của ngành ở thời điểm t0  và thời điểm t1 - D mt: Giá trị tăng thêm của quy mô sau thời gian t. Để đánh giá đúng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong mỗi thời kỳ, phải xem xét đồng thời cả tốc độ tăng trưởng và quy mô phát triển mà nó đạt được ở điểm xuất phát. - Sự thay đổi trong quan hệ tác động qua lại giữa các ngành, sự thay đôi này trước hết biểu hiện bằng số lượng các ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại giữa các ngành nay và các ngành khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho các ngành hay nhận được từ các ngành đó (biểu thị ở bằng độ lớn của các hệ số trong bảng I/O). Những sự thay đổi này thường liên quan đến thay đổi thay đổi nhu cầu xã hội trong những điều kiện mới. Như vậy, khi một ngành ra đời hay phát triển, do có mối quan hệ với ngành khác mà nó có thể tác động thúc đẩy hay kìm hãm ssự phát triển các ngành có liên quan với nó. Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến chuyển dịch cơ cấu ngành trong mỗi nền kinh tế. Cho nên, chuyển dịch cơ cấu ngành xsảy ra như là kết quả của quá trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh tế (xét ở mức độ phân ngành nào đó). Vấn đề đáng quan tâm là ởở chỗ: sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo chiều hướng nào và tốc độ chuyển dịch nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì?. Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể. Việc tìm ra một xu hướng và giẩi pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được, mà là sự phát triển những đặc thù của đất nước, của môi trường trong nước và thế giới nay để làm thích ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam. Các nhân tố tác động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các đầu tư và phát triển kinh tế nhiều thành phần là nội dung rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nhiều năm qua chúng ta đã có những cố gắng trong việc ban hành các quy chế, chính sách, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, huy động nhiều nguồn lực trong tất cả thành phần kinh tế tham gia xây dựng và phát triển xã hội. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng đã từng bước dịch chuyển hteo hướng CNH-HĐH và nâng cao hiệu quả phát triển. Mô hình mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các yếu tố tác động Các ngành kinh tế Cơ cấu kinh tế ngành Các thành phần kinh tế Cơ cấu kinh tế thành phần Các vùng kinh tế Cơ cấu kinh tế vùng Các yếu tố tác động Mục tiêu phát triển 3. Chuyển dịch Ccơ cấu nông nghiệp và sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 3.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp: Cơ cấu ngành nông nghiệp của một nền kinh tế là tập hợp tất cả các nhóm ngành nông nghiệp (hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành: nông-lâm-ngư nghiệp; theo nghĩa hẹp bao gồm: trồng trọt và chăn nuôi) và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Nói cách khác giữa các ngành nông nghiệp gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế nhất định. Cơ cấu ngành nông nghiệp luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Đó là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các ngành (tỷ lệ giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi; giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản ), các vùng, các thành phần (do sự xuất hiện một số ngành ngoài nông nghiệp như: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dich vụ nông thôn…...) hay do sự gia tăng hoặc giảm sút tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu ngành nông nghiệp là không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu ngành nông nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Mặt khác trong thực tế cũng như trong lý luận, cơ cấu nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ cấu đầu tư và cơ cấu lao động. 3.2. Sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. Trong hơn 10 năm phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng bắt đầu xuất hiện những vấn đề đáng lo ngại. Những năm gần đây, tỷ suất hàng hoá trong nông nghiệp của nước ta có xu hướng ngày càng nâng cao. Nông nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều mặt hàng tham gia vào thị trường thế giới, trong đó có một số mặt hàng có thứ hạng cao trong thị phần như cà phê, gạo, hồ tiêu, điều…...Có thể thấy, tăng trưởng của nông nghiệp nước ta ngày càng tuỳ thuộc vào kinh tế và thị trường thế giới Thế nhưng kinh tế thế giới và khu vực trong những năm qua vẫn đang nằm trong chu kỳ suy thoái, thậm chí dường như nằm ở đáy của chu kỳ này. Do vậy, những nỗ lực gia tăng sản lượng đã không đủ bù đắp lại thiệt hại về giá cả trên thị trường thế giới.( xem biểu đồ) Những con số trên đây một mặt thể hiện nổ lực to lớn của những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Mặt khác cũng cho thấy những khó khăn không kém trong lĩnh vực này. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng như cà phê, gạo…...phải thực hiện bù lỗ xuất khẩu dưới nhiều hình thức. Không ít hộ nông dân lâm vào tình trạng điêu đứng. Tình trạng “ bí đầu ra” thị trường thế giới đã tác động ngay đến thị trường nông sản trong nước, một thị trường mà như nhiều năm gần đây, người nông dân trong tình thế bất lợi. Năm nay, hàng bán ra thị trường thế giới lỗ lãi, tồn đọng ở thị trường trongnc nhiều. Độ co dãn về cầu trong nước của những mặt hàng này lại thấp. Những tín hiệu trên đây của thị trường mách bảo điều gì?. ít nhất thì cũng có hai điều có thể nhận biết từ động thái của thị trường trong những năm gần đây, nhất là từ năm 20021. Một là, cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn cho thích ứng với đòi hỏi thị trường. Hai là, tổ chức lại nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và nắm bắt thông tin thị trường thế giới cũng như trong nước. 4. Vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt với các nước đang phát triển. Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. Trừ một số ít dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, có ý nghĩa lớn là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Đa số các nước đang phát triển có những thuận lợi đáng kể, đó là tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước không giàu tài nguyên như dầu hoả, thì nông sản đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Nếu Nhà nước có chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn và thu nhập được phân phối công bằng thì thị trường nông thôn ngày càng có nhu cầu mở rộng về sản phẩm công nghiệp. Ngược lại, nếu có thị trường rộng lớn ở nông thôn thì công nghiệp có thể tiếp tục phát triển sau khi đã bão hoà nhu cầu của thành thị về các sản phẩm công nghiệp. Tóm lại, ở các nước đang phát triển sẽ không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển nông thôn. Những vấn đề cốt lõi của nghèo đói, bất công tăng lên, dân số gia tăng nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn gốc ở sự trì trệ và thụt lùi của hoạt động kinh tế ở các vùng nông thôn so với thành thị. Do vậy phát triển nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. 4.1 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong mấy năm qua nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt đặc biệt là về mặt cơ cấu kinh tế. Đã có sự giảm về tỷ trọng của ngành nông nghiệp so với công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên sự đóng góp vào GDP cả nước của ngành nông nghiệp vẫn không ngừng tăng. Phần lớn nguồn thu từ xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đều là các sản phẩm thuộc ngành nông nghiệp như: gạo, cà phê, cao su, lạc nhân, hạt điều... Việc tăng xuất khẩu trong lĩnh vực nông nghiệp đã thúc đẩy ngành chế biến nông sản phát triển. Hàng hoá nông sản từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Sản phẩm nông sản thô giảm thay vào đó là sản phẩm nông sản đã được tinh chế (giá trị công nghệ trong giá trị gia tăng qua chế biến có xu hướng tăng). Các ngành bổ trợ nông nghiệp có những dấu hiệu phát triển tích cực. Đặc biệt phải kể đến ngành cơ khí chế tạo máy móc phuc vụ sản xuất nông nghiệp. Do nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, ngành cơ khí đã có những thay đổi căn bản, qua đó giúp nông dân khắc phục được các khâu nặng nhọc hoặc những lúc thời vụ khẩn trương. Tuy nhiên vẫn cón nhiều hạn chế trong cơ khí hoá nông nghiệp trong đó phải kể đến chất lượng, giá cả của các mặt hàng máy móc phục vụ nông nghiệp. Điều này đặt ra thách thức mới cho ngành công nghiệp cơ khí trong thời gian tới cần có những điều chỉnh trong sản xuất máy móc cơ khí dần đáp ứng nhu cầu của người dân về chất lượng và giá cả. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tăng lên một cách đáng kể sau khi nhà nước thực hiện một số biện pháp kích cầu trong khu vực nông thôn. Khác với trước đây nông sản chủ yếu được tiêu thụ ở thành thị, thì nay khu vực nông thôn đã có những dấu hiệu đáng mừng. Tất yếu làm nảy sinh các loại dịch vụ nông nghiệp, các ngành phi nông nghiệp (ngành sản xuất ngoài nông nghiệp như : ngành nghề thủ công truyền thống…) phát triển. Xét tổng thể tình hình tiêu dùng hàng nông sản cả nước vẫn chưa thực sự “sáng sủa” chỉ cần một tác động nhỏ cũng sẽ làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng. Lấy ví dụ: Hiện tượng kéo dài suốt năm 1997 là cung vượt cầu đối với nhiều loại nông sản, rõ nét nhất lúa gạo, sắn, rau, quả tươi… Mặc dù sản lượng lúa tăng thêm 1,3 triệu tấn, nhưng nhu cầu gạo của nông dân lại giảm, ở khu vực thành thị còn 10 kg/ngươì/tháng.