Phúc thẩm trong tố tụng hình sự

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Đổi mới bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII của Đảng đã đề ra các quan điểm cơ bản về đổi mới bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng. Các quan điểm này được tiếp tục khẳng định và phát triển trong các văn kiện Đại hội và các Nghị quyết Trung ương của Đảng ta tr

doc178 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phúc thẩm trong tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong những năm gần đây. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: … Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp trước yêu cầu đổi mới như các Bộ luật: dân sự, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự (sửa đổi) và các luật, pháp lệnh về xử phạt vi phạm hành chính,... bảo đảm cho mọi vi phạm đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền làm chủ của công dân,... [11, tr. 130]. Đại hội IX của Đảng đã đề ra các biện pháp tiến hành cải cách tư pháp ở nước ta là: ... Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, không để xảy ra những trường hợp oan sai... Sắp xếp tại hệ thống TAND, phân định thẩm quyền một cách hợp lý theo nguyên tắc tổ chức TA theo cấp xét xử, tăng cường thẩm phán ở những địa bàn trọng điểm, quy định rõ tiêu chuẩn, trách nhiệm và thẩm quyền của hội thẩm nhân dân. TANDTC làm nhiệm vụ hướng dẫn áp dụng pháp luật và thực hiện công tác giám sát xét xử các bản án, quyết định đã có HLPL... [13, tr. 295-296]. Các yêu cầu về cải cách tư pháp và nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong giai đoạn hiện nay được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ta chỉ rõ trong Nghị quyết số 08/NQ/TƯ ngày 02/01/2002: Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... [2]. Các quan điểm trên của Đảng về cải cách tư pháp ở nước ta đã từng bước được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật được Quốc hội thông qua trong thời gian gần đây như BLHS 1999, BLTTHS sửa đổi năm 2000, Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2002, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 2002, BLTTHS sửa đổi năm 2003,... Đây là cơ sở pháp lý để chúng ta tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và các TAND nói riêng. BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1988 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1989 là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 hoạt động tư pháp hình sự. Bước đầu Bộ luật đã thể hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Bộ luật đã phát huy tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra: "... phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội..., bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân...". BLTTHS đã ba lần được sửa đổi, bổ sung (7/1990, 12/1992 và 6/2000) để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, sau 15 năm áp dụng, bên cạnh những kết quả đạt được, nhiều quy định của BLTTHS hiện hành nói chung và các quy định về phúc thẩm nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập. Trong thực tiễn, các TA cấp phúc thẩm rất vướng mắc khi áp dụng các quy định BLTTHS về phạm vi xét xử phúc thẩm, về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; giải quyết vấn đề kháng cáo quá hạn; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam,... Việc quy định một thủ tục xét xử phúc thẩm áp dụng chung đối với tất cả các vụ án đã làm cho hoạt động xét xử phúc thẩm trở thành quá tải, quá thời hạn luật định dẫn đến sự tồn đọng án trong những năm gần đây ở các TA cấp phúc thẩm, đặc biệt là ở TANDTC. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, không bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên nhân của tình trạng này là do một số quy định của BLTTHS về phúc thẩm chưa đầy đủ, cụ thể và rõ ràng. Cơ quan có thẩm quyền cũng chưa hướng dẫn kịp thời, đầy đủ về việc áp dụng các quy định BLTTHS dẫn đến nhận thức và áp dụng có nhiều vướng mắc. Mặt khác, hệ thống tổ chức và hoạt động của các TA cấp phúc thẩm; trình độ nghiệp vụ và năng lực của đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên và các bảo đảm khác cho hoạt động của các TA và VKS cấp phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế. BLTTHS (sửa đổi) được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. Việc sửa đổi bổ sung BLTTHS lần này được tiến hành tương đối đồng bộ, toàn diện và về cơ bản đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TƯ của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tuy nhiên, về cơ bản các quy định về phúc thẩm trong BLTTHS sửa đổi vẫn như trước đây, do đó chưa khắc phục được những bất cập, tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và các quy định pháp luật TTHS về phúc thẩm; chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra được các căn cứ khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định về phúc thẩm vẫn là một yêu cầu cấp thiết của khoa học luật TTHS hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phúc thẩm trong TTHS là một vấn đề có nội dung rộng và phức tạp của khoa học luật TTHS. Vấn đề này đã được một số nhà khoa học pháp lý ở nước ta và trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong sách báo pháp lý của nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Có thể chia các công trình này thành ba nhóm sau: Các công trình nghiên cứu trực tiếp về phúc thẩm trong TTHS như: "Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự" của tác giả Võ Thọ, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985; "Giáo trình Luật tố tụng hình sự" của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 1999; "Thủ tục phúc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" của Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, 1998; một số luận văn thạc sĩ luật học như "Thủ tục xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn Gia Cương, 1998; "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" của Phan Thị Thanh Mai, 1998; "Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Văn Tiến, 1998; "Giai đoạn xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Huỳnh Lập Thành, 2001;... Các công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của phúc thẩm trong TTHS như: Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án các cấp trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Văn Huyên, 2002; "Những vấn đề cần trao đổi từ thực tế xét xử phúc thẩm về hình sự" của TS. Từ Văn Nhũ (Tạp chí TAND, số 3/2001); "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện" của TS. Dương Ngọc Ngưu (Tạp chí TAND, số 11/2000 và số 01/2001); "Thủ tục phiên tòa phúc thẩm có gì khác với phiên tòa sơ thẩm" của ThS. Mai Bộ (Tạp chí TAND, số 9/1995); "Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm" và "Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự" của Hoàng Thị Sơn (Tạp chí Luật học, số 6/1997 và 5/1999); "Hoàn thiện pháp luật về xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của ThS. Nguyễn Nông (Tạp chí TAND, số 8/1994); "Việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm từ không có tội thành có tội theo khoản 3 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự" của Phạm Văn Khánh (Tạp chí Kiểm sát, số 7/1999);... Các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm trong TTHS: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân" của tác giả Phạm Hưng (Tạp chí TAND, số 10 và số 11/1997); "Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp" và "Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân" của TS. Nguyễn Văn Hiện (Tạp chí TAND, số 4/1997 và số 8/1999); "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp" của PGS.TS Trần Văn Độ (Tạp chí Luật học, số 3/1997); "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp" của PGS.TS Phạm Hồng Hải (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2001); "Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân" của TS. Đặng Quang Phương (Tạp chí TAND, số 6/1995);... Một số nhà khoa học pháp lý trên thế giới cũng nghiên cứu về vấn đề này và quan điểm của họ cũng rất khác nhau, trong số đó có các nhà khoa học pháp lý Xô viết như: "Giáo trình tố tụng hình sự Xô viết" của GS.TS Stơrogovích M. C., Nxb Khoa học pháp lý, Matxcơva, 1980; "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Xô viết" của GS.TS Pêrơlốp V. Đ., Nxb Pháp lý, Mátxcơva, 1968; "Bảo vệ quyền lợi của bị cáo trong xét xử phúc thẩm" của GS.TS Martưnchích E. G., Nxb. Kisinhốp, 1979;... Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về phúc thẩm trong TTHS, chưa đưa ra được khái niệm hoàn chỉnh, đầy đủ và chính xác về phúc thẩm trong TTHS. Tất cả các luận điểm nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình. 3. Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau về phúc thẩm trong TTHS, các xu hướng điều chỉnh vấn đề này trong pháp luật của các nước và ở nước ta trước và sau khi ban hành BLTTHS 1988, những tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn phúc thẩm những năm gần đây, tác giả đặt ra cho mình mục đích nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các nội dung của phúc thẩm trong TTHS nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận, đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết về mặt lập pháp, những tồn tại, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng các quy định hiện hành về phúc thẩm. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: phúc thẩm là vấn đề có nội dung rộng và phức tạp của khoa học luật TTHS. Vì vậy, trong phạm vi của luận án không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản của phúc thẩm mà chúng chưa được làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận; các quy định pháp luật TTHS của nước ta về phúc thẩm từ 1945 đến nay; thực trạng phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta, những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: luận án tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Làm rõ bản chất pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của phúc thẩm trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra của TTHS; làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của phúc thẩm: bản chất của phúc thẩm; thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thủ tục xét xử phúc thẩm. Từ đó đưa ra khái niệm đầy đủ, hoàn chỉnh và khoa học về phúc thẩm; - Khái quát về quá trình phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS 1988; phân tích làm sáng tỏ nội dung các quy định pháp luật TTHS hiện hành về phúc thẩm có so sánh với BLTTHS sửa đổi mới được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI; - Khái quát về thực trạng phúc thẩm ở nước ta những năm gần đây; chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân để từ đó đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm và nâng cao hiệu quả phúc thẩm. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đã vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích - tổng hợp, thống kê, lịch sử, lôgíc - pháp lý,... để phân tích có phê phán các quan điểm khác nhau về vấn đề nghiên cứu. Tác giả đã tiến hành khảo sát và thu thập số liệu thống kê về thực tiễn phúc thẩm các vụ án hình sự ở TANDTC, một số TA cấp tỉnh và Viện phúc thẩm I VKSNDTC những năm gần đây. Những luận điểm khoa học trong luận án của tác giả được phát triển dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý ở nước ta và một số nước khác trên thế giới. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Đề tài có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trước hết, đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong sách báo pháp lý nước ta nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về phúc thẩm trong TTHS. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phát triển lý luận về phúc thẩm trong TTHS. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra được các luận cứ khoa học và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm và nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy trong các trường chuyên luật. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện BLTTHS sửa đổi và trong thực tiễn. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm ba chương, 7 mục. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. BẢN CHẤT CỦA PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm phúc thẩm trong tố tụng hình sự 1.1.1.1. Sự ra đời của chế định phúc thẩm và ý nghĩa của nó Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện quyền lực nhà nước - quyền tư pháp. Đây cũng là lĩnh vực rất nhạy cảm, bởi vì, nó trực tiếp đụng chạm đến các quyền tự do và dân chủ (kể cả tính mạng) của công dân. Mọi sai lầm dù lớn hay nhỏ trong quá trình xử lý đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có thể không bao giờ khắc phục được. Bởi vậy, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị can, bị cáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đạt được mục đích đặt ra của TTHS là "phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,… bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân". Đây cũng là một nội dung cấp thiết của việc bảo vệ quyền con người nói chung mà mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế đều quan tâm giải quyết. Trong Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động được thông qua ngày 25/6/1993 tại Hội nghị thế giới về Nhân quyền đã nhấn mạnh: Quyền con người và các quyền tự do cơ bản là quyền của mọi người được hưởng khi sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền đó là trách nhiệm trước tiên của các chính phủ... Việc đề cao và bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được coi là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc..., là mối quan tâm chính đáng của cộng đồng quốc tế... [25, tr. 657]. Vì vậy, các quốc gia đều chú ý điều chỉnh bằng pháp luật quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt là hoạt động xét xử các vụ án hình sự, nhằm tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ có hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, phát hiện và khắc phục kịp thời các sai sót về xét xử của các TA cấp dưới. Phúc thẩm trong TTHS là một trong các hình thức, phương tiện được các nước sử dụng nhằm đạt được mục đích này. Sự hình thành và phát triển của chế định phúc thẩm trong TTHS gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của TTHS như: nguyên tắc công bằng; nhân đạo; suy đoán vô tội; bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; xét xử công khai, trực tiếp và bằng lời nói;... Vì vậy, chế định phúc thẩm trong TTHS không thể tồn tại trong xã hội mà ở đó không có nền dân chủ. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người theo xu hướng ngày càng dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội (trong đó bao gồm cả lĩnh vực TTHS), các nguyên tắc nói trên ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Đến lượt mình, các nguyên tắc này tác động trở lại ở mức độ và phạm vi khác nhau đối với sự ra đời, phát triển và ngày càng hoàn thiện các chế định của TTHS, trong đó có chế định phúc thẩm. Bản chất dân chủ và tiến bộ là một trong những thuộc tính quan trọng của hệ thống tư pháp hình sự hiện đại. Sự ra đời của chế định phúc thẩm là một nhu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất của TTHS nhằm bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn quyền con người, các quyền tự do cơ bản của công dân trong lĩnh vực đặc thù này. Nền tư pháp không thể gọi là dân chủ và tiến bộ, nếu trong đó thiếu các bảo đảm pháp lý cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cả ở phương diện cá nhân người phạm tội cũng như ở phương diện Nhà nước. Với tính cách là nguyên tắc chung của pháp luật, nguyên tắc công bằng tác động mạnh mẽ đối với lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự. PGS.TS Võ Khánh Vinh đã rất có lý khi cho rằng, nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, với các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm, với dư luận xã hội, với ý thức pháp luật [78, tr. 105]. Mặt khác, nguyên tắc công bằng cũng đòi hỏi trong những điều kiện và hoàn cảnh phạm tội giống nhau, thì người phạm tội phải bị kết án và xử phạt như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế đòi hỏi này lại rất khó đạt được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan rất khác nhau: không thống nhất giữa các thẩm phán, giữa các TA về nhận thức và áp dụng pháp luật, đặc biệt là các quy định mang tính chất đánh giá tùy nghi. Để giảm bớt sự khác biệt trong việc tuyên phạt đối với người phạm tội giữa các TA và giữa các thẩm phán với nhau, cần có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó nếu bị cáo và đương sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có HLPL của TA cấp dưới, thì có thể yêu cầu TA cấp cao hơn xem xét lại phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm. Sự ra đời của TA cấp phúc thẩm còn xuất phát từ quan niệm của các nhà lập pháp cho rằng việc xét xử lại các vụ án có kháng cáo, kháng nghị ở TA cấp trên sẽ hạn chế được những sai sót về xét xử của các thẩm phán Tòa sơ thẩm. TA cấp trên sẽ xử đúng công lý hơn vì Tòa này gồm những thẩm phán cao niên, có kinh nghiệm hơn và ở xa các đương sự nên không chịu ảnh hưởng địa phương. Nguyên tắc hai cấp xét xử còn bắt buộc các thẩm phán Tòa cấp dưới phải thận trọng trong việc xét xử, nếu không án văn sẽ bị Tòa cấp trên tiêu hủy [27, tr. 67]. Như vậy, có thể thấy rằng, sự ra đời của chế định phúc thẩm trong TTHS là một nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Nó gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của TTHS. Trong điều kiện ngày nay, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đang trở thành xu hướng phát triển tất yếu của các quốc gia, chế định phúc thẩm trong TTHS ngày càng được hoàn thiện và trở thành một trong các hình thức, phương tiện pháp lý hữu hiệu được các nước sử dụng rộng rãi nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các quyền và tự do cơ bản của công dân. Với ý nghĩa đó, phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây: Một là, phúc thẩm là một trong những hình thức giám đốc xét xử chủ yếu của TA cấp trên đối với TA cấp dưới. Thông qua việc xét xử lại vụ án mà bản án hoặc quyết định chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị, TA cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL mà còn có phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của TA cấp dưới. Theo thống kê, số vụ án hình sự được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trung bình hàng năm chiếm gần 30% số vụ án đã xét xử sơ thẩm, trong số đó, các TA cấp phúc đã sửa, hủy án sơ thẩm hoặc tuyên bị cáo vô tội đối với khoảng 25 - 30% số bị cáo (xem Phụ lục số 2 và 3). Bằng quyền hạn của mình, TA cấp phúc thẩm ngăn chặn việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định có vi phạm pháp luật, góp phần pháp chế XHCN. Hai là, phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ và tiến bộ của TTHS. Chế định này buộc các TA cấp sơ thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không cho phép người đã kháng cáo hoặc VKS đã kháng nghị được bổ sung, thay đổi kháng cáo theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; không cho phép TA cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị theo hướng đó. Ba là, khi có kháng cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định chưa có HLPL, TA cấp phúc thẩm phải đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn nhất định. Vì vậy, phúc thẩm còn là một trong các phương tiện hữu hiệu để bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo. Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, TA cấp phúc thẩm hướng dẫn cho các TA cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh phòng và chống tội phạm. 1.1.1.2. Khái niệm phúc thẩm trong TTHS Trong khoa học luật TTHS, khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu ở các góc độ khác nhau cả ở nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, thì khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong các nghĩa sau đây: phúc thẩm là một giai đoạn của TTHS (giai đoạn phúc thẩm); phúc thẩm là một chế định (chế định phúc thẩm) của TTHS và phúc thẩm là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa rộng, khái niệm phúc thẩm được hiểu cả ở ba nghĩa (nội dung) nêu trên: phúc thẩm là một giai đoạn, một chế định của TTHS đồng thời là một thủ tục xét xử. Hay nói cách khác, khái niệm phúc thẩm trong TTHS bao gồm các yếu tố (nội dung) cấu thành nêu trên. Như vậy, xét về nội hàm, thì "phúc thẩm" là khái niệm rộng nhất, trong đó bao hàm các khái niệm hẹp: "Giai đoạn phúc thẩm", "chế định phúc thẩm" và "thủ tục xét xử phúc thẩm". Khi nói về phúc thẩm với nghĩa là một giai đoạn, một chế định của TTHS hoặc một thủ tục xét xử, tức là mới chỉ xem xét ở một góc độ nào đó của phúc thẩm (theo nghĩa hẹp của khái niệm này). Vì vậy, để có khái niệm đầy đủ về phúc thẩm hình sự, cần phải làm sáng tỏ các nội dung (yếu tố) cấu thành khái niệm "phúc thẩm". 1- Giai đoạn phúc thẩm: Quá trình giải quyết các vụ án hình sự (quá trình TTHS) được phân thành các giai đoạn có tính độc lập tương đối kế tiếp và liên quan chặt chẽ với nhau. Giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau. Ví dụ, để có thể đưa một vụ án ra xét xử thì phải có quyết định truy tố của VKS đối với các bị cáo trong vụ án đó và muốn truy tố thì phải có kết luận của cơ quan điều tra về vụ án. Ngoài các đặc điểm chung, mỗi giai đoạn tố tụng có một số dấu hiệu đặc trưng của riêng mình. So với các giai đoạn tố tụng khác, giai đoạn phúc thẩm có một số đặc điểm đặc trưng sau đây: - Nhiệm vụ trực tiếp của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL đồng thời xem xét lại vụ án về nội dung; - Giai đoạn phúc thẩm có phạm vi xác định các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng đặc trưng bao gồm: TA cấp phúc thẩm, VKS cấp phúc thẩm; những người có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác mà TA cấp phúc thẩm thấy cần thiết triệu tập tham gia phiên tòa. Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, chủ thể tham gia ở giai đoạn tố tụng này còn bao gồm cả TA cấp sơ thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị, xác minh lý do kháng cáo quá hạn) và VKS cấp sơ thẩm (trong việc kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL); - Các thủ tục tố tụng được tiến hành ở giai đoạn phúc thẩm có những đặc thù: về thủ tục kháng cáo, kháng nghị và thông báo kháng cáo, kháng nghị; thành phần HĐXX phúc thẩm chỉ bao gồm các thẩm phán chuyên nghiệp (trừ trường hợp cần thiết mới có hội thẩm nhân dân tham gia); ngoài các thủ tục giống như phiên tòa sơ thẩm, thủ tục phiên tòa phúc thẩm có một số đặc thù: phiên tòa phúc thẩm được khai mạc không phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử; trước khi tiến hành xét hỏi, việc công bố cáo trạng của kiểm sát viên được thay thế bằng việc một thành viên HĐXX phúc thẩm tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị; việc luận tội của kiểm sát viên ở phần tranh luận được thay thế bằng việc trình bày kết luận của VKS về hình thức và nội dung kháng cáo, kháng nghị; về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm; đề nghị chấp nhận hay bác kháng cáo, kháng nghị... - Đặc điểm đặc trưng của các quan hệ pháp luật tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng: giữa TA cấp sơ thẩm và TA cấp phúc thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị; xác minh lý do kháng cáo quá hạn,...; giữa VKS cấp sơ thẩm và VKS cấp phúc thẩm (trong việc kháng nghị bản án sơ thẩm); TA cấp phúc thẩm và VKS cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án;... - Hình thức thể hiện kết quả giải quyết vụ án ở giai đoạn tố tụng này: bản án phúc thẩm hoặc quyết định phúc thẩm (đình chỉ việc xét xử phúc thẩm, đình chỉ vụ án,...). Với tư cách là một giai đoạn độc lập và bắt buộc của quá trình TTHS, giai đoạn phúc thẩm tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào việc bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hay không. Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Nó được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được tuyên và kết thúc khi bản án, quyết định sơ thẩm có HLPL hoặc được thay thế bằng bản án, quyết định phúc thẩm. Có ý kiến cho rằng, phúc thẩm không phải là một giai đoạn độc lập của quá trình TTHS mà phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án (quyết định) sơ thẩm trong thời hạn luật định. Bởi vì, sau khi xét xử sơ thẩm, không phải tất cả các vụ án hình sự, mà chỉ có những vụ án mà bản án có kháng cáo, kháng nghị mới được đưa ra xét xử phúc thẩm [102, tr. 9]. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ý kiến này đã sai lầm khi đồng nhất "giai đoạn phúc thẩm" với "thủ tục xét xử phúc thẩm". Đối với một vụ án cụ thể, thủ tục xét xử phúc thẩm không phải là bắt buộc. Thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án (quyết định) sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp bản án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì mặc dù không phải tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án đó, nhưng đối với vụ án đó giai đoạn phúc thẩm vẫn tồn tại và được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được tuyên và kết thúc khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và bản án có HLPL. Giai đoạn phúc thẩm có thể dài, ngắn khác nhau tùy thuộc vào việc kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể và quá trình giải quyết đối với từng vụ án cụ thể. Ví dụ, đối với vụ án được xét xử trong trường hợp có mặt đầy đủ những người có quyền kháng cáo tại phiên tòa sơ thẩm, thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc, nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo quy định (30 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm) không có ai kháng cáo, kháng nghị. Đối với trường hợp vụ án tuy có kháng cáo hoặc kháng nghị, nhưng sau đó người đã kháng cáo hoặc VKS kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa, thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc ở thời điểm TA cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án. Còn đối với các vụ án khác thì giai đoạn phúc thẩm kết thúc sau khi tuyên án phúc thẩm. 2- Chế định phúc thẩm: Về mặt lý luận, pháp luật của mỗi quốc gia nói chung và pháp luật của Việt Nam nói riêng, là một hệ thống những quy tắc xử sự (các quy phạm pháp luật) do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hệ thống này được phân thành các tiểu hệ thống nhỏ hơn - các ngành luật. Mỗi ngành luật là một tiểu hệ thống các quy tắc xử sự (quy phạm pháp luật) điều chỉnh một loại quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội (hình sự, dân sự, kinh tế,...). Đến lượt mình, mỗi ngành luật lại được chia thành các chế định pháp lý và mỗi chế định này bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất. Pháp luật TTHS cũng bao gồm các chế định pháp lý khác nhau. Với tư cách là một chế định của pháp luật TTHS, phúc thẩm là một tiểu hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tham gia vào giai đoạn tố tụng này. Các quy phạm pháp luật này không chỉ bao gồm các quy định trong BLTTHS của mỗi quốc gia mà cả các quy phạm trong các văn bản luật và dưới luật khác. Ví dụ: ở nước ta chế định phúc thẩm trong TTHS không chỉ bao gồm các quy phạm ở Phần thứ tư "Xét lại bản án và quyết định chưa có HLPL theo thủ tục phúc thẩm", mà cả các quy định khác của BLTTHS như: các nguyên tắc cơ bản; các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm (các điều 159, 163, 171-194, 196,... BLTTHS) được áp dụng khi xét xử phúc thẩm. Một số lượng khá lớn quy phạm về phúc thẩm trong TTHS còn được chứa đựng trong các văn bản luật (như Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND,...) và văn bản dưới luật (như Pháp lệnh tổ chức TAQS, Pháp lệnh tổ chức VKSQS; các thông tư liên tịch, các nghị quyết của HĐTP TANDTC,... về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLTTHS). ._. 3- Thủ tục xét xử phúc thẩm: Phúc thẩm là một trong những hình thức giám đốc việc xét xử của TA cấp trên đối với TA cấp dưới. Thủ tục xét xử phúc thẩm đối với một vụ án chỉ phát sinh khi bản án (quyết định) sơ thẩm về vụ án đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật. Vì vậy, không phải tất cả các vụ án hình sự sau khi xét xử sơ thẩm đều được xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc thẩm sẽ kết thúc sau khi TA cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó. Như vậy, thời điểm bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm và thời điểm bắt đầu của thủ tục xét xử phúc thẩm là khác nhau. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm là cố định, không thay đổi và sớm hơn: ngay sau khi tuyên bản án (quyết định) sơ thẩm. Còn thời điểm bắt đầu thủ tục phúc thẩm phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật và được xác định từ thời điểm TA nhận được kháng cáo, kháng nghị. Còn thời điểm kết thúc giai đoạn phúc thẩm và thời điểm kết thúc thủ tục phúc thẩm chỉ trùng nhau trong trường hợp vụ án có kháng cáo, kháng nghị: ngay sau khi TA cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định phúc thẩm. Đối với vụ án không có kháng cáo, kháng nghị, thủ tục phúc thẩm không phát sinh, vì vậy, không thể có thời điểm bắt đầu và kết thúc thủ tục này. Những nội dung nêu trên về phúc thẩm mới chỉ khái quát được các yếu tố (nội dung) cơ bản cấu thành khái niệm phúc thẩm. Để làm sáng tỏ bản chất pháp lý của phúc thẩm trên cơ sở đó đưa ra một khái niệm đầy đủ, chính xác về phúc thẩm trong TTHS, cần làm sáng tỏ các vấn đề khác của phúc thẩm như tính chất của phúc thẩm, thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thủ tục xét xử phúc thẩm. 1.1.2. Tính chất của phúc thẩm trong tố tụng hình sự Tính chất của phúc thẩm là vấn đề quan trọng và quyết định bản chất của phúc thẩm trong TTHS và các nội dung khác như: phạm vi xét xử phúc thẩm, quyền hạn và thủ tục xét xử phúc thẩm của chế định này. Đây cũng là vấn đề được các nhà khoa học cũng như cán bộ thực tiễn chú ý và tranh cãi khá gay gắt, kéo dài những năm gần đây với những quan điểm rất khác nhau. Có thể chia các quan điểm này thành hai nhóm chính sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng, phúc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó TA cấp trên trực tiếp xét lại các bản án, quyết định chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều đó có nghĩa là tính chất của phúc thẩm chỉ là "xét lại" chứ không phải là "xét xử lại" [73, tr. 262], [74, tr. 287], [104, tr. 408]; … Quan điểm thứ hai cho rằng, TA cấp phúc thẩm không chỉ có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn xét xử cả về nội dung vụ án [46, tr. 144]. Vì vậy, tính chất của phúc thẩm không phải là xét lại mà là xét xử lại các vụ án [41, tr. 10-11], mà bản án (quyết định) chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Thực chất sự khác nhau cơ bản giữa hai quan điểm nêu trên về tính chất của phúc thẩm chủ yếu là ở chỗ xác định phúc thẩm có phải là một cấp xét xử hay không? Chúng tôi cho rằng, vấn đề này liên quan trực tiếp đến nguyên tắc "hai cấp xét xử". Sự tồn tại hay không tồn tại (tức là thừa nhận hay phủ nhận) nguyên tắc này là cơ sở để khẳng định trong TTHS có tồn tại hay không chế định phúc thẩm và tính chất của nó: nếu trong TTHS tồn tại nguyên tắc này thì có phúc thẩm và khi đó TA cấp phúc thẩm phải là cấp xét xử thứ hai, tức là cấp xét xử lại vụ án, mà bản án (quyết định) chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Ngược lại, nếu trong TTHS không có nguyên tắc "hai cấp xét xử", thì chế định phúc thẩm và TA cấp phúc thẩm không tồn tại. Mặt khác, cũng cần phải khẳng định rằng, nguyên tắc "hai cấp xét xử" sẽ không thể tồn tại, nếu trong TTHS chỉ có một cấp xét xử là Tòa sơ thẩm. Bởi vì, TA cấp giám đốc thẩm và tái thẩm chưa bao giờ được thừa nhận là một cấp xét xử, mà chỉ được coi là thủ tục tố tụng đặc biệt có nhiệm vụ "xét lại" những bản án, quyết định đã có HLPL. Như đã đề cập ở mục 1.1.1, sự hình thành và phát triển nguyên tắc "hai cấp xét xử" (và các nguyên tắc khác như: nguyên tắc công bằng; suy đoán vô tội; bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo;...) của TTHS gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng dân chủ và tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Để