1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ NHA TRANG
PHONG CÁCH VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT KIM LÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
2
MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của luận văn
1.1 Mục đích của luận văn
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân thuộc số những nhà văn
viết không nhiều. Hơn năm mươi năm cầm bút, ông chỉ viết vẻn vẹn có trên b
137 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5149 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a
mươi tác phẩm. Thế nhưng, ông vẫn được xem là một tác giả văn xuôi có tầm
vóc. Tác phẩm của ông đã gây ấn tượng với người đọc bởi cách viết độc đáo. Khi
viết ông thường suy nghĩ thật sâu sắc, thận trọng chứ không ngẫu hứng cao
giọng, ông luôn có cái nhìn nhân hậu với đời với người cũng như trong sáng tạo
văn chương, đặc biệt là trong thể tài truyện - truyện ngắn. Nhiều tác phẩm của
ông đã vượt qua được thử thách thời gian, sự sàng lọc của công chúng, góp phần
làm nên thành tựu rực rỡ cho nền văn học Việt nam hiện đại ở cả hai thời kỳ
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Có được như thế, chính vì Kim Lân bằng
thực tiễn sáng tác đã đóng góp một tiếng nói riêng, một phong cách riêng. Cho
nên để hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về Kim Lân và văn xuôi nghệ thuật
(VXNT) Việt Nam hiện đại, chúng ta không thể không nghiên cứu những đóng
góp đặc sắc của VXNT Kim Lân từ góc độ phong cách.
Mục đích của luận văn là nghiên cứu khảo sát toàn bộ sáng tác của Kim Lân
dưới góc độ phong cách nghệ thuật. Có thể nói đây là một việc làm cần thiết và
có ý nghĩa vì nó đề cập đến một trong những phương diện cơ bản nhất nhằm
đánh giá những thành tựu đầy sáng tạo của nhà văn để qua đó có thể nhìn thấy
nhiều vấn đề đặt ra trong sự phát triển văn học của cả một giai đoạn. Mặt khác,
trên cơ sở đó mà chỉ ra những đóng góp về phong cách VXNT của Kim Lân
trong tiến trình hiện đại hóa VXNT tiếng Việt.
1.2. Ý nghĩa của luận văn
Tìm hiểu phong cách văn chương của Kim Lân, trong quan niệm của chúng
tôi, là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và cách triển khai quan niệm ấy của ông
3
vào văn bản tác phẩm. Nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là cung cấp cái nhìn tổng
quát về đặc trưng VXNT Kim Lân. Nghĩa là luận văn chủ yếu trình bày hệ thống
những nét độc đáo tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao trong phong cách VXNT
Kim Lân, từ đó góp phần khẳng định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong
lịch sử phát triển văn học Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh đó luận văn còn cung cấp những dữ liệu, tư liệu để nghiên cứu thi
pháp VXNT, đặc biệt là truyện - truyện ngắn văn học Việt Nam trong một giai
đoạn có nhiều thành tựu và nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo. Đồng thời,
luận văn có thể sử dụng bổ sung kiến thức cho việc giảng dạy ở các trường trung
học phổ thông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với công chúng trong mấy chục
năm qua. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã được nhiều người
giới thiệu, phê bình. Nhìn chung, ông được xem xét khá kỹ lưỡng ở từng giai
đoạn sáng tác, ở chân dung con người và cả khu vực phê bình, tiểu luận. Nhưng
việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật của tác giả như một đối tượng chuyên
biệt thì chưa có một bài viết công phu hoặc một công trình khoa học nào và tính
đến nay đã hơn nửa thế kỷ, việc nghiên cứu về ông không phải là không có ý
kiến khác nhau, nhưng cơ bản là thống nhất. Có thể chia quá trình nghiên cứu về
Kim Lân thành hai giai đoạn chính như sau:
2.1 Trước năm 1975
Nhà văn Nguyên Hồng, trong “Những nhân vật ấy đã sống với tôi” đã kể
lại rằng: “Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim
Lân… Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân
chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả chữ nhau với một số tên
như Mộng Ngọc, Mộng Dương, hay Hoài Trạch, Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy.
Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át
một cách bợm bãi, trái lại có một cái gì đó chân chất của đời sống con người
4
nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt là lại gần gũi
với mình…” [38]
Đây có thể xem là một ý kiến rất đáng chú ý khi tìm hiểu phong cách nghệ
thuật của Kim Lân về nội dung tư tưởng và giọng điệu tác phẩm.
Ở những tác phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh một
vấn đề gì có ý nghĩa hiện thực sâu sắc cả nhưng chất hiện thực cứ toát ra một
cách tự nhiên từ những hình tượng nhân vật của ông, vì đó thường là những con
người của quê hương ông, ruột thịt với ông, từ cuộc sống lam lũ bần cùng, họ đã
trực tiếp bước vào văn học. Và cũng gần với quan điểm của Nguyên Hồng, Lại
Nguyên Ân cũng đưa ra nhận xét “Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới
của những người dân nghèo vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người dân
miền xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ, bến
sông, một góc phố hay ven một đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng
sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân vật thân
thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc
sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân
vật ấy (…) mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những
cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh
chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức đọa đày ”[4]
Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã đưa ra một nhận định thật khái quát, xác
đáng về quan niệm viết văn của Kim Lân “Kim Lân quan niệm viết văn như cách
đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ
bé quẩn quanh của quê hương” [95]. Tuy nhiên do khuôn khổ hạn chế của
những mục từ trong “Từ điển văn học” nên tác giả đã không có điều kiện trình
bày lí giải nhận định của mình một cách cặn kẽ.
Đáng lưu ý nhất là nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong “Tổng tập văn
học Việt Nam” đã tỏ ra khá tinh tế vá sắc sảo khi nhận xét về đề tài phong tục và
thú chơi đồng quê của Kim Lân, ông cho rằng “Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp
dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng
5
ruộng”. Rồi ông lại tiếp tục lí giải “Sở dĩ có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy
những tập quán ngộ nghĩnh, kỳ lạ, những thú chơi phiền phức, cầu kỳ được trình
bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã thể hiện lên được những con người ở
làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [72].
Tiếp sau đó tác giả lại nhận xét một cách tổng quát hơn về toàn bộ nội dung
truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám 1945: “Đó là những trang số
phận của các đầu thừa, đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt
trang giấy trắng chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về phía
phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh …, nhưng vẫn biểu hiện
một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám
những người sống vất vả, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, trong sáng thông minh,
tài hoa” [72].