Điều này cho thấy sự bấp bênh trong việc tìm hướng đi cho hàng nông sản . Nó không chỉ là một vấn đề trước mắt mà còn là vấn đề phải đối mặt trong tương lai gần đây khi nhà nước ta đang tiến hành từng bước để tiến tới gia nhập AFTA. 4.2 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với các vấn đề xã hội Đời sống nông thôn hiểu theo nghĩa đầy đủ phải hội đủ 3 yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên. Trong đó giải quyết vấn đề xã hội sao cho thoả đáng, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế được xem là một khâu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thu nhập chính ở nông thôn có được là từ sản xuất nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH đã và đang đem lại cho người dân nguồn thu nhập ổn định. Cơ sở hạ tầng được cải thiện tạo môi trường thuận lợi cho nông dân yên tâm tiến hành sản xuất vì thế năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tạo ra một số ngành nghề mới góp phần tăng thêm thu nhập cho nông dân, giải quyết tình trạng thất nghiệp đang có dấu hiệu tăng trong khu vực nông thôn. Từ đó dần khắc phục được tình trạng đói nghèo, tăng phúc lợi công cộng, y tế, giáo dục. Trong CNH-HĐH nông nghiệp vấn đề về môi trường luôn được quan tâm đúng mức. Tăng cường bảo vệ và cải thiện môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong các ngành nghề truyền thống được coi như một nguyên tắc thông suốt trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta. II. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel. Ngay từ cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật của E.Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển. 2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. Năm 1953, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kĩ thuật”, A.Fisher đã giới thiệu khái niệm về việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai và thứ ba. A.Fisher quan sát thấy rằng, các nước có thể phân loại theo tỷ lệ phân phối tổng số lao động của từng nước vào 3 khu vưc. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp,lâm nghiệp và theo một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin, thương nghiệp, dịch vụ Nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kĩ thuật đã có tác động đến sự thay đổi phân bố lao động vào 3 khu vực này. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương pháp canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lượng lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào các số liệu thống kê thu nhập được, A.Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể từ 80% đối với các nước chậm phát triển nhất xuống 11-12%, ở các nước công nghiệp phát triển và trong những điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được thu hút vào khu vực thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của 2 khu vực này và khả năng hạn chế hơn của việc áp dụng tiến bộ kĩ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba. 3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. Năm 1960 cuốn “Các giai đoạn phát triển kinh tế” của nhà kinh tế học Mỹ W.Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu qúa trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước. Theo W.Rostow nhìn chung quá trình phát triển kinh tế của một nước có thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống; chuẩn bị cất cánh; cất cánh; trưởng thành và mức tiêu dùng cao. Việc xem xét các giai đoạn phát triển của W.Rostow tập chung làm rõ các vấn đề. - Dưới tác động nào mà xã hội nông nghiệp truyền thống đã bắt đầu quá trình hiện đại hoá. - Những lực lượng nào đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng. - Những đặc chưng cơ bản của từng giai đoạn. - Những lực lượng nào tác động đến mối quan hệ giữa các khu vực trong quá trình tăng trưởng. Các giai đoạn phát triển của W.Rostow có thể minh họa bằng đường cong ở sơ đồ 1 Thu nhập Thu nhậpp 1 2 3 4 5 Thời gian 1 2 3 4 5 Thời gian Sơ đồ 1 3.1. Xã hội truyền thống. Đặc trchưng cơ bản của giai đoạn này là: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng xuất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt; sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cung tự cấp, sản xuất hàng hoá chưa phát triển. Tuy vậy xã hội truyền thống cũng không hoàn toàn là tĩnh tại, mức sản lượng có thể vẫn tăng liên tục do diện tích canh tác được mở rộng, hoặc do áp dụng những cải tiến trong sản xuất, như xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, áp dụng giống cây trồng mới. Song nhìn chung nền kinh tế không có những biến đổi mạnh. 3.2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh. Đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này những điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Đó là những hiểu biết về khoa học - kỹ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công nghiệp. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến để phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Tuy vậy tất cả các hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn của một nền kinh tế với những đặc trưng của phương thức sản._. xuất truyền thống, năng suất thấp. Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song song với các hoạt động kinh tế hiện đại đang phát triển. 3.3. Giai đoạn cất cánh. Đây là giai đoạn trung tâm của sự phân tích các giai đoạn phát triển của W.Rostow. Thuật ngữ này bao hàm ý một đất nước bước vào giai đoạn phát triển kinh tế hiện đại. Cất cánh là giai đoạn mà lực cản của xã hội truyền thống và các thế lực chống đối với sự phát triển đã bị đẩy lùi. Các lực lượng tạo ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lượng thống trị xã hội. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là: Huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5% lên đến 10% và cao hơn trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NNP), ngoài vốn đầu tư huy động trong nước, vốn đầu tư huy động từ ngoài nước có ý nghĩa quan trọng; khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào nông nghiệp và công nghiệp; công nghiệp giữ vai trò đầu tầu, có tốc độ tăng trưởng cao, đem lại lợi nhuận lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư phát triển sản xuất; thông qua nhu cầu thu hút công nhân kích thích phát triển khu vự đô thị và phát triển các ngành dịch vụ; khu vực nông nghiệp được áp dụng kỹ thuật mới và được thương mại hoá tạo ra sự thay đổi trong nhận thức và lối sống của người nông dân. 3.4. Giai đoạn trưởng thành. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là: Tỷ lệ đầu tư đã tăng từ 10% đến 20% thu nhập quốc dân thuần tuý; khoa học - kỹ thuật được ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp được cơ giới hoá, đạt được năng suất lao động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hoà dòng vào thị trường quốc tế. 3.5. Giai đoạn mức tiêu dùng cao. Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, tới mức phần lớn dân số có nhu cầu tiêu dùng vượt quá đòi hỏi cơ bản về ăn, mặc, ở; thứ hai là cơ cấu lao động thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao; về mặt xã hội các chính sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu dùng lâu bền và các dịch vụ xã hội của các nhóm dân cư. 4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima. Harry T.Oshima là nhà kinh tế Nhật Bản, Ông nghiên cứu mối quan hệ giữa hai khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước châu á so với các nước Âu - Mỹ, đó là nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, vào thời gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động và lại dư thừa nhiều trong mùa nhàn rỗi. Trong cuốn “Tăng trưởng kinh tế ở Châu á gió mùa”, Oshima đã đưa ra mô hình phát triển mới, dựa trên những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế Châu á. 4.1. Cách đặt vấn đề của H.T.Oshima. Oshima đặt vấn đề từ việc xem xét khả năng áp dụng của các mô hình đã có. Về mô hình tân cổ điển Ông cho rằng các nước đang phát triển khó có khả năng áp dụng bởi vì mô hình này đòi hỏi phải có đầy đủ các nguồn lực (đặc biệt là vốn và lao động kỹ thuật) để tạo ra sự phát triển đồng bộ giữa công nghiệp và nông nghiệp, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển đây là vấn đề rất khó khăn. Đối với mô hình hai khu vực của A. Lewis được Fei-Ranis cụ thể hoá cho rằng sự dư thừa lao động trong nông nghiệp có thể chuyển sang khu vực công nghiệp mà không làm giảm sản lượng nông nghiệp. Oshima cho rằng đây là cách nhìn không thích hợp với đặc điểm Châu á, nhất là những vùng lúa nướ, ở đây sản lượng nông nghiệp được tạo ra phụ thuộc nhiều vào đỉnh cao của thời vụ- ở những điểm không có sự dư thừa lao động. Oshima thống nhất với cách đặt vấn đề của Ricardo cho rằng một mô hình phát triển phải được bắt đầu từ hiệu suất nông nghiệp, hoặc từ khả năng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp để nhập khẩu lương thực. Nhưng khác với ý tưởng của Ricardo, Ông cho rằng khả năng thứ hai là khó thực hiện trong giai đoạn đầu của tăng trưởng, khi các nguồn lực sản xuất như vốn, trình độ quản lý, kỹ năng lao động, quy mô sản xuất và quan hệ kinh tế đối ngoại, chưa có khả năng tạo ra hiệu quả sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Xuất phát từ cách đặt vấn đề này Oshima phân tích mối quan hệ của hai khu vực trong sự quá độ về cơ cấu từ nền kinh tế do nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công nghiệp. 