Lời mở đầu
Nếu thị trường chứng khoán là hàn thử biểu của nền kinh tế thì cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là việc làm tất yếu để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta đang tiến tới xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển lâu dài, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Để giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, Hội nghị lần thứ
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương án cổ phần hoá xí nghiệp sản xuất - Chế biến suất ăn Nội Bài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đã ra nghị quyết về "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước". Đây là một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chứ không phải coi nhẹ các thành phần kinh tế khác. Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả DNNN là vấn đề kinh tế nhưng có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nghị quyết đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, coi đây là một khâu quan trọng để tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN.
Trong những năm qua, thực hiện chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam đã từng bước sắp xếp, đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh để hội nhập quốc tế. Sau khi đã công ty hóa các xí nghiệp thành viên hoạt động theo Luật DNNN, Tổng Công ty tiếp tục sắp xếp, chuyển đổi một số doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Được sự giúp đỡ của Ban Đổi mới Doanh nghiệp Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Xí nghiệp sản xuất - chế biến xuất ăn hàng không Nội Bài, tôi đã nghiên cứu dự án chuyển đổi Xí nghiệp sản xuất - chế biến xuất ăn hàng không Nội Bài sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần với hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN theo chủ trương của Đảng và làm luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Đổi mới Doanh nghiệp Tổng Công ty Hàng không Việt Nam; cảm ơn Ban Giám đốc Xí nghiệp sản xuất - chế biến xuất ăn hàng không Nội Bài; cảm ơn Thạc sĩ Đỗ Quốc Bình, giảng viên hướng dẫn; cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Quản lý Doanh nghiệp, Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I: Cơ sở lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
I. Những khái niệm cơ bản về công ty cổ phần
1. Khái niệm về công ty cổ phần
1.1. Công ty cổ phần
Là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.
1.2. Cổ phần
Là số vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau.
1.3. Cổ đông
Là những cá nhân, pháp nhân sở hữu cổ phần của công ty cổ phần.
1.4. Cổ phiếu
Là một loại chứng chỉ có giá do công ty cổ phần phát hành để xác nhận quyền sở hữu cổ phần của cổ đông.
1.5. Vốn điều lệ của công ty cổ phần
Là tổng số vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty.
1.6. Cổ tức
Là một phần lợi nhuận sau thuế của công ty cổ phần để chia cho các cổ đông.
1.7. Cổ phần chi phối của Nhà nước
Là các loại cổ phần đáp ứng một trong hai điều kiện sau:
- Cổ phần của Nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của công ty.
- Cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong công ty.
1.8. Cổ phần đặc biệt của Nhà nước
Là cổ phần của Nhà nước trong Công ty mà Nhà nước không có cổ phần chi phối nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quyết định của công ty cổ phần.
3. Các hình thức cổ phần trong công ty cổ phần
3.1. Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông.
3.2. Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết;
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức;
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại;
+Cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định.
3.3. Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
3.4. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định hoặc do đại hội đồng cổ đông quyết định.
3.5. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó có các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
3.6. Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông theo quyết định của đại hội đồng cổ đông.
4. Đặc điểm công ty cổ phần
Công ty cổ phần có các đặc điểm sau:
4.1. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
4.2. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
4.3. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ cổ phần ưu đãi biểu quyết không được phép chuyển nhượng và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế chuyển nhượng trong 3 năm đầu thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
4.4. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
4.5. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
4.6. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
5. Nguyên tắc hoạt động công ty cổ phần
Công ty cổ phần hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần phải có đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc (tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên 10 cổ đông thì phải có ban kiểm soát.
Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần, có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, quyết định tổ chức lại, giải thể công ty, sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty và các loại quyền khác do luật quy định và điều lệ công ty quy định.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc quyền quyết định của đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức giám đốc (tổng giám đốc) và các cán bộ quản lý quan trọng khác của công ty; quyết định mức lương và các lợi ích khác của các cán bộ quản lý đó; quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và các quyền khác do luật và điều lệ công ty quy định.