bảo đảm dân chủ và công bằng, kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời tạo sự thống nhất ở mức độ nhất định trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các thẩm phán, giữa các TA với nhau, cần thiết phải có một trình tự (thủ tục tố tụng) để xem xét lại các phán quyết chưa có HLPL của TA cấp dưới khi có yêu cầu (kháng cáo) của bị cáo và đương sự hoặc yêu cầu (kháng nghị) của VKS. Như vậy, trong TTHS nguyên tắc "hai cấp xét xử" ra đời cùng với TA thực hiện nhiệm vụ này là TA cấp phúc thẩm. Cùng với xu hướng dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực TTHS, nguyên tắc "hai cấp xét xử" ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Ngày nay, nguyên tắc này được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận và trong hệ thống tư pháp nói chung và tư pháp hình sự nói riêng của mỗi nước đều có các Tòa phúc thẩm hoạt động để thực hiện chức năng xét xử lại các vụ án hình sự, mà bản án (quyết định) chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Tuy nhiên, nguyên tắc này được áp dụng ở những phạm vi và mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước trong từng giai đoạn cụ thể. Do những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể (chiến tranh, trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội chưa phát triển,..), trong một giai đoạn nhất định ở một số nước chưa áp dụng hoặc áp dụng hạn chế nguyên tắc "hai cấp xét xử" trong tố tụng nói chung và TTHS nói riêng. Ví dụ, trong giai đoạn từ 1945 - 1957, ở nước ta theo Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 và Sắc Lệnh 156/SL ngày 17/11/1950, thì tất cả những vụ án phản cách mạng thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS và không áp dụng nguyên tắc "hai cấp xét xử". Đối với các vụ án này chỉ xét xử theo một trình tự sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Bản án sau khi tuyên có hiệu lực thi hành ngay, không ai có quyền kháng cáo, kháng nghị [70, tr. 28-33]. Còn đối với các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của hệ thống TA thường thì chế độ hai cấp xét xử vẫn được thực hiện đầy đủ [46, tr. 147]. Nguyên tắc "hai cấp xét xử" và tính chất xét xử lại của phúc thẩm đã được ghi nhận ngay trong các văn bản pháp luật đầu tiên do Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Tại Điều 41 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định thẩm quyền của Tòa thượng thẩm như sau: Sau khi nghe bị can, các người chứng, cáo trạng của ông Chưởng lý và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai hội thẩm và hai phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để cùng quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng nặng và trường hợp giảm tội [8, tr. 195]. Luật tổ chức TAND năm 1960 được ban hành trên cơ sở Hiến pháp 1959 đã chính thức ghi nhận nguyên tắc "hai cấp xét xử": "Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của TAND cấp sơ thẩm lên TAND trên một cấp. VKS cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND..." (Điều 9). Thông tư số 03/NCPL ngày 19/5/1967 và Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 của TANDTC cũng đều xác định "chức năng của TAND cấp phúc thẩm là xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm, khi bản án chưa có HLPL bị kháng cáo hay kháng nghị" [48, tr. 207-208]. Trong Luật tổ chức TAND năm 1981 và 1993, mặc dù nguyên tắc hai cấp xét xử không chính thức được ghi nhận lại, nhưng trên thực tế, nguyên tắc "hai cấp xét xử" vẫn được thừa nhận và TA cấp phúc thẩm vẫn xét xử lại vụ án về mặt nội dung. Luật tổ chức TAND năm 2002 (được thông qua ngày 02/4/2002 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa X) đã quy định nguyên tắc "TAND thực hiện chế độ hai cấp xét xử" (Điều 11). Điều 20 BLTTHS sửa đổi (được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI) đã ghi nhận nguyên tắc này. Pháp luật của các nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận nguyên tắc "hai cấp xét xử". Tại Điều 5 BLTTHS mới của CHLB Nga (được Đuma quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và Hội đồng Liên bang Nga phê chuẩn ngày 05/12/2001) [80] xác định cấp phúc thẩm là "TA giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm và TA cấp chống án chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị". Theo pháp luật của Đan Mạch, thì TA cấp cao xét xử phúc thẩm những vụ án do các TA cấp khu vực xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; TATC xét xử phúc thẩm những bản án sơ thẩm của TA cấp cao bị kháng cáo, kháng nghị [90, tr. 71-74]. Ở CHLB Đức, TA khu vực cấp cao (TA bang) có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án sơ thẩm của TA khu vực có kháng cáo, kháng nghị [90, tr. 122]. Tại Australia, TA tối cao bang có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định của TA cấp dưới có kháng cáo, kháng nghị; TA tối cao liên bang có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án có kháng cáo, kháng nghị của Tòa Thượng thẩm của các bang [90, tr. 109-115]. Tại Nhật Bản, TA cấp trên xem xét theo trình tự phúc thẩm các bản án sơ thẩm, nếu có kháng cáo của bị cáo hoặc kháng nghị của công tố viên [90, tr. 25-42],... Ngoài ra, pháp luật của các nước còn gián tiếp xác định TA cấp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai thông qua việc cho phép áp dụng tại phiên tòa phúc thẩm các quy định về thủ tục tố tụng ở phiên toà sơ thẩm, nếu không có quy định khác. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập đầy đủ hơn ở mục 1.3 của luận án. Từ phân tích trên có thể khẳng định rằng, tính chất của phúc thẩm trong TTHS là xét xử lại các vụ án, mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị. Việc xác định tính chất của phúc thẩm trong BLTTHS 1988 và BLTTHS sửa đổi của nước ta là "xét lại..." (như tính chất của giám đốc thẩm) là không chính xác, mâu thuẫn với nguyên tắc "TA thực hiện chế độ hai cấp xét xử" quy định tại Điều 20 BLTTHS sửa đổi. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của TS. Nguyễn Văn Hiện khi cho rằng: "Việc đồng nhất tính chất của giám đốc thẩm và phúc thẩm là không có căn cứ cả về lý luận và thực tiễn, bởi vì đây là hai giai đoạn tố tụng khác nhau về bản chất và yêu cầu tố tụng" [21, tr. 171]. 1.1.3. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm và đối tượng của xét xử phúc thẩm 1.1.3.1. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm Theo Từ điển tiếng Việt, thì thẩm quyền xét xử là "sự phân định thẩm quyền xét xử (giải quyết) các vụ án giữa các TA với nhau" [97, tr. 459]. Từ khái niệm này đó có thể thấy rằng, thẩm quyền xét xử phúc thẩm cũng là sự phân định thẩm quyền giải quyết các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị giữa các TA cấp trên. Nó xác định TA cấp trên nào xét xử lại các vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm của những người có quyền kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định, thì vụ án sẽ được xem xét lại ở TA cấp cao hơn. Như vậy, khác với thẩm quyền xét xử sơ thẩm được xác định trực tiếp trong pháp luật, thẩm quyền xét xử phúc thẩm TA được xác định gián tiếp trên cơ sở thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TS. Nguyễn Văn Huyên đã có nhận xét rất đúng khi cho rằng, thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định thẩm quyền của TA các cấp. Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền của TA các cấp, trước hết phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm [22, tr. 22]. Nói chung, pháp luật của hầu hết các nước đều quy định TA có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án là TA cấp trên trực tiếp của TA đã xét xử sơ thẩm vụ án mà bản án, quyết định chưa có HLPL có kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh đó, pháp luật của một số nước (Nhật Bản, Hàn Quốc,...) còn cho phép TA tối cao (TA cấp trên không trực tiếp) có thể xem xét vụ án theo trình tự phúc thẩm trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ: BLTHS của Hàn Quốc [83] quy định: Trong các trường hợp sau đây có thể kháng cáo lên TA tối cao mà không cần qua TA cấp cao đối với bản án sơ thẩm: 1. Khi TA không áp dụng đúng luật và văn bản dưới luật đối với các sự kiện đã được công nhận trong bản án sơ thẩm hoặc có sai sót trong việc áp dụng các đạo luật và văn bản dưới luật; 2. Khi hình phạt đã bị hủy bỏ hoặc thay đổi hoặc lệnh tổng ân xá đã được công bố sau khi đã có bản án sơ thẩm (Điều 372). Tuy nhiên, trong trường hợp nếu đơn kháng cáo này đã gửi đến TA cấp cao, thì TA tối cao sẽ không xem xét (Điều 373). 1.1.3.2. Đối tượng của xét xử phúc thẩm Sau khi xét xử sơ thẩm trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị, thì vụ án hình sự được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm ở TA cấp cao hơn. Tuy nhiên, về đối tượng của xét xử phúc thẩm trong khoa học TTHS còn có nhận thức không thống nhất tập trung ở hai loại quan điểm sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng, đối tượng của xét xử phúc thẩm là những bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị [73, tr. 262], [74, tr. 287], [104, tr. 408]. Quan điểm này dựa trên cơ sở quy định của BLTTHS nước ta (Điều 204) và BLTTHS của một số nước khác (Australia, Nhật Bản,...). Quan điểm thứ hai cho rằng, đối tượng của xét xử phúc thẩm là những vụ án mà bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị. Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ hai về đối tượng của xét xử phúc thẩm chính xác và có căn cứ hơn. Theo quy định các điều 19, 24, 28 và 30 Luật tổ chức TAND năm 1993; các điều 20, 24, Điều 30 Luật tổ chức TAND năm 2002; Điều 18 và Điều 22 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002, thì đối tượng của phúc thẩm được xác định là những vụ án mà bản án (quyết định) chưa có HLPL của TA cấp dưới bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Pháp luật của một số nước: Điều 5 BLTTHS (2001) CHLB Nga [80], CHLB Đức [90, tr. 122] cũng xác định đối tượng của xét xử phúc thẩm trong TTHS là những vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị. Mặt khác, theo Từ điển tiếng Việt, thì "đối tượng" được hiểu là "vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ và hành động" [97, tr. 328]. Hoạt động xét xử của TA là nhằm xác định sự thật khách quan về vụ án. Để đạt được mục đích đó, TA nói chung và TA cấp phúc thẩm nói riêng, phải xem xét, đánh giá toàn bộ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ cũng như các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa, trong đó có bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL. Bản án, quyết định sơ thẩm chỉ là một trong các văn bản tố tụng phản ánh kết quả giải quyết vụ án của TA cấp sơ thẩm và chỉ là một trong những nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh về vụ án được TA cấp phúc thẩm xem xét cùng với các chứng cứ khác khi xét xử lại vụ án tại phiên tòa. Do đó, đối tượng của xét xử nói chung và xét xử phúc thẩm nói riêng chỉ có thể là các vụ án. Từ phân tích trên, có căn cứ để khẳng định rằng đối tượng của xét xử phúc thẩm chỉ có thể là những vụ án mà bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị (chứ không phải và không thể là những bản án (quyết định) chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị). 1.1.4. Phân biệt phúc thẩm với cấp giám đốc thẩm, tái thẩm Sự khác nhau cơ bản giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm hoặc tái thẩm chủ yếu thể hiện ở tính chất xét xử và thủ tục tố tụng. Các yếu tố khác như phạm vi xem xét và quyền hạn giữa cấp phúc thẩm và các thủ tục tố tụng đặc biệt này chỉ khác nhau về chi tiết. 1- Về tính chất (nhiệm vụ): Đây là căn cứ cơ bản và quan trọng nhất để phân biệt phúc thẩm và các thủ tục đặc biệt. Phúc thẩm là "cấp xét xử thứ hai" có nhiệm vụ không chỉ xem xét về mặt áp dụng luật (kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án) mà còn xét xử lại vụ án về nội dung. Còn cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là những thủ tục tố tụng đặc biệt để kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị (hoặc kháng cáo). Các cấp này chỉ xem xét về mặt áp dụng luật mà không xét xử vụ án về nội dung. 2- Về đối tượng xem xét: Sự khác nhau giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm thể hiện ở chỗ đối tượng của xét xử phúc thẩm chỉ có thể là những vụ án mà bản án (quyết định) chưa có HLPL, còn đối tượng của giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có thể những vụ án mà bản án (quyết định) đã có HLPL. 3- Về phạm vi xem xét (giới hạn xét xử): Sự khác nhau giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm không rõ ràng. Pháp luật TTHS của một số nước cho phép cả cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm xem xét vụ án không phụ thuộc vào nội dung kháng cáo, kháng nghị (Điều 332 và Điều 380 BLTTHS 1993 của CHLB Nga; Điều 134 và 149 BLTTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,...). Pháp luật của một số nước khác (BLTTHS của Cộng hòa Pháp, BLTTHS Hàn Quốc, BLTTHS 2001 của CHLB Nga (Điều 360),...) chỉ cho phép Tòa phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nhưng đối với cấp giám đốc thẩm thì có quyền xem xét toàn bộ vụ án mà không phụ thuộc vào nội dung của kháng nghị. Riêng phạm vi xem xét của cấp tái thẩm chỉ xoay quanh các tình tiết mới mà chúng là căn cứ để tái thẩm vụ án. 4- Về quyền hạn của TA cấp phúc thẩm, cấp giám đốc thẩm, tái thẩm: * Quyền hạn của TA cấp phúc thẩm được pháp luật các nước quy định về cơ bản là giống nhau và bao gồm các quyền sau đây: - Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu xét thấy không có căn cứ để thỏa mãn kháng cáo, kháng nghị; - Sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hoặc tăng nặng đối với bị cáo, nếu có căn cứ mà pháp luật quy định. Riêng về quyền hạn này của TA cấp phúc thẩm, cũng có nước không cho phép TA cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng tăng nặng đối với bị cáo, kể cả trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị (Điều 387 BLTTHS 2001 của CHLB Nga) [80]; - Hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án, nếu có căn cứ mà pháp luật quy định. * Quyền hạn của TA cấp giám đốc thẩm được pháp luật của các nước quy định tương đối giống nhau bao gồm các quyền sau: - Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu xét thấy không có căn cứ; - Hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án, nếu có căn cứ. Riêng quyền hạn này, cũng có nước cho phép sửa bản án theo hướng giảm nhẹ cho người bị kết án (Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,...). * Quyền hạn của TA cấp tái thẩm được pháp luật của các nước quy định hoàn toàn giống nhau bao gồm các quyền sau: - Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu xét thấy không có căn cứ để tái thẩm; - Hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án, nếu có căn cứ để tái thẩm theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể thấy rằng sự khác nhau về quyền hạn giữa TA phúc thẩm và TA cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu thể hiện ở quyền hạn về sửa bản án, quyết định của TA cấp dưới. Còn quyền hạn bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của TA cấp dưới hoặc hủy bản án, quyết định của TA cấp dưới chỉ khác nhau về chi tiết. 5- Về thủ tục tố tụng: Pháp luật của phần lớn các nước đều quy định việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự được tiến hành tại phiên tòa công khai và về cơ bản, thì các quy định về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đều được áp dụng đối với phiên tòa phúc thẩm (xét xử công khai, trực tiếp, liên tục và bằng lời nói; trình tự phiên tòa phúc thẩm cũng giống như phiên tòa sơ thẩm; các bên tranh tụng với nhau về các nội dung kháng cáo, kháng nghị,...). Tuy nhiên, cũng có một số nước (Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippin,...) cho phép trong một số trường hợp nhất định, TA cấp phúc thẩm xét xử vụ án không phải mở phiên tòa (phúc thẩm theo bút lục). Giám đốc thẩm, tái thẩm đều được các nước coi là những thủ tục tố tụng đặc biệt. Phiên tòa giám đốc thẩm (tái thẩm) không phải là phiên tòa theo đúng nghĩa (xét xử) của nó, mà được tiến hành như một phiên họp để kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở hồ sơ và các tài liệu đã có sẵn. Các nguyên tắc như xét xử công khai, trực tiếp, liên tục và bằng lời nói; nguyên tắc tranh tụng;… không thể áp dụng đối với thủ tục này. Việc triệu tập bị cáo và các đương sự không bắt buộc. Vì vậy, các thủ tục này còn được gọi là thủ tục xét xử bút lục. 1.2. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm 1.2.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền của TA Thẩm quyền của TA nói chung là một khái niệm rất rộng và có nội dung phức tạp của khoa học pháp lý. Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong TTHS chỉ là một nội dung nhỏ của khái niệm này. Đây là mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng", giữa cái "tổng thể" và cái "bộ phận". Vì vậy, để làm rõ các khái niệm này phải xuất phát từ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bất kỳ quyền lực nhà nước nào cũng đều bao gồm ba quyền năng có tính độc lập tương đối với nhau là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Dù được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền hay tập quyền, thì các cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng được phân công tham gia vào việc thực hiện một trong ba nhánh quyền lực đó. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia, nhưng có sự phân công, phân nhiệm rành mạch giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp có thể hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, quyền tư pháp bao gồm hoạt động của các cơ quan điều tra, VKS, TA và các cơ quan bổ trợ tư pháp. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, thì TA là cơ quan xét xử, là chức năng trung tâm [95, tr. 117], nơi biểu hiện tập trung nhất của quyền tư pháp [23, tr. 1-2]. Theo nghĩa hẹp, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử và là thẩm quyền riêng biệt chỉ thuộc về một hệ thống cơ quan trong bộ máy quyền lực nhà nước (TA) chuyên thực hiện chức năng tài phán nhân danh nhà nước để xét xử các vụ án [7, tr. 12]. Để bảo đảm cho TA có thể thực hiện được chức năng này, nhà nước đã quy định trong pháp luật những quyền năng pháp lý của TA trong việc xem xét và giải quyết các vụ án ở một phạm vi (giới hạn) nhất định. Tổng hợp các quyền năng pháp lý của TA được pháp luật quy định gọi là thẩm quyền của TA. Thẩm quyền của TA là một khái niệm có nội dung rộng bao gồm nhiều quyền của TA trong quá trình giải quyết các vụ án. Thẩm quyền của TA trong mỗi lĩnh vực tố tụng (TTHS, TTDS, kinh tế, hành chính,…) không giống nhau. Ngay trong TTHS, khái niệm thẩm quyền của TA cũng được xem xét ở những góc độ khác nhau. Theo Từ điển Luật học, thì thẩm quyền của TA là "quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề pháp luật" [77, tr. 890]. ThS. Nguyễn Văn Tiến cho rằng, thẩm quyền của TA bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi (giới hạn) xét xử và quyền hạn quyết định của TA đối với các vụ án [47, tr. 8]. Khi đề cập về thẩm quyền của TA cấp giám đốc thẩm, TS. Nguyễn Văn Hiện cho rằng, thẩm quyền này là "tập hợp các quy định pháp luật TTHS liên quan đến việc giao vụ án... cho cấp TA nào giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và quyền ra các quyết định của TA... trong quá trình giải quyết vụ án" [20, tr. 7]. Theo TS. Nguyễn Văn Huyên, thì thẩm quyền xét xử và quyền quyết định của TA là hai nội dung quan trọng có mối liên hệ hữu cơ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của TA [22, tr. 19]. Như vậy, có thể thấy rằng, tuy xem xét ở các góc độ khác nhau, nhưng các tác giả đều thừa nhận khái niệm thẩm quyền của TA bao gồm các quyền khác nhau của TA trong quá trình giải quyết vụ án. Theo tính chất, có thể phân thẩm quyền của TA thành thẩm quyền về hình thức (quyền xem xét) và thẩm quyền về nội dung (quyền quyết định) đối với các vụ án cụ thể. Đây là hai nội dung (hai yếu tố) có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau một cách biện chứng để tạo nên thẩm quyền của TA. Hay nói cách khác, thẩm quyền của TA là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố (nội dung) có liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức (quyền xem xét) và thẩm quyền về nội dung (quyền quyết định). Thiếu một trong hai yếu tố này thì thẩm quyền của TA sẽ trở nên vô nghĩa. Bởi vì, TA chỉ có thể ra các quyết định về vụ án sau khi đã xem xét nó, và ngược lại, việc xem xét vụ án chỉ có ý nghĩa khi có những quyết định cụ thể về vụ án. Thẩm quyền về hình thức của TA xác định các loại vụ việc nào (hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính) thuộc thẩm quyền giải quyết của TA và giới hạn (phạm vi) giải quyết của TA đối với các vụ việc đó. Hay nói cách khác, thẩm quyền về hình thức của TA là quyền của TA trong việc xem xét (giải quyết) các vụ án theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền về hình thức của TA được thể hiện ở thẩm quyền xét xử và giới hạn (phạm vi) xét xử của các cấp TA đối với các vụ án. Thẩm quyền xét xử của TA xác định loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp TA nào. Còn giới hạn (hay phạm vi) xét xử xác định TA có quyền giải quyết ở mức độ (giới hạn) nào đối với các vụ án đang xem xét. Thẩm quyền về nội dung (hay quyền hạn) của TA xác định TA có quyền quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án khi xem xét chúng. Nó xác định TA được làm những gì, trong điều kiện nào, tức là xác định các quyền hạn của TA các cấp (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) trong việc quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án. Thẩm quyền về hình thức của TA là cơ sở để xác định thẩm quyền về nội dung. Bởi vì, để xác định xem TA có quyền quyết định về vụ án hay không, trước hết phải xác định vụ án đó có thuộc thẩm quyền xét xử của TA hay không? Nếu thuộc thẩm quyền của TA thì được xem xét trong phạm vi (giới hạn) nào? Mặt khác, khi xét xử vụ án, TA phải giải quyết các quan hệ pháp luật phát sinh từ vụ án đó trên cơ sở các quy định của pháp luật về nội dung. Vì vậy, khi ra các quyết định cụ thể về vụ án, TA căn cứ không chỉ vào các quy định của pháp luật tố tụng, mà cả các quy định của pháp luật nội dung (hình sự, dân sự, lao động,...). Ví dụ: khi xét xử vụ án hình sự về tội "giết người", ngoài việc quyết định về tội danh, áp dụng điều khoản BLHS và hình phạt đối với bị cáo, TA còn giải quyết cả vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, xử lý vật chứng, án phí,... Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm chung về thẩm quyền của TA như sau: Thẩm quyền của TA là toàn bộ các quyền năng pháp lý (quyền hạn) mà pháp luật dành cho TA trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về vụ án trong một giới hạn (phạm vi) nhất định. Các TA đều thực hiện chức năng xét xử, nhưng mỗi cấp TA tham gia vào việc thực hiện chức năng này ở những mức độ, phạm vi khác nhau. Bởi vậy, mỗi cấp TA được pháp luật dành cho các quyền hạn hay thẩm quyền khác nhau trong việc xét xử các vụ án. Theo tính chất của các vụ án mà TA giải quyết, có thể chia thẩm quyền của TA thành các loại sau: - Thẩm quyền của TA trong TTHS (thẩm quyền về hình sự); - Thẩm quyền của TA trong tố tụng dân sự (thẩm quyền về dân sự); - Thẩm quyền của TA trong tố tụng kinh tế (thẩm quyền về kinh tế); - Thẩm quyền của TA trong tố tụng lao động (thẩm quyền về lao động); - Thẩm quyền của TA trong tố tụng hành chính (thẩm quyền về hành chính). Theo cấp xét xử, có thể phân thẩm quyền của TA thành các loại sau: - Thẩm quyền của TA cấp sơ thẩm; - Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm; - Thẩm quyền của TA cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. 1.2.1.2. Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và các căn cứ xác định 1- Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm: trong TTHS thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm cũng bao gồm hai yếu tố (nội dung) cấu thành là thẩm quyền xem xét (thẩm quyền về hình thức) và thẩm quyền quyết định các vấn đề về vụ án (thẩm quyền về nội dung). Thẩm quyền xem xét của TA cấp phúc thẩm bao gồm thẩm quyền xét xử phúc thẩm (đã xem xét ở mục 1.1.3 của luận án); phạm vi các vụ án hình sự có thể được xem xét lại ở cấp thứ hai (các vụ án có thể kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm) và phạm vi xét xử phúc thẩm (đối với các vụ án thuộc thẩm quyền). Thẩm quyền quyết định của TA cấp phúc thẩm thể hiện ở các quyền hạn của TA khi xét xử theo thủ tục phúc thẩm các vụ án bị kháng cáo hoặc kháng nghị (các vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập đầy đủ hơn ở các mục 1.1.3 và 1.1.4 của luận án). Từ phân tích trên, có thể rút ra khái niệm thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong TTHS như sau: Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong TTHS là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho TA cấp trên trực tiếp trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự do các TA cấp dưới xét xử, mà bản án (quyết định) chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. 2- Các căn cứ xác định thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm: thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong TTHS được xác định trong pháp luật của các nước rất khác nhau, nhưng đều dựa trên một số căn cứ chung sau đây: - Các nguyên tắc cơ bản của TTHS; - Sự phân định các chức năng cơ bản trong TTHS; - Sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự; - Tính chất và nhiệm vụ của TA cấp phúc thẩm trong TTHS; - Nội dung kháng cáo, kháng nghị. a) Các nguyên tắc cơ bản của TTHS là một trong những căn cứ quan trọng để xác định thẩm quyền của TA nói chung và thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm nói riêng. Các nguyên tắc của TTHS liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất và là cơ sở để xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật TTHS và các chế định cụ thể của nó, trong đó có chế định về phúc thẩm. Trong số các nguyên tắc này, thì các nguyên tắc: hai cấp xét xử; suy đoán vô tội; bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; TA xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;... có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của TA trong TTHS nói chung và của TA cấp phúc thẩm nói riêng. Việc qui định thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định về vụ án hình sự phải phù hợp với các nguyên tắc của TTHS. "Hai cấp xét xử" là một nguyên tắc được pháp luật của hầu hết các nước thừa nhận và áp dụng trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Theo nguyên tắc này, sau khi xét xử sơ thẩm, nếu bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì vụ án được xét xử lại ở TA cấp trên. Khi xét xử lại vụ án, TA cấp phúc thẩm không chỉ xem xét về mặt áp dụng luật mà còn giải quyết về nội dung vụ án. Như vậy, nguyên tắc hai cấp xét xử không chỉ là một trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống TA, trong đó có TA cấp phúc thẩm, là một trong những bảo đảm quan trọng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, các đương sự, mà còn là căn cứ để xác định tính chất, nhiệm vụ và quyền hạn của TA cấp phúc thẩm (vấn đề này sẽ được đề cập đầ._.trụ sở tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Mỗi Toà phúc thẩm và Viện phúc thẩm này phải đảm nhận một địa bàn xét xử phúc thẩm trên phạm vi từ 12 đến 27 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Với địa bàn quản hạt quá rộng như vậy và phải tổ chức các phiên toà xét xử phúc thẩm lưu động tại địa phương. Mỗi đợt xét xử phúc thẩm các HĐXX phải ở tại các địa phương dài ngày và trong nhiều trường hợp phải hoãn phiên tòa vì các lý do khác nhau (bị cáo, đương sự, luật sư bào chữa,... vắng mặt). Do đó các Toà phúc thẩm TANDTC và Viện phúc thẩm VKSNDTC mất rất nhiều thời gian, công sức trong việc đi lại và tổ chức các phiên toà lưu động, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả hoạt động phúc thẩm. Đây cũng là một trong những lý do, nguyên nhân dẫn đến sự tồn đọng án phúc thẩm nhiều ở TANDC trong thời gian qua mà chúng tôi đã đề cập ở mục 2.2 của luận án. Từ phân tích trên chúng tôi cho rằng, cần tổ chức lại các Toà phúc thẩm thuộc TANDTC và Viện phúc thẩm VKSNDTC theo hướng thành lập các Toà phúc thẩm khu vực thuộc TANDTC và Viện phúc thẩm khu vực thuộc VKSNDTC. Mỗi Toà phúc thẩm và Viện phúc thẩm này có thẩm quyền phúc thẩm theo quản hạt trong phạm vi 4 - 6 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để giải quyết kịp thời các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị. Việc tổ chức lại hệ thống các Toà phúc thẩm và Viện phúc thẩm sẽ tiết kiệm đáng kể các chi phí về vật chất, thời gian trong hoạt động phúc thẩm. 3.2.2.2. Kiện toàn biên chế của các TA và VKS cấp phúc thẩm Bảo đảm đủ biên chế cho các TA và VKS cấp phúc thẩm cũng là một giải pháp cần sớm được tiến hành trong giai đoạn hiện nay để nâng cao hiệu quả phúc thẩm. Theo số liệu của TANDTC, tính đến tháng 12/2002 tổng số thẩm phán TAND cấp tỉnh trong cả nước là 925 người, thiếu 193 thẩm phán so với biên chế; số thẩm phán ở ba Toà phúc thẩm TANDTC (tính đến tháng 7/2000) chỉ có 66 người, thiếu gần 1/3 số thẩm phán so với biên chế. Do thiếu thẩm phán ở các Toà phúc thẩm, nên trung bình, mỗi thẩm phán ở TAND cấp tỉnh phải chủ toạ 6,3 vụ/tháng và ở TANDTC là 12 vụ/tháng (chưa kể các vụ tham gia trong HĐXX theo các thủ tục khác) [69]. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả xét xử phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 170 BLTTHS sửa đổi (được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2003), thì TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử các vụ án ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phậm chiến trnha; một số tội khác). Khi đó số lượng các vụ án hình sự thuộc thẩm phúc thẩm của TAND cấp tỉnh sẽ tăng lên đáng kể và đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên cấp tỉnh sẽ càng thiếu trầm trọng. 3.2.2.3. Phân công nhiệm vụ theo hướng chuyên môn hoá Một thực tế hiện nay là thẩm phán ở các Toà phúc thẩm TANDTC được giao xét xử phúc thẩm đối với cả các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính. Kiểm sát viên ở các Viện phúc thẩm VKSNDTC cũng tham gia phiên tòa xét xử đối với cả các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính. Chúng tôi cho rằng, đây cũng là một sự bất hợp lý trong tổ chức hoạt động phúc thẩm ở nước ta hiện nay làm hạn chế hiệu quả phúc thẩm. Các Toà phúc thẩm và Viện phúc thẩm cần cải cách phương pháp tổ chức hoạt động của thẩm phán và kiểm sát viên theo hướng chuyên môn hoá: phân công các thẩm phán và kiểm sát viên chuyên trách xét xử và thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự;... 3.2.3. Các giải pháp về con người Chất lượng và hiệu quả hoạt động phúc thẩm các vụ án hình sự phụ thuộc rất lớn vào các chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là các thẩm phán và kiểm sát viên cấp phúc thẩm. Thực tiễn cho thấy trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên ở nước ta nói chung và của đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên cấp phúc thẩm nói riêng còn nhiều bất cập, không đồng đều, kỹ năng nghiệp vụ còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà trong giai đoạn hiện nay. Do tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, một bộ phận thẩm phán và kiểm sát viên phẩm chất đạo đức bị thoái hoá, biến chất. Vì vậy, xây dựng đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên của nước ta nói chung và đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên cấp phúc thẩm nói riêng có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi là một yêu cầu cấp thiêt, một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự. Các giải pháp này bao gồm: - Thực hiện tốt công tác tuyển dụng và bổ nhiệm thẩm phán và kiểm sát viên; - Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên cấp phúc thẩm; - Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của họ. 3.2.3.1. Thực hiện tốt công tác tuyển dụng và bổ nhiệm thẩm phán và kiểm sát viên Trước hết, phải làm tốt công tác tuyển dụng và bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở TA và VKS các cấp nói chung và ở cấp phúc thẩm nói riêng. Ngành TAND và VKSND phải lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững vàng, không bị mua chuộc, cám dỗ, vụ lợi cá nhân để bổ sung vào đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên các cấp, đồng thời phải xử lý kịp thời nghiêm minh những cán bộ thoái hoá, biến chất. 3.2.3.2. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên cấp phúc thẩm TANDTC, VKSNDTC và các cơ quan hữu quan cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng (ngắn hạn) cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên cấp phúc thẩm về kỹ năng xét xử phúc thẩm, kỹ năng tranh tụng tại các phiên toà phúc thẩm cũng như các kỹ năng đặc thù đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, các vụ án về ma tuý, các tội về chức vụ,… và cập nhật thường xuyên các kiến thức pháp luật. Đây là một giải pháp cấp bách cần triển khai và thực hiện kịp thời để sớm trang bị kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên nói chung và các thẩm phán, kiểm sát viên cấp phúc thẩm nói riêng để có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài trong giai đoạn cách mạng mới. 3.2.3.3. Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của họ Việc sắp xếp, bố trí và phân công nhiệm vụ đối với thẩm phán và kiểm sát viên nói chung và cấp phúc thẩm nói riêng phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thực tế của họ. Cần kịp thời chuyển những phẩm phán, kiểm sát viên hạn chế về trình độ chuyên môn hoặc kỹ năng nghiệp vụ sang làm công việc khác phù hợp hơn. 3.2.4. Các giải pháp về vật chất - kỹ thuật Các giải pháp này nhằm bảo đảm các điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của của các TA và VKS cấp phúc thẩm; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên để họ yên tâm, phấn khởi công tác hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao. Các giải pháp này bao gồm: - Bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của các TA và VKS cấp phúc thẩm; - Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với thẩm phán và kiểm sát viên. 3.2.4.1. Bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của các TA và VKS cấp phúc thẩm Cơ sở vật chất - kỹ thuật là điều kiện không thể thiếu để bảo bảm cho hoạt động của một cơ quan, tổ chức. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện nay, thì yếu tố này càng có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả xét xử nói chung và phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng cần bảo đảm đủ cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của TA và VKS cấp phúc thẩm, để thẩm phán và kiểm sát viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật: bảo đảm trụ sở, phòng làm việc, phòng xét xử, các trang thiết bị cần thiết để làm việc như bàn ghế, máy vi tính, giấy bút, các văn bản pháp luật cần thiết,... 3.2.4.2. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với thẩm phán và kiểm sát viên Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy cán bộ làm việc có chất lượng và hiệu quả, vì nó tạo điều kiện cho họ yên tâm, phấn khởi, tập trung thời gian, trí tuệ vào công việc chuyên môn. Đây cũng là một yếu tố để hạn chế, ngăn chặn sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường hiện nay. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và có nhiều cố gắng áp dụng những biện pháp cần thiết để cải cách chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ viên chức các ngành tư pháp nước ta vẫn còn nhiều khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả công tác. Vì vậy, tiếp tục cải cách chính sách tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác (nhà ở, chính sách hậu phương đối với gia đình, nghỉ an dưỡng, tham quan du lịch,...) thoả đáng, phù hợp với hoạt động nghề nghiệp đặc thù của họ là một yêu cầu cấp thiết và cũng một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động phúc thẩm nói riêng. 3.2.5. Tăng cường công tác tuyên tuyền giáo dục pháp luật Bên cạnh các giải pháp pháp lý; các giải pháp về tổ chức, biên chế; về con người và vật chất - kỹ thuật như đã đề cập ở trên, thì việc tăng cường công tác tuyên tuyền giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm công dân cho các tầng lớp nhân dân cũng là một giải pháp không kém phần quan trọng để nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự. Tóm lại, từ việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, có thể rút ra một số điểm chính sau đây: 1- Nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta hiện nay là một nhu cầu cấp thiết và tất yếu khách quan của phát triển xã hội xuất phát từ các nhân tố sau: yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà hình sự theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị; pháp luật TTHS nói chung và các quy định về phúc thẩm nói riêng chưa đồng bộ và hoàn thiện; những bất cập, tồn tại và yếu kém trong thực tiễn phúc thẩm các vụ án hình sự những năm gần đây; trình độ và kỹ năng nghề nghiệp; phẩm chất đạo đức và tác phong công tác của một bộ phận cán bộ TA và VKS các cấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. 2- Để nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau: các giải pháp pháp lý; các giải pháp về tổ chức biên chế; về con người; về vật chất - kỹ thuật. Các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Giải pháp này là tiền đề và điều kiện để tiến hành các giải pháp kia và ngược lại. 3- Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật TTHS hiện hành về phúc thẩm được đề xuất nhằm góp phần thiết thực vào quá trình sửa đổi toàn diện BLTTHS; góp phần giải quyết các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và cải cách tổ chức và hoạt động của TA các cấp, nâng cao hiệu quả xét xử nói chung và phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu về phúc thẩm trong TTHS, những kết quả mà chúng tôi đạt được thể hiện ở những điểm chính sau đây: 1- Qua nghiên cứu các quan điểm khác nhau về phúc thẩm trong TTHS và quy định của các nước về phúc thẩm, luận án đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận các nội dung cơ bản của phúc thẩm: tính chất của phúc thẩm; thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự; các quan điểm và xu hướng khác nhau trong điều chỉnh bằng pháp luật ở các nước trên thế giới. Trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mang tính khoa học về phúc thẩm trong TTHS. Kết quả nghiên cứu góp một phần nhằm thống nhất nhận thức lý luận về bản chất và nội dung của phúc thẩm với tư cách là một giai đoạn độc lập, một chế định của TTHS, đồng thời là một thủ tục xét xử lại những vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị. 2- Qua nghiên cứu quá trình phát triển của pháp luật nước ta về phúc thẩm trong TTHS hơn nửa thế kỷ qua, luận án đã làm nổi bật được tính xã hội, tính lịch sử của các quy định này (tính chất và đối tượng của phúc thẩm trong TTHS; phạm vi xét xử phúc thẩm; quyền hạn của TA cấp phúc thẩm; vấn đề thủ tục xét xử phúc thẩm rút ngắn,...) để từ đó rút ra những yếu tố hợp lý cần được kế thừa, phát triển trong quá trình sửa đổi toàn diện BLTTHS hiện hành; những quy định không còn phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội cần loại bỏ nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các quyền con người trong lĩnh vực đặc thù này. 3- Các quy định pháp luật TTHS nước ta về phúc thẩm không ngừng được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, do sửa đổi, bổ sung không đồng bộ, toàn diện nên các quy định của BLTTHS nói chung và về phúc thẩm nói riêng ngày càng bất cập làm hạn chế hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. Trước yêu cầu đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp, các quy định pháp luật hiện hành về phúc thẩm và các quy định có liên quan cần được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. 4- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta những năm gần đây, luận án đã chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn phúc thẩm và nguyên nhân để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các tồn tại, vướng mắc đó nhằm nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự. 5- Dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật TTHS về phúc thẩm, có tham khảo pháp luật của một số nước, luận án đã chỉ ra nhu cầu cấp thiết của việc nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đưa ra những định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phúc thẩm, cụ thể là: - Các giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về phúc thẩm và các quy định có liên quan đến phúc thẩm; - Các giải pháp về tổ chức nhằm kiện toàn tổ chức, biên chế của các TA và VKS cấp phúc thẩm; - Các giải pháp về con người nhằm xây dựng đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên nói chung và đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên cấp phúc thẩm nói riêng có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp giải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. - Các giải pháp về vật chất - kỹ thuật nhằm bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng hoạt động có hiệu quả; có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên phù hợp với hoạt động nghề nghiệp đặc thù của họ; Ngoài ra, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm công dân cho các tầng lớp nhân dân cũng là một giải pháp cần quan tâm. 6- Mặc dù BLTTHS sửa đổi đã được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI, nhưng nhìn chung các quy định về phúc thẩm về cơ bản không có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể. Vì vậy, giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm mà chúng tôi đề xuất trong luận án và một số kiến nghị cụ thể dưới đây vẫn có giá trị tham khảo để nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện BLTTHS sau này: Một là, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta nói chung và pháp luật TTHS nói riêng cần tiến hành đồng bộ, toàn diện, kế thừa được những thành tựu lập pháp TTHS hơn nửa thế kỷ qua, phù hợp với sự phát triển của đất nước, yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay; cần cụ thể hóa đầy đủ các quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2000), Luật tổ chức TAND và VKSND năm 2002 và tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới". Hai là, trong những năm tới cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện các quy định sau đây về phúc thẩm trong BLTTHS sửa đổi: - Điều 230. Tính chất của phúc thẩm; - Điều 235. Kháng cáo quá hạn; - Điều 238. Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị; - Điều 247. Quyền hạn của TA cấp phúc thẩm; - Điều 248. Sửa bản án sơ thẩm; - Điều 249. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại. Ba là, Bổ sung thêm một số điều luật mới sau đây vào BLTTHS sửa đổi nhằm cụ thể hóa quyền hạn của TA cấp phúc thẩm trong trường hợp bác kháng, kháng nghị và các căn cứ để sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm: - Điều 247a. Bác kháng cáo, kháng nghị; - Điều 249a. Các căn cứ để sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm; - Điều... Việc điều tra hoặc xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; - Điều... Kết luận của bản án không phù hợp với các tình tiết thực tế về vụ án; - Điều... Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; - Điều... áp dụng không đúng điều khoản BLHS, BLDS; - Điều… Hình phạt mà TA cấp sơ thẩm quyết định không tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và nhân thân người bị kết án. - Điều … Bản án phúc thẩm. Bốn là, bổ sung thêm Chương "Thủ tục phúc thẩm bút lục" vào Phần "Thủ tục đặc biệt" của BLTTHS sửa đổi. Chương này gồm các điều luật sau: - Điều... Điều kiện áp dụng thủ tục phúc thẩm bút lục; - Điều... Thủ tục phúc thẩm bút lục; - Điều... Quyền hạn của TA cấp phúc thẩm. CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Nguyễn Đức Mai (1993), "Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (8), tr. 2-5. Nguyễn Đức Mai (1993), "Đặc điểm chứng minh trong xét xử phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (10), tr. 5-7. Nguyễn Đức Mai (1994), "Các căn cứ áp dụng quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (6), tr. 7-11. Nguyễn Đức Mai (1994), "Thế nào là làm xấu hơn tình trạng của bị cáo trong xét xử phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (8), tr. 14-17. Nguyễn Đức Mai (1995), "Bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo", Tòa án nhân dân, (5), tr. 6-9. Nguyễn Đức Mai (1995), "Phạm vi xét xử phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (10), tr. 10-12. Nguyễn Đức Mai (1996), "Vai trò của Tòa án trong việc thực hiện chức năng xét xử trong tố tụng hình sự", Nhà nước và pháp luật, (8), tr. 29-33. Nguyễn Đức Mai (1999), "Bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 21-26. Nguyễn Đức Mai (2002), "Bổ sung và xem xét chứng cứ ở giai đoạn xét xử phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (6), tr. 8-11. Nguyễn Đức Mai (2002), "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 25-27. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Như Bích (1996), "Bàn về việc áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (9). Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/TƯ ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Bộ luật hình sự tố tụng của Việt Nam Cộng hòa (1972), Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2003). Bộ Tư pháp (1957), Tập Luật lệ về tư pháp. Lê Cảm (2002), "Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền", Tòa án nhân dân, (11). Công báo 1946, Tập 1 (1958). Nguyễn Gia Cương (1997), Thủ tục xét xử phúc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng 1996 - 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Độ (1997), "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp", Luật học, (3). Phạm Hồng Hải (1995), "Một số nét lịch sử và phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam 50 năm qua", Nhà nước và pháp luật, (3). Phạm Hồng Hải (2001), "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (1). Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992 (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Hiện (1997), "Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp", Tòa án nhân dân, (4). Nguyễn Văn Hiện (1999), "Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân", Tòa án nhân dân, (8). Nguyễn Văn Hiện (2000), Một số vấn đề quan trọng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, (Dự án VIE/95/018) Tăng cường năng lực kiểm sát tại Việt Nam), Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (2002), Thẩm quyền của các cấp Tòa án trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội. Phạm Hưng (1997), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân", Tòa án nhân dân, (10). Nguyễn Quốc Hưng (1963), Hình sự tố tụng lược giảng, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện khoa học thông tin xã hội, Hà Nội. Phạm Văn Khánh (1999), "Việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm từ không có tội thành có tội theo khoản 3 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự", Kiểm sát, (7). Trần Văn Liêm (1974), Dân Luật, Quyển 1. Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1960, 1983, 1992 và 2002. Phan Thị Thanh Mai (1998), Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội. Phan Thị Thanh Mai (2000), "Bàn về tính chất của phúc thẩm", Luật học, (1). Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà nội. Dương Ngọc Ngưu (2000), "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện", Tòa án nhân dân, (11). Dương Ngọc Ngưu (2001), "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện", Tòa án nhân dân, (1). Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Từ Văn Nhũ (2001), "Những vấn đề cần trao đổi từ thực tế xét xử phúc thẩm về hình sự", Tòa án nhân dân, (3). Nguyễn Nông (1994), "Về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (8). Nguyễn Nông (1999), "Hoàn thiện pháp luật về xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự", Kiểm sát, (5). Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 1986, 1993 và 2002; Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự 1986, 1993 và 2002; Đặng Quang Phương (1995), "Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân ", Tòa án nhân dân, (6). Đinh Văn Quế (1997), Thủ tục phúc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Quang Quýnh (1967), Dân luật (Quyển I), Nxb Viện Đại học Cần Thơ, Cần Thơ. Hoàng Thị Sơn (1997), "Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm", Luật học, (6). Hoàng Thị Sơn (1999), Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật học, (5). Huỳnh Lập Thành (2000), Giai đoạn xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, TP. Hồ Chí Minh. Võ Thọ (1985), Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiến (1997), Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa các văn bản về tố tụng hình sự, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1978), Tập hệ thống hóa các văn bản về tố tụng hình sự, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1992), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1993), Công văn số 236/NCPL ngày 29/4/1993 hướng dẫn thực hiện Điều 215a Bộ luật tố tụng hình sự. Tòa án nhân dân tối cao (1994), Công văn số 20/NCPL ngày 18/01/1994, Trả lời một số vấn đề về tố tụng hình sự. Tòa án nhân dân tối cao (1994), Công văn số 42/1998/KHXX ngày 21/4/1998 hướng dẫn việc xét xử đối với trường hợp người bị hại vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1997), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1997 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 1998. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1998 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 1999. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2000. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 Giải đáp một số vấn đề về về hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính và tố tụng. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999, Giải đáp bổ sung một số vấn đề áp dụng pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2001. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo về tình hình xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2002. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002, Giải đáp một số vấn đề về tố tụng. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2003. Tòa án quân sự trung ương (1997), Lịch sử ngành Tòa án quân sự Việt Nam (1945-1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Tòa án quân sự trung ương (1999), Công văn số 353/TA ngày 08/9/1999, hướng dẫn sử dụng mẫu biểu. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb TP. Hồ Chí Minh. Trần Văn Tú (1992), "Những căn cứ để hủy án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại của Tòa án cấp phúc thẩm", Tòa án nhân dân, (7). Trần Văn Tuấn (1999), "Một số ý kiến về Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự", Tòa án nhân dân, (8). Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Võ Khánh Vinh (1993), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội; Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Nga, Hà Nội. Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Nga, Phụ trương Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội. Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hà Nội. Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản, Hà Nội. Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật tố tụng hình sự của Hàn Quốc, Hà Nội. Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật tố tụng hình sự của bang Tây Úc, Hà Nội. Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước Châu Á, Hà Nội. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (1992), Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. TP. Hồ Chí Minh. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), "Tư pháp hình sự so sánh", Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Bình luận Bộ luật hình sự 1999 (Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Quy chế công tác kiểm sát xét xử hình sự, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Dự án VIE/95/018, Một số khuyến nghị về xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết ngành Kiểm sát nhân dân và phương hướng nhiệm vụ công tác kiểm sát, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết ngành Kiểm sát nhân dân và phương hướng nhiệm vụ công tác kiểm sát, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (5/2003), Tờ trình về Dự án Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XI. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1997), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. Viện phúc thẩm I, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo sơ kết công tác kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự của các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố phía Bắc, Hà Nội. Việt Nam Dân quốc công báo 1945 (1950), ngày 06/7/1945 (2); Đào Trí Úc (2001), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng", Nhà nước và pháp luật, (7). Đào Trí Úc (2003), "Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm", Nhà nước và pháp luật, (2). Oeojmb C.E. (1968), J`pp`uhmllme nomhgbmdpqbm b Qmbeqpimk rcmjmblmk nomueppe, Igd`qej{pqbm "^ohdhvepi`~ jhqeo`qro`", Lmpib`. L`oqzlvhi F.D. (1979), Nto`l` no`b mprfdellmcm b J`pp`uhmllmk nomhgbmdpqbe, Igd`qej{pqbm "Xqhhlu`", Jhwhleb. Qqomcmbhv L.Q. (1970), Jrop Qmbeqpimcm rcmjmblmcm nomuepp`, Igd`qej{pqbm "^ohdhvepi`~ jhqeo`qro`", R.2, Lmpib`. QmbeqpihÐ rcmjmblzÐ nomuepp (1980), Igd`qej{pqbm "^ohdhvepi`~ jhqeo`qro`", Lmpib`. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2498.DOC
Tài liệu liên quan