4.2. Bắt đầu quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian nhàn rỗi. Oshima cho rằng trong giai đoạn đầu của tăng trưởng, năng suất lao dộgn rong nông nghiệp có thể tăng lên bằng cách giảm tình trạng thiếu việc làm trong thời kỳ nhàn rỗi. Biên pháp mở rộng quy mô canh tác đối với các nông trại ở Châu á là khó khăn, do đó biện pháp cơ bản là tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng như trồng thêm rau, quả, cây lấy củ, mở rộng chăn nuôi gia súc, gia cầm,nuôi và đánh bắt cá, trồng cây lâm nghiệp. Do có nhiều việc làm hơn, thu nhập của nông dân bắt đầu tăng lên, họ có thể chi tiêu nhiều hơn cho giống mới, phân hoá học, thuốc trừ sâu và công cụ lao động. Đồng thời để nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả việc làm khác, khu vực nông nghiệp cần có sự hỗ trợ của nhà nước về các mặt: Xây dựng hệ thống kênh, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng hoá, hệ thống giáo dục và điện khí hoá nông. Cải tiến các các tổ chức như hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức dịch vụ trong nông thôn; hỗ trợ của tổ chức tín dụng để nông dân có thể mua giống mới và áp dụng các biện pháp kỹ thuật, cải cách ruộng đất để nông dân phát huy cao độ nỗ lực của mình. Tất cả những biện pháp này đòi hỏi sự đầu tư và đổi mới không lớn lắm so với đầu tư vào công nghiệp đòi hỏi cao về vốn, trình độ quản lý, kỹ năng lao động. Trong giai doạn đầu này, nhu cầu lương thực cho số dân tăng lên là hết sức cần thiết. Việc tăng sản lưọng trong nông nghiệp sẽ làm giảm lượng thực nhập khẩu hoặc mở rộng việc xuất lương thực. Cả hai trường hợp này đều nhằm có thêm trở ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị cho ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. 4.3. Hướng tới có việc làm đầy đủ. Tiếp theo sẽ tiến hành đa dạng hoá nông nghiệp, làm tăng việc làm ngoài nông nghiệp bằng các hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ và các hoạt động dịch vụ. Dịch này đòi hỏi sự hoạt động đồng bộ từ sản xuất, vận chuyển, bán hàng đến các dịch vụ hỗ trợ như tài chính tín dụng và các ngành có liên quan như công nghiệp phân bón, hoá chất, các ngành cung cấp nguyên liệu và công cụ sản xuất cho nông nghiệp. Như vậy sự phát triển đã tạo điều kiện mở rộng thị trường công nghiệp, tạo ra yêu cầu tăng quy mô sản xuất công nghiệp cũng như nhu nhu cầu về các hoạt động dịch vụ. Khi đó việc di dân từ các khu vực nông thôn đến thành thị để phát triển các công nghiệp trên và các dịch vụ hỗ trợ ngày càng tăng. Quá trình này tiếp tục diễn biến trong thờin gian dài, qua nhiều năm cho đến khi khả năng tăng việc làm vượt quá tốc đọ tăng lao động, làm cho thị trường lao động bắt đầu thu hẹp, tiền lương thực tế tăng lên. Quá trình này còn phụ thuộc vào tốc độ tăng dần số và khả năng giải quyết tình trạng thất nghiệp của tuừng nước. 4.4. Sau khi có việc làm đầy đủ. Như ta đã trình bày ở trên, qua trình công nghiệp hoá diễn biến qua nhiều bước, được tiến hành liên tục, kéo dài nhiều năm, đồng thời với việc tiền công trong nông nghiệp cũng nhích dần, chậm chạp ở giai đoạn đầu và bắt đầu tăng nhanh. Khi đó xuất hiẹn xu hướng sử dụng máy móc thay thế lao động, vì lúc này sử dụng máy móc rẻ hơn nhân công. ở những nông trại cóa quy mô nhỏ, nông dân thường sử dụng máy móc cơ khí nhỏ chạy bằng động cơ điện. Trong điều kiện đó khu vực nông nghiệp có khả năng rút bớt lao động chuyển sang các ngành công nghiệp ở thành phố, trong khi ở nông thôn sản xuất lương thực tiếp tục tăng. Với khả năng sản xuất được nâng cao và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá trính sản xuất, các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu bắt đầu tìm thị truờng nước ngoài. Do ưu thế của ngành này cần đàu tư ít vốn, công nghệ dễ học hỏi, thị trường dễ tìm và dễ thâm nhập, có khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài làm cho xuất khẩu có xu hướng ngày càng tăng. Việc mở rộng các ngành này sẽ dẫn đến vượt quá khả năng cung cấp nguồn lao động trong khi thị trường nông thôn cũng đạt đến mức đủ việc làm, tiền công tăng lên, đồng thời hoạt động ở khu vực dịch vụ cũng mở rộng. Sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và công gnghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Giai đoạn này có sự thay đổi loại hình công nghệ và cơ giới hoá trong nông nghiệp. Các phương pháp sinh học được áp dụng để tăng sản lượng. Các máy cày, gặt, đập, phun nước, máy bơm, làm cỏ, máy sấy và các phương tiện vận tải cơ giới ngày càng mở rộng và tiết kiệm thời gian cho những người lao động trên đồng ruộng. Những máy này giải phóng được phần lớn lao động ở thời kỳ bận rộn nhất, bằng sự thay thế này lao động trong nông trại di chuyển ra thành phố nhanh mà không làm giảm sản lượng. Khi đó sự quá độ từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp được hoàn thành và nền kinh tế chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là sự quá độ từ công nghiệp sang dịch vụ. Tóm lại, trong mô hình của Oshima sự phát triển được bắt đầu bằng việc vẫn giữ lao động trong nông nghiệp, nhưng cần tạo thêm nhiều việc trong những tháng nhàn rỗi. Tiếp đó sẽ sử dụng lao động nhàn rỗi vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều lao động, tạo ra việc làm trong những tháng nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu nhập của nông dân, mở rộng thị trường trong nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Khi thị trường lao động trở nên khắt khe hơn thì tiền công sẽ được tăng nhanh, hầu hết nông trại, xí nghiệp phải chuyển sang cơ giới hoá. Việc sử dụng máy móc cơ khí nhỏ sẽ làm tăng năng suất lao động và tăng tổng thu nhập trong nước. III. Các nhân tố tác động ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Mỗi giai đoạn phát triển nông nghiệp đều chịu tác động của rất nhiều yếu tố, trong đó có nhân tố chủ quan do nhà nước tạo ra và những yếu tố khách quan của môi trường đã được hình thành và thay đổi theo thời gian. Các yếu tố tác động quá trình chuyển dịch cơ cấu Chủ quan Cơ chế và chính sách kinh tế của nhà nước Huy Phân bổ Đầu tư Sản xuất kinh động vốn vốn doanh -Tiết kiệm trong nước -Vay nợ nước ngoài -FDI -Kế hoạch nhà nước -Điều kiện lựa chọn -Quyền sử dụng vốn -Khung khổ pháp lý -Điều kiện hạ tầng -Khả năng công nghệ.... -Khả năng cung cấp vốn, NVL -Điều kiện về dịch vụ -NNL -Nhu cầu -Mức độ cạnh tranh và độc quyền -Mức dộ tự do hoá Các nhân tố khách quan Thị trường trong và ngoài nước Những nhân tố chính tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và mang nhiều tính khác quan cần nhắc đến là: - Vốn - Nguồn nhân lực - Công nghệ - Thị trường . 11. Thị trường trong và ngoài nước. Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng. Bởi lẽ thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất. Tiến hành sản xuất đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước (thể hiện thông qua quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường) sẽ làm thay đổi một số hoạt động sản xuất về mặt phương hướng, chiến lược dẫn tới từng bước hình thành và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu. Kể từ khi Đảng và nhà nước ta tiến hành công cuộc cải cách nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế “mở cửa”. Thị trường nông sản nước ta đă từng bước được mở rộng và ngày càng phát triển. Chúng ta đă và đang chinh phục những thị trường khó tính như Mỹ, E.U và một số nước khác không chỉ về số lượng hàng hoá với giá cả hợp lý mà cả về phẩm chất hàng hoá … Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là gạo và thực phẩm (hải sản, nông sản, thủ công mỹ nghệ..) đem lại một nguồn thu lớn cho quốc gia sẽ vẫn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong mấy thập kỷ tới. Do vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường, tạo điều kiện cho thị trường và cho hoạt động sản xuất nông nghiệp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nào là phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển Nhà nước trong từng thời kỳ có tính đến các yếu tố trong bối cảnh và hội nhập quốc tế. 2. Vấn đề vốn trong sản xuất nông nghiệp. Cho đến nay vấn đề về vốn trong sản xuất nông nghiệp vẫn làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách. Không chỉ bởi sự phức tạp trong việc sử dụng hợp lý nguồn vốn mà còn bởi đối tượng đầu tư. Muốn tạo ra bước đột phá trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp cần phải có nguồn vốn lớn đầu tư vào các khâu quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Tính đến nay đa số vốn đầu tư cho nông nghiệp đều tập trung cho cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, tuy nhiên thực tế tính bền vững cũng như quy mô công trình chưa cao, (ví dụ: chỉ riêng cơn bão số 5 đã khiến 33 vạn ha lúa bị hư hại). Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp, thuỷ lợi còn thấp khả năng chống đỡ diễn biến phức tạp của thời tiết còn yếu, chưa đảm bao an ninh lương thực. Huy động vốn bằng nhiều cách, đáp ứng nhu cầu vốn trong khu vực nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu cần phải giải quyết thoả đáng trong thời gian tới. 2. Nguồn nhân lực. Với hơn 70 triệu dân, Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào trong đó có đến trên 70% lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Có thể coi nguồn nhân lực đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay.Trong đó bao gồm các yếu tố sau: Kết cấu dân cư, trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ mới ... Là cơ sở quan trọng để tiến hành công cuộc CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn. Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường. Lao động thủ công truyền thống là nét đặc trưng của lao động nông thôn Việt Nam. Tuy mấy năm gần đây có nhiều đổi mới song thực sự vẫn chưa gây được một sự biến chuyển lớn trong phương thức sản xuất. Để khắc phục nhược điểm này đòi hỏi phải có thời gian và cả một quá trình đào tạo tương đối dài trong việc ứng dụng các thành quả mới của khoa học công nghệ. Cùng với sự giảm tỷ lệ của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân thì lao động nông nghiệp cũng có xu hướng chuyển dịch sang các ngành nghề khác nhưng vẫn ở mức thấp. Điều đáng ngại là số lượng lao động không có việc làm thường xuyên trong khu vực nông thôn ngày càng gia tăng, đến năm 19981999 trong tổng số 30 triệu lao động nông thôn có gần 9 triệu thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Đây là con số không nhỏ, thực sự báo động đối với nền kinh tế đất nước. 3. Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. CNH-HĐH trong nông nghiệp đã đem lại bộ mặt mới cho nông thôn Việt Nam, sản lượng lương thực không ngừng tăng, vấn đề tăng năng suất cây trồng, vật nuôi không còn chịu phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện tự nhiên mà chịu tác động trực tiếp của con người với các ứng dụng của khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới trong nông nghiệp mà còn đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp. Trong điều kiện mở cửa hội nhập, tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra sản phẩm nông sản với chất lượng cao, giảm chi phí sản xuất, do đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả làm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng xuất khẩu. Đẩy nhanh tốc độ ứng dụng khoa học công nghệ trong ngành nông nghiệp tất yếu sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp có hiệu quả. 4. Nguồn nhân lực. Với hơn 70 triệu dân, Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào trong đó có đến trên 70% lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Có thể coi nguồn nhân lực đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay.Trong đó bao gồm các yếu tố sau: Kết cấu dân cư, trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ mới … Là cơ sở quan trọng để tiến hành công cuộc CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn. Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường. Lao động thủ công truyền thống là nét đặc trưng của lao động nông thôn Việt Nam. Tuy mấy năm gần đây có nhiều đổi mới song thực sự vẫn chưa gây được một sự biến chuyển lớn trong phương thức sản xuất. Để khắc phục nhược điểm này đòi hỏi phải có thời gian và cả một quá trình đào tạo tương đối dài trong việc ứng dụng các thành quả mới của khoa học công nghệ. Cùng với sự giảm tỷ lệ của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân thì lao động nông nghiệp cũng có xu hướng chuyển dịch sang các ngành nghề khác nhưng vẫn ở mức thấp. Điều đáng ngại là số lượng lao động không có việc làm thường xuyên trong khu vực nông thôn ngày càng gia tăng, đến năm 1998 trong tổng số 30 triệu lao động nông thôn có gần 9 triệu thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Đây là con số không nhỏ, thực sự báo động đối với nền kinh tế đất nước.4. Thị trường trong và ngoài nước. Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng. Bởi lẽ thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất. Tiến hành sản xuất đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước (thể hiện thông qua quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường) sẽ làm thay đổi một số hoạt động sản xuất về mặt phương hướng, chiến lược dẫn tới từng bước hình thành và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu. Kể từ khi Đảng và nhà nước ta tiến hành công cuộc cải cách nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế “mở cửa”. Thị trường nông sản nước ta đă từng bước được mở rộng và ngày càng phát triển. Chúng ta đă và đang chinh phục những thị trường khó tính như Mỹ, E.U và một số nước khác không chỉ về số lượng hàng hoá với giá cả hợp lý mà cả về phẩm chất hàng hoá... Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là gạo và thực phẩm (hải sản, nông sản, thủ công mỹ nghệ...) đem lại một nguồn thu lớn cho quốc gia sẽ vẫn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong mấy thập kỷ tới. Do vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường, tạo điều kiện cho thị trường và cho hoạt động sản xuất nông nghiệp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nào là phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển Nhà nước trong từng thời kỳ có tính đến các yếu tố trong bối cảnh và hội nhập quốc tế. 5. Một số các yếu tố khác. a. Điều kiện tự nhiên (đất đai, nguồn nước, hải sản..) và các điều kiện thiên nhiên ( khí hậu, thời tiết..) phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tuy vậy, việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển người ta tập trung khai thác tài nguyên có lợi thế. Chẳng hạn để đạt được mục tiêu tăng sản lượng ngành trồng trọt cần khai thác lợi thế tăng phạm vi vốn đất đai phục vụ ngành trồng trọt, điều này có thể dẫn đến việc thu hẹp phạm vi của ngành chăn nuôi hoặc ngược lại. Rõ ràng việc đó đã tạo ra một sự chuyển dịch giữa trồng trọt và chăn nuôi. Tóm lại sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng tới quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là nhân tố cần phải tính đến trong quá trình hoạch định cơ cấu. b. Thể chế nhà nước Sự ổn định của thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rõ ràng và rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ…...là một lợi thế quan trọng của nước ta trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nói riêng. Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế thường gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị và đường lối xây dựng kinh tế. Nói cách khác, quan điểm đừng lối chính trị nào sẽ có môi trường thể chế đó, đén lượt nó, môi trường thể chế lại ước định các hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành, từng vùng và các thành phần kinh tế (trong đó có ngành nông nghiệp). Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của những quan điểm, ý tưởng và hành vi của nhà nước can thiệp và định hướng sự phát triển tổng thể, cũng như sự phát triển cấu bộ phận cấu thành nền kinh tế. Trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cho dù theo hướng nào) thì nhà nước đóng vai trò quyết định.Vai trò đó tập trung ở: Thứ nhất: nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược & kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Trên cở sở đó vạch ra chiến lược, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Thứ hai: nhà nước tiến hành điều chỉnh sản xuất kinh doanh phát triển theo định hướng, thông qua hệ thống luật pháp, các chính sách (thuế, hạn nghạch xuất khẩu, chính sách đầu tư, trợ giá..). Như vậy sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường có ý nghiã quan trọng đối với quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành. IV. ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt với các nước đang phát triển. Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. Trừ một số ít dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, có ý nghĩa lớn là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Đa số các nước đang phát triển có những thuận lợi đáng kể, đó là tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước không giàu tài nguyên như dầu hoả, thì nông sản đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Nếu Nhà nước có chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn và thu nhập được phân phối công bằng thì thị trường nông thôn ngày càng có nhu cầu mở rộng về sản phẩm công nghiệp. Ngược lại, nếu có thị trường rộng lớn ở nông thôn thì công nghiệp có thể tiếp tục phát triển sau khi đã bão hoà nhu cầu của thành thị về các sản phẩm công nghiệp. Tóm lạiTrên thực tế, ở các nước đang phát triển sẽ không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển nông thôn. Những vấn đề cốt lõi của nghèo đói, bất công tăng lên, dân số gia tăng nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn gốc ở sự trì trệ và thụt lùi của hoạt động kinh tế ở các vùng nông thôn so với thành thị. Do vậy phát triển nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. 