Sau đó trong “Tuyển tập Kim Lân” - 1996 nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên
lại đưa ra nhận xét rất chính xác về toàn bộ truyện ngắn Kim Lân “Nếu có dịp
đọc toàn bộ tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu là truyên ngắn ta sẽ thấy, ông
không chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa đuôi thẹo; ông còn là
đại diện văn học sáng giá của những người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng
thú … chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật …” [4] .
Tương tự, các nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá, Hoài Việt… vẫn viết về Kim
Lân nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu chỉ dừng lại đánh giá quan điểm lập
trường tư tưởng của nhà văn, nghiên cứu nhận xét về nội dung cảm hứng truyện
ngắn của Kim Lân.
Đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất
và vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con người làng quê Bắc bộ - những con người lịch
lãm, hào hoa và đầy tinh thần thượng võ. Đặc biệt là cái thú “phong lưu đồng
ruộng” trong văn ông vừa có nét tinh tế, lại vừa thật thà, cởi mở qua đôi mắt nhìn
rất kỹ, quan sát cuộc sống nông thôn một cách say sưa, tỉ mỉ, cụ thể rồi ghi lại
với ý thức thể hiện những mảnh đời, những số phận bằng lối diễn đạt của chính
mình - lối diễn đạt đậm “chất quê” của một con người “vốn là con đẻ của đồng
6
ruộng” (chữ của Nguyên Hồng ). Có lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu Lữ Quốc Văn
đã khẳng định thật xác đáng “Kim Lân là nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất
của Việt Nam”. Và để bổ sung nhấn mạnh điều này nhà nghiên cứu Lữ Huy
Nguyên đã đưa ra nhận xét như sau: “Con người ấy có cái gì đặc biệt lắm từ
ngoại hình, lề lối, ăn mặc, ứng xử… đến văn phong, nhân vật, cốt truyện, chữ
nghĩa, vận nhịp… Con người ấy đáng kính, đáng trọng; chỉ có điều là hơi khác
biệt, cái khác biệt của loại nghệ sĩ đã vượt qua được cái ngưỡng của thói thường
đời sống” [85].
Và khi bàn về nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên
Ân đã chia truyện ngắn Kim Lân ra thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện
ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý. Ông đã nói cụ thể như sau “Có lẽ do số
lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật đa dạng
về các kiểu cấu tứ. Bằng hai tập “Vợ nhặt” và “Nên vợ nên chồng”, có thể kể
được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ biến hơn cả, có thể gọi là những
truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một
con người (…). Hơi khác chút ít với kiểu truyện tính cách này, “Vợ nhặt” là
truyện ngắn không chú tâm hẳn vào nhân vật nào (…). Diễn biến của truyện
không nhằm khám phá một nét tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái
được chủ yếu ở đây là miêu tả tình huống. Đây có thể gọi là ước lệ, là truyện
ngắn tình huống (…). Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn
nói truyện ngắn “Con chó xấu xí” từng được đặt làm cái tên chung cho tập
truyện “Vợ nhặt” hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ
ý”.[4]. Tác giả còn là người nhận ra ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim
Lân “Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn cùa Kim Lân là chất giọng
thật sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích rống lên
thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu nhưng cũng đáng tức
cười của những sự thật xung quanh chứ không thích phủ lên các sự thật ấy một
sự cảm động đến rưng rưng.
7
Chính là do thích phô bày nôm na thật thà của những con người và sự vật
xung quanh nên văn xuôi này đã chú trọng khai thác các khả năng miêu tả của
các ngôn ngữ (…). Nhà văn rất chú ý miêu tả lời ăn tiếng nói của họ và đã biến
thứ ngôn ngữ sống của những cư dân sống thực đó thành một đối tượng nghệ
thuật rất đáng lắng nghe, nếu ta biết nghiệm ra cái vẻ đẹp đích thực của lời ăn
tiếng nói ấy” [2]
Và càng sắc sảo khi Lại Nguyên Ân đã khẳng định nét đặc sắc trong văn xuôi
Kim Lân chính là ngôn ngữ “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc
thể hiện những tâm lý cổ truyền của người nông dân” [4].
Có thể xem đây là những phát hiện có ý nghĩa mở đường cho những người đến
sau như Nguyên An, Vũ Dương Quỹ chẳng hạn. Và nói như nhà văn Nguyên
Hồng, bạn tri kỉ gần gũi với Kim Lân về nhiều mặt “Ông là nhà văn một lòng đi
về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn …”
[115].
Dường như Nguyên Hồng muốn coi cuộc sống nông thôn, làng quê như là
một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Đọc Kim Lân ta thấy rất rõ
với bất kỳ một tác phẩm nào, người đọc cũng thấy mở ra trước mắt cảnh vật, con
người và không khí của làng quê Bắc bộ. Cho nên có thể nói Kim Lân là nhà văn
của nông thôn làng quê Việt Nam.
Bước tiến đáng kể nhất của việc nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân
qua bài viết “Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân” tác
giả Bảo Nguyên đã cho rằng “Kim Lân lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở
của cuộc sống hằng ngày, để diễn đạt chúng với cuộc sống miền quê với những
con người giản dị mà đáng yêu” [84]. Điều đó có lẽ đã làm cho tác phẩm của
Kim Lân mang giá trị hiện thực và tạo cho ông một phong cách rất riêng về bố
cục, kết cấu giọng điệu, ngôn ngữ, cách tả người tả việc …
Tác giả Bảo Nguyên còn rất tinh tế khi bổ sung thêm:
8
“Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao cổ tích. Nhịp
văn của ông chậm gọn… đó là một thứ giọng đệm phù hợp với quang cảnh nông
thôn, với văn minh nông nghiệp (…)
Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim Lân. Song
ở mỗi truyện, ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều kiện Kim Lân sử
dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn mỉa mai trong “Con
chó xấu xí”, giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng tướng Trần Quang
Khải - Trạng Vật” [84] (…)
Trong các truyện tâm lý xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một giọng kể
giản dị độc đáo, giọng tả tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận khái quát: “Ngữ
âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo
ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi”. Đó là một đóa hoa tạo nên sức
hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản dị độc đáo của Kim Lân”
[84].
Trong số những bài nghiên cứu, phê bình về Kim Lân vào những năm tháng
này, đáng ghi nhận nhất là hướng đi thẳng vào văn bản để tìm kiếm những nét
đặc sắc, độc đáo của tác phẩm Kim Lân. Nhờ vậy, không ít nhận xét, kết luận tỏ
ra có sức thuyết phục, có đóng góp. Bên cạnh đó loạt bài của Nguyên Hồng, của
Nguyên An, của Vũ Dương Quỹ, Nguyễn Đăng Điệp… cũng giúp người đọc
hiểu thêm về thân thế, con người Kim Lân và phần nào, giúp soi sáng phong
cách nghệ thuật của ông.
