Phương hướng, các giải pháp nhằm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Thuỷ Nguyên

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế luôn được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ : “tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể, khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọ

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng, các giải pháp nhằm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Thuỷ Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, liên hiệp HTX cổ phần”. Nghị quyết lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng( khoá X) ngày 18/3/2002 cũng đã xác định: “kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt”, và “ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 5,Thành uỷ Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết 8( khóa XII) ngày 21/5/ 2002 “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Trong lĩnh vực nông nghiệp,Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố triển khai thực hiện Nghị quyết. Sở đã tham mưu đề xuất kịp thời với Uỷ ban nhân dân thành phố các cơ chế chính sách, các biện pháp để khuyến khích phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng còn nhiều yếu kém, bất cập, năng lực hạn chế, môi trường hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh dần bị thu hẹp, doanh thu thấp…Kinh tế HTX chiếm tỷ lệ thấp trong tổng sản phẩm xã hội, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, những nơi chưa có HTX nông nghiệp, chính quyền thôn phải quản lí điều hành cả dịch vụ nông nghiệp, bởi tính đặc thù trong nông nghiệp mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được và nếu có làm thì cũng sẽ không có hiệu quả. Những hạn chế, yếu kém đó tồn tại do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan đã tác động tới sự phát triển của các HTX. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém nói trên, góp phần thúc đầy sự phát triển của HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng, cụ thể là các HTX nông nghiệp ở huyện Thuỷ Nguyên, em đã chọn nghiên cứu đề tài làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, là: phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên đến năm 2015. Trong quá trình thực hiện chuyên đề này, em đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô Võ Hoà Loan và phòng chính sách nông nghiệp và nông thôn thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Phòng. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với em. Em xin chân thành cảm ơn. 2. Mục đích nghiên cứu - Nêu lên cơ sở lí luận về kinh tế tập thể và HTX như: bản chất, vai trò, đặc trưng… - Đánh giá khái quát thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên cả nước. - Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các HTX nông ngiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên. - Trên cơ sở phân tích trên, thấy rõ được các khó khăn, vướng mắc, rồi từ đó đưa ra phương hướng, các giải pháp nhằm phát triển HTX nông nghiệp ở Thuỷ Nguyên. 3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật biện chứng - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp ước lượng - Phương pháp so sánh Ngoài ra còn một số phương pháp khác 4. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng: các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên. - Phạm vi: + thời gian: từ khi có Luật HTX cũ đến nay, chủ yếu là từ 2004 đến nay. Phương hướng , mục tiêu và giải pháp đến 2015. + không gian: các huyện trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên Chương 1. Một số vấn đề lí luận 1.1. Một số vấn đề về HTX 1.1.1. Khái niệm - Theo liên minh quốc tế ( international cooperative alliance- ICA): “ HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lí dân chủ”. Năm 1995, định nghĩa này được bổ sung: “ HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX, các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”. - Ngày 20/3/1996, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật HTX. Tại điều 1, Luật khẳng định: “ HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. - Tại điều 1 Luật HTX sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI vào tháng 11 năm 2003 quy định: “ HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung , tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”. 1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp : Theo điều 2- các Nghị định của Chính phủ về HTX ,quy định: 1.1.2.1 Tự nguyện a, Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân, cán bộ, công chức Nhà nước có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định này, tán thành Điều lệ HTX và có đơn xin gia nhập hoặc xin ra HTX. Đối với xã viên của các HTX đã đăng ký và hoạt động theo Luật HTX năm 1996 được miễn trừ đơn xin ra nhập HTX, nhưng nếu xin ra HTX thì phải có đơn. b, Việc HTX tham gia liên hiệp HTX phải được Đại hội xã viên biểu quyết thông qua. 1.1.2.2. Dân chủ, bình đẳng và công khai: a, Tất cả xã viên cùng tham gia quản lý HTX thông qua biểu quyết, quyết định các vấn đề của HTX. Biểu quyết của xã viên có giá trị như nhau; b, Xã viên có quyền đề đạt và yêu cầu Ban quản trị, Ban kiểm soát giải thích và trả lời về những vấn đề xã viên quan tâm. Trường hợp không được trả lời, xã viên có quyền đưa ra Đại hội xã viên để giải quyết; c, HTX công khai tới xã viên trong Đại hội xã viên hoặc thông báo bằng văn bản định kỳ trực tiếp tới từng xã viên, nhóm xã viên cùng sinh sống theo địa bàn hoặc thông tin trên bản tin hàng ngày tại trụ sở HTX về: kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; việc trích lập các quỹ; chia lãi theo vốn góp,theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; các đóng góp xã hội; các quyền lợi, nghĩa vụ của từng xã viên, trừ những vấn đề thuộc về bí mật kinh doanh, bí quyết công nghệ sản xuất do Đại hội xã viên quy định. 1.1.2.3. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: a, HTX tự quyết định: lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh; phân phối kết quả sản xuất, kinh doanh; lập và mức trích lập các quỹ; mức tiền công, tiền lương đối với những người làm việc cho HTX; b, HTX tự lựa chọn và quyết định: hình thức, thời điểm huy động vốn; chủ động sử dụng vốn và tài sản của mình; chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện hợp đồng và chịu trách nhiệm theo pháp luật về hợp đồng đã ký kết. c, HTX tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong quá trình hoạt động. Mỗi xã viên trong HTX cùng chịu trách nhiệm về những rủi ro của HTX trong phạm vi vốn góp của mình, cùng nhau quyết định những giải pháp khắc phục rủi ro; d, Các xã viên HTX cùng hưởng lợi theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 18 Luật HTX năm 2003. 1.1.2.4. Hợp tác và phát triển cộng đồng: a, Xã viên HTX phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; b, Các HTX cùng hợp tác với nhau trong sản xuất, kinh doanh và trong xây dựng, phát triển phong trào HTX . 1.1.3. Điều lệ HTX . 