4.1 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong mấy năm qua nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt đặc biệt là về mặt cơ cấu kinh tế. Đã có sự giảm về tỷ trọng của ngành nông nghiệp so với công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên sự đóng góp vào GDP cả nước của ngành nông nghiệp vẫn không ngừng tăng. Phần lớn nguồn thu từ xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đều là các sản phẩm thuộc ngành nông nghiệp như: gạo, cà phê, cao su, lạc nhân, hạt điều... Việc tăng xuất khẩu trong lĩnh vực nông nghiệp đã thúc đẩy ngành chế biến nông sản phát triển. Hàng hoá nông sản từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Sản phẩm nông sản thô giảm thay vào đó là sản phẩm nông sản đã được tinh chế (giá trị công nghệ trong giá trị gia tăng qua chế biến có xu hướng tăng). Các ngành bổ trợ nông nghiệp có những dấu hiệu phát triển tích cực. Đặc biệt phải kể đến ngành cơ khí chế tạo máy móc phuc vụ sản xuất nông nghiệp. Do nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, ngành cơ khí đã có những thay đổi căn bản, qua đó giúp nông dân khắc phục được các khâu nặng nhọc hoặc những lúc thời vụ khẩn trương. Tuy nhiên vẫn cón nhiều hạn chế trong cơ khí hoá nông nghiệp trong đó phải kể đến chất lượng, giá cả của các mặt hàng máy móc phục vụ nông nghiệp. Điều này đặt ra thách thức mới cho ngành công nghiệp cơ khí trong thời gian tới cần có những điều chỉnh trong sản xuất máy móc cơ khí dần đáp ứng nhu cầu của người dân về chất lượng và giá cả. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tăng lên một cách đáng kể sau khi nhà nước thực hiện một số biện pháp kích cầu trong khu vực nông thôn. Khác với trước đây nông sản chủ yếu được tiêu thụ ở thành thị, thì nay khu vực nông thôn đã có những dấu hiệu đáng mừng. Tất yếu làm nảy sinh các loại dịch vụ nông nghiệp, các ngành phi nông nghiệp (ngành sản xuất ngoài nông nghiệp như : ngành nghề thủ công truyền thống…...) phát triển. Xét tổng thể tình hình tiêu dùng hàng nông sản cả nước vẫn chưa thực sự “sáng sủa” chỉ cần một tác động nhỏ cũng sẽ làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng. Lấy ví dụ: Hiện tượng kéo dài suốt năm 19971998 là cung vượt cầu đối với nhiều loại nông sản, rõ nét nhất lúa gạo, sắn, rau, quả tươi…... Mặc dù sản lượng lúa tăng thêm 1,3 triệu tấn, nhưng nhu cầu gạo của nông dân lại giảm, ở khu vực thành thị còn 10 kg/ngươì/tháng.Điều này cho thấy sự bấp bênh trong việc tìm hướng đi cho hàng nông sản . Nó không chỉ là một vấn đề trước mắt mà còn là vấn đề phải đối mặt trong tương lai gần đây khi nhà nước ta đang tiến hành từng bước để tiến tới gia nhập AFTA. 4.2 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với các vấn đề xã hội Đời sống nông thôn hiểu theo nghĩa đầy đủ phải hội đủ 3 yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên. Trong đó giải quyết vấn đề xã hội sao cho thoả đáng, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế được xem là một khâu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thu nhập chính ở nông thôn có được là từ sản xuất nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH đã và đang đem lại cho người dân nguồn thu nhập ổn định. Cơ sở hạ tầng được cải thiện tạo môi trường thuận lợi cho nông dân yên tâm tiến hành sản xuất vì thế năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tạo ra một số ngành nghề mới góp phần tăng thêm thu nhập cho nông dân, giải quyết tình trạng thất nghiệp đang có dấu hiệu tăng trong khu vực nông thôn. Từ đó dần khắc phục được tình trạng đói nghèo, tăng phúc lợi công cộng, y tế, giáo dục. Trong CNH-HĐH nông nghiệp vấn đề về môi trường luôn được quan tâm đúng mức. Tăng cường bảo vệ và cải thiện môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong các ngành nghề truyền thống được coi như một nguyên tắc thông suốt trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta. III. Kinh nghiệm của một số nước. 1. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp. 1.1. Các nước Nics Hàn Quốc và Đài Loan có khu vực nông thôn rộng lớn. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra sự khác biệt về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. Do đó, trên cơ sở phát triển kinh tế , các nước này đã chú trọng có chính sách hỗ trợ nông nghiệp và nông thôn, trong đó ccó chính sách giá cả, bảo hộ sản xuất nông nghiệp. Liên quan đấn chính sách nông thôn là việc điều tiết quá trình đô thị hoá và quản lý luồng di dân. Việc có chính sách xã hội đúng đắn cũng góp phần quan trọng cho việc không để xảy ra sự giãn cách quá lớn trong mức sống dân cư. 2.2. Chính sách phát triển nông nghiệp ở các nước asean ở các nước asean, do điều kiện đặc thù là những nước nhiệt đới vì vậy sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách là yếu tố có tính quyết định đến sự phát triển nông nghiệp. Nhà nước can thiệp chủ yếu một cách gián tiếp vào quá trình sản xuất sản phẩm bằng các chính sách như chính sách giá cả. Chẳng hạn như Thái Lan, chính sách bảo hộ lúa gạo được coi là biện pháp mạnh mẽ để tác động vào giá cả lúa gạo trong nước nhằm ổn định giá gạo. Thực hiện chính sách trên, chính phủ Thái Lan đã từng áp dụng các biện pháp như: Đặt mức giá mua lúa gạo tối thiểu ngăn ngừa nông dân bán thóc ở giá thấp hơn giá chi phí sản xuất. Điều chỉnh thuế xuất khẩu gạo phù hợp với thị trường gạo thế giới và để ổn định giá trong nước. ở Indonexia thì chính phủ lại quyết định khung giá nền và giá trần, điều chỉnh thuế nhập khẩu để bảo vệ người sản xuất nhất là thời kỳ thu hoạch. Chính sách đầu tư cho nông nghiệp: Được tập trung vào các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, trước hết là hạ tầng đường xá, ở nông thôn và từ nông thôn đến các trung tâm kinh tế lớn nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường , hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống thuỷ lợi. Chính sách tín dụng nông nghiệp: Tín dụng là một công cụ quan trọng để khuyến khích phát triển sản xuất và phân phối lại thu nhập ở các khu vực khác nhau. Trong những năm qua, Chính phủ các nước ASEAN đều đã thực hiện các chương trình tín dụng để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. ở Thái Lan, cung cấp dịch vụ tín dụng nông nghiệp chủ yếu thông qua các tổ chức tài chính chính thức như: Ngân hàng quốc gia, Ngân hàng thương mại, Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp. Ngoài ra còn có các tổ chức tài chính phi chính thức. ở Philippin hệ thống tín dụng bao gồm: hệ thống tài chính chính thức gồm có các chi nhánh Ngân hàng t._.ện đa dạng hoá mục tiêu, hiện đại hoá quản lý và xã hội hoá công tác thuỷ lợi. Phát triển thuỷ lợi theo hướng lợi dụng tổng hợp, khai thác theo lưu vực sông, phục vụ đa mục tiêu: cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, nước cho dân sinh, phát điện, giao thông, thuỷ sản, du lịch,...… Trong nông nghiệp chuyển mạnh sang đầu tư làm thuỷ lợi phục vụ tưới cà phê ở Tây Nguyên, chè và cà phê chè (TDMNPB), mía (miền Trung) và các cây rau màu khác. Đầu tư thoã đáng cho thuỷ lợi nuôi trồng thuỷ sản. - Tiếp tục củng cố hệ thống đê sông Hồng và sông Thái Bình để chống đỡ an toàn với các trận lũ lịch sử đã xẩy ra. Nâng cao mức bền vững của hệ thống đê biển, đê ngăn mặn ở ĐBSCL, các tỉnh ven biển miền Bắc, miền Trung đảm bảo chống được các trận bão biển có sức gió cấp 9, cấp 10. Tăng cường khả năng thoát lũ phân lũ, thích nghi phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai. - Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong xây dựng, quản lý và khai thác các công trình thuỷ lợi, bảo vệ tài nguyên nước chốngô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước. - Tăng cường hơn nữa quyền hạn trách nhiệm của các cấp địa phương trong đầu tư, quản lý, vận hành và khai thác thuỷ lợi, phát huy cao sự tham gia của công dân, nhất là thông qua các Hợp tác xã. 3.2 Tăng cường hệ thống thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông ngang trình độ trong khu vực để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập của nông nghiệp 3.3. Đẩy mạnh cơ khí hoá nông nghiệp - Tạo điều kiện thuận lợi để hỗ trợ nôngdân sử dụng ngày càng nhiều các loại máy móc, thiết bị cơ khí trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông lâm sản, trước hết là các khâu lao động nặng nhọc, độc hại, nâng cao năng suất lao động. Nâng tỷ lệ làm đất bằng cơ giới lên 70% vào năm 2010 (hiện nay là 30%), sử dụng máy sấy lúa Hè thu ở ĐBSCL. - Phát triển công nghiệp chế tạo trong nước, đáp ứng 100% nhu cầu về công cụ cầm tay, bơm nước, máy làm đất, máy tuốt lúa, xay xát lúa, chế biến chè, cà phê, điều, sơ chế cao su. 3.4. Điện khí hoá nông thôn Nhà nước hộ trợ vốn, kỹ thuật cùng với sức dân để phấn đấu trong 5 năm tới hoàn thành cơ bản việc đưa điện lưới đến 90% xã để cấp điện sản xuất và tiêu thụ ở nông thôn; phát triển thuỷ điện nhỏ và các loại hình cấp điện khác phục vụ các vùng cao, vùng xa. 3.5.5 Phát triển giao thông nông thôn Nhà nước ưu tiên dành vốn hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn, hình thành mạng lưới đảm bảo giao thông thông suốt mọi thời tiết để lưu thông vận chuyển hàng hoá, trước hết là ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung; nối các thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp với mạng lưới đường quốc gia. Phấn đấu đến năm 2005 có đường cho phương tiện cơ giới đi đến tất cả các xã hoặc cụm xã, các tụ điểm công nghiệp ở nông thôn có đường cho xe hai bánh hoặc đường dân sinh đến xã, cụm xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới khó khăn; xoá bỏ cầu khỉ, tiếp tục mở rộng đường ô tô đi được, nhựa hoá 15 -– 20% mặt đường nông thôn, riêng đối với đồng bằng là 50%. 