Tuy vậy, có thể nói rằng hơn 60 năm đọc văn Kim Lân giới nghiên cứu, phê
bình vẫn chưa có bài viết thật sự đi sâu vào xem xét một cách đầy đủ về hệ thống
VXNT Kim Lân với tầm vóc một chuyên luận hay một công trình.
2.2. Từ sau năm 1975
Từ sau 1975, việc nghiên cứu về Kim Lân có phát triển và mở rộng thêm.
Nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu dừng lại ở đánh giá quan điểm lập trường tư
tưởng của nhà văn mà ít khi chú ý trực diện vấn đề phong cách qua văn bản nghệ
thuật. Tuy vậy, nhìn chung sáng tác của Kim Lân được xem xét với một thái độ
9
trân trọng. Ông được nhìn nhận như một hiện tượng khá đặc biệt trong số những
nhà văn viết về đề tài nông thôn. Điều này cũng giúp soi sáng phong cách nghệ
thuật của ông.
Khi bàn về nội dung truyện ngắn Kim Lân ở giai đoạn sau Cách mạng
tháng Tám, Lại Nguyên Ân là một trong những người viết nhiều về Kim Lân, đã
cho rằng: “Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc
dân chủ, cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng khám
phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kỳ đầu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay nét
đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế
nhận thấy có một tương quan nào đó giữa gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý
người nông dân này (…) Đáng tiếc là những tâm lý ứng xử như vậy của người
nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục
phân tích và thể hiện nữa trong văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về
sau, hầu như ông đã thôi không sáng tác nữa” [4].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét về truyện ngắn Kim Lân
bằng cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan điểm lịch sử như sau: “Sau Cách mạng
tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trị, của đời
sống nông dân gắn liền với vận mệnh của đất nước. Về đề tài này “Làng” và
“Vợ nhặt” xứng đáng được xem là những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại” [70].
“Từ điển văn học” - 2003, trong những dòng cô đúc đã cố gắng khái quát về
truyện ngắn sau cách mạng của Kim Lân “Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê
Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến
cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ và sự đổi đời của họ nhờ cách
mạng” [94].
Nhà thơ Trần Ninh Hồ, trên báo văn nghệ số 34, (1991) đã đưa ra nhận xét
với tư cách của người rất hiểu truyện ngắn Kim Lân như sau: “Tuy tầm vóc, vị trí
của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với
10
ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời (…)
Năm mươi năm, một nửa thế kỷ cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có ngót chục truyện ngắn
thì quả là quá ít ỏi. Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi
ấy, ta lại cảm thấy không có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con
người Việt Nam trong gần nửa tế kỷ mà Kim Lân không đá động tới dẫu chỉ bằng
sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn (…) Tất cả, tất cả dường như đã
được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi.
Nếu cho rằng văn chương chính là “lịch sử tâm trạng của con người” thì Kim
Lân quả là một nhà văn đích thực trên cái nghĩa ấy” [36].
Khi bàn về nghệ thuật của Kim Lân ở giai đoạn này thì năm 1994 trong
“Tiếng nói tri âm”, tác giả Trần Đồng Minh với bài viết “Bóng tối và ánh sáng
trong câu chuyện nhặt vợ” đã khẳng định tác phẩm của Kim Lân cùng với một
số nhà văn gần gũi về phong cách với ông là “…Cái nghèo của Ngô Tất Tố, cái
đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở
Kim Lân khiến ta khiếp sợ đến rụng rời” [79].
Đến với Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại
trong “Nghề văn cũng lắm công phu” đã tâm sự: “Về văn xuôi là nghề của tôi,
trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân.
Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn” và khi
đọc “Làng” của Kim Lân, tác giả đã ngạc nhiên và thốt lên rằng “Đó là thần
viết , thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”[85].
Và ông cũng đã khái quát lại toàn bộ truyện ngắn Kim Lân như sau “Nếu
nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm Kim Lân viết
trước Cách mạng đến các tác phẩm sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét
riêng của Kim Lân là: Một ngòi bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn luôn cố
gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm, tâm trạng từng con người, từng số phận
riêng, để từ đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư tình cảm
con người Việt Nam của văn học Việt Nam hiện đại” [98].
11
Để khẳng định tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức đã
nhận xét “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học
Việt Nam hiện đại, Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim
Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn
đọc” [18].
Mặc dù vậy, nhưng có thể nói rằng hơn năm mươi năm đọc văn của Kim
Lân, giới nghiên cứu phê bình vẫn chưa có bài viết hay tiểu luận nào thực sự đi
sâu vào xem xét một cách đầy đủ, có hệ thống về phong cách VXNT Kim Lân
với tầm vóc một chuyên luận hay một công trình.
VXNT Kim Lân đã đến lúc xem như một đối tượng nghiên cứu đầy đủ,
nghiêm túc khoa học.
Năm 2005, tác giả Đặng Thị Huy Lam trong luận văn “Đặc điểm truyện
ngắn Kim Lân” đã dành hai chương để khảo sát về nghệ thuật dựng truyện và
xây dựng nhân vật; về ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Kim Lân.
Năm 2006, tác giả Nguyễn Quốc Thanh trong luận văn “Cảm hứng chủ đạo
và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân” thì đã đề cập đến “cảm
hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn
Kim Lân”.
Cả hai tác giả đã cố gắng chỉ ra một số nét đặc trưng trong truyện - truyện
ngắn của Kim Lân qua hệ thống hình tượng (người nông dân, người dân nghèo,
người phụ nữ và nghệ thuật viết truyện của Kim Lân).
Điều đáng nói là các bài viết và các công trình vừa kể trên tùy mức độ, phạm
vi đều đã gợi mở được nhiều khía cạnh, luận điểm có ý nghĩa khoa học trong việc
nghiên cứu Kim Lân và phong cách nghệ thuật của ông .
Và đến đây có thể nói việc nghiên cứu Kim Lân và sáng tác của ông đã tiến
một bước khá dài. Trong đó, tác phẩm của Kim lân đã được tiếp cận từ “Một
cách nhìn hiện thực và con người”, từ “Văn chương và cái đẹp”, từ “Thi pháp
và thể loại”, từ sự soi sáng của “một quan niệm văn chương”. Và trong tất cả các
12
bài tham luận, các công trình nghiên cứu về truyện - truyện ngắn Kim Lân, có thể
ghi nhận nhiều ý kiến rất đáng lưu ý như:
- Nhân vật của Kim Lân thường là những người nông dân - những con người
lao động nghèo khổ, thấp cổ bé miệng ở làng quê Việt Nam. Đó là những nhân
vật sống gắn bó với quê hương của mình, dù nghèo nhưng họ vẫn trong sáng, tài
hoa, lạc quan, yêu đời.