1.1.3.1. Mỗi HTX có Điều lệ riêng, Điều lệ HTX phải phù hợp với các quy định của Luật HTX và các quy định khác của pháp luật. 1.1.3.2. Điều lệ HTX có các nội dung chủ yếu sau đây: a, Tên HTX, biểu tượng của HTX( nếu có); b, Địa chỉ trụ sở chính của HTX; c, Ngành, nghề, sản xuất kinh doanh; d, Các quy định về đối tượng , điều kiện, thủ tục gia nhập HTX và ra HTX của xã viên; đ, Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên; e, Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. g, Vốn điều lệ của HTX; h, Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn góp của xã viên; i, Thẩm quyền và phương thức huy động vốn; k, Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ của HTX; l, Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của HTX khi HTX đang hoạt động và khi HTX giải thể; m, Cơ cấu tổ chức quản lý HTX; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm HTX, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho HTX. n, Người đại diện theo pháp luật của HTX; o, Thể thức tiến hành đại hội và thông qua quyết định của Đại hội xã viên; p, Chế độ xử lý vi phạm Điều lệ HTX và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ; q, Thể thức sửa đổi Điều lệ HTX; r, Các quy định khác do Đại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với các quy định của pháp luật. 1.1.3.3. Khi sửa đổi Điều lệ HTX, HTX phải gửi Điều lệ có sửa đổi kèm theo biên bản của Đại hội xã viên đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho HTX. 1.1.3.4. Chính phủ ban hành Mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ HTX nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân và HTX phi nông nghiệp 1.1.4. Các loại hình HTX 1.1.4.1. HTX dịch vụ: bao gồm ba loại: - HTX dịch vụ từng khâu: có nội dung hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình sản xuất hoặc từng khâu công việc như: đầu vào, đầu ra, phòng trừ sâu bệnh… - HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng: có nội dung hoạt động đa dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất như: cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu… - HTX dịch vụ chuyên ngành: HTX này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa đặc trưng, hoặc cùng làm một nghề giống nhau( HTX trồng rừng, HTX trồng mía…) HTX thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với các cơ sở chế biến, tổ chức tín dụng… 1.1.4.2. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là các hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm như: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa. HTX loại này có đặc điểm: nội dung sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. Đây là hình thức HTX khá phổ biến ở nước ta. 1.1.4.3. HTX sản xuất- kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện: Mô hình HTX sản xuất- kinh doanh ở mức độ toàn diện, vừa trực tiếp tổ chức sản xuất kinh doanh tập trung như tổ chức các cơ sở chế biến của HTX để đảm bảo cung ứng đầu vào cho các xã viên (chế biến thức ăn gia súc, sản xuất cây giống…) hoặc đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho xã viên là chế biến và tiều thụ sản phẩm hoặc tổ chức phát triển ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp để tạo việc làm, tăng thu nhập cho xã viên và người lao động tạo ra lợi nhuận để hỗ trợ các khâu dịch vụ cho xã viên phát triển kinh tế hộ tự chủ. Đây là mô hình tổ chức HTX có hiệu quả mà nhiều nước trên thế giới đã áp dụng như: HTX sản xuất rau quả của Đài Loan, HTX chế biến rượu nho ở CHLB Đức…Đồng thời nó cũng phù hợp với điều kiện ở nhiều vùng nước ta, trước hết là đối với các vùng sản xuất hàng hóa, kinh tế đã có bước phát triển. Xây dựng HTX theo mô hình loại này sẽ tạo điều kiện để cho quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn có điều kiện hiện đại hóa sản xuất tạo ra nhiều loại hàng hóa có sức cạnh tranh cao, vừa phát huy được vai trò vị trí tự chủ của kinh tế hộ xã viên trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hóa, không hạn chế tính năng động, sáng tạo của hộ xã viên. 1.2. HTX nông nghiệp 1.2.1. Khái niệm Theo giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp- Đại học kinh tế quốc dân thì “ HTX nông nghiệp là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, là tổ chức kinh tế của những người nông dân có cùng nhu cầu và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp luật quy định, có tư cách pháp nhân”. Như vậy, HTX nông nghiệp là một loại hình HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nó mang đầy đủ các đặc trưng, loại hình, vai trò…của một HTX nói chung. Tuy nhiên, do hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên nó cũng có những tính chất, đặc điểm riêng có. 1.2.2. Vai trò của HTX nông nghiệp - HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập thể của nông dân,vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có tác động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông dân. HTX cung cấp các yếu tố đầu vào và các dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được kịp thời, đầy đủ,và đảm bảo chất lượng làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được tăng lên. - Thông qua hoạt động dịch vụ mà vai trò điều tiết của HTX nông nghiệp được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hóa như: dịch vụ làm đất, dịch vụ tưới nước…đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng về chủng loại vốn, thời vụ gieo trồng và chăm sóc. - HTX còn là nơi tiếp nhận những sự trợ giúp của nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có vai trò cầu nối giữa nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu quả.Trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân thì hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng phải phục vụ tốt hơn cho nông dân. 1.2.3. Các đặc trưng của HTX nông nghiệp Một là, HTX nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những nông hộ, trang trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. Hai là, cơ sở thành lập của các HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và quỳên làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều. Ba là, mục đích kinh doanh của HTX trước hết là làm dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đầy đủ và kịp thời về số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường. Bốn là, HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Năm là, HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn, không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năn quản lí kinh doanh. Như vậy, trong mỗi thôn, mỗi xã có thể tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó có một số nông hộ, trang trại đồng thời là lã viên của một số HTX. Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX, vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế liên kết của HTX cần phản ánh được mối quan hệ phức tạp đó. Từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của HTX là : HTX là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ và trang trại, mang tính chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh. 1.2.4. Các hình thức của HTX nông nghiệp 1.2.4.1. HTX nông nghiệp làm dịch vụ Về hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra làm dịch vụ cho nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (các HTX cung ứng vật tư, giống…); dịch vu các khâu cho sản xuất nông nghiệp (HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…); dịch vụ quá trình tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp( HTX chế biến, tiêu thụ sản phẩm…). Về thực chất, các HTX trên được tổ chức với mục đích phục vụ cho khâu sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân là chủ yếu. Vì vậy, sự ra đời của các HTX nông nghiệp làm dịch vụ hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu khách quan của sản xuất nông nghiệp, trong đó, đặc điểm của ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân chi phối một cách trực tiếp nhất. HTX dịch vụ nông nghiệp gồm: HTX dịch vụ chuyên khâu (là HTX chỉ thực hiện một chức năng dịch vụ một khâu cho sản xuất nông nghiệp như: HTX dịch vụ thuỷ nông, HTX dịch vụ điện nông thôn…) và HTX dịch vụ tổng hợp (là các HTX thực hiện các chức năng dịch vụ nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp, đôi khi cho cả đời sống). 1.2.4.2. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hoá theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nông dân tham gia vào HTX như những thành viên chính thức. Ví dụ: HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa… 1.2.4.3. HTX sản xuất nông nghiệp: HTX loại này giống như các HTX sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước khi đổi mới, nhưng mục đích nhằm tạo ra quy mô sản xuất thích hợp chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng, khai thác những ưu đãi của chính phủ đối với các doanh nghiệp lớn, khai thác những nguồn lực cần đầu tư lớn… 1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế HTX 1.3.1. Tính tất yếu khách quan Trong mỗi chuyên ngành đều có thế mạnh riêng của nó đồng thời lại không thể phát huy thế mạnh riêng nếu không có sự liên kết với các chuyên ngành khác có liên quan hoặc liên kết ở phạm vi rộng. Bởi vậy, trong nông nghiệp, dưới bất kỳ phương thức sản xuất của một hình thái kinh tế xã hội nào, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ đơn ngành cho đến đa ngành, từ đơn giản cho đến hình thức cao, xuất phát từ lợi ích kinh tế của họ. Trình độ của lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng lên và lập ra các HTX. Mọi thành viên trong HTX có quyền ngang nhau, được hưởng những thành quả trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng có trách nhiệm ngang nhau chia sẻ những rủi ro mất mát của HTX. Nội dung hoạt động của HTX rất phong phú và có quy mô thích hợp từ cấp cơ sở đến cấp khu vực, liên khu vực, cao hơn nữa là liên đoàn, tập đoàn trên phạm vi toàn quốc. Kinh tế hợp tác và HTX là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hóa; sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường càng gay gắt thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng có yêu cầu phải liên kết hợp tác với nhau, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa.. Ngày nay, nền kinh tế của hầu khắp các quốc gia đang hòa nhập vào nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn cầu. Với cơ chế này, bên cạnh những mặt tích cực thì mặt tiêu cực của nó đã làm tổn hại không nhỏ đến lợi ích của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế ở những nước này chủ yếu là nông nghiệp , gánh chịu những tổn hại đó chính là tầng lớp nông dân. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển các HTX nông nghiệp ở những nước này là đương nhiên, đó là con đường tất yếu khách quan của kinh tế hộ nông dân. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là một nhu cầu tất yếu, luôn được Đảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong thời kì đổi mới hiện nay, nó càng có vai trò quan trọng. Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất phát triển không đều, vì vậy cần phải phát triển nhiều thành phần để có quan hệ sản xuất phù hợp, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nòng cốt. Hơn n ữa, nước ta là một nước nông nghiệp, mà sản xuất nông nghiệp vốn có tính thời vụ rất lớn, phụ thuộc vào tự nhiên, thu nhập thấp…Vì vậy cần có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để giảm bớt những khó khăn đó. Kinh tế hợp tác và HTX là hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hóa, còn là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng; là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; thực hiện liên minh công nông. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. HTX giúp các xã viên phát triển sản xuất thông qua cung ứng các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, đảm bảo sản xuất đúng thời vụ. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề xã hội, sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm… Chương 2. Thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên (giai đoạn 2002- 2006). 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của huyện Thủy Nguyên 2.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên Thủy Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây Nam giáp huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu; Địa hình Thủy Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông ngòi dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thủy Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản và du lịch. - Vị trí địa lí: nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng - Diện tích tự nhiên: 242km2 - Dân số: 29 vạn người -Đơn vị hành chính: 34 xã, 2 thị trấn, trong đó có 6 xã miền núi - Khí hậu:huyện Thủy Nguyên nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á, sát biển Đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa. 2.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội - Kinh tế: Trở về Thủy Nguyên, không chỉ với những con người xa quê lâu ngày mà ngay cả chính những người dân nơi đây cũng cảm thấy ngỡ ngàng trước sự đổi thay, phát triển nhanh chóng của vùng đất này. Nhiều công trình dân dụng mọc lên san sát, đường xá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Một chiếc áo với những gam màu mới đang khoác lên mình huyện Thủy Nguyên, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị của thành phố Cảng trong tương lai không xa theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020. Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thủy Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa bước đầu đã thu được những thành quả tốt đẹp. Trong giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 49% xuống 40%, công nghiệp xây dựng tăng từ 15% lên 30%, ngành dịch vụ cũng được điều chỉnh hợp lí hơn. Nhờ đó, năm 2005, tổng giá trị các ngành sản xuất và dịch vụ đạt 701,1 tỷ đồng, tăng 15,6% so với năm 2004, trong đó ngành nông nghiệp tăng 5,1%, ngành công nghiệp- xây dựng tăng 27%, ngành dịch vụ tăng 23%. Trong nông nghiệp, diện tích cây lúa năng suất thấp giảm dần, một phần chuyển sang nuôi trồng thủy sản, thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng tăng diện tích cây lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%, đạt năng suất lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm bảo diện tích trên 2000 ha rau màu, trong đó diện tích rau đạt 1.320 ha với sản lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm dần, nhưng do tích cực đưa giống cây trồng,vật nuôi có năng suất,chất lượng cao vào sản xuất, giá trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2005 tăng 24% so với năm 2002. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn gia cầm tăng theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Trong năm 2005, huyện đã đưa vào sử dụng 21 trang trại gà, quy mô 3000 con/ trang trại; 3 trang trại nuôi lợn nái ngoại, quy mô 25-30 con/ trang trại. Các trang trại tập trung chủ yếu ở một số xã Lưu Kiếm, Lại Xuân và Minh Tân. Bên cạnh chăn nuôi, huyện đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản, lập các dự án nuôi tập trung theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp. Diện tích nuôi trông duy trì ở mức 2.450 ha, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú, cua bể, cá chim trắng với sản lượng đạt 4.800 tấn/năm. Hoạt động khai thác thủy sản phát triển, năm 2005, huyện Thủy Nguyên đóng mới gần 100 tầu đánh cá, nâng tổng số phương tiện đánh bắt lên 1.400 chiếc, trong đó có 450 phương tiện đánh bắt xa bờ, sản lượng khai thác thủy sản đạt 5.800 tấn. Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp- xây dựng và dịch vụ, tổng giá trị sản xuất đạt 287 tỷ đồng. Hiện nay trên địa bàn huyện có hơn 20 xí nghiệp, nhà máy, hàng trăm cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động đã tạo lập môi trường sản xuất- kinh doanh sôi động, cạnh tranh lành mạnh, góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp- xây dựng trên địa bàn huyện. Trong đó, nếu năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp- xây dựng chỉ đạt 54,1 tỷ đồng thì năm 2005, con số này đã tăng lên 182 tỷ đồng, gấp gần 3,4 lần so với năm 2002. Sản lượng một số sản phẩm truyền thống của ngành công nghiệp đều tăng, trong đó đá các loại đạt 450.000m3, tăng 9%; đúc kim loại đạt 10.500 tấn, tằng 27,5%, vôi củ đạt 44.000 tấn, tăng 10% so với năm 2004. Cùng với những thành tựu đạt được, Thủy Nguyên còn đón nhận nhiều dự án lớn đang được đầu tư trên địa bàn như: tuyến quốc lộ 10 từ Bến Kiền, Đá Bạc sang Quảng Ninh; nhà máy nhiệt điện 600MW( xã Tam Hưng ), nhà máy xi măng Hải Phòng( thị trấn Minh Đức ); mở rộng công ty công nghiệp Tầu thủy Nam Triệu…Đây sẽ là những nền tảng cơ bản cho sự phát triển của Thủy Nguyên trong tương lai. Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thủy Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại, và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá , Hang Lương, Hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh…và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc. - Văn hóa- xã hội: Có thể nói, bức tranh kinh tế Thủy Nguyên trong giai đoạn gần đây đã có uhững gam màu sáng, hoạt động kinh tế sôi động hơn đã mang lại hơi thở mới cho cuộc sống của người dân nơi đây. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Thủy Nguyên được cải thiện rõ rệt nhờ các biện pháp chăm lo đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển văn hóa- giáo dục. Trong đó, lĩnh vực văn hóa- xã hội của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thực hiện phương châm “ giáo dục là quốc sách hàng đầu”, hàng năm, tỷ lệ học sinh đến lớp ở các bậc học đạt cao. Năm 2001, huyện đã được Bộ giáo dục- đào tạo công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2005-2006, toàn huyện có 245 học sinh doạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố, trong đó có 13 giải nhất, 54 giải nhì, 71 giải ba. Để đạt được những kết quả trên, đội ngũ giáo viên các cấp trong huyện luôn được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tính đến nay, toàn huyện có 95% giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm trở lên, tỷ lệ giáo viên giỏi đạt trên 30%. Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sĩ về cơ sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy ở các lớp học tình thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hòa nhập cộng đồng. Các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng phát triển mạnh mẽ. Công tác xã hội hóa thể thao được đẩy mạnh từ cấp huyện đến cơ sở, góp phần rèn luyện sức khỏe cho nhân dân. Các môn bơi, lặn, bóng đá thiếu niên, nhi đồng, điền kinh trong sân đều đạt thành tích cao. Các năm gần đây, Thủy Nguyên luôn được công nhận là đơn vị lá cờ đầu về phong trào thể dục- thể thao của thành phố Về xây dựng cơ bản, huyện chỉ đạo các ngành thực hiện xong quy hoạch chi tiết thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức, khu đô thị Bắc Sông Cấm và lập dự án khai thác tài nguyên hồ Sông Gía. Ngoài ra, huyện còn tiến hành xây dựng 2 nhà máy nước loại nhỏ ở xã Tân Dương, Lập Lễ, hệ thống cấp nước ở Lại Xuân, xây dựng 60 bể xử lý chất thải chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường. Tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005 đạt 50,5 tỷ đồng. Hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải tỏa hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường xá. Năm 2005, huyện đã tiến hành cải tạo, nâng cấp 30 km đường, trong đó có 4,6 km đường huyện quản lý và 25,4 km đường liên thôn, xóm, xã. Đến nay, huyện Thủy Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các xã,thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bên cạnh đó, ngành Bưu điện Thủy Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc. Trang thiết bị được đầu tư mới khá hiện đại, số lượng máy._. mới được lắp đặt tăng nhanh, đạt 2,86/ 100 dân. Có được sự phát triển như ngày hôm nay, huyện Thủy Nguyên luôn nhớ ơn những người con hy sinih bảo vệ Tổ quốc. Hướng về truyền thống uống nước nhớ nguồn, Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên luôn chăm lo đời sống các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; duy trì và đẩy mạnh các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng quỹ nhân đạo ở khắp các cơ quan, đơn vị trong toàn huyện với số tiền ủng hộ quỹ trên 1 tỷ đồng. Đây là một nghĩa cử cao đẹp cần được duy trì và phát huy có hiệu quả ở các xã trong toàn huyện. Thủy Nguyên- khởi nguồn của dựng xây, của những tín hiệu mới đang ngày một khởi sắc. Mảnh đất này, chẳng bao lâu nữa, sẽ trở thành một trung tâm đô thị hành chính của thành phố Cảng. Trong thời gian tới,khi quy hoạch của thành phố được triển khai, Thủy Nguyên sẽ hứa hẹn nhiều điều bất ngờ, đột phá trong tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa- xã hội. 2.2. Thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn 2.2.1. Về số lượng 2.2.1.1. V ề số lượng HTX Biểu 2.1 .Phân loại HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên Đơn vị: HTX STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 Tổng số HTX 41 41 41 2 Số HTX có báo cáo 38 38 38 3 Phân loại HTX - Loại khá 14 15 15 - Loại trung bình 16 15 15 - Loại kém 11 11 11 Nguồn: Sở NN& PTNT Hải Phòng Huyện Thủy Nguyên có tổng cộng 41 HTX nông nghiệp thành lập mới theo Luật HTX trên nền của các HTX đã được chuyển đổi nên tình trạng xã viên cả làng như HTX cũ không còn. Những năm gần đây số lượng HTX không thay đổi. Tuy nhiên số HTX làm ăn có hiệu quả lại không nhiều, đa số vẫn là các HTX làm ăn trung bình và kém, tồn tại chỉ là mặt hình thức, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường.Qua nhiều năm, số HTX làm ăn đạt hiệu quả vẫn không tăng nhiều. Năm 2004 có số HTX nông nghiệp