3.6. Hệ thống thông tin ở nông thôn Xây dựng và phát triển nhanh mạng lưới bưu chính viễn thông ở nông thôn, bảo đảm tính sẵn sàng, tính tiếp cận và tính phổ cập thông tin trong mọi lĩnh vực, mọi thời tiết, mọi điều kiện và mọi đối tượng 3.7. Phát triển các chương trình phục vụ thương mại - Hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn, mỗi xã có ít nhất một chợ; Xây dựng hệ thống chợ bán buôn ven đô thị lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chợ nổi ở đồng bằng sông Cửu Long, chợ các đường biên, chợ khu vực; đầu tư xây dựng trung tâm bán buôn ở các vùng hàng hoá tập trung. - Xây dựng các bến cảng sông biển phục vụ xuất nhập khẩu nông sản, nhanh chóng nâng cấp cảng Cần Thơ làm đầu mối xuất khẩu nông sản và nhập khẩu vật tư hàng hoá cho đồng bằng sông Cửu Long. - Đầu tư xây dựng các kho ngoại quan, phòng trưng bày giao dịch hàng nông sản và công nghiệp, thủ công mỹ nghệ từ nông thôn ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Châu Âu, Nga, Mỹ...… 3.8. Xây dựng các thị tứws, thị trấn làm trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hoá - xã hội ở các đại bàn nông thôn Thúc đẩy sự ra đời của các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm công nghiệp -– dịch vụ tại các vùng nông thôn. Tuỳ theo điều kiện cụ thể từng địa phương quy hoạch khu đất đai thuận tiện và phát triển các kết cấu hạ tầng và các dịch vụ công cộng như giao thông, điện, bưu điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, hình thành trung tâm công nghiệp - dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các cơ sở bảo quản, chế biến, buôn bán nông sản và vật tư nông nghiệp 4. Tiếp tục đổi mới chính sách tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 4.1- – Chính sách đất đai Các địa phương rà soát lại quy hoạch đất đai, công bố hướng dẫn nông dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Hộ có nhu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất được tạo điều kiện làm thủ tục chuyển đổi nhanh và thuận lợi. Quy hoạch bố trí diện tích xây dựng các khu công nghiệp nông thôn, đơn giản hoá thủ tục cho các hộ, HTX, tư nhân thuê đất để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; thuê đất xây dựng trang trại chăn nuôi quy mô lớn theo hướng công nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân, nông dân được góp vốn bằng giá trị sử dụng đất để hình thành doanh nghiệp 4.2- – Chính sách thị trường : Giảm thuế nhập khẩu phân bón NPK xuống bằng 0%, bỏ khấu trừ đầu vào 2- 3%. Đơn giản hoá và thông thoáng thủ tục nhập khẩu nguyên liệu và vật tư nông nghiệp. Thực hiện quản lý xuất khẩu theo tiêu chuẩn, chất lượng. Phát triển thông tin thị trường và xúc tiến thương mại. 4.3- – Chính sách thuế: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 35% xuống còn 25%; bỏ chính sách thu thuế thu nhập bổ sung 25%. 4.4- – Chính sách đầu tư: - Tăng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn; - Tiến hành đầàu tư theo chương trình; - Mở rộng phân cấp đầu tư cho địa phương; - Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu đầu tư theo hướng tăng mạnh cho việc đầu tư các công trình thuỷ lợi tưới cho cây công nghiệp, cây ăn quả; xây dựng các cơ sở hạ tâng phục vụ thương mại, bao gồm đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ, trung tâm buôn bán hàng hoá nông sản, kho tàng, bến cảng, phương tiện vận tải chuyên dùng, cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng. - Dành kinh phí thoả đáng cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học - Tăng vốn trung hạn và dài hạn cho các hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân vay vốn sản xuất kinh doanh ở nông thôn; ưu tiên cho vay đối với các sản phẩm mới chuyển đổi; vay phát triển ngành nghề mới. 5 –. Phát triển nguồn nhân lực Tăng cường các cơ sở đào tạo, kể cả đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất kỹthuật, hoàn chỉnh chương trình nội dung giảng dạy phù hợp; Có chính sách hỗ trợ con em nông dân, nhất là dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, để họ có điều kiênh theo học ở các bậc đầu tư. Ưu tiên đầu tư cán bộ kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản (mỗi năm 600 ngàn người); Đào tạo cán bộ HTX (3000 lượt người/năm); Chú trọng đào tạo nông dân, chủ trang trại mỗi năm khoảng 1 triệu người. 6. - Tổ chức sản xuất - Tạo điều kiện thuận lợi cho họ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá tập trung, tiêu thụ sản phẩm dễẽ dàng, đạt hiệu quả kinh tế cao. - Củng cố hợp tác xã hiện có, thành lập các HTX mới theo luật để làm tốt dịch vụ sản xuất và chuyển giao công nghệ cho nông thôn; tổ chức quỹ tín dụng nhân dân đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất và huy động tiền gửi tiết kiệm trong dân cư. - Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hợp đồng sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Phấn đấu năm 2005 có ít nhất 30% nông dân sản xuất và bán sản phẩm thông qua hợp đồng với doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng sản xuất với nông dân như cho vay vốn ưu đãi, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nguyên liệu, ưu đãi tiêu thụ...… Đổi mới hoạt động các nông lâm trường theo hướng đảm bảo các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản và tiêu thụ sảnphẩm hàng hoá cho nông dân trong vùng. 7. Một số giải pháp tước mắt. Trên đây là một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đã được Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ KH và ĐT) tổng hợp và báo cáo. Có thể nói đó là những giải pháp tốt nhất và mang tính khả thi cao. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ sẽ còn không ít vướng mắc cần phải giải quyết. Việt nam giai đoạn 20021-2010. Để các giải pháp trên có tính khả thi cần tập trung vào các vấn đề sau: Xin kiến nghị một số giải pháp tháo gỡ trước mắt như sau: Thứ nhất: Muốn tổ chức nông nghiệp theo quy hoạch ngành lãnh thổ cần tổ chức lại hình thức sản xuất trong nông nghiệp. Cụ thể vẫn lấy quy mô của hộ gia đình là chính, từng bước chuyển đổi ruộng đất, bố trí lại đồng ruộng tạo điều kiện cho cơ giới hoá. Từ kinh tế hộ gia đình làm nòng cốt, phát triển quy mô kinh tế trang trại. Ưu điểm của hình thức kinh tế trang trại là khắc phục sự manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng thấp của kinh tế hộ gia đình. Tạo ra quy mô kinh tế rộng hơn, hiện đại hơn và rõ ràng với năng suất cao hơn. Trên các vùng chuyên canh tập trung hình thành mô hình trang trại sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại hơn, gắn sản xuất với chế biến và xuất khẩu, tạo những tiền đề cơ bản để phát triển nông nghiệp hàng hoá gắn với thị trường xuất khẩu. Trong sản xuất nông nghiệp nên hình thành những vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, quy mô lớn, gắn với công nghiệp chế biến, vận chuyển và tiêu thụ theo nguyên tắc đất nào, cây ấy... để phát huy thế mạnh và tiềm năng đất đai, khí hậu, nguồn nước trong sản xuất nông sản hàng hoá với chất lượng cao. Nhằm tạo ra một số sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cà phê, cao su, hạt điều..Tổ chức lại nền nông nghiệp hàng hoá Những diễn biến trong nông nghiệp những năm gần đây, nhất là trong năm qua (năm 20021) cho thấy nền nông nghiệp nước ta cần được tổ chức lại nhằm đáp ứng được những yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Một mâu thuẫn lớn đang đặt ra đối với nền nông nghiệp nước ta là: có nhiều sản phẩm có khối lượng hàng hoá lớn nhưng lại được sản xuất được sản xuất ra ở những nông hộ có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ. Vì thế mà chất lượng nông sản hàng hoá thấp, người sản xuất trực tiếp không nắm bắt được thông tin thị trường, hậu quả là sản xuất và phân phối nông phẩm của nước ta chịu những thua thiệt không nhỏ. Tuy thế, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nói chung và những đặc thù của nước ta, lại không thể tổ chức những doanh nghiệp lớn trực tiếp sản xuất nông phẩm nguyên liệu. Về điểm này, bài học về tập thể hoá trước đây còn nguyên giá trị. Còn đường giải quyết mâu thuẫn này là phải tìm ra những hình thức kinh tế ngõ hầu kết hợp được hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông phẩm, trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước, với hàng triệu hộ nông dân. Tổ chức một nền nông nghiệp hợp đồng. Thông qua việc ký kết hợp đồng với các hộ nông dân hoặc những tổ chức kinh tế của họ, những doanh nghiệp này hướng dẫn kinh tế hộ nông dân sản xuất cái gì, bao nhiêu, với chất lượng, chủng loại như thế nào nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong nước và ngoài nước. Đây chính là vai trò dẫn dắt, chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước với nông dân. Đến lượt mình, các doanh nghiệp này cũng phải tự cải tạo mình, đủ mạnh để đứng vững trên thị trường trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng cần phải khuyến khích các doanh nghiệp khác ( doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) tham gia vào nền nông nghiệp hợp đồng. Nền nông nghiệp hợp đồng còn đòi hỏi các hộ nông dân phải liên kết lại, để có thể trở thành những đối tác có đủ sức mạnh với các doanh nghiệp. Mặt khác, chính doanh nghiệp cũng cần đến những hợp tác xã của nông hộ trong việc ký kết và đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế. Như vậy, sẽ ra đời những Hợp tác xã trên cơ sở tất yếu của những quan hệ hợp đồng giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến, thương mại kinh doanh hàng nông sản. Những Hợp tác xã thể nhân này của nông dân có thể cùng với các doanh nghiệp tổ chức nên các Hợp tác xã pháp nhân, tạo thành những doanh nghiệp nông - – công nghiệp mạnh, trong đó, hộ nông dân có thể tham gia vào các doanh nghiệp chế biến, thương mại dưới hình thức cổ đông. Điều nói trên không phải bắt nguồn từ sự suy luận logic thuần tuý. Nó có những căn cứ thực tiễn cụ thể của nền nông nghiệp nước ta thông qua các hoạt động của một số doanh nghiệp như Hội mía đường Lam Sơn và các HTX của những người trồng mía, như Nông trường Sông Hởu mà thực chất đang hoạt động như một công ty thương mại, gắn kết chặt chẽ với nông dân, với các doanh nghiệp chế biến nông lâm sản, với các cơ quan nghiên cứu -– triển khai như nhiều doanh nghiệp khác như ngành chè, cao su,…... Vấn đề là ở chỗ, cần nhận thức rõ khuynh hướng đúng đắn này, chủ động tổ chức nên một nền nông nghiệp mới, nền nông nghiệp hợp đồng, nhiều tầng, gắn kết chặt chẽ các thành phần kinh tế tạo thnàh một thể thống nhất. Bằng cách đó nông nghiệp nước ta sẽ đáp ứng tốt những đòi hỏi của thị trường ngoài nước cũng như trong nước. Thứ hai: Tiến hành CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn, không phải chỉ thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế, lực lượng sản xuất, mà còn thay đổi căn bản cả quan hệ sản xuất, tư duy và lối sống của mọi tầng lớp dân cư trong khu vực này. Cần có được sự giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề kinh tế, tổ chức, quản lý và kỹ thuật...Trong đó cung ứng đủ vốn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nhu cầu CNH phải là mục tiêu hàng đầu. Khó khăn là nguồn vốn “đầu tư...từ đâu ?”. Lấy nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nhà nước và nguồn viện trợ ODA. Nhưng ngân sách thì có hạn, thu hút vốn tiết kiệm của nhân dân là giải pháp tốt nhất để huy động vốn. Tuy vây hiệu quả chưa thực sự cao, gần đây trước tình trạng khan hiếm tiền mặt các tổ chức tín dụng, ngân hàng đưa ra biện pháp tăng lãi suất tiền gửi và tỏ ra có chuyển biến tích cực đó là dấu hiệu đáng mừng. Hiện nay nguồn vốn “chảy” về nông thôn khá đa dạng. Ngoài các ngân hàng thương mại còn có các tổ chức quốc tế, tổ chức tín dụng, như quỹ tín dụng nhân dân, quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ xoá đói giảm nghèo...Nhưng hầu hết các tổ chức tín dụng lại chỉ cho vay đơn điệu chưa vượt qua “khung cửa” xoá đói. Tình trạng phổ biến là việc cho vay món nhỏ, thời gian ngắn, thường là 5 đến 6 tháng, theo một chu kỳ cây trồng vật nuôi. Bên cạnh nhu cầu vay vốn để sản xuất nông- lâm -ngư nghiệp theo thời vụ, nông dân còn cần phải vay vốn để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển đổi mùa vụ theo hướng sản xuất hàng hoá. Vvốn này không thể ngắn hạn “ăn ngay” mà phải có thời gian chuyển đổi. dường như ngân hàng chưa nhìn ra tầm chiến lược này để giúp nông dân tạo ra sản phẩm hàng hoá, giải quyết việc làm. Mà, thường nóng vội, sợ mất vốn hoặc thiếu một tầm nhìn vĩ mô đối với nông nghiệp và nông thôn đang trên đường tiến lên CNH-HĐH. Một thực tế ai cũng thừa nhận: nông thôn là một thị trường rộng lớn, chiếm trên 76% dân số cả nước. Thế nhưng cho đến nay nước ta hầu như chưa có tín dụng nông thôn, tín dụng hiện nay chỉ giành cho nông nghiệp. Số nông dân được vay vốn ngân hàng cũng hãy còn rất ít và chỉ sử dụng vào mục đích sản xuất. Nguồn cung cấp tín dụng từ ngân hàng cho tiêu dùng phục vụ nhu cầu căn bản của đời sống nhân dân, bao gồm từ ăn mặc, ở, đi lại, học hành đến trị bệnh, mua sắm các phương tiện sinh hoạt gia đình ở khu vực nông thôn còn rất khiêm tốn. Những chương trình tín dụng của các đoàn thể khác ngoài ngân hàng ngày càng mở rộng và có tác dụng cụ thể nhưng không mang tính chuyên nghiệp và cũng không vượt quá xoá đói giảm nghèo. Vì thế, bức tranh tín dụng ở nông thôn chưa mấy sáng sủa. Giải pháp là: Cần phải tạo ra cách nhìn mới đối với nông thôn . Nhìn một các toàn diện kênh tín dụng tiêu dùng ở nông thôn phải được cấp cho cả hai phía. Phía người mua (nông dân), phía người bán (dịch vụ). Nếu thực hiện được tín dụng loại này, ngân hàng làm một công được ba việc: Thứ nhất: Giải toả được nguồn vốn đang ứ đọng. Thứ hai: Kích thích được nhu cầu tiêu dùng. Thứ ba: Phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện tạiai có nhiều loại hình thức tín dụng được áp dụng một cách khá rộng rãi, như bán trả góp....Tại sao các loại hình tín dụng này không được áp dụng ở nông thôn? Nơi mà các nhà kinh doanh tiền tệ đã phải thừa nhận rằng thị trường cho vay vốn an toàn nhất, nợ quá hạn thấp nhất (dưới 5%). Hiện nay, mặc dù chính phủ quy định đối với nông dân khi vay vốn không cần phải thế chấp. Nhưng trong thực tế, muốn vay vốn, nông dân vẫn loay hoay với thủ tục “sổ đỏ” “sổ xanh” cũng chỉ vay được tối đa 10 triệu đồng. Đã đến lúc nông dân, nông thôn cần một cách nhìn mới của ngân hàng và các tổ chức tín dụng: rằng nông nghiệp, nông thôn nước ta đang trên đà phát triển rất cần các điều kiện sinh hoạt để xích lại gần với cuộc sống thành thị, với cơ chế thị trường. Nông thôn đang cần nhiều loại hình tín dụng để phát triển nông thôn, từng bước nâng cao thu nhập của nông dân, từ đó tạo ra sức mua, tăng sức bán cho thị trường. Về giải pháp huy động vốn ODA đây là nguồn vốn viện trợ nước ngoài rất quan trọng cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo ra năng lực sản xuất mới, đặc biệt là công nghệ chế biến và công nghệ sau thu hoạch... Một thuận lợi đối với Việt Nam trong thời gian tới là các nhà tài trong trợ cũng cam kết sẽ ưu tiên tập trung ODA vào đầu tư cho khu vực nông nghiệp và nông thôn. Để tăng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA-vẫn được coi là quá chậm so với tiềm năng của nó cần phải có những thay đổi trong cách tiếp cận nguồn vốn này. Sau đây là một số biện pháp cụ thể: Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả ODA vào nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời gian tới. Nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA theo từng ngành và từng địa phương. Các ngành, các địa phương và các đơn vị xin sử dụng vốn ODA cần tính toán chính xác hiệu quả và xác định đâỳ đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn có chọn lọc và phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Hoàn thiện các quy định về quy trình và thủ tục đầu tư. Đơn giản hoá các quy trình ra quyết định và có quy chế cụ thể với các nhà tài trợ. Trong khâu tổ chức thực hiện cần đổi mới cơ chế quản lý và năng lực điều hành cuả các cơ quan quản lý và sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các địa phương nơi có dự án sử dụng ODA. Tất cả các dự án sử dụng vốn ODA phải thực hiện tốt quy trình đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Ưu tiên và phân bổ vốn đối ứng cho các dự án, đề ra các biện pháp chống tham nhũng để một mặt đảm bảo chất lượng công trình, mặt khác giữ được uy tín với các đối tác cung cấp ODA của nước ngoài. Có các biện pháp đồng bộ nhằm đẩy nhanh tốc độ giải ngân... Thực hiện tốt công tác nghiên cứu và thực hiện dự án, thẩm định và xét duyệt dự án, hướng dẫn đấu thầu và xét chọn nhà thầu; có chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác di dân và tái định cư, giải phóng mặt bằng kịp thời cho thực hiện dự án... Chú trọng công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ ở tất cả các cấp, cả trung ương và địa phương nơi có dự án. Nâng cao năng lực quản lý và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính và các địa phương... kịp thời sử lý các vấn đề phát sinh, bổ sung và điều chỉnh chính sách,cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dự án đầu tư, đồng thời thực hiện tốt chức năng giám sát kiểm tra và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Vừa qua nhân chuyến thăm của thủ tướng Nhật Bản- Ông Kuzơmi đã cam kết tiếp tục hỗ trợ nguồn vốn ODA và chuyển giao công nghệ cho chính phủ và nhân dân ta bất chấp nền kinh tế lớn thứ hai thế giới- Nhật Bản đang có dấu hiệu xu hướng phát triển chững lại (Nhật Bản là nước Viện trợ ODA lớn nhất đối với nước ta). Thứ ba: Đổi mới cơ chế điều hành xuất nhập khẩu. Trước hết thủ tục xuất nhập khẩu cần đơn giản hơn nữa, tránh tình trạng chồng chéo, rườm rà trong khâu thủ tục. Ví dụ Để xuất khẩu được lương thực ra nước ngoài, mặc dù đã có đại lý và chi nhánh ở thị trường này. Nhưng khi xuất hàng đi, lại phải làm thủ mua bán với một đối tác nào đó để có thể xuất hàng trả chậm, thực ra là xuất cho chính chi nhánh của mình ở nước ngoài. Và dù là vẫn bán hàng cho chi nhánh công ty nhưng hợp đồng lại là hợp đồng ngoại. Nếu như sắp tới đây Việt Nam mở rộng giao thương với nước ngoài, các doanh nghiệp chúng ta mở nhiều chi nhánh và đại lý ở nước ngoài mà cứ phải làm như cách trên thì rất khó. Cơ chế cần có tính dài hạn, việc sửa đổi cơ chế xuất nhập khẩu nên hoàn thành trong thời gian nhanh nhất có thể. Để doanh nghiệp có thể chủ động lập kế hoạch làm ăn, ký kếtêt hợp đồng xuất nhập khẩu cả năm. Tránh tình trạng hàng tại cảng chờ thủ tục từ các cơ quan chức năng. Thứ tư: Hàng hoá nông sản, những giải pháp để gia tăng xuất khẩu, tiêu thụ Về lâu dài, các giải pháp “tạm trữ, ưu đãi lãi suất, ưu đãi thuế” chỉ là giải pháp tình thế. Nhà nước đã áp dụng mức thuế 0% với tất cả các loại nông lâm sản, xoá bỏ hầu hết các biên pháp phi thuế như đầu mối, giấy phép, hạn ngạch...để thúc đẩy xuất khẩu. Việc phải làm là tiếp cận thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Cần bố trí tham tán nông nghiệp để theo dõi thông tin và thực hiện các hoạt động giao dịch thương mại nông sản, trước mắt ở các thị trường lớn như Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Mỹ... Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn dự kiến triển khai ngay một số nội dung xúc tiến thương mại nông sản; phối hợp tổ chức các hội chợ chuyên đề về nông sản, chăn nuôi, rau quả, sản phẩm rừng... Hỗ trợ một phần kinh phí và tổ chức đầu mối giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm các nước; tổ chức các buổi tham quan vùng sản xuất, nơi trưng bày hàng hoá, hội thảo để giới thiệu với khách hàng trong và ngoài nước, giới thiệu và hướng dẫn các doanh nghiệp, hàng hoá qua trang web. Các phương tiện thông tin đại chúng nên giảm chi phí quảng cáo với hàng nông lâm sản. Các cơ sở phải đào tạo cán bộ thị trường, xúc tiến tiêu thụ nông sản giúp dân. Như vậy sẽ tiêu thụ hết lượng nông sản hàng hoá chất lượng cao làm ra. Kết luận Cơ cấu nông nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác, có khả năng ảnh hưởng rất lớn trên mọi phương diện về mặt kinh tế cũng như xã hội của đất nước ta. Trong điều kiện tự do hoá thương mại và bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2010, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng, chiến lược và chính sách chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hương công nghệp hoá, hiện đại hoá…...Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sẽ đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. Đề tài “Phương hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 20021-2010”, đã cố gắng phân tích, luận giải các nội dung nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu để phát huy các lợi thế cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, từ lý luận, thực trạng và triển vọng về thị trường của Việt Nam trên con đường tự do hoá thương mại, đề tài đã chỉ thấy những tồn tại, cơ hội, thách thức cần phải giải quyết trên con đường phát triển để tiến tới một nền nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh vào xuất khẩu, ngày càng nâng cao khả năng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam ra thị trường thế giới và khu vực . Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc không ít vào cách tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt Nam từ nay đến năm 2010. Hy vọng rằng Việt Nam, với những tiềm năng dồi dào sẵn có trong sản xuất nông nghiệp cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và nguồn lao động, với định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng trong việc tăng cường phát huy nội lực sẽ taọ ra những sản phẩm nông nghiệp phong phú về chủng loại, với nhiều tầng về chất lượng, có khối lượng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng được cải thiện, tạo nên sức lan toả mạnh mẽ của “ hương vị “ sản phẩm Việt Nam trên thị trường nông sản thế giới. Mục lục Lời mở đầu 1 phần I Cơ cấu nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp trong phát triển kinh tế I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp 3 1. Khái niệm về cơ cấu của một ngành kinh tế 3 1.2. Khái niệm về cơ cấu lao động. 5 1.3. Khái niệm cơ cấu đầu tư: 6 2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành 6 3. Cơ cấu nông nghiệp và sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 8 3.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp: 8 3.2. Sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp. 9 II. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10 1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel. 10 2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. 10 3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. 11 3.1. Xã hội truyền thống. 12 3.2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh. 12 3.3. Giai đoạn cất cánh. 13 3.4. Giai đoạn trưởng thành 13 3.5. Giai đoạn mức tiêu dùng cao 13 4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima. 14 4.1. Cách đặt vấn đề của Harry T.Oshima 14 4.2. Bắt đầu quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian nhàn rỗi. 15 4.3. Hướng tới có việc làm đầy đủ 15 4.4. Sau khi có việc làm đầy đủ. 16 III. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 17 1. Vấn đề vốn trong sản xuất nông nghiệp. 18 2. Nguồn nhân lực. 19 3. Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. 20 4. Thị trường trong và ngoài nước. 20 5. Một số các yếu tố khác. 21 IV. ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 22 4.1 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế 24 4.2 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với các vấn đề xã hội 25 III. Kinh nghiệm của một số nước. 25 1. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp. 25 1.1. Các nước Nics 26 2.2. Chính sách phát triển nông nghiệp ở các nước asean 26 2. Phương hướng và bước đi của CNH-HĐH của một số nước. 27 Phần II Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông -lâm -ngư nghiệp I. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo kế hoạch 5 năm 19961997-20010 29 II. Đánh giá thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam 19961997-20010 29 A. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. 29 B. Đánh giá thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam 19961997-20010 29 1. Những thành tựu chủ yếu. 31 2. Kết quả sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. 32 2.1. Về nông nghiệp. 32 2.1.1. Sản xuất lương thực 32 2.1.2. Chăn nuôi 39 2.2. Lâm nghiệp. 40 2.3. Thuỷ sản. 42 2.3.1. Kết quả đạt được. 42 I. Đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm qua 44 1. Những thành quả chuyển dịch cơ cấu nông, lâm ngư nghiệp 44 1.1 Cơ cấu kinh tế ngành đã có bước chuyển dịch theo hướng tích cực 44 1.2 Cơ cấu sản phẩm ngành nông, lâm, ngư nhiệp chuyển dịch theo hướng tăng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu 45 1.3 Cơ cấu chất lượng ngành sản xuất nông nghiệp dịch chuyển theo hướng nâng cao chất lượng giống cây, giống con, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập nông dân 45 2. Những tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp 46 2.1. Cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn lạc hậu 46 2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn chậm, mang tính tự phát chạy theo thị trường 46 3. Nguyên nhân tồn tại yếu kém trong chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp 47 3. Đánh giá việc thực hiên cơ cấu vốn đầu tư trong nông nghiệp. 48 3.1. Kết quả đạt được. 49 3.2. Một số tồn tại trong lĩnh vực đầu tư nông nghiệp. 51 Phần III Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp Việt Nam thời kỳ 20021-2010 54 I. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. 54 1. Định hướng phát triển. 54 II. Phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 20021-2010 56 1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp. 56 1.1 Mục tiêu chung: 56 1.2 Mục tiêu cụ thể: 57 2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 57 2.1. Chuyển dịch cơ cấu theo ngành hàng 57 III Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp. 66 1. Công tác quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ 66 2. Tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. 66 3. Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 67 3.1. Tiếp tục đẩy mạnh thuỷ lợi. 67 3.2 Tăng cường hệ thống thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông ngang trình độ trong khu vực để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập của nông nghiệp 67 3.3. Đẩy mạnh cơ khí hoá nông nghiệp 67 3.4. Điện khí hoá nông thôn 68 3.5. Phát triển giao thông nông thôn 68 3.6. Hệ thống thông tin ở nông thôn 68 3.7. Phát triển các chương trình phục vụ thương mại 68 3.8. Xây dựng các thị tứ, thị trấn làm trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hoá - xã hội ở các đại bàn nông thôn 69 4. Tiếp tục đổi mới chính sách tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp 69 4.1- Chính sách đất đai 69 4.2- Chính sách thị trường : 69 4.3- Chính sách thuế: 70 4.4- Chính sách đầu tư: 70 5. Phát triển nguồn nhân lực 70 6. Tổ chức sản xuất 71 7. Một số giải pháp tước mắt. 71 Kết luận 78 Mục lục Lời mở đầu 1 phần I Cơ cấu nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp trong phát triển kinh tế I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp 3 1. Khái niệm về cơ cấu của một ngành kinh tế 3 2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành 4 3. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 7 II. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 7 1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel. 7 2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. 8 3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow. 8 3.1. Xã hội truyền thống. 9 3.2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh. 9 3.3. Giai đoạn cất cánh. 10 3.4. Giai đoạn trưởng thành 10 3.5. Giai đoạn mức tiêu dùng cao 10 4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima. 11 4.1. Cách đặt vấn đề của Harry T.Oshima 11 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0014.doc
Tài liệu liên quan