- Kim Lân là nhà văn mang khuynh hướng phong tục rất rõ. Ông viết rất hay
về “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” gắn với sinh hoạt văn hoá làng
quê Việt Nam.
- Truyện Kim Lân thường ít hành động và vai trò của cốt truyện là vai trò
thứ yếu, Kim Lân là một nhà văn thành công trong việc dùng “chi tiết lấn át cốt
truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng nhất tính cách nhân vật
cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật”, ông đi sâu diễn tả tâm tư, ý nghĩ, cảm
xúc của nhân vật khá tinh tế.
Tuy nhiên, những kết luận trên đây cũng chỉ mới dừng lại ở các ý kiến
nhận xét, nhận định tương đối khái quát, mà nhiều khi chưa được khảo sát kỹ
lưỡng, đầy đủ, toàn diện.
Nhìn chung, các bài viết các chuyên luận, các công trình nghiên cứu đã nêu,
dù khác nhau về góc nhìn về quy mô nghiên cứu, trực tiếp hay không trực tiếp,
đều đã góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc nghiên cứu phong cách nghê thuật
cũng như thi pháp Kim Lân. (Đó cũng là lý do khiến cho lịch sử vấn đề nghiên
cứu văn chương Kim Lân về căn bản cũng là lịch sử vấn đề nghiên cứu phong
cách hay thi pháp Kim Lân). Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, vẫn chưa có
một công trình dày dặn tập trung nghiên cứu một cách trực diện, hệ thống về Kim
Lân và phong cách VXNT của ông.
Trong tình hình ấy, để vừa tiếp thu được ý kiến của người đi trước, kế thừa
những thành tựu nghiên cứu phê bình của hơn nửa thế kỷ “tìm kiếm Kim Lân” và
vừa tránh sa vào sự trùng lặp, chọn đề tài “Phong cách - phong cách văn xuôi
13
nghệ thuật Kim Lân”, tác giả luận văn này muốn góp một tiếng nói khiêm
nhường bổ sung vào chỗ khiếm khuyết đó.
3. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu VXNT Kim Lân nhằm:
3.1. Phát hiện đặc trưng phong cách nghệ thuật Kim Lân; phân tích những biểu
hiện cụ thể và giá trị của các đặc trưng bút pháp ấy qua các sáng tác cụ thể, tiêu
biểu trong các tập truyện - truyện ngắn của Kim Lân.
3.2. Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa bút pháp nghệ thuật với tư tưởng,
cảm hứng trong tính chỉnh thể của VXNT Kim Lân, chỉ ra cái nhìn độc đáo của
nhà văn bộc lộ trên các bình diện quan niệm nghệ thuật, nội dung và phương thức
tự sự.
3.3. Đặt những tìm tòi thể nghiệm của Kim Lân trong tiến trình vận động và
phát triển của văn xuôi hiện đại để xem xét những đóng góp cụ thể của Kim Lân
đối với sự phát triển của nghệ thuật của văn xuôi hiện đại nói chung và sự phát
triển của truyện - truyện ngắn nói riêng.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khoa học mà luận văn đề cập đến là đặc trưng VXNT Kim Lân. Ở
đây hầu như các bình diện chính yếu trong sáng tác của ông đều được đề cập,
xem xét tương đối đầy đủ, nhưng chủ yếu là để làm rõ chỗ đặc sắc, độc đáo trong
phong cách sáng tác cũng như những đóng góp cụ thể của ông trên các bình diện
này.
Với một đối tượng khoa học như vậy, phạm vi khảo sát giới hạn cho luận văn
là 33 truyện ngắn của Kim Lân mà tác giả đã khảo sát và nghiên cứu từ các
nguồn tư liệu sau:
-Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản văn học Hà Nội 1996.
-Kim Lân – Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản hội nhà văn, Hà Nội 2004.
-Các truyện: “Cô Dí”, “Cô Vịa”, “Truyện chó chết”, “Món đồ mừng”,
“Tông chim Cả chuống”, đều là những truyện ngắn do tác giả luận văn vừa sưu
14
tầm được từ các báo “Trung Bắc chủ nhật” và “Báo văn nghệ”. Đó là những
tác phẩm của Kim Lân.
Đồng thời, để có cái nhìn tổng quát hơn, khi cần, luận văn khảo sát thêm một
số tác giả gần gũi hoặc khác biệt về xu hướng, cùng giai đoạn hoặc khác giai
đoạn với ông.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng quát của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng.
Luận văn nghiên cứu phong cách VXNT Kim Lân, do vậy phương pháp sử
dụng trước hết là phương pháp của thi pháp học miêu tả. Theo đó, phương pháp
nghiên cứu cấu trúc - hệ thống sẽ được sử dụng để xác lập các nguyên tắc tư duy
nghệ thuật của Kim Lân.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích loại hình hoá nhằm xác lập
đặc trưng loại hình tư duy nghệ thuật và phong cách tự sự của nhà văn. Từ đó có
cơ sở để so sánh, đối chiếu và chỉ ra những cái gì là thành tựu thuộc về thời đại,
những cái gì là đóng góp thuộc về cá nhân nhà văn.
5. Kết cấu của luận văn
Như trên đã nói, người viết chọn cách trình bày phong cách VXNT Kim Lân
là nghiên cứu những đóng góp đặc sắc của VXNT Kim Lân từ góc độ phong
cách nghệ thuật cùng với việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và triển khai quan
niệm ấy của ông vào văn bản tác phẩm. Do vậy, ngoài phần Mở đầu và phần Kết
luận, luận văn được tổ chức thành ba chương với những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Chương một: Quan niệm nghệ thuật của Kim Lân. Ở chương này luận
văn xác định một cách hiểu về phong cách nghệ thuật của Kim Lân về con người
và phong tục văn hóa làng quê.
- Chương hai: Những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân. Với
chương hai luận văn sẽ trình bày những nội dung tự sự về bức tranh quê hương
và không gian làng xóm cùng với con người văn hóa và cảm hứng “phong tục”,
thể hiện cái nhìn của Kim Lân về con người và phong tục văn hóa làng quê.
15
- Chương ba: Phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân. Nhiệm vụ của
chương ba là khảo sát về bút pháp nghệ thuật trong VXNT Kim Lân, đặc biệt là
phương thức trần thuật chủ quan, khách quan, cùng với những thủ pháp xây dựng
nhân vật, tình huống, cốt truyện, và việc tạo ngôn ngữ, giọng điệu, đảm bảo tính
nhất quán của phong cách như phạm trù xuyên suốt từ nội dung đến hình thức tác
phẩm.