làm ăn khá là 14, số HTX làm ăn trung bình và kém là 27. Năm 2005 và 2006 đều có số HTX nông nghiệp làm ăn khá là 15 và số HTX trung bình và yếu là 26. ( số HTX làm ăn khá chỉ tăng 1 và số HTX làm ăn yếu kém giảm 1.) Quy mô đất đai Đất đai của HTX nông nghiệp huyện nhìn chung còn nhỏ hẹp, phân tán, sử dụng kém hiệu quả, một phần bị thu hồi cho các dự án phát triển, đất cho HTX xây dựng cơ sở làm việc cũng bị hạn chế. Nhiều HTX không có đất để xây dựng trụ sở làm việc, có HTX lại không có đủ đất để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ( trong tổng số 41 HTX mới chỉ có 22 HTX có trụ sở làm việc). Điều này gây khó khăn, cản trở rất lớn cho quá trình phát triển của HTX. 2.2.1.3. Số lượng xã viên Biểu 2.2 . Số lượng xã viên trên địa bàn huyện Thủy Nguyên Năm Đơn vị 2003 2004 2005 2006 Tổng số HTX HTX 41 41 41 41 Tổng số xã viên Người 9344 9395 9395 9400 Bình quân Người 228 229 229 229 Nguồn: Cục thống kê Hải Phòng. Hầu hết các xã của huyện đều có các HTX nông nghiệp hoạt động trên địa bàn, thu hút số lượng xã viên khá lớn. Bình quân một HTX nông nghiệp mỗi năm có 229 xã viên.Trong đó các HTX nông nghiệp có số lượng xã viên nhiều nhất là HTX Lại Xuân, HTX Lập Lễ. Số lượng xã viên HTX nông nghiệp cho thấy vai trò to lớn của các HTX nông nghiệp hiện nay. Hoạt động chủ yếu của các HTX là các khâu dịch vụ cho kinh tế hộ xã viên và bà con nông dân, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của bà con xã viên và các hộ nông dân. Số lượng xã viên cao hơn qua các năm đã đánh dấu bước phát triển mới của HTX nông nghiệp, chứng tỏ HTX nông nghiệp đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của xã viên và mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, so với tổng dân số và tiềm lực của huyện thì số lượng xã viên như vậy còn thấp, một phần cũng là do người dân chưa có nhu cầu hợp tác, còn thiếu các thông tin kinh tế. Mặt khác nội dung hoạt động dịch vụ và sản xuất kinh doanh của các HTX còn bó hẹp ở số lượng và quy mô nên nhu cầu kết nạp xã viên thấp. 2.2.2. Về chất lượng 2.2.2.1. Về vốn Biểu 2.3. Bảng tổng hợp vốn, tài sản cố định của HTX trên địa bàn Đơn vị: 1000 đ Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số HTX báo cáo 38 38 38 Tổng vốn lưu động 3.645.382 5.273.937,6 4.926.847,78 Tổng giá trị TSCĐ 36.841.022 41.981.643,8 44.781.955,661 Vốn thanh toán -Nợ phải thu+ tạm ứng 9.061.499 10.721.305,3 9.107.160,198 -Nợ phải trả 4.581.953 5.505.131,9 3.415.677,529 Nguồn: Phòng NN& PTNT huyện Thủy Nguyên Đến năm 2004, qua số liệu HTX báo cáo, tổng giá trị tài sản cố định của các HTX là 36.841,022 triệu đồng, trung bình một HTX nông nghiệp có 969,5 triệu đồng,năm 2005 là 41.981,643 triệu đồng, bình quân một HTX có 1104,8 triệu đồng( tăng 135,3 triệu đồng so với năm 2004). Năm 2006, là 44.781,96 triệu đồng, bình quân một HTX có 1178,4 triệu đồng( tăng 73,6 triệu đồng so với năm 2005).Tài sản cố định tăng lên là do các HTX đã chú trọng đầu tư thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng như: trậm bơm, máy biến thế… Nhìn chung thì các HTX quy mô xã thường có số vốn lớn hơn các HTX quy mô thôn và liên thôn. Tuy nhiên,vốn cố định chiếm tỷ lệ cao lại có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của HTX. HTX sẽ phải vay vốn các tổ chức để tiến hành san xuất kinh doanh, dịch vụ, gây khó khăn cho quá trình hoạt động. Vê vốn lưu động, năm 2004 tổng vốn lưu động là 3.645,382 triệu đồng, năm 2005 là 5.273,937 triệu đồng, năm 2006 là 4.926,848 triệu đồng. Vốn lưu động năm 2006 tăng 35% so với năm 2004 nhưng lại giảm 6,6% so với năm 2005, điều đó cho thấy các HTX nông nghiệp trên địa bàn vẫn đang gặp khó khăn về tài chính trong quá trình hoạt động. Về vốn thanh toán, năm 2004, tổng số nợ phải thu và tạm ứng của các HTX là 9.061,499 triệu đồng, nợ phải trả là 4.581.9 triệu đồng. Năm 2005, nợ phải thu và tạm ứng là 10.721,3 triệu đồng, nợ phải trả là 5.505,1 triệu đồng. Năm 2006, con số tương ứng là 9.107,16 triệu đồng và 3.415,677 triệu đồng. Qua đó ta thấy nợ phải thu và nợ phải trả có phần giảm. Công tác theo dõi và quản lí vốn, tài sản, công nợ của HTX đã được chú ý chặt chẽ hơn, nói chung thì hiện tượng thất thoát vốn đã giảm, một số HTX làm ăn có lãi và tăng thêm vốn. 2.2.2.2. Về trình độ tổ chức, trình độ quản lí Trong tổng số HTX nông nghiệp của huyện, có29 HTX hoạt động quy mô toàn xã và 12HTX hoạt động quy mô thôn, không có HTX hoạt động quy mô liên thôn và quy mô liên xã. Nhìn chung, sau khi chuyển đổi HTX theo Luật HTX , bộ máy tổ chức của HTX đã được tinh giảm gọn nhẹ, phù hợp hơn với điều kiện của HTX. Đại hội đại biểu xã viên bầu ra ban chủ nhiệm, thành viên ban quản trị, ban kiểm soát. Ban quản trị bầu ra kế toán trưởng và phó chủ nhiệm. Đối với HTX quy mô nhỏ, ban quản trị HTX phổ biến có 3 người( chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán ), HTX quy mô lớn( toàn xã ) thì có chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát, thường có nhiệm kì không quá 5 năm, tùy theo quy định do đại hội xã viên đề ra( thường là 3 năm). Việc tinh giảm cán bộ đã góp phần giảm chi phí quản lý và tăng cường tính năng động của cán bộ HTX. Hầu hết các HTX đều có tổ dịch vụ. Các HTX có số lượng xã viên lớn có tổ chức các đội xã viên. Việc phân công lao động trong HTX nông nghiệp cũng đã khoa học hơn, một người có thể kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, trợ giúp nhau khi cần thiết để đảm bảo sản xuất kinh doanh, dịch vụ đạt kết quả tốt. Trong HTX nông nghiệp, những lao động trực tiếp thường không yêu cầu phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ văn hóa. Chỉ có các lao động gián tiếp là cán bộ quản lí cần đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nhất định. Đội ngũ cán bộ này điều hành hoạt động trong HTX, do đó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động của HTX. Biểu 2.4. Tổng hợp trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn một số cán bộ HTX năm 2005 Chỉ tiêu Chủ nhiệm Phó chủ nhiệm Kế toán trưởng Trưởng ban kiểm soát Số người % Số người % Số người % Số người % I. Trình độ văn hóa 41 44 41 41 Cấp I Cấp II 13 31,7 20 45,5 6 14,6 20 48,8 Cấp III 28 68,3 24 54,5 35 85,4 21 51,2 II. Trình độ chuyên môn ĐH, CĐ 4 9,7 3 6,8 10 24,4 4 9,7 Trung cấp 8 19,6 7 16 20 48,8 3 7,3 Chưa qua đào tạo 29 70,7 34 73,2 11 26,8 34 83 Nguồn: Sở NN & PTNT Hải Phòng Theo biểu ta thấy: Trong tổng số 41 chủ nhiệm HTX, có 13 người có trình độ văn hóa cấp II ( chiếm tỷ lệ.31,7%), 28 người có trình độ văn hóa cấp III(chiếm tỉ lệ.68,3%), không còn ai có tình trạng văn hóa cấp I. Số người có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 4 người, trung cấp là 8 người, tức là chỉ có 12 người có bằng cấp, còn tới 29 người chưa qua đào tạo, chiếm tỉ lệ là.70,7%. Trong số 44 phó chủ nhiệm, có 20 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm tỉ lệ 45,5%), 24 người có trình độ văn hóa cấp III( chiếm 54,5%), không có tình trạng văn hóa cấp I. Số người có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 3 người, trình độ trung cấp là 7 người, còn tới 34 người là chưa qua đào tạo( chiếm 77,3%). Trong số 41 kế toán trưởng, có 6 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm tỉ lệ 14,6%), 35 người có trình độ văn hóa cấp III( chiếm 85,4 %). Số có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 10 người, trình độ trung cấp là 20 người, còn 11 người là chưa qua đào tạo( chiếm tỷ lệ 26,8%). Trong số 41 trưởng ban kiểm soát, có 20 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm 48,8 %), 21 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm 51,2%). Số có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 4 người, trung cấp là 3 người, còn 34 người là chưa có bằng cấp( chiếm 82,9%). Hầu hết các cán bộ HTX nông nghiệp đều có xuất thân tại địa phương, gắn bó với nông nghiệp, đã có kinh nghiệm nhiều năm công tác nên được tín nhiệm cao. Qua kết quả trên ta thấy trình độ cán bộ quản lí HTX nông nghiệp ở huyện Thủy Nguyên là rất đáng báo động. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ còn rất thấp: trình độ đại học, cao đẳng quá ít, trình độ trung cấp tuy có khả quan hơn nhưng so với tổng số cán bộ thì vẫn còn rất nhỏ. Kết quả này một phần là do công tác đào tạo chưa đúng hướng, một phần do thành phố và nhà nước chưa có chế độ đãi ngộ thỏa đáng với HTX nên không thu hút được những người có trình độ cao, vì những người có trình độ thường muốn sang hoạt động bên xã hơn, họ không gắn bó với HTX do chế độ tiền công còn quá thấp, chế độ bảo hiểm lai chưa được quan tâm… 2.2.2.3. Về ứng dụng khoa học công nghệ Các HTX nông nghiệp đã huy động được tiền vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiếp thu ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kĩ thuật thâm canh cây trồng, con vật nuôi giúp kinh tế hộ phát triển, góp phần vào thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ tổng hợp; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh. Các HTX đã tập trung tổ chức xây dựng cứng hóa kênh mương với kinh phí từ 3 nguồn: ngân sách nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp và một phần vốn đầu tư của HTX; HTX đã vươn ra xây dựng lắp đặt hệ thống nhà máy nước sạch phục vụ nhân dân trong vùng( HTX Phục Lễ ), một số HTX mua sắm máy kéo loại trung về dịch vụ làm đất: nhiều HTX đã duy tu bảo dưỡng trạm bơm nước, hệ thống mạng lưới điện phục vụ cho sản xuất và điện sinh hoạt. Một số HTX đã mở mang ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng có cơ khoán mới cởi mở để các nhà đầu tư đưa máy móc, thiết bị khai thác vật liệu xây dựng có hiệu quả như HTX Minh Đức, HTX Lại Sơn, HTX An Sơn. Các HTX mạnh dạn mua sắm một số trang thiết bị phục vụ sản xuất như hệ thống tưới phun nước theo công nghệ mới để tưới cho trên 150 ha canh tác ở vùng trồng rau và trồng hoa, cây cảnh. Các HTX tham gia cùng chính quyền cơ sở thực hiện quy hoạch phân vùng sản xuất, tổ chức “dồn điền, đổi thửa”, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và thông qua hoạt động các khâu dịch vụ nông nghiệp của HTX mà HTX đã thống nhất được kế hoạch sản xuất với xã viên, chỉ đạo và gieo trồng đúng thời vụ. Hầu hết các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện tổ chức công tác khuyến nông và dịch vụ khoa học kĩ thuật cho nông dân. Tổ chức đưa tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất cho xã viên và nông hộ. Tuy nhiên, một số HTX có quy mô nhỏ, làm ăn thua lỗ và không có vốn để kinh doanh không có điều kiện để áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý, điều này lại càng làm cho họ thua kém hơn các HTX khác trong quá trinh phát triển. 2.2.2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX có báo cáo tài chính cho thấy tuy số lượng HTX báo cáo không thay đổi nhưng tổng doanh thu của các HTX năm sau đều cao hơn năm trước. Trong tổng số 38 HTX báo cáo năm 2006, có 13 HTX có dịch vụ điện (chiếm 34,2 %), 12 HTX có dịch vụ thủy nông( chiếm 31,6 %), 38 HTX có dịch vụ tưới tiêu( chiếm 100 %), 36 HTX có dịch vụ điện( chiếm 94,7% ), 6 HTX có dịch vụ ngành nghề( chiếm 15,8 %) và 2 HTX có dịch vụ vật tư và giống khác( chiếm 5 %). Nhờ mở thêm dịch vụ nên hầu hết các HTX đều có lãi. Biểu 2.5 B ảng tổng hợp doanh thu, lỗ- lãi của các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 Tổng số HTX HTX 41 41 41 41 Số HTX có báo cáo HTX 38 38 38 38 Tổng doanh thu Tr. đồng 44.578 52.087 63.801 67.053 Bình quân doanh thu/HTX Tr. đồng 1.173 1.370,7 1.678,9 1.764,5 Tổng lãi Tr. đồng 1.387 2.698 4.062 3.541 Số HTX có lãi HTX 38 38 36 36 Số HTX lỗ HTX 2 2 Bình quân lãi/ HTX Tr. đồng 46,2 71,02 106,89 93,18 Nguồn: Sở NN& PTNT Hải Phòng Theo biểu ta thấy: doanh thu bình quân / HTX tăng dần qua các năm. Năm 2004 là 1.370,7 triệu đồng, năm 2005 là 1.678,9 triệu đồng ( tăng .22 % so 2004), năm 2006 là 1.764,5 ( tăng 28,7% so 2004). Năm 2006, đạt doanh thu lớn nhất là HTX Lại Xuân.Các HTX đạt doanh thu cao chủ yếu là các HTX kinh doanh nhiều ngành nghề như HTX Lại Xuân, có cả dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ điện và dịch vụ ngành nghề. Số HTX có lãi các năm gần đây có chiều hướng giảm đi. Năm 2006, có 2 HTX làm ăn thua lỗ.Bình quân lãi/ HTX tăng nhanh trong các năm 2004 và 2005, năm 2006,con số lại giảm đi. Năm 2004 là 71,02 triệu đồng, năm 2005 là 106,89 triệu đồng( tăng 35,87 triệu đồng so với năm 2004), năm 2006 là 93.18 triệu đồng( tăng 22,16 triệu so với năm 2004 nhưng lại giảm 13,71 triệu so với năm 2005). Năm 2005 và năm 2006 đều có 2 HTX làm ăn thua lỗ là HTX Hoàng Fa (-0,5 triệu đồng) và HTX Tuy Lạc(-88,2 triệu đồng). Đây là vấn đề đặt ra cho HTX cũng như các cấp lãnh đạo địa phương. Thời gian tới cần phải quan tâm, tạo điều kiện cho các HTX làm ăn, tránh tình trạng HTX bị thua lỗ, vì như HTX Tuy Lạc, mức lỗ quá nhiều. Đa số các HTX nông nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp với cơ sở vật chất kĩ thuật( kênh mương, hệ thống điện) sẵn có, không tiến hành các họat động chế biến sản xuất theo phương thức công nghiệp nên không có các dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị. Nhiều HTX đang tích cực mở rộng sang các ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp ( nước sạch, vệ sinh môi trường…). Tuy nhiên, để thực hiện được, cần có sự quan tâm của lãnh đạo địa phuơng( một số xã giao HTX nông nghiệp quản lí, khai thác hệ thống nước sạch nhưng một số xã khác laị giao Ban quản lí nước sạch của xã quản lí, do đó còn nhiều khó khăn. Trên địa bàn đã xuất hiện một vài HTX hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ đạt hiệu quả kinh tế cao, có điều kiện thực hiện phân phối lãi theo mức độ sử dụng dịch vụ và mức góp vốn cho xã viên, điển hình là HTX Lại Xuân: năm 2004, doanh thu đạt8,26 tỷ đồng, trích lập quỹ và phân phối lãi 448 triệu đồng; năm 2005, doanh thu đạt 14,6 tỷ đồng, trích lập quỹ và phân phối lãi 886 triệu đồng. Mặc dù công tác tài chính kế toán của HTX còn nhiều yếu kém, khấu hao chưa đảm bảo nhưng kết quả trên đã biểu hiện sự phát triển của các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện trong thời gian qua. Nhờ đó vốn quỹ, tài sản của HTX nông nghiệp cũng được củng cố, thu nhập của bà con xã viên cũng được cải thiện hơn so với trước kia. Các HTX nông nghiệp huyện Thủy Nguyên có được kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ trên, có rất nhiều nguyên nhân, song chủ yếu vẫn là do sự quan tâm