Hội đồng quản trị bầu chủ tịch hội đồng quản trị trong số các thành viên hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm tổng giám đốc (giám đốc) công ty; trừ trường hợp điều lệ công ty quy định khác, hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc một người khác làm giám đốc (tổng giám đốc) công ty. Trường hợp điều lệ công ty không quy định chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật, thì giám đốc (tổng giám đốc) công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Giám đốc (tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền hạn và nhiệm vụ được giao.
Đối với công ty cổ phần có trên 10 cổ đông thì phải có ban kiểm soát từ ba đến năm thành viên. Thành viên ban kiểm soát do đại hội đồng cổ đông bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Quyền hạn, nhiệm vụ của ban kiểm soát do điều lệ công ty quy định.
II. Cổ phần hóa - Một giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN
Các doanh nghiệp Nhà nước muốn thực sự trở thành quyền tài sản thì phải tiến từ hình thức thấp của công ty sang hình thức cao là doanh nghiệp cổ phần. Theo nghĩa thông thường, chế độ cổ phần là hình thức tổ chức quyền tài sản của doanh nghiệp bằng cách góp cổ phần để tập trung, sử dụng thống nhất các yếu tố sản xuất (vốn) phân tán của những người sở hữu khác nhau, tự chịu trách nhiệm trước các kết quả sản xuất kinh doanh, chịu lãi theo mức góp cổ phần. Doanh nghiệp tư doanh có thể áp dụng hình thức góp cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có thể áp dụng hình thức này. Kinh nghiệm ở nhiều nước và kinh nghiệm thí điểm ở Việt Nam cho thấy, chế độ cổ phần có lợi cho việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội hóa hiện đại. Xét về lâu dài, tuy chế độ cổ phần không phải là hình thức duy nhất nhưng được coi là sự lựa chọn tốt nhất, là một giải pháp quan trọng trong cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế thị trường.
1. Chế độ cổ phần là sản phẩm tất yếu của xã hội hóa sản xuất và của nền kinh tế thị trường
Lịch sử và hiện thực cho thấy, một hình thức quyền tài sản, chế độ cổ phần là biểu hiện hình thức vận hành ở góc độ quan hệ sản xuất của sự xã hội hóa sản xuất, theo cách nói của C.Mác, nó là “tư bản xã hội”, “tư bản, tự nó vốn dựa trên phương thức sản xuất xã hội và đòi hỏi phải có sự tập trung xã hội về tư liệu sản xuất và sức lao động, ở đây trực tiếp mang hình thức tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau)”, C. Mác coi đó là “hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể”, là “sự phủ định”, là “hình thức phủ định cao nhất” đối với tư bản tư nhân.
Tính chất của tư bản xã hội trong chế độ cổ phần thể hiện rõ trong lịch sử phát triển của doanh nghiệp cổ phần qua bốn giai đoạn (giai đoạn mầm mống, giai đoạn hình thành, giai đoạn phát triển và giai đoạn trưởng thành), gắn chặt với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội hóa và trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường.
Một là doanh nghiệp cổ phần chẳng những giúp cho quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng (doanh nghiệp lớn ra đời, cần một lượng vốn lớn), mà còn vượt ra ngoài giới hạn của doanh nghiệp, hình thành các công ty cổ phần xâm nhập vào nhau, có quan hệ dọc, ngang rộng rãi, tạo ra quan hệ kinh tế nhiều bên, nâng cao trình độ xã hội hóa.
Hai là mô hình doanh nghiệp cổ phần có quan hệ trực tiếp với sự phát triển của chế độ tín dụng. C. Mác vạch ra rằng, chế độ tín dụng là cơ sở của công ty cổ phần. Sự phát triển đầy đủ của chế độ tín dụng có nghĩa là tiền vốn đã trở thành máu của nền kinh tế xã hội. Sự khơi thông nguồn vốn phản ánh sự xã hội hóa, hàng hóa các yếu tố sản xuất, là tiêu chí của nền kinh tế hàng hóa phát triển.