16
Chương 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA KIM LÂN
1.1 . Về khái niệm phong cách nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm về phong cách nghệ thuật
Vấn đề phong cách nghệ thuật là một vấn đề khá phức tạp. Nó có thể được
hiểu rất rộng (khi nó được đồng nhất với cá tính sáng tạo) mà cũng có thể được
hiểu rất hẹp (khi nó được đồng nhất với phong cách ngôn ngữ của nhà văn); có
thể được hiểu như là một cái gì thuộc về ý thức nghệ thuật, hay thuộc về nhãn
quan của nhà văn (ví dụ quan niệm phong cách là vấn đề cái nhìn), cũng có thể
được hiểu như là một đặc điểm riêng trong hệ thống phương tiện biểu đạt của nhà
văn (ví dụ quan niệm phong cách là vấn đề kỹ thuật hay mối quan hệ giữa những
yếu tố của hình thức nghệ thuật)… Tuy nhiên, với nội hàm ít nhiều khác nhau,
phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác
nhau, tùy theo tính chất đặc trưng của các ngành khoa học này. Và ngay trong
giới nghiên cứu văn học, nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về phong cách
cũng đang tồn tại. Ở Liên Xô (trước đây) trong công trình “Cá tính sáng tạo của
nhà văn và sự phát triển văn học” [80] viện sĩ Bôrixôvích Khrapchencô đã đưa
ra nhiều định nghĩa về phong cách tiêu biểu cho các quan niệm khác nhau. Chẳng
hạn của D.Likhachev, A. Grogorian, V. Turbin, V. Tinnunxki, V. Kôvalep, L.
Nôvichencô, V. Đneprov, Ya. Elxberg, R. Yakobxưn… Còn theo ông thì định
nghĩa này được xem như một cái quạt mà một phía thì thừa nhận phong cách là
một phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát nhất, nhưng phía khác lại coi
phong cách như là một đặc điểm của từng tác phẩm riêng lẻ. Nói như nhà nghiên
cứu Phan Ngọc “Các khái niệm làm cơ sở cho nó như phong cách, phong cách
thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả… vẫn chưa được xác định một
cách nhất quán. Phong cách học chưa xây dựng cho mình một hệ thống thao tác
có hiệu lực để khảo sát phong cách tác giả một cách khách quan” [83].
17
Đó còn là chưa nói đến hàng trăm công trình nghiên cứu khác liên quan đến
phong cách cá nhân nhà văn hoặc những vấn đề xung quanh nó mà chắc chắn ở
đó các quan niệm về phong cách chưa hẳn đã giống nhau. Hơn nữa phong cách
chưa được coi là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự đóng góp của nhà văn,
và chính quan niệm này cũng phần nào hạn chế hứng thú tìm tòi, phát hiện ở nhà
nghiên cứu. Những năm gần đây giới nghiên cứu nói chung đã bắt đầu tiếp cận
tác giả, tác phẩm từ góc độ phong cách.
Trong các công trình nghiên cứu cụ thể như “Tìm hiểu phong cách Nguyễn
Du trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc [83]; “Nhà văn - tư tưởng - phong
cách” của Nguyễn Đăng Mạnh [71]; “Một số vấn đề thi pháp học hiện đại” của
Trần Đình Sử [99]; “Từ ký hiệu học đến ngôn ngữ học” của Hoàng Trinh [111];
“Phong cách học tiếng Việt” của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa [47];
“Văn học và học văn” của Hoàng Ngọc Hiến [27]… Khi đề cập tới khái niệm
này, các tác giả cũng đã đề xuất vấn đề dưới những hình thức khác nhau trong
cách hiểu về phong cách của mình. Trong các công trình đó, nhìn chung các tác
giả đều coi trọng các yếu tố hình thức trong tính thống nhất với nội dung tác
phẩm, đồng thời đề cao vai trò sáng tạo của cá nhân. Từ thực tế của các công
trình cụ thể, chúng tôi thấy rằng trong khi nghiên cứu một tác giả để tìm kiếm
phong cách nghệ thuật của họ trên cơ sở các định nghĩa, các nhà nghiên cứu đều
tùy thuộc vào đặc trưng riêng của nhà văn đó để thể hiện quan niệm về phong
cách của mình. Nói như thế cũng có nghĩa là điều mà luận văn quan tâm ở đây
chưa phải là tính khoa học hay tầm khái quát của các định nghĩa về phong cách;
điều quan trọng là qua những cách hiểu, hay từ các định nghĩa của các nhà lý
luận và các nhà sáng tác, người ta có thể xác định được đâu là những yếu tố hợp
nhất nên phong cách? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả Nguyễn Thành Thi trong
“Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam” đã đưa ra bốn cách trả lời khác
nhau, nhưng có thể bổ sung cho nhau như sau:“Một là: phong cách chỉ thuần túy
là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt, biểu hiện ở hình thức tác phẩm (tức là
phong cách chỉ biểu hiện ở hình thức, qua hình thức tác phẩm); hai là: phong
18
cách chủ yếu và trước hết._. biểu hiện qua ý thức nghệ thuật, qua cái nhìn, qua
cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn (phong cách chỉ biểu hiện ở nội
dung); ba là: phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm;
bốn là: phong cách biểu hiện thành những đặc điểm hình thức nhưng những đặc
điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình thức có
tính nội dung.” [107]
Và theo bốn cách trả lời đó, tác giả cũng đã khẳng định “Ở nước ta cách hiểu
về phong cách thiên về cách (3) và (4), đặc biệt là cách (4)” [107].
Có thể thấy đây cũng là một quan niệm gần gũi với ý kiến của viện sĩ
Khrapchencô, ông cho rằng “Mỗi nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và
những phương tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình
(…) Nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định
nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như
thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả” [107].
Phong cách thường được định danh là những kiểu lựa chọn, những đặc điểm
hay những dấu hiệu hình thức được qui định bởi cái nhìn độc đáo hay ý thức
nghệ thuật của một nhà văn. Tác giả Phan Ngọc đã đưa ra quan niệm nghệ thuật
của mình như sau: “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn
tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho
phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả. Nó
chứa đựng một cái nhìn đối với hiện thực” [83] hoặc “Phong cách (…) là một
cái nhìn(…) nó không phải đơn thuần là hình thức nhưng phong cách phải được
dựa trên hình thức thì nới tồn tại được” [83].
Tác giả “Từ điển thuật ngữ văn học” (1992) đã định nghĩa một cách đầy đủ:
“Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ chỉ sự thống nhất tương đối
ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói
lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ,
trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc,… các dấu hiệu phong cách
dường như nổi lên trên bề mặt tác phẩm như là một thể thống nhất hữu hình và
19
có thể tri giác được tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật” [22]. Tác
giả Lê Ngọc Trà cũng đã đưa ra quan niệm của mình “Phong cách nói lên những
đặc điểm nào đó thuộc về hình thức của tác phẩm, các đặc điểm này có nguồn
gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn” [107].