của Đảng và chính quyền địa phương đối với HTX, nhất là việc xây dựng đơn giá dịch vụ sản xuất nông nghiệp ở các khâu đầu vào đảm bảo hơn so với các huyện khác trong thành phố; cộng với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, xã hội của các HTX trong huyện, nên nhiều HTX đã vươn ra sản xuất kinh doanh tổng hợp, nhất là sản xuất vật liệu xây dựng đá- vôi, dịch vụ điện năng, dịch vụ nước sạch hệ tập trung và dịch vụ tiêu thụ hàng hóa nông sản thông qua hợp đồng( thực hiện quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ … * Về liên doanh, liên kết: Các HTX nông nghiệp đã thực hiện liên kết với chi nhánh điện các huyện và các công ty khai thác công trình thủy lợi để phục vụ hộ nông dân và nhân dân trên địa bàn huyện, với tư cách là đối tác trung gian. Trong các hoạt động này, vai trò của các HTX là rất quan trọng. Các HTX mua điện nước từ các đơn vị này và bán lẻ cho các hộ. Các HTX nông nghiệp có đặc trưng là HTX do chính các xã viên làm chủ( những người trực tiếp hưởng thụ). Do đó khi HTX nông nghiệp phát huy tốt vai trò của mình thì người nông dân và nhân dân trên địa bàn huyện đều được hưởng lợi. Một số HTX nông nghiệp cũng có quan hệ với các doanh nghiệp khác trong ngành để từ đó hỗ trợ nông dân mua các loại vật tư nông nghiệp ( giống, phân bón). Số lượng các HTX có dịch vụ đầu ra tiêu thụ nông sản cũng đang tăng lên. Ngoài ra, các HTX nông nghiệp còn liên kết với các tổ chức khác trong đó có các đơn vị nhà nước( các đơn vị sự nghiệp có thu, các cơ quan quản lí nhà nước chuyên ngành) như trung tâm khuyến nông, chi cục thú y, chi cục bảo vệ thực vật…Thông qua mối quan hệ này, các HTX nông nghiệp phục vụ được cho hộ nông dân các dịch vụ thú y, dịch vụ bảo vệ thực vật…và giúp nông dân cập nhập kịp thời những giống cây, con mới có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, những mối quan hệ này lại không nhiều. Kết quả thực hiện dịch vụ Doanh thu và lợi nhuận của các HTX nông nghiệp huyện Thủy Nguyên không được ổn định cho lắm. Năm 2004, lãi từ các hoạt động dịch vụ là 2.698.941,9 nghìn đồng, năm 2005 là 4.062.041 nghìn đồng( tăng 1.5 lần so với năm 2004), năm 2006 là 3.541.418,834 nghìn đồng( tăng 31% so với năm 2004 nhưng lại giảm 13% so với năm 2005). Nguyên nhân là do 2 có 2 HTX làm ăn thua lỗ và các đa số các HTX đều có doanh thu và lợi nhuận giảm. Đây là vấn đề bức thiết mà chính quyền huyện và các xã cần có kế hoạch nghiên cứu và đưa ra giải pháp khắc phục nhanh chóng.( bi ểu) Biểu 2.6. Tổng hợp kết quả thực hiện dịch vụ của các HTX nông nghiệp huyện Thủy Nguyên(đơn vị: nghìn đồng) 2006 Lãi 1.549.866,62 1.145.388 597.488,402 248.675,807 3.541.418,834 Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Thủy Nguyên Chi 31.191.696,08 17.987.340 8.236.135,742 6.097.096,284 63.512.268,11 Thu 32.741.562,7 19.132.728 8.833.624,144 6.345.772,091 67.053.386,94 2005 Lãi 1.400.506 1.145.388 399.830 1.116.290 4.062.014 Chi 30.742.344 17.987.340 8.823.266 2.186.510 59.739.460 Thu 32.142.850 19.132.728 9.223.096 3.302.800 63.801.474 2004 Lãi 1.089.313,9 796.219,7 362.672,3 450.736 2.698.941,9 Chi 25.951.925 14.280.976,6 8.102.037,3 1.053.104,4 49.348.079,3 Thu 27.041.238,9 15.077.196,3 8.464.745,6 1.503.840,4 52.087.024,2 Năm Chỉ tiêu Điện Ngành nghề Thủy nông Vật tư & giống khác Tổng hợp 2.2.3. Kết quả thực hiện một số chính sách về hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX nông nghiệp của địa phương. Trong khi chờ các Bộ, Ngành thể chế một số cơ chế, chính sách phát triển HTX , Hải Phòng và cụ thể là Thủy Nguyên đã xây dựng được một số cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế HTX nông nghiệp song còn ở mức độ khiêm tốn như: chính sách hỗ trợ tài chính cho các HTX nông nghiệp làm công tác khuyến nông: hàng năm Uỷ ban nhân dân xã trích 50% nguồn thu trên quỹ đất công ích chuyển cho HTX làm công tác khuyến nông. Chính quyền xã hỗ trợ cho các HTX nông nghiệp bình quân hàng năm là 30 triệu đồng đối với các HTX có quy mô toàn xã, xấp xỉ 10 triệu đồng đ ối với HTX quy mô thôn. Hỗ trợ 100% lãi suất tín dụng cho công ty vật tư nông nghiệp thành phố để ứng trước phân bón cho các HTX nông nghiệp làm dịch vụ với các hộ nông dân theo phương thức thanh toán trả chậm( giao phân bón từ đầu vụ đến cuối vụ thu hoạch mới thu tiền của nông dân). Chương trình kiên cố hóa kênh mương sau trạm bơm: hầu hết các HTX được giao tổ chức thực hiện công trình kiên cố hóa kênh mương sau trạm bơm, các hộ nông dân đóng góp 30%, công trình hoàn thành được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70%, nhiều HTX còn trích quỹ để đầu thêm cho công trình kênh mương. Hàng năm ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí cho các cán bộ chủ chốt các HTX ( chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát) tham gia học các lớp tập huấn ngắn ngày về các văn bản pháp luật về HTX và các lớp nâng cao năng lực quản lí HTX . 2.2.4. Nhận xét, đánh giá kết quả kinh tế HTX 2.2.4.1. Thuận lợi Sau khi thực hiện Luật HTX , bộ máy quản lí HTX nông nghiệp tinh giản, gọn nhẹ phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX theo chức năng nhiệm vụ mới. HTX đã dần đáp ứng được yêu cầu sản xuất và tiêu thụ nông sản của xã viên và các nông hộ. Nhiều HTX từ hoạt động dịch vụ ở một số khâu đầu vào của quá trình sản xuất đã vươn ra dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp, đồng thời thực hiện liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp, làm cầu nối đến nông dân, thực hiện quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. HTX đã bước đầu thể hiện vai trò quan trọng trong tiếp thu, hướng dẫn chuyển giao tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, ngành nghề nông thôn; góp phần xóa đói giảm nghèo, giữ gìn trật tự an ninh và đẩy nhanh tiến độ thực hiện CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn; kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX đã khắc phục một bươc quan trọng tình trạng thua lỗ kéo dài trước đây, một số HTX có lãi cao thực hiện phân phối theo cổ phần và có tích lũy để đầu tư phát triển sản xuất; cùng với chính quyền xã xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là hệ thống điện, thủy lợi, giao thông nông thôn, quyền lợi của đội ngũ cán bộ được gắn với kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX. Một số chính sách của địa phương trong thời gian qua đã góp phần giảm bớt khó khăn, thúc đẩy HTX trên địa bàn huyện và thành phố phát triển. 