Lời mở đầu
Trải qua các giai đoạn lịch sử, con người tồn tại và phát triển như ngày nay là nhờ vào hoạt động lao động sản xuất. Vì vậy, ta có thể nói là từ khi con người xuất hiện thì từ đó có lao động sản xuất, chính vì vậy mà sản xuất vật chất là trước tiên đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Ăng Ghen chỉ ra rằng: “CácMác là người đầu tiên phát hiện ra qui luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra các sự thật giản đơn… là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương hướng cải tạo và xây dựng phương thức sản xuất XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mặc, trước khi có thể lo đến chuyện làm ăn chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… Những thứ đảm bảo cho mọi nhu cầu này của con người hoàn toàn không có sẵn trong tự nhiên, để có nó con người phẩi sản xuất”.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có một ý nghĩa hết sức to lớn.
Trong khuôn khổ đề tài này, tôi sẽ chỉ đề cập đến mối quan hệ đó, giúp các bạn có một cái nhìn đúng đắn hơn về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dưới cách nhìn của triết học.
Đây sẽ là yếu tố giúp chúng ta tránh được những sai lầm trong quản lý và phát triển xã hội…
I.Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài: Sản xuất vật chất là nền tảng cơ bản của đời sống xã hội và đời sống tinh thần của xã hội.
Quá trình sản xuất vật chất của con người là tổng hòa của nhiều mối quan hệ. Trong đó có hai mối quan hệ lớn: quan hệ giữa con người với con giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với nhau. Mối quan hệ hai mặt đó được biểu hiện thành hai mặt của một phương thức sản xuất đó là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đề tài này nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất XHCN
3. Kết cấu của đề tài:
Bao gồm 3 phần và 2 chương
II. Phần nội dung
CHƯƠNG I :Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
1.1. Hai mặt của phương thức sản xuất:
1.1.1. Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm có tư liệu sản xuất và người lao động.
a. Tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất được hình thành từ hai bộ phận:
+ Đối tượng lao động.
+ Tư liệu lao động.
* Đối tượng lao động.
Đối tượng lao động được hiểu là những gì mà người lao động sử dụng công cụ lao động tác động vào , biến đổi nó theo mục đích của mình. Do đó có thể chia làm ba loại:
- Thứ nhất là toàn bộ vùng của giới tự nhiên được con người trực tiếp sử dụng và đưa nó vào sản xuất . Tuy nhiên các tài nguyên này là hữu hạn , ngay cả tài nguyên không khí và nước xưa kia vốn được coi là vô tận thì nay cũng không còn là vô tận nữa vì tình trạng ô nhiễm. Chính vì vậy một vến đề đặt ra là phải sử dụng các nguồn tài nguyên này sao cho tiết kiệm nhất có thể.
- Thứ hai , đó là những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên mà do con người bằng lao động của mình tạo ra hay còn gọi là sản phẩm nhân tạo như các loạI hoá chất , sợi tổng hợp , hợp kim , các loại giống ... Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật các sản phẩm này ngày càng đa dạng , phong phú , không những thay thế được các loại có sẵn trong tự nhiên mà còn đáp được sự phát triển không ngừng của nền sản xuất vật chất.
- Thứ ba , là với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật , không nên bó hẹp đối tượng lao động trong hai loại trên mà cần hiểu thêm đối tượng lao động còn là những vùng hoàn toàn chưa mang dấu ấn của con người , hiện chưa được con người khai thác sử dụng , song tất yếu sẽ được khai thác trong tương lai.
* Tư liệu lao động.
Tư liệu lao động là những vật hay phức hợp các vật nối con người với đối tượng lao động và dẫn chuyền tích cực tác động của con người vào đối tượng lao động.
+ Công cụ sản xuất:
Là những bộ phận trực tiếp dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào giới tự nhiên và sản phẩm của giới tự nhiên gọi là công cụ sản xuất.
+ Phương tiện sản xuất.
Bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất kĩ thuật liên quan đến quá trình sản xuất như nhà xưởng, đường xá , cầu cống , kho bãi , nhà ga , phương tiện liên lạc ... Quá trình sản xuất và phương tiện lao động được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà trong đó đặc biệt là công cụ sản xuất là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đồng thời đó cũng là cơ sở xác định trình độ sản xuất và là tiêu chuẩn đánh giá sự khác nhau giưã các thời đại kinh tế , các chế độ chính trị xã hội.