Quan niệm nào cũng có cơ sở lý luận riêng của nó. Nhưng xét trên yêu cầu
ứng dụng vào thực tiễn thì các quan niệm trên tự nó vẫn chưa sáng rõ, vẫn thiếu
những chỉ dẫn cần thiết cho việc xây dựng được một mô hình nhận thức khái
quát để có thể nghiên cứu phong cách nghệ thuật của từng nhà văn cụ thể, nhất là
khi những quan niệm này chưa được triển khai, minh hoạ ứng dụng đầy đủ.
Tìm hiểu phong cách nghệ thuật của một tác giả, chúng tôi không quan niệm
đơn thuần chỉ là nghiên cứu những yếu tố có tính chất hình thức, mặc dù hình
thức có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc ngược lại. Nhà văn chân chính sáng tác
theo quy luật của cái đẹp và phong cách chính là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng
như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm.
Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ không đơn thuần là việc lựa chọn, càng
không phải là việc thêm bớt những yếu tố mà là tổ chức chúng lại thành một cấu
trúc tinh vi và nhuyễn đến mức mà tất cả những dấu hiệu hình thức đều mang
tính nội dung và do đó, ngược lại tất cả nội dung đều được hình thức hoá. Một
tác phẩm nghệ thuật độc đáo không thể là một tác phẩm kém cỏi về cả hai
phương diện - hoặc một trong cả hai phương diện. Nội dung chỉ tồn tại bằng hình
thức và ngược lại. Một tác phẩm văn học hay là khi với nội dung đó, tác giả của
nó đã lựa chọn được một hình thức thích hợp để diễn đạt thành công nội dung.
Có những nhà văn gần nhau về tư tưởng có cùng một thế giới quan, cùng viết về
một đề tài, nhưng sản phẩm nghệ thuật đó như thế nào lại hoàn toàn tuỳ thuộc
vào hình thức mà nhà văn chọn, vào cái sở trường của mỗi nhà văn. Hiện thực
cuộc sống trở thành một văn bản nghệ thuật mà giá trị của nó được xác định bởi
toàn bộ các thành tố như: tình tiết, cốt truyện, nhân vật… trong một thể thống
nhất in dấu ấn riêng của mỗi nhà văn.
20
“Trong một tác phẩm nghệ thuật đích thực tất cả nội dung được chuyển hoá
vào hình thức và ngược lại” (Hêghen).
Như vậy phong cách nghệ thuật của nhà văn, suy cho cùng là “vấn đề cái
nhìn” (Macxen Prust), nhưng cái nhìn ấy phải toát lên từ tất cả các yếu tố hình
thức và nội dung của tác phẩm, từ hệ thống hợp nhất các tri giác về thực tế tiêu
biểu đối với nhà văn và phương pháp nghệ thuật của nhà văn ấy, nghĩa là cần
được tiếp cận “với tính cách một hệ thống cụ thể về hình thức và nội dung” (AX
Likhatsov, Grigôrian), toát lên từ một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn
(Phan Ngọc) [107].
Trên tinh thần này luận văn sẽ khảo sát phong cách trên tất cả các yếu tố hình
thức và tất cả các yếu tố nội dung trong các tác phẩm của Kim Lân. Điều này
cũng có nghĩa là nghiên cứu phong cách VXNT Kim Lân, một mặt luận văn có
nhiệm vụ phải tìm cho ra những đặc điểm hình thức. Mặt khác, luận văn sẽ cố
gắng chỉ ra cho được những nhân tố qui định các đặc điểm của hình thức ấy -
những nhân tố thuộc về chiều sâu nội dung của sáng tác như ý thức nghệ thuật,
hay những nét độc đáo trong cái nhìn của nhà văn - tức là chỉ ra các đặc điểm
hình thức ấy có “tính nội dung”, “tính quan niệm” như thế nào?
Theo định hướng của nội hàm khái niệm như vậy, luận văn sẽ dành hai
chương đầu trình bày kết quả nghiên cứu những yếu tố thuộc về nội dung mang ý
thức nghệ thuật, cái qui định phong cách nghệ thuật của nhà văn (chương 1,
chương 2); chương còn lại trình bày các biểu hiện cụ thể của phong cách nghệ
thuật qua các đặc điểm về hình thức VXNT Kim Lân (chương 3).
1.1.2. Khái niệm về quan niệm nghệ thuật
Tiếp cận phong cách và giá trị nghệ thuật trong sáng tác của một nhà văn,
người ta không thể không tìm kiếm, xác định, trước hết là quan niệm nghệ thuật
của nhà văn ấy (quan niệm về công việc viết văn, về con người, về thế giới).
Tất cả các quan niệm của nhà văn suy cho cùng là thuộc về ý thức nghệ thuật,
nó bao hàm cái nhìn độc đáo của nhà văn ấy, về con người (và về thế giới). Theo
nguyên tắc mà nói, nhà văn nhìn con người và thế giới như thế nào thì sẽ mô tả
21
như thế ấy trong các sáng tác của mình. Tìm hiểu cái nhìn ấy (và rộng hơn là ý
thức nghệ thuật của nhà văn) cần phải lưu ý mấy điều có tính nguyên tắc:
Thứ nhất, đây là cái nhìn mang tính mỹ học, tính triết luận trước thế giới và
con người, một cái nhìn, nói như Trần Đình Sử “Cung cấp một mô hình nghệ
thuật về thế giới có tính chất công cụ để thể hiện cuộc sống cần phải có mang
tính khuynh hướng khác nhau” [99]; cái nhìn ấy có khả năng mở ra theo nó cả
một thế giới nghệ thuật riêng biệt độc đáo của nhà văn [107].
Ngoài ra, khi nghiên cứu khảo sát phong cách nghệ thuật Kim Lân trên bình
diện quan niệm nghệ thuật về con người (và thế giới), luận văn cho rằng, vấn đề
không chỉ là đề xuất các luận điểm, miêu tả đặc trưng quan niệm nghệ thuật của
nhà văn mà còn góp phần chỉ ra các chiều hướng quan hệ chi phối lẫn nhau giữa
các đặc điểm ấy. Trong đó việc nhìn sâu vào đời sống tâm tư tình cảm, hoàn cảnh
sống của con người và việc tìm kiếm cái đẹp của phong tục văn hoá làng quê
theo quan niệm của ông, có một ý nghĩa rất đặc biệt.