2.2.4.2. Một số tồn tại, khó khăn - Năng lực quản lí kinh tế, điều hành dịch vụ, sản xuất kinh doanh còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi phát triển HTX trong nền kinh tế thị trường. Do tỷ lệ cán bộ qua đào tạo quá thấp, không những thế, cán bộ quản lí HTX không an tâm công tác, những cán bộ có năng lực đều muốn sang công tác khối xã vì công tác HTX tiền công thấp, chính sách của nhà nước về HTX còn đang bất cập. Do vậy, trong thời gian qua, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chủ chốt HTX tăng lên không đáng kể. - Tiền công và BHXH bắt buộc của cán bộ quản lí gặp khó khăn: Doanh thu hàng năm của các HTX thấp nên tiền công tiền công của cán bộ quản lí HTX cũng thấp tương ứng. Qua kiểm tra, nhiều chủ nhiệm HTX quy mô toàn xã tiền công chỉ đạt 350.000 đến 700.000 đồng/ tháng, nhiều HTX quy mô thôn tiền công là 250.000 đến 300.000 đồng/ tháng. Do kết quả doanh thu thấp nên vốn quỹ của HTX nhỏ, một trong những nguyên nhân bởi đơn giá dịch vụ thấp, không tính đúng, tính đủ giá thành, đồng thời do tình hình giá cả thị trường biến động qua nhiều giai đoạn mà bao nhiêu năm nay đơn giá dịch vụ không được điều chỉnh lại; nhiều HTX nếu đóng BHXH cho cán bộ và người lao động 17% mức tiền công hàng tháng tùy theo từng đối tượng, hạch toán vào giá thành thì không chịu nổi (bị thua lỗ). Việc thực hiện Nghị định số 01/2003/ NĐ- CP ngày 9/1/2003 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/2005 của chính phủ; Thông tư số 07/2003/TT- BLĐTBXH 12/3/2003 và công văn số 2799/ BLĐTBXH- BHXH về việc thu BHXH đối với xã viên và người lao động trong HTX; Liên ngành Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và BHXH thành phố Hải Phòng đã có công văn liên ngành số 605/ CV-LN ngày 22/11/2005 về việc hướng dẫn thực hiện thu BHXH bắt buộc đối với xã viên và người lao động trong HTX nông nghiệp. Song đến nay, chỉ có vài HTX tham gia đóng BHXH. Xã viên và người lao động thuộc HTX có mức tiền công thấp, khi tham gia đóng BHXH bắt buộc, phải áp mức lương tối thiểu tại thời điểm này là 350.000 đồng/ tháng để tính mức thu BHXH). Đây cũng là khó khăn khiến những HTX nông nghiệp có doanh thu thấp chưa thực hiện được chế độ đóng BHXH bắt buộc cho xã viên và người lao động làm việc thường xuyên trong HTX . - Chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX chậm thể chế hóa Tháng 4 năm 1996 Quốc hội thông qua và chủ tịch nước đã k ý sắc lệnh ban hành Luật HTX; năm 1997, chính phủ đã ban hành hàng loạt Nghị định về HTX trong đó: Nghị định số 15/CP ngày 21/02/1997 của chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển HTX. Đến tháng 12 năm 2003, Luật HTX được sửa đổi, bổ sung, được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước đã kí sắc lệnh ban hành Luật HTX 2003, đồng thời Chính phủ ban hành nhiều Nghị định về HTX, trong đó có Nghị định số 88/2005/ NĐ- CP ngày 11/7/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX. Cả hai Nghị định về chính sách qua hai giai đoạn nêu trên, đến nay các Bộ, Ngành có liên quan vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, nên trải qua hơn 10 năm từ khi có Luật HTX, tuy chính sách nhưng thực chất các HTX vẫn chưa được hưởng ưu đãi của nhà nước. Thực hiện Luật đất đai( năm 1993) và Nghị định số 64/ CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao đất cho hộ gia đình, cá nhân ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Năm 1994, các HTX nông nghiệp phối hợp với UBND xã, đã hoàn thành việc giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân và đất công ích giành cho chính quyền xã; song nhiều nơi trên địa bàn, chính quyền xã thu hồi cả đất trụ sở, nhà kho, sân phơi của HTX mà không đền bù cho HTX. Qũy đất công ích qua dồn điền, đổi thửa đã quy vùng tập trung song nhiều xã chưa ưu tiên cho HTX nhận khoán để sản xuất thóc giống phục vụ nhân dân địa phương mà thuê, thầu cho cá nhân, tổ chức khác. - Hành lang, môi trường hoạt động của HTX chưa được quan tâm. Số HTX vươn ra hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ chưa nhiều mà phần đông các HTX còn dịch vụ ở một vài khâu đầu vào của quá trình sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ thủy lợi, dịch vụ khoa học- kĩ thuật, dịch vụ vật tư nông nghiệp. Một số nơi HTX đang dịch vụ điện năng có hiệu quả thì chính quyền cơ sở chỉ đạo HTX phải bàn giao dịch vụ điện năng cho cá nhân và tổ chức khác mà không đền bù tài sản cho HTX. Sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chương trình dự án quốc gia và các chương trình dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ chưa được ưu tiên cho khu vực kinh tế hợp tác và HTX; hiện có 30% chính quyền xã chưa thực hiện tốt hướng dẫn số 174 liên Sở( Sở Tài chính và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) về việc giành 50% nguồn thu trên quỹ đất công ích chuyển cho HTX nông nghiệp làm công tác khuyến nông; chương trình cứng hóa kênh mương ở một số xã còn giao khoán cho tổ chức cá nhân khác… - HTX thiếu vốn hoạt động, thu nợ gặp khó khăn Hầu hết các HTX trên địa bàn huyện có vốn, quỹ ít. HTX đến nay vẫn chưa vay được vốn ngân hàng nên thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển ngành nghề mới. Tuy nhà nước đã có chính sách cho HTX vay vốn tại các ngân hàng thương mại từ năm 1997, song HTX chưa được vay vì phải thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay( thế chấp tài sản), khiến nhiều chủ nhiệm đã phải mang tài sản gia đình đi thế chấp để vay vốn cho HTX. Tư tưởng chây ỳ công nợ của xã viên và các nông hộ về thanh toán thủy lợi phí, chi phí thủy lợi nội đồng đang có hiện tượng gia tăng ở nhiều HTX , nhất là ở những nơi chính quyền địa phương ít quan tâm đến HTX. 2.2.5. Nguyên nhân tồn tại 2.2.5.1. Nguyên nhân khách quan - Một số tồn tại do lịch sử để lại như: tình trạng quản lý quá yếu kém của các HTX và tập đoàn sản xuất cũ đã làm cho nhiều người rất ấn tượng với tổ chức HTX. Một số vấn đề đến nay chưa được giải quyết dứt điểm như: tài sản chung của HTX với việc phục vụ cả cộng đồng; công nợ của các HTX với các đối tượng và nợ của xã viên đối với HTX chưa được dứt điểm đã làm cản trở quá trình đổi mới và phát triển HTX. - Sản xuất ở nhiều nơi còn mang tính tự cung tự cấp; phân công lao động và sản xuất hàng hóa chưa phát triển, dẫn đến nhu cầu hợp tác chưa cao; đất đai nông nghiệp manh mún, chưa được tập trung; lao động thiếu việc làm và chất lượng thấp; cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn và xuống cấp; khoa học- kĩ thuật chưa phát triển. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập hiện nay……… Thực hiện Luật đất đai, Nghị định 64 của Chính phủ về việc giao diện tích đất nông nghiệp cho các hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài để sản xuất từ năm 1994 đến nay cho thấy: bình quân diện tích trên đầu người thấp( 400m2/ người), mặc dù đã thực hiện dồn điền, đổi thửa và thực hiện 5 quyền của Luật đất đai là quyền chuyển đổi, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng, quyền thế chấp và quyền sử dụng nhưng số thửa của mỗi hộ còn cao và diện tích thửa còn nhỏ; kinh tế trang trại chưa phát triển mạnh, sản xuất nông nghiệp của các hộ còn mang tính tự cấp, tự túc, sản xuất hàng hóa nhỏ lẻ, phân tán, chưa tạo động lực cho kinh tế hợp tác phát triển. Vùng sản xuất nguyên liệu, hàng hóa phát triển chậm, cơ sở hạ tầng thấp kém, thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa chưa được mở rộng. - Lĩnh vực nông nghiệp kém sức hút do lợi nhuận thấp, rủi ro nhiều… nên sản xuất nông nghiệp nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng không thu hút được nhiều đối tượng tham gia. - Do chuyển hoạt động của HTX từ cơ chế quản lí bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường với nội dung hoạt động dịch vụ nên một bộ phận cán bộ còn lúng túng, bỡ ngỡ, có tư tưởng trông chờ, ỷ lại. - Do một ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32096.doc