Ba là chế độ cổ phần trở nên phổ biến tới mức hàng loạt người lao động mua cổ phiếu chứng tỏ hình thức này có cơ chế nội tại của nó, có thể giúp cho các chế độ sở hữu xâm nhập vào nhau, giúp người ta chuyển hóa quỹ tiêu dùng thành quỹ sản xuất trong phạm vi toàn xã hội, và gắn chặt với sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
2. Doanh nghiệp nhà nước áp dụng chế độ cổ phần sẽ có lợi cho việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất
Qua thực tiễn thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hơn 10 năm qua đã chứng minh nó giúp ích cho việc khắc phục nhược điểm về quyền tài sản không rõ ràng rành mạch trong chế độ công hữu trước đây, giúp ích rất nhiều cho lực lượng sản xuất xã hội hóa hiện đại phát triển.
Trước hết, từ góc độ hiệu quả kinh tế. So với các doanh nghiệp bình thường khác, các doanh nghiệp sau khi cổ phần có sức sống mạnh hơn, hiệu quả cao hơn rõ rệt. Tình hình vận hành thực tế của các doanh nghiệp này cho thấy, so với trước khi áp dụng chế độ cổ phần, chúng có các ưu điểm sau đây:
Một là, phân định ranh giới rành mạch về quyền tài sản, tức là phân định rõ quyền sở hữu cuối cùng (thuộc Nhà nước), quyền sở hữu pháp nhân (thuộc thực thể kinh doanh), quyền kinh doanh, Nhà nước chỉ quản lý vĩ mô. Doanh nghiệp thực sự trở thành người sản xuất và kinh doanh hàng hóa độc lập, không những có quyền mở rộng kinh doanh, mà còn có quyền xử lý tài sản, thật sự trở thành chủ thể tài sản, chủ thể kinh doanh, chủ thể đầu tư, chủ thể cạnh tranh, chủ thể tự điều tiết, thực sự chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
Hai là, thể hiện sự thống nhất về vai trò song trùng vừa là người lao động vừa là người sở hữu. “Cổ phần nội bộ” là cổ phần ưu đãi, khiến vai trò cổ đông và vai trò người lao động thống nhất với nhau trong cùng một công nhân viên chức. Tương ứng với vai trò song trùng là dân chủ song trùng, nó gắn chặt công nhân viên chức với vận mệnh của doanh nghiệp, thực hiện nhân cách hóa tài sản công hữu. Với ý nghĩa này, chế độ cổ phần càng phù hợp hơn với yêu cầu của khối cộng đồng lao động liên hợp, khiến doanh nghiệp thật sự trở thành khối liên hợp lợi ích của người lao động.
Ba là, tách quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh, giúp ích vào việc chuyên nghiệp hóa chức năng quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Kinh doanh do một người bỏ vốn như trước kia là do một nhà tư bản trực tiếp quản lý kinh doanh. Công ty cổ phần hiện nay là tổ chức đại diện cho nhiều người sở hữu cổ phần, tập trung vốn giao cho người được đào tạo chuyên môn, có năng lực quản lý kinh doanh tổ chức kinh doanh. Đó là kết quả phát triển của sự phân công xã hội, khiến quản lý được chuyên môn hóa, trở thành một nghề, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao tố chất của doanh nghiệp; do đó cùng nâng cao năng lực thích ứng trên thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu trước kia do năng lực cạnh tranh thấp, một nhà tư bản trực tiếp quản lý có thế ứng phó được thì ngày nay trên thị trường cạnh tranh bằng kỹ thuật cao, trí lực cao mà chỉ trực tiếp kinh doanh bằng kinh nghiệm chật hẹp của người sở hữu thì không thể đứng vững được. Chính vì vậy mới phải đào tạo hàng loạt các nhà doanh nghiệp. Đó cũng là điều kiện quan trọng để thực hiện nhân cách hóa tài sản công hữu.