1.2. Quan niệm về con người và về cái đẹp của phong tục văn hoá làng quê
1.2.1. Quan niệm về con người
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa, văn vật lại
gắn với những con người tài hoa, nhân hậu, có lẽ, con người Kim Lân suốt từ
tuổi thơ đến khi cầm bút đã ảnh hưởng rất nhiều. Từ nhỏ Kim Lân được coi là
người có hoa tay, vẽ giỏi và lại là người rất thích đóng kịch. Ông đã từng đóng
vai Giuốc - đanh trong hài kịch “Môlie”, vai Cả Khiết, cụ Bá trong vở “Cái tủ
chè” của Vũ Trọng Can, lão Hạc trong “Làng Vũ Đại ngày ấy” của Phạm Khoa
Văn… Mặc dù, những năng khiếu đó không thuộc về sáng tác văn chương,
nhưng tất cả đều là nghệ thuật, đều thuộc về tư chất nghệ sĩ. Có điều là do hoàn
cảnh riêng, Kim Lân không thể thực hiện được năng khiếu theo sở thích của
mình mà ông buộc phải bỏ học giữa chừng, học nghề sơn guốc để kiếm sống.
Kim Lân đã tâm sự về cuộc đời mình như sau: “Tôi không được học đến nơi đến
chốn. Đang học lớp nhất ở trường huyện thì bố tôi mất, tôi bỏ nhà xuống Hải
Phòng tìm việc làm, không được lại quay về làng. Tôi đi học nghề sơn guốc của
22
một ông hoạ sĩ làng bên. Trong sự rẻ rúng của gia đình, nhiều bạn bè đồng học
vẫn đi về đèn sách nhởn nhơ, tôi buồn bực vô cùng. Đúng ra là tự ái (…) “Ta
cũng chẳng kém gì các người”. Trong làng tôi lúc đó có một đám bạn cũng ham
thích văn chương.Chúng tôi thường tụ tập trao đổi với nhau về văn chương sôi
nổi lắm” [65]
Đây cũng chính là lý do trực tiếp khởi đầu con đường sáng tác của nhà văn.
Điều này cũng là sự tự khẳng định mình của Kim Lân - viết văn là vì tự ái, vì
muốn thoát khỏi tình trạng bị xem thường, “rẻ rúng”, “như một cách đòi cho
mình một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh ở quê
hương”- nói như nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá mà phần lịch sử vấn đề đã nêu
[95] và đây cũng chính là một tâm nguyện, một sở nguyện chân thành, đẹp đẽ
của Kim Lân. Phải chăng vì thế mà các sáng tác của ông đã tập trung ở hai mảng
đề tài lớn: Cuộc sống và tâm tư tình cảm của những con người nghèo khổ được
gọi là những con người “đầu thừa đuôi thẹo” ở nông thôn; Phong tục văn hoá
làng quê với những thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng ruộng”.
Cả hai mảng đề tài này đều có một sự thống nhất dẫn đến sự thành công trong
sáng tác của Kim Lân. Điều này cũng dễ hiểu vì Kim Lân là một nhà văn rất yêu
quê hương của mình, ông sống gắn bó, gần gũi với cuộc sống bình dị ở nông
thôn, đặc biệt là ông rất yêu thương và rất quý trọng con người. Lúc nào ông
cũng nghĩ đến cái cốt lõi của con người là tốt, là bản tính thiện. Mặt khác trong
cái nhìn của ông, ông hiểu văn hoá không chỉ là “đất lề quê thói” mà còn là
“ứng xử đạo lý”. Do đó ông đã rất chủ động trong việc xử lý đề tài, nhân vật,
không bị vướng víu vào một định kiến nào. Tất cả, tất cả đều hướng vào vẻ đẹp
của con người và sự sống nói chung.
Con người là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá, là trung tâm của đời sống xã
hội. Từ xưa đến nay văn học thường lấy con người làm đối tượng để phản ánh
cuộc sống xã hội. Duy có điều ở mỗi thời đại, con người trong văn học được nhìn
nhận dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Hơn nữa, một trong những chức năng của
văn học là phản ánh cuộc sống, mà trung tâm của bức tranh cuộc sống là con
23
người. Con người vừa là đối tượng vừa là mục tiêu mà văn học hướng đến. Văn
học có những đặc trưng riêng của mình cho phép nó đi sâu vào việc nhận thức
khám phá những giá trị của con người bằng hình ảnh âm thanh… làm cho con
người được nhìn nhận một cách hoàn hảo hơn về những nỗi đau, những niềm
hạnh phúc và các khía cạnh khác trong mối quan hệ với cuộc sống. Bất kỳ nền
văn học nào cũng quan tâm đến con người, đến tình cảm và số phận con người
với một sự cảm thông chia sẻ. Điều đó đã tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc trong
văn học. Giá trị đó tất nhiên sẽ được thể hiện qua nhãn quan của nhà văn về con
người. Do đó con người trong tác phẩm văn học cũng chính là cảm nhận chủ
quan của nhà văn về con người trong cuộc sống, nhìn nhận con người theo quan
niệm riêng của mình thông qua phương tiện nghệ thuật.
Cũng như những nhà văn khác, Kim Lân luôn hướng ngòi bút của mình để đề
cao con người của quê hương, nhưng Kim Lân lại tìm kiếm cho mình một góc
riêng, nhất quán suốt cả đời văn của mình là sự trải nghiệm bằng chính cuộc đời
mình. Hơn nữa, ông là nhà văn của nông thôn từng có những sáng tác viết về đề
tài nông thôn khá nổi tiếng, nhiều người đã gọi ông là nhà văn viết về nông thôn
ở ý nghĩa ông đã từng phát hiện ca ngợi con người ở nông thôn với những tình
cảm hết sức tốt đẹp. Ông từng đặt ra những vấn đề về cuộc sống và con người ở
nông thôn. Có thể nói là ông đã nhìn nhận đúng về bản chất con người, đã có
những phát hiện và những cảm nhận sâu sắc, tinh tế về con người, về phẩm chất
con người và cuộc sống của con người ở nông thôn làng quê Bắc bộ. Thật ra còn
một Kim Lân khác về đề tài này: Kim Lân của phong tục văn hoá làng quê Bắc
bộ. Đó cũng chính là “sợi dây ràng buộc giữa những thành viên trong cộng đồng
làng xã qua sinh hoạt văn hoá, qua phong tục tập quán” [49].
Và trên hướng đó, VXNT Kim Lân đề cao con người nhưng con người ở đó
được soi chiếu vừa trong mối quan hệ tình cảm giữa con người với con người,
vừa trong quan hệ giữa con người với con vật nuôi, với thiên nhiên. Có thể xem
đây là một đặc trưng riêng của Kim Lân.
24
Cái đặc tính rất riêng ấy của con người ở nông thôn làng quê Bắc bộ trong
VXNT Kim Lân đã bộc lộ rất đậm, rất rõ ở nhiều góc độ, ý nghĩa.