Các Mác nói: “ Những thời đạI kinh tế khác nhau không phảI ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào , với những tư liệu lao động nào.” Do đó xét đến cùng thì năng xuất lao động chính là thước đo cơ bản để đánh giá trình độ của lực lượng sản xuất trong một xã hội.
b. Người lao động.
Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất phảI là người có thể lực , có tri thức văn hoá , có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao , có kinh nghiệm và những thói quen tốt , phẩm chất tư cách lành mạnh , lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao đối với công việc.
Lênin viết :” Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân , người lao động.”. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin nói vậy mà bởi các lí do sau :
- Người lao động là chủ thể sáng tạo ra các công cụ sản xuất. Đồng thời bằng tri thức và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình con người biết cách sử dụng sáng tạo công cụ sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội .
- Tư liệu lao động dù có tinh xảo và hiện đại đến đâu chăng nữa nhưng nếu tách khỏi người lao động thì sẽ không phát huy được tác dụng tích cực của nó .
- Người lao động với tính tích cực sáng tạo , chủ động của họ bao giờ cũng là động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ , qui mô , hiệu quả và chất lượng của mọi nền sản xuất , thiếu nó sản xuất sẽ mất đi sinh khí .
- Mọi thành tựu khoa học cho đến nay đều do con người phát minh và ứng dụng vào thực tế . Khoa học kĩ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp , khoảng cách giữa phát minh sáng chế và ứng dụng được thu hẹp tới mức ngắn nhất . Sự phát triển như vũ bão của khoa học mở ra ra những khả năng mới cho phép con người ứng dụng qui trình công nghệ hiện đại , khai thác có hiệu quả các tàI nguyên thiên nhiên , chế tạo ra những mguyên nhiên vật liệu mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất .
Chính vì vậy mà ngày nay người lao động không chỉ được hiểu đơn thuần là lao động chân tay mà còn bao gồm cả các chuyên gia kĩ thuật , kĩ sư và các cán bộ khoa học chuyên nghành tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất .
1.1.2. Quan hệ sản xuất.
Lao động sản xuất trước hết là sự tác động của con người vào giới tự nhiên . Nhưng để tác động vào giới tự nhiên con người lại phải phối hợp với nhau , hợp tác với nhau , tức là phải có quan hệ với nhau như thế nào đó. Những mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất . Nó được thể hiện ở ba mặt cơ bản sau :
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất.
+ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt quan hệ nói trên là một thể thống nhất hữu cơ , trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
a. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là một phạm trù cơ bản của quan hệ sản xuất , qua đó nó có thể cho ta biết bản chất của một xã hội . Lịch sử đã trải qua rất nhiều chế độ xã hội khác nhau song chỉ có hai loại hình sở hữu cơ bản đôí với tư liệu sản xuất đó là: sở hữu xã hội và sở hữu tư nhân.
Sở hữu xã hội hay sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Từ việc họ có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất nên họ có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động và phân phối sản phẩm. Xã hội dựa trên chế độ sở hữu xã hội là để đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động , nhằm xây dựng một xã hội bình đẳng. Nó được thể hiện ra trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ với hình thức sở hữu của thị tộc , bộ lạc và trong phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa với hình thức sở hữu tập thể ( sở hữu hợp tác xã ) và sở hữu toàn dân ( sở hữu quốc doanh ).
Sở hữu tư nhân tức là quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về cá nhẩn riêng biệt trong xã hội. Một xã hội dựa chủ yếu vào chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là một xã hội bảo vệ quyền lợi của thiểu số , số ít , đó là chế độ người bóc lột người , nguồn gốc sinh ra mọi bất bình đẳng xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh ba loạI hình sở hữu tư nhân đó là : sở hữu chiếm hữu nô lệ , sở hữu phong kiến , sở hữu tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay thực tế đã chứng minh trong chủ nghĩa xã hội cần phải đa dạng hoá tất cả các hình thức sở hữu khác , bên cạnh các hình thức sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân cần có nhiều các hình thức sở hữu khác kể cả hình thức sở hữu tư bản nhà nước và tư bản tư nhân.
b. Quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất.
Chế độ tổ chức và quản lí sản xuất là việc đặt kế hoạch và điều hành sản xuất. Mặc dù bị chi phối bởi quan hệ sở hữu song quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất vẫn đống một vai trò rất lớn đối với quá trình sản xuất. Trong thực tế thích ứng với mỗi một kiểu sở hữu là một chế độ tổ chức quản lí nhất định. Trong xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân thì quyền này thuộc về người chủ tư liệu sản xuất , còn người lao động chỉ là kẻ làm thuê. Xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu thì quyền đó thuộc về xã hội , mọi ngươì lao động đều là người chủ của quá trình sản xuất , ai có năng lực và đạo đức thì được người lao động cử vào các tổ chức , các cơ quan lãnh đạo , thay mặt họ điều hành công việc.
Chính quan hệ về tổ chức và quản lí sản xuất là nhân tố tham gia quyết định trực tiếp đến qui mô , tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế.
c. Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng là một trong ba mặt của quan hệ sản xuất. Thực tế cho thấy quan hệ phân phối sản phẩm bị chi phối bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất song nó là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Trong xã hội dựa trên chế độ tư hữu thì đạI bộ phận sản phẩm làm ra thuộc về tay người làm chủ các tư liệu sản xuất , người lao động chỉ nhận được một phần nhỏ đủ nuôi sống bản thân để tiếp tục làm thuê . Xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu , sự phân phối sản phẩm được thực hiện một cách công bằng theo nguyên tắc ai làm nhiều hưởng nhiều , ai làm ít hưởng ít , ai không làm không hưởng.
Nói tóm lại , cả ba mặt quan hệ trên đây có mối quan hệ chặt chẽ với nhau , tác động lẫn nhau trong đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định song không được tuyệt đối hoá bất cứ mặt quan hệ nào mà phải chú ý đến tính đồng bộ của cả ba mặt trong quan hệ sản xuất.
Từ trên ta có thể rút ra sơ đồ sau :
Phương thức sản xuất
Lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất
Người
lao
động
Tư liệu
sản xuất
Tư Đối
liệu tượng
lao lao
động động
Sở
hữu
tư
liệu
sản
xuất
Quản
lí
sản
xuất
Phân
phối
sản
phẩm
1.2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
1.2.1. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu và sức lao động. Tính chất của lực lượng sản xuất được thể hiện dưới hai mặt là tính chất cá thể và tính chất xã hội. Khi mà công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để làm ra một sản phẩm cho xã hội , không cần đến lao động của nhiều người thì lực lượng sản xuất có tính chất cá thể. Công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra sản phẩm ( nhiều người tham gia vào quá trình sản xuất ) thì lực lượng sản xuất mang tính xã hội. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin , đặc biệt là sự phát triển của máy tính cá nhân , lực lượng sản xuất có xu thế chuyển từ tính chất xã hội sang tính chất cá thể , trong đó vai trò của con người được đặt ở vị trí trung tâm của quá trình sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại của công cụ sản xuất , trình độ chuyên môn , nghiệp vụ và kĩ năng , kĩ xảo của người lao động ; trình độ phân công lao động xã hội ; tổ chức quản lí sản xuất và qui mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Do đó phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1.2.2. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành , phát triển và biến đổi các quan hệ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất cuả mình , con người không ngừng cải tiến , hoàn thiện và sáng tạo ra những công cụ mới. Đồng thời với sự phát triển của khoa học kĩ thuật , trình độ chuyên môn và mọi kĩ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển. Do đó để thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi sao cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không thích ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nó sẽ kìm hãm , thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất , mâu thuẫn giữa chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Ta phải hiểu thích ứng ở đây là như thế nào ?. Có nghĩa là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có, quan hệ sản xuất không thể tụt hậu so với lực lượng sản xuất , nhưng quan hệ sản xuất cũng không thể đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất , nếu có thể thì cũng chỉ là dự báo mà thôi.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất thông qua bốn cuộc cách mạng xã hội , dẫn đến sự ra đời của các hình thái kinh tế xã hội. Do luôn có được một lực lượng sản xuất mới , loàI người thay đổi phát triển sản xuất của mình , chính sự thay đổi phát triển sản xuất đó loài người thay đổi tất cả các quan hệ sản xuất của mình.
1.2.3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Như chúng ta đã biết , lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành , phát triển , và biến đổi các quan hệ sản xuất. Song bản thân quan hệ sản xuất không phải là thụ động mà chúng quay trở lại tác động tới lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một mối quan hệ biện chứng. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy , định hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển , ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu so với tính chất và trình độ phát triển cuat lực lượng sản xuất nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ quan hệ sản xuất rằng bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối , tác động trở lại lực lượng sản xuất , qui định mục đích xã hội của sản xuất , tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ. Mối quan hệ này là sự phù hợp biện chứng không loại trừ mâu thuẫn. Khi nói đến vai trò của quan hệ sản xuất không nên tuyệt đối hoá mặt quan hệ sở hữu mà phải xem xét trong một chỉnh thể thống nhất của cả ba mặt , lúc này quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển sản xuất.
1.2.4. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất .
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt trong một phương thức sản xuất. Mà phương thức sản xuất là cách thức sản xuất của cải vật chất mà trong đó lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định , thống nhất với các quan hệ sản xuất tương ứng với nó. Do đó giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phải phù hợp với nhau để tạo nên một phương thức sản xuất hoàn chỉnh. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất , với quan hệ sản xuất này lực lượng sản xuất có đầy đủ các đIũu kiện để phát triển một cách tốt nhất , thuận lợi nhất. Để xác lập được trạng thái phù hợp trên phảI xuất phát từ yêu cầu của lực lượng sản xuất hay nói cách khác lực lượng sản xuất phải là nền tảng , cơ sở cho sự ra đời của một quan hệ sản xuất. Đây cũng là nội dung cơ bản của qui luật , đồng thời nó trả lời cho câu hỏi : “ Người ta có thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất cho mình được hay không ? ”. Người ta không thể lựa chọn một quan hệ sản xuất cho mình , lại càng không thể có một quan hệ sản xuất cho một cá nhân riêng lẻ , mà sự ra đời của quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào chính lực lượng sản xuất , đó là một tất yếu khách quan , nằm ngoài ý nguyện của con người.
Mức độ phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng cơ bản nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu lực lượng sản xuất phát triển chậm thì quan hệ sản xuất sẽ phù hợp với lực lượng sản xuất trong một thời gian khá dài , chẳng hạn như chế độ cộng sản nguyên thuỷ , chế độ nô lệ và chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm. Ngược lại , nếu lực lượng sản xuất phát triển nhanh thì quan hệ sản xuất cũ rất dễ bị thay thế bởi quan hệ sản xuất mới , phù hợp hơn , điều này thể hiện rất rõ trong chủ nghĩa tư bản.
1.2. 5. Sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng , vừa thống nhất , vừa mâu thuẫn với nhau. Trong khi lực lượng sản xuất luôn biến đổi và phát triển ( là tất yếu khách quan ) thì quan hệ sản xuất lạI có tính ổn định tương đối ( tất yếu khách quan ) , do đó giữa chúng sẽ nảy sinh mâu thuẫn và mức độ mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Tuy nhiên để có thể phá vỡ được quan hệ sản xuất cũ thì lực lượng sản xuất phải thay đổi đến điểm nút và tạI điểm nút phải tiếp tục biến đổi , tức là khi này mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là cực đạI , yêu cầu tất yếu phảI thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự mâu thuẫn này có thể do hai nguyên nhân sau:
+ Do sự phát triển của lực lượng sản xuất mà mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được phát sinh. Đây là một mâu thuẫn có tính tất yếu , nó có tính tích cực cho sự phát triển của nền sản xuất vật chất , đồng thời là nguồn gốc của sự phát triển xã hội. Một quan hệ sản xuất đã lỗi thời cần phải được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.
+ Nếu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xuất phát do ý nghĩ chủ quan của con người gây ra vì đã gán cho lực lượng sản xuất một quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất thì mâu thuẫn này không những không có tính tích cực cho sự phát triển mà trái lại là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như tiến bộ xã hội.
Nói tóm lại , qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là qui luật phổ biến , tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước ngày nay đòi hỏi chúng ta không những nắm vững qui luật mà còn phải biết vận dụng sáng tạo vào trong thực tiễn nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội , xây dựng đất nước đi lên.
1.3. Phạm trù sở hữu và mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với các hình thức sở hữu
1.3.1. Phạm trù sở hữu với tư cách là một phạm trù kinh tế.
a. Thế nào là sở hữu ?.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị. Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cảI vật chất trong xã hội. Chế độ sở hữu là sự thể chế hoá các quan hệ sở hữu thành quyền sở hữu , sử dụng, thừa kế , thế chấp , mua bán .... nó là vấn đề căn bản của một chế độ kinh tế xã hội. Chỉ trên cơ sở giảI quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giảI quyết các vấn đề động lực , lợi ích kinh tế , chính trị , pháp quyền và xã hội.
Hình thức , mức độ và phạm vi của sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kì nhất định. Sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí chủ quan của con người quyết định mà quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên.Phạm trù sở hữu có thể được nhìn nhận trên hai góc độ :
Thứ nhất , phạm trù sở hữu được coi là một phạm trù kinh tế khách quan , nó là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu tư liệu sản xuất .
Thứ hai , phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu được thông qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Sở hữu với tư cách là hình thức pháp lí , hình thức phản ánh quan hệ sở hữu khách quan vào pháp luật.
Từ đây ta có thể đưa ra định nghĩa về sở hữu như sau:
Sở hữu là một phạm trù kinh tế , phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là hình thức pháp lí , là điều kiện cần thiết của sản xuất , với sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế , mặt kết quả thực tế trong quá trình sản xuất .
b. Các hình thức sở hữu qua các chế độ xã hội.
Đối với mỗi một chế độ xã hội có một chế độ sở hữu riêng , đặc trưng cho xã hội đó. Xét cho cùng thì chế độ sở hữu của một xã hội bao giờ cũng bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Trên thực tế thì sở hữu và quyền lực luôn là bạn đồng hành , giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau. Kẻ có quyền sở hữu ( giàu có ) có thể không trực tiếp nắm quyền lực nhưng lạI gián tiếp nắm quyền lực , dùng quyền lực đó quay lạI phục vụ , bảo vệ quyền sở hữu của họ. Ngược lạI những kẻ có quyền lực trong tay dần dần nắm được quyền sở hữu , chính vì vậy mà hình thành nên một bộ phận tầng lớp “ tư nhân mới” đầy thế lực. Đặc biệt trong xã hội TBCN các nhà tư bản có thể lũng đoạn về mọi mặt đời sống xã hội , nhất là trong kinh tế bằng đồng tiền bóc lột của mình. Ưng với năm chế độ xã hội ta có năm chế độ sở hữu khác nhau:
- Chế độ sở hữu cộng sản nguyên thuỷ.
- Chế độ sở hữu chiếm hữu nô lệ.
- Chế độ sở hữu phong kiến.
- Chế độ sở hữu TBCN.
- Chế độ sở hữu XHCN.
Trong đó mỗi chế độ sở hữu lạI có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Song hình thức sở hữu cơ bản nhất là hình thức sở hữu mang lạI lợi ích nhiều nhất cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị dựa vào quyền lực trong tay duy trì và bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp mình.
1.3.2. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và sở hữu .
a. Sự hình thành , phát triển và biến đổi sở hữu về tư liệu sản xuất là một quá trình lịch sử.
Sở hữu là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất. Hình thức , mức độ , qui mô , phạm vi và tính đa dạng của sở hữu không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà là một quá trình lịch sử tự nhiên. Hay nói đúng hơn sự hình thành , phát triển và biến đổi các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất do lực lượng sản xuất tương ứng quyết định , đối với mỗi hình thức sở hữu đều được hình thành trên cơ sở là tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhất định. Suy cho cùng thì sự ra đời của các hình thức sở hữu bắt nguồn từ qui luật quan hệ sản xuất phảI phù hợp với lực lượng sản xuất , mà quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là một mối quan hệ biện chứng khách quan có tính tất yếu lịch sử.
b. Sự biến đổi của đối tượng sở hữu theo yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế tự nhiên , kinh tế hàng hoá giản đơn , đối tượng sở hữu chủ yếu được nói đến về mặt hiện vật của sở hữu ( tư liệu sản xuất ) . Ngày nay , với sự phát triển của lực lượng sản xuất , phạm trù sở hữu không chỉ giới hạn trong phạm vi tư liệu sản xuất , mặc dù nó là cơ bản , mà nó còn có sự phát triển và biểu hiện cao hơn , mới hơn và ngày càng có vai trò quan trọng đó là : sở hữu lao động , đất đai ; sở hữu khoa học công nghệ ; sở hữu lao động trí tuệ ; sở hữu công nghiệp ; sở hữu vô hình ( là uy tín của doanh nghiệp ). Đặc biệt khi khoa học kĩ thuật trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất thì sở hữu khoa học công nghệ và sở hữu lao động trí tuệ càng tỏ rõ vai trò của mình trong nền sản xuất.
c. Sự tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng và quyền quản lí.
Trong thời kì đầu quyền sở hữu và quyền quản lí , quyền sử dụng thống nhất trong một chủ sở hữu. Song cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, mà cụ thể là sự ra đời của tư bản cho vay đã làm cho hai quyền này tách rời nhau , tư bản sở hữu tách rời tư bản sử dụng. Sự ra đời của công ty cổ phần cũng làm cho quyền sở hữu tách rời quyền quản lí , hội đồng quản trị (với tư cách đại diện cho các chủ sở hữu ) , còn giám đốc thực hiện chức năng quản lí ( giữ quyền quản lí) , tuy nhiên sự tách rời này chỉ có ý nghĩa tương đối. Cả ba quyền trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó quyền sở hữu giữ vai trò quyết định , nhưng quyền quản lí và phân phối không vì thế mà mất đi giá trị vốn có của nó.
CHƯƠNG II : Phương hướng cải tạo và xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay.
2.1. Sơ lược về tình hình lực lượng sản xuất nước ta trong những năm gần đây
2.1. 1. Về tư liệu sản xuất .
Sau 15 năm đổi mới , bộ mặt của đất nước ta có rất nhiều thay đổi tích cực, rất nhiều tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng một vấn đề đặt ra là chất lượng của các tư liệu sản xuất trên và nó ở trình độ nào trên thế giới ?. Trước đây , rất nhiều máy móc của nhà nước là máy móc cũ , mua lại của nhiều nước mà chủ yếu ta mua lại của Trung Quốc , nhưng ngay cả Trung Quốc cũng mua máy móc đó từ các nước Tây Âu , sau đó bán lại cho chúng ta với giá rẻ. Hầu hết các máy móc trên có năm sản xuất vào các năm 1950 , 1960 , do đó chất lượng của nó là rất kém. Có thực trạng trên một mặt là do chúng ta thiếu vốn , một mặt do chúng ta ham rẻ mà không nhìn thấy tác hại của nó. Các máy móc trên có thể gọi là đồ cổ vì nó không có đồ để thay thế , do đó khi bị hỏng hóc thì chúng ta mới lục đục tìm kiếm và tự chế tạo ra các đồ thay thế giản đơn , còn không thì đành chịu vứt xó. Mặt khác , do có sự đầu tư không đồng bộ , các tư liệu sản xuất không tạo thành một dây chuyền sản xuất , mà là sự chắp vá của nhiều công đoạn , chính vì vậy mà năng xuất lao động rất thấp , hao phí nguyên vật liệu và đặc biệt là gây ô nhiễm môi trường.
Những năm trở lại đây , với sự giúp đỡ của nước ngoài , chúng ta đang dần đổi mới công nghệ sản xuất , thay thế các công nghệ sản xuất cũ bằng các công nghệ sản xuất mới có chất lượng ngang tầm thế giới. Đặc biệt với hình thức các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đã thu hút được sự đầu tư rất lớn , nó là nhân tố quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy mà vấn đề mở rộng các hình thức liên doanh với nước ngoài sẽ là một chiến lược quan trọng trong chủ trương đổi mới của nhà nước ta đã được đưa ra từ Đại hội VI .
2.1.2. Đội ngũ lao động.
Lực lượng sản xuất trong đó người lao động luôn đóng vai trò quyết định trong nền sản xuất xã hội. Nếu nhìn một cách tổng quan về đội ngũ tri thức nước ta , về số lượng trí thức nước ta có khoảng 930 nghìn người đã được đào tạo và tốt nghiệp từ cao đẳng trở lên trong đó có 120 nghìn thạc sĩ và tiến sĩ [ Thông tin lí luận tháng 4 năm 2000 ]. Ngoài ra phải kể đến những người tự học vươn lên ; sinh viên đang học tập và nghiên cứu tạI các trường đại học và cao đẳng khoảng 830 nghìn sv/ 120 trường ĐH và CĐ ; trí thức việt kiều có khoảng 300 nghìn người. Với số lượng lao động như vậy , trí thức nước ta chỉ chiếm 2,3% tổng số lao động , và tính trung bình thì có 13 người tốt nghiệp cử nhân/ 1000 dân ; 4 sv/ 1000 dân.
Một lực lượng lao động chiếm số lượng đông đảo là tầng lớp công nhân công nghiệp và công nhân nông nghiệp. Lực lượng lao động đông đảo là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế song cái chính là chất của lao động chứ không phải lượng của lao động , lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Lao động của nước ta chủ yếu là lao động chưa được qua đào tạo hoặc vừa đi làm vừa đi học , số lượng lao động có đào tạo chuyên môn ở nước ta còn rất ít , đặc biệt là các chuyên gia kĩ thuật , kĩ sư có tay nghề cao thì càng trở nên ít hơn.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kĩ thuật , lao động được hiểu là lao động trí tuệ chứ không đơn thuần là lao động chân tay , lao động cơ bắp. Nhu cầu về lao động trí thức sẽ ngày càng cao đi đôi với quá trình chuyển giao công nghệ , đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có đủ năng lực để làm chủ công nghệ kĩ thuật.
Chính vì vậy mà chiến lược xã hội hoá nguồn nhân lực đã được Đảng và nhà nước ta đề ra trong Đại hội VI. Nếu điều đó được thực hiện chúng ta có quyền hi vọng sẽ làm chủ toàn bộ công nghệ hiện đại nhất , không phải thuê các chuyên gia nước ngoài , đồng thời tiết kiệm rất nhiều cho ngân sách nhà nước.
2.2.Những nhận thức sai lầm về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Sau khi chiến tranh kết thúc , nước ta đi lên xây dựng XHCN , bên cạnh những mặt tích cực , chúng ta còn mắc phải rất nhiều sai lầm thiếu sót mà chủ yếu và cơ bản nhất là sai lầm trong nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trước ĐạI hội VI , nước ta duy trì một chế độ tập trung bao cấp theo mô hình của Liên Xô cũ , đây là một sai lầm rất lớn. Ơ chỗ , không thể lấy quan hệ sản xuất của nước này đem áp dụng vào nước khác , mà quan hệ sản xuất phải được hình thành trên cơ sở một lực lượng sản xuất tương ứng , nhất là lực lượng sản xuất nước ta lúc bấy giờ lại khác xa lực lượng sản xuất ở Liên Xô , có chăng là cùng một chế độ xã hội , không phải cứ cùng một chế độ xã hội thì sẽ có một quan hệ sản xuất giống nhau.
Sai lầm đó đã làm cho kinh tế nước ta chậm phát triển , mặt khác nảy sinh nạn quan liêu bao cấp , tham ô tài sản nhà nước. Chính vì duy trì một chế độ tập trung bao cấp thái quá , nền sản xuất luôn trong tình trạng trì trệ , người lao động ít quan tâm đến chất lượng sản phẩm , tốt hay không tốt nhà nước đều bao cấp nhân dân phảI dùng. Một thực tế đã xảy ra là lực lượng sản xuất ngày càng xa sút , người làm nhiều hưởng bằng người làm ít , người có tay nghề cao hưởng như người có tay nghề trung bình và kém nó là nguyên nhân tạo ra sự yếu kém của lực lượng sản xuất , hàng hoá làm ra kém chất lượng.
Từ những sai lầm trong qui luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã dẫn đến những sai lầm trong việc duy trì các chế độ sử hữu. Giai đoạn trước đây của nền kinh tế nước ta cơ bản chỉ có hai hình thức sở hữu ( sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể ) , không coi trọng sở hữu cá nhân, đồng nhất sở hữu tư nhân với sở hữu cá nhân , cho rằng sở hữu cá nhân cũng là bóc lột , là tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Chuyển sang cơ chế thị trường nhân tố tư bản tư nhân sẽ nảy sinh , sở hữu tư nhân tư bản gắn với mục tiêu lợi nhuận là động._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36133.doc