Bốn là, thích ứng được với nhu cầu tái sản xuất mở rộng, có lợi cho việc tập trung nguồn vốn trong xã hội. Ngày nay sự phát triển của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi phải thống nhất tập trung vốn với tập trung kỹ thuật, phải nhanh chóng lập ra các doanh nghiệp lớn theo mô hình tập trung vốn và kỹ thuật. Nếu chỉ dựa vào một nguồn vốn thì không đủ. Dù là doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể giải quyết vần đề thiếu vốn bằng chế độ cổ phần. Có người cho rằng, có thể chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng để giải quyết vấn đề vốn. Quan điểm này là không toàn diện. Đành rằng ngân hàng có vai trò to lớn trong việc tập trung vốn (gom vốn gián tiếp) để giúp doanh nghiệp, nhưng quyết không thể thay thế việc tập trung vốn theo hình thức cổ phần (gom vốn trực tiếp). Vì các lý do sau:
* Đối với người có tiền thì ở đâu lợi tức cao thì họ đầu tư vào đó. Nói chung, gửi tiền vào ngân hàng không lãi bằng mua cổ phần, do vậy mà tại hầu hết các nước tư bản, ngân hàng tuy nhiều nhưng không thể thay thế được công ty cổ phần. Ngược lại, xu thế thực tế là cả hai đều ngày càng phát triển.
* Đại đa số ngân hàng cũng là doanh nghiệp cổ phần, một phần khá lớn vốn của ngân hàng cũng gom được từ cổ phần, thậm chí có ngân hàng còn gom vốn bằng cách phát hành cổ phiếu.
Năm là, hình thức công ty cổ phần giúp cho việc khơi thông nguồn vốn xuyên khu vực, kết hợp các yếu tố sản xuất xuyên khu vực. Điều này gắn chặt với xây dựng và mở rộng thị trường vốn. Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa khiến cho các yếu tố sản xuất không ngừng được tổ chức lại, có tính chất xuyên khu vực; lực lượng sản xuất phát triển từ vùng tập trung sang vùng mỏng yếu, vốn cũng chuyển từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển. Việc phân phối tài nguyên được thực hiện chủ yếu thông qua thị trường tài chính và là một trong những phương thức thực hiện ấy là giao dịch thị trường chứng khoán. Xu thế cơ bản của nền sản xuất xã hội hóa là kết hợp phân công chuyên môn hóa sâu sắc với hiệp tác, liên kết, liên hợp và phối hợp rộng rãi, cho nên phải liên hợp (theo chiều dọc) giữa các nghề khác nhau trong cùng một ngành, thực hiện hệ thống hóa, phải liên hợp giữa các ngành khác nhau (theo chiều ngang) thực hiện đồng bộ hóa và thâm nhập vào nhau, có trường hợp phải kinh doanh hỗn hợp (lấy một ngành là chính, nhưng kinh doanh nhiều ngành). Sự liên hợp đan chéo nhau giữa chiều dọc và chiều ngang này diễn ra xuyên khu vực, thậm chí diễn ra trên phạm vi thế giới, do vậy doanh nghiệp do một người đầu tư vốn không đủ sức đảm đương. Sự phân bố của kết cấu mạng tất nhiên khiến cho tư bản đan xen vào nhau, thâm nhập vào nhau từ mọi phía, các quần thể doanh nghiệp và mạng lưới doanh nghiệp ra đời thông qua sự liên hợp tư bản. Một công ty mẹ - nhiều công ty con - một số lượng nhiều hơn nữa các công ty cháu khác, phân bổ ở các vùng và các quốc gia khác, quan hệ giữa họ với nhau chủ yếu là sự thâm nhập bằng cổ phần, phụ thuộc vào nhau về sản xuất và kinh doanh, về lợi ích thì được cùng được, mất cùng mất, vừa sử dụng được lợi thế riêng vừa có thể liên hiệp lại với nhau thành một lực lượng hiệp tác có hệ thống. Từ đó khiến nền sản xuất xã hội hóa phát triển.
Sáu là, chế độ cổ phần còn giúp ích vào việc mở cửa thị trường, thu hút vốn nước ngoài.
Tóm lại, chế độ cổ phần thích ứng với đòi hỏi của nền kinh tế xã hội hóa, giúp vào việc hình thành hệ thống kết cấu mạng của doanh nghiệp, cấu trúc lực lượng sản xuất theo chiều dọc và chiều ngang. Quan hệ sản xuất phải thích ứng với đặc tính của lực lượng sản xuất, đó là nguyên lý phổ biến và khách quan. Việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo chế độ cổ phần đã thu được những kết quả rõ rệt, rất đáng khích lệ. Các doanh nghiệp cổ phần của các nước trong thế giới hiện đại phát triển rộng rãi và đan xen vào nhau như thế, suy cho cùng là do đặc điểm của nền sản xuất xã hội hóa quyết định. Muốn có hình thức thực hiện chế độ sở hữu tốt thì cũng phải áp dụng hình thức phổ biến theo đòi hỏi của quy luật của nền sản xuất xã hội hóa hiện đại.
3. Quan hệ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước sau khi áp dụng chế độ cổ phần
Với chế độ cổ phần, quyền sở hữu nhà nước được phân giải, có nghĩa là từ quyền sở hữu đơn nhất được tách ra thành quyền sở hữu pháp nhân và quyền sở hữu cổ phần, tức là “quyền sở hữu thể nhân”.
Một mặt, với chế độ cổ phần, doanh nghiệp có quyền sở hữu pháp nhân; do đó nó có hầu như toàn bộ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền thu lợi và quyền xử lý đối với tài sản do Nhà nước và các cổ đông khác góp vào doanh nghiệp. Đồng thời, chế độ cổ phần lại thừa nhận người đầu tư tài sản của Nhà nước vào doanh nghiệp là Nhà nước. Nhà nước vẫn là người sở hữu ban đầu hoặc là người sở hữu cuối cùng của số tài sản ấy. Song, quyền sở hữu ấy của Nhà nước đã yếu đi, hầu như toàn bộ quyền sở hữu với ý nghĩa vốn có đã được nhượng cho pháp nhân, quyền sở hữu của Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư chuyển thành quyền sở hữu cổ phần. Tuy quyền sở hữu cổ phần vẫn là một hình thức biểu hiện quyền sở hữu của Nhà nước, nhưng là cổ đông, Nhà nước không còn quyền trực tiếp kinh doanh doanh nghiệp nhà nước nữa, cũng không có quyền xử lý tài sản pháp nhân - tài sản của doanh nghiệp nữa. Vì rằng, một khi quyền tài sản pháp nhân đã hình thành trên cơ sở quyền tài sản ban đầu thì tài sản của Nhà nước là tài sản của cổ đông sẽ mặc nhiên chuyển hóa thành tài sản của pháp nhân là doanh nghiệp cổ phần, do doanh nghiệp có quyền sở hữu pháp nhân xử lý. Nhưng lợi ích của Nhà nước sẽ được phản ánh thông qua đại hội cổ đông, thông qua việc tham gia hội đồng quản trị để gián tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp và chế ước phù hợp với mục đích bảo toàn, tăng giá trị tài sản Nhà nước, đồng thời Nhà nước dựa vào quyền sở hữu cổ phần để thu lợi hoặc có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần.
Mặt khác, với chế độ cổ phần, sự phân giải của bản thân quyền sở hữu nhà nước lại biểu hiện ra sự phân giải thành quyền sở hữu hiện vật và quyền sở hữu giá trị. Tài sản hiện vật là tài sản pháp nhân của doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền sở hữu hoàn toàn đối với chúng. Còn tài sản với hình thái giá trị - cổ phiếu (hoặc giấy chứng nhận sở hữu tài sản khác) thì thuộc sở hữu nhà nước. Nhà nước dựa vào cổ phiếu để thu lãi, cổ phiếu có thể được chuyển nhượng. Rõ ràng là với chế độ cổ phần, quyền sở hữu tài sản hiện vật là quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu tài sản dưới hình thức giá trị là quyền sở hữu cổ phần.
Như vậy, doanh nghiệp cổ phần còn có đặc trưng là “lưỡng quyền thống nhất”. Là pháp nhân, doanh nghiệp không những có quyền sở hữu pháp nhân đối với mọi tài sản của doanh nghiệp mà còn có quyền kinh doanh đối với mọi tài sản ấy, do đó thật sự thực hiện được sự thống nhất hữu cơ giữa quyền sở hữu pháp nhân và quyền kinh doanh.
Sau khi cổ phần, tùy từng trường hợp cụ thể, tùy từng doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước mà các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục tham gia cổ phần, nắm giữ cổ phần khống chế, hình thành chuỗi công ty mẹ - công ty con – công ty cháu. Đặc biệt là công ty đầu tư tài chính nhà nước có thực lực hùng hậu là công ty mẹ của một số công ty lớn (hoặc của một số doanh nghiệp cổ phần). Bằng cách nắm giữ quyền sở hữu cổ phần chủ yếu, nó kiểm soát các công ty lớn. Các công ty lớn cũng dùng phương thức ấy để kiểm soát các công ty con, công ty cháu. Do công ty đầu tư, công ty lớn hoặc doanh nghiệp cổ phần đều là pháp nhân độc lập, cho nên quan hệ giữa chúng với nhau không có màu sắc quan hệ hành chính, mà là quan hệ kinh tế thuần túy giữa các pháp nhân bình đẳng, là quan hệ kiểm soát cổ phần giữa công ty mẹ và công ty con.
Với chế độ cổ phần, chuỗi công ty mẹ - công ty con – công ty cháu và các công ty khác có liên quan hình thành kết cấu kim tự tháp do công ty nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế chi phối từ trên xuống dưới, do vậy tính chất nhà nước của doanh nghiệp được nhân lên nhiều lần.
4. Hình thức kết cấu doanh nghiệp cổ phần
Các nước phát triển thường áp dụng các hình thức công ty cổ phần hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty lưỡng hợp và công ty cổ phần lưỡng hợp. Công ty cổ phần hữu hạn là một hình thức tổ chức doanh nghiệp trong đó toàn bộ tư bản được chia thành các cổ phần bằng nhau và phát hành cổ phiếu công khai. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm tương đối với cổ phần đã mua; công ty phải dùng toàn bộ tài sản để bảo đảm nợ của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn là hình thức doanh nghiệp do những người góp vốn đứng ra thành lập; mỗi người góp vốn chỉ chịu trách nhiệm đối với công ty tương ứng với phần vốn đã góp, công ty phải dùng toàn bộ tài sản để đảm bảo nợ của công ty. Trong các công ty loại này, số cổ đông ít, không phát hành cổ phiếu. Công ty trách nhiệm vô hạn là công ty do hai cổ đông trở lên tổ chức ra, chịu trách nhiệm liên đới vô hạn đối với việc trả nợ của công ty. Công ty lưỡng hợp là công ty do các cổ đông có trách nhiệm vô hạn và các cổ đông có trách nhiệm hữu hạn cùng lập ra. Công ty cổ phần lưỡng hợp là một trong các loại công ty lưỡng hợp, chỉ có bộ phận tư bản có trách nhiệm hữu hạn được chia thành các cổ phần bằng nhau, được phát hành cổ phiếu. Ưu điểm của công ty lưỡng hợp là vừa có thể thông qua các cổ đông có trách nhiệm vô hạn để làm tăng uy tín đói với bên ngoài công ty, vừa có thể thông qua trách nhiệm hữu hạn mà thu hút được nhiều vốn.
Các địa phương, các ngành đều có đặc điểm riêng của mình. Sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển lực lượng sản xuất giữa các doanh nghiệp, sự đa nguyên hóa lợi ích kinh tế và sự đa dạng hóa nhiệm vụ, trách nhiệm là những nhân tố quyết định hình thức tổ chức doanh nghiệp phải đa dạng hóa. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ tình hình cụ thể để linh hoạt áp dụng các hình thức doanh nghiệp cổ phần khác nhau, có thể áp dụng các hình thức doanh nghiệp tương đối chuẩn mực, cũng có thể áp dụng hình thức không chuẩn mực, như: 1) Hình thức tăng lượng cổ phần. Tức là chỉ tính lượng tài sản hiện có của doanh nghiệp thành cổ phần chứ không bán cổ phần. Còn phần vốn cần cho tái sản xuất mở rộng thì thu gom bằng cách phát hành cổ phiếu ra ngoài doanh nghiệp. 2) Hình thức cổ phần nội bộ. Hình thức này không phát hành cổ phiếu công khai, cũng không được tự do chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần, cổ phần trong doanh nghiệp có cổ phần nhà nước, cổ phần của tập thể công nhân viên chức, cổ phần của cá nhân các công nhân viên chức. 3) Hình thức liên hiệp đầu tư tham gia cổ phần. Tức là từng bước áp dụng hình thức liên hiệp tài sản theo chiều ngang. Các thành viên trong tập đoàn doanh nghiệp không đem toàn bộ tài sản đầu tư làm cổ phần, mà chỉ dùng một phần tài sản của họ làm cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp của nhau, hoặc đầu tư bằng tiền, hoặc đầu tư bằng thiết bị, qua đó sự liên hiệp ngang càng trở nên gắn bó. 4) Hình thức hợp tác cổ phần. Đây là hình thức doanh nghiệp trong đó hình thức cổ phần và hình thức hợp tác đan xen vào nhau. Đặc điểm của nó là tự nguyện, hợp tác bình đẳng, quản lý dân chủ, cùng có lợi,...
Doanh nghiệp nhà nước áp dụng hình thức cổ phần chẳng những làm thay đổi hình thức quyền tài sản trong khu vực kinh tế sở hữu toàn dân, mà còn làm thay đổi quan hệ giữa thành phần kinh tế ấy với các thành phần kinh tế khác. Vì rằng trong doanh nghiệp cổ phần không chỉ có cổ phần thuộc các nguồn tài sản khác nhau của Nhà nước, mà còn thu hút cổ phần của các thành phần kinh tế khác, như cổ phần tập thể, cổ phần cá nhân, cổ phần nước ngoài,... Nếu nói rằng, trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa xã hội, kết cấu thành phần kinh tế trong toàn xã hội là nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại lấy thành phần kinh tế nhà nước làm chính, thì chế độ cổ phần đã du nhập hình thái ấy vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp trở thành thể hỗn hợp lấy thành phần kinh tế nhà nước làm chính, xen lẫn các thành phần kinh tế khác, tương tự như kết cấu bê tông, có cốt thép, có xi măng, có cát vàng, có sỏi đá, được nhào trộn thành một khối, tăng sức kết tụ của doanh nghiệp nhà nước, tăng sức sống của doanh nghiệp nhà nước. Kết cấu “bê tông” này không làm thay đổi tính chất kinh tế nhà nước, mà chỉ làm thay đổi hình thức thực hiện để thích ứng với yêu cầu xã hội hóa sản xuất và của nền kinh tế thị trường.
Tóm lại, kết cấu “hỗn hợp” kinh tế nhà nước xen lẫn nhiều thành phần kinh tế khác - doanh nghiệp cổ phần, là bức tranh muôn màu muôn vẻ, đa nguyên, đan xen.
Chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng. Theo Nghị quyết Trung ương III thì đây là một biện pháp quan trọng trong các biện pháp tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước.
Do xác định rõ ràng về sở hữu và tách bạch được quyền sở hữu và quyền quản lý trong chế độ cổ phần nên hạn chế được việc thiếu trách nhiệm trong quản lý tài sản dẫn đến thất thoát vốn, tài sản. Ưu điểm của cổ phần hóa là tất cả các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần đều không sa thải người lao động, đồng thời một bộ phận người lao động đã trở thành các cổ đông nên quyền lợi của họ được gắn chặt với công ty; vì vậy, họ có trách nhiệm hơn không chỉ trong công việc trực tiếp của mình mà còn đề xuất nhiều kiến nghị yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc điều hành công ty có hiệu quả hơn. Cổ phần hóa đã thu hút thêm lượng vốn khá lớn của các cá nhân, pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế khác để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định lại rõ ràng, minh bạch hơn, được đánh giá đúng hơn nên đã tăng hơn so với sổ sách kế toán.
Sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp không những bảo toàn mà còn tăng đáng kể được vốn, các chỉ tiêu tài chính đều tăng, người lao động tiếp tục có việc làm và tăng thu nhập cho thấy đây là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của cải cách doanh nghiệp nhà nước và giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động.
Chương II: Tổng quan về Xí nghiệp sản xuất - chế biến suất ăn Nội Bài
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Xí nghiệp
Xí nghiệp sản xuất - chế biến suất ăn Nội Bài được thành lập theo quyết định số 444/CAAV ngày 01/06/1993 của Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam, hiện nay là một đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam.
Trên thực tế, dịch vụ cung ứng suất ăn hàng không tại Nội Bài đã có từ hơn 20 năm nay, kể từ khi sân bay Nội Bài bắt đầu khai thác dịch vụ bay thương mại. Thời kỳ mới thành lập, cơ sở chế biến suất ăn tại Nội Bài chỉ là một cửa hàng ăn uống, sau đó được sửa chữa, cơi nới nhiều lần để đáp ứng nhu cầu hoạt động. Từ năm 1993, với thay đổi về cơ cấu của hàng không dân dụng Việt Nam, Xí nghiệp suất ăn Nội Bài chính thức được thành lập trên cơ sở đội suất ăn của Xí nghiệp thương nghiệp Hàng không cũ. Hiện nay, Xí nghiệp chủ yếu cung cấp suất ăn hàng không cho Vietnam Airlines, ngoài ra còn phục vụ cho hai hãng hàng không khác là Pacific Airlines và Aeroflot.
Từ những năm 1994-1995, Vietnam Airlines đã nghiên cứu một dự án liên doanh với Công ty suất ăn SERVIAR (Pháp) để thành lập Công ty liên doanh cung ứng suất ăn Nội Bài, một cơ sở chế biến và cung ứng suất ăn hiện đại có công suất khoảng 7.000 suất ăn/ngày với thời hạn liên doanh 20 năm. Dự án đã được cấp giấy phép đầu tư số 1248/GP ngày 23/05/1995. Kể từ đó đến nay, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan (như thủ tục chậm trễ và phức tạp, thay đổi đối tác liên doanh, thay đổi nhân sự trong các bên liên doanh,...), việc triển khai dự án gặp khó khăn và bị kéo dài. Điều này cùng với cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực đã khiến cho dự kiến ban đầu như về quy mô xây dựng (2.000 m2), nhu cầu vốn đầu tư (ban đầu là 3.180.000 USD, sau được điều chỉnh lên 5.147.574 USD), dự báo mức tăng trưởng sản lượng, chính sách giá,.... không còn phù hợp với hoàn cảnh khách quan. Do không thống nhất được phương án giải quyết, tháng 6 năm 1998, các bên liên doanh phải nhất trí đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho phép giải thể liên doanh trước thời hạn, khi mà công việc triển khai dự án mới chỉ được một số công việc như: xin cấp phép quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị hạ tầng cơ sở, cấp phép xây dựng và đấu thầu,... Ngày 30/07/1998, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra quyết định số 331/BKH-QLDA giải thể trước thời hạn Công ty liên doanh cung ứng suất ăn Nội Bài.
Sau khi liên doanh giải thể, vị trí cũng như tư cách pháp nhân của doanh nghiệp sản xuất - chế biến suất ăn Nội Bài chưa được xác định rõ ràng.
Tóm lại, cơ sở sản xuất hiện nay chật hẹp về diện tích, phân tán về địa điểm, chất lượng xây dựng và thiết kế không đạt yêu cầu của một cơ sở sản xuất - chế biến suất ăn hàng không cùng với các trang thiết bị sản xuất thô sơ lạc hậu, khó có thể đáp ứng tốt các yêu cầu nghiêm ngặt của ngành dịch vụ này.
II. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động sản xu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37028.doc