Trước hết, đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng nhận ra các mảng
đời sống riêng mà ông đề cập đến trong suốt đời văn của mình.
Những truyện ngắn đầu tay của ông thiên về đời tư của ông cùng với những
kiếp người nghèo khổ ở làng quê Bắc bộ “Những truyện tôi thích và cũng được
nhiều người thích đều là những cái tôi viết về chính mình, về làng xóm mình,
người thân mình” [98]. Điều này chúng ta có thể thấy rất rõ qua những tác phẩm
đầu tay của ông trước Cách mạng tháng Tám như Đứa con người vợ lẽ, Người
kép già, Cơm con, Nỗi này ai có biết, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa, Cô Dí…
Những truyện tiếp theo, Kim Lân chú tâm tới phong tục văn hoá dân gian. Ông
đã sử dụng phong tục văn hoá như một tiêu điểm để khám phá phản ánh đời
sống, xã hội, con người, tạo nên tính chất cụ thể nhưng sinh động qua bức tranh
đời sống, xã hội, con người ở nông thôn. Với mảng văn học này, nhà văn nhằm
khẳng định sự phong phú của tâm hồn người nông dân Việt Nam cùng tài năng
và sự khéo léo của họ trong đó đề cập đến tình người, quan hệ giữa con người
với con người trong gia đình, họ mạc, trong làng xóm, cộng đồng: Con mã mái,
Đôi chim thành, Chó săn, Đuổi tà, Tông chim Cả Chuống…
Có thể nói lòng yêu thương ưu ái đối với con người cũng như niềm suy tư về
thân phận con người luôn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà văn. Đối với Kim
Lân cũng thế, dù viết về đề tài nào, ông cũng hướng về con người, ông luôn chú
ý tới các khía cạnh tốt đẹp của họ, đặc biệt là ông đã luôn nhấn mạnh tới tình
người. Với ông tình người chính là cái lõi để gắn kết con người, gắn kết cộng
đồng, giữ gìn nhân phẩm trong những khó khăn bão táp của cuộc đời. Có lẽ vì
thế mà Kim Lân muốn tạo dựng trong các tác phẩm của mình cái truyền thống
đạo lý tình nghĩa của con người Việt Nam. Đó chính là cái đạo lý làm cha, làm
mẹ, làm vợ, làm con cái… Trong tất cả các mối quan hệ đó, ông muốn con người
lúc nào cũng phải “cho ra người”. Khi xây dựng các mối quan hệ tình cảm trong
truyện của mình, Kim Lân đặc biệt chú ý tới quan hệ tình cảm trong gia đình.
25
Điều này, cũng có nghĩa là ông chú ý tới quan hệ hạt nhân giữa con người với
con người. Ông xoáy sâu vào các quan hệ trong gia đình như giữa cha mẹ với
con cái, giữa vợ với chồng, giữa anh với em… để khẳng định những tình cảm tốt
đẹp, sâu đậm giữa con người với con người.
Đó cũng chính là tình cảm của ông Cả Nhiêu trong “Cơm con”. Vợ chết sớm,
với thân gà trống nuôi con, ông Cả Nhiêu đã hy sinh cả tuổi xuân của mình để
nuôi nấng hai đứa con nên người, không bao giờ ông dám nghĩ đến việc bước
thêm bước nữa, bởi lẽ ông “sợ con khổ vì cảnh mẹ ghẻ con chồng” [65]. Có thể
nói đó là một người cha suốt cả đời chỉ yêu thương lo lắng và hy sinh cho con
cái. Đó cũng là tình cảm của ông Tư Mủng trong “Bố con ông gác máy bay trên
núi Côi kê”. Tình cảm của ông Tư Mủng đối với con mình không gì có thể sánh
nỗi, đứa con như là một báu vật, như là một nguồn sáng đối với ông “từ cái
khuôn mặt trẻ thơ sáng rực lên một niềm tin, một nguồn an ủi làm dịu đi những
đau khổ, tủi nhục cay đắng hàng ngày” [65]. Và thật sự cảm động khi ta đọc
truyện ngắn “Người chú dượng”, Kim Lân đã phác họa được cái tình người qua
tấm lòng của ông Mộc gù thương vợ, thương con. Ông Mộc gù đã âm thầm chịu
đựng những đau đớn vất vả, oan ức mà người vợ phải lòng trai đã gây ra. Vậy mà
“Anh đỏ Mộc nát ruột nát gan, không hiểu sao lúc ấy anh lại càng thấy thương
yêu vợ mình. Anh nghĩ: chẳng qua là vợ anh nó dại, nó cả nghe người. Với lại vợ
chồng ăn ở với nhau bằng ấy năm giời, đem nhau từ quê lên đây làm ăn, không
lẽ mỗi lúc bỏ nhau? (…) Thôi thì, vợ mình trước sau vẫn là vợ mình, bới xấu ra
làm gì cho thêm tan nát...
Ngày ấy không có đứa con thì tôi cũng muốn chết quách cho rồi anh ạ.
Thương nó mình phải sống mà nuôi nó” [65]. Tình người quả thật là sâu đậm!
Đặc biệt hơn, trong các mối quan hệ của tình cảm gia đình, Kim Lân còn
quan tâm chú ý tới vị trí vai trò của người phụ nữ. Người phụ nữ Việt Nam luôn
là niềm tự hào của mọi thời đại. Hình ảnh của họ đã đi vào lòng người với biết
bao vẻ đẹp hết sức giản dị, mang cốt cách của con người Việt Nam qua ca dao cổ
tích, thơ ca… Giờ đây người phụ nữ lại có mặt trong những trang văn xuôi của
26
Kim Lân với dáng vẻ hết sức tự hào: những tình cảm đằm thắm thiết tha với
chồng, với con, với làng xóm láng giềng, những hy sinh chịu đựng, những cố
gắng vượt qua vất vả nhọc nhằn… Tất cả như càng làm sáng lên vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam. Đó là bà mẹ của Tư (Đứa con người vợ lẽ), Tần (Trạng
Vật), cô Vịa (Cô Vịa), dì Bản (Người chú dượng), bà cụ Tứ, người vợ nhặt (Vợ
nhặt), Nhâm (Chị Nhâm), Hoà (Nên vợ nên chồng), bà Cẩn (Bà mẹ Cẩn)…
Xâu chuỗi tất cả các truyện mà Kim Lân viết về người phụ nữ người đọc có thể
thấy rất rõ vẻ đẹp tình người của con người trong mọi hoàn cảnh. Tiêu biểu là
tình yêu thương bao la cùng với tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ trong
“Vợ nhặt”. Bà đã sẵn sàng cưu mang, đùm bọc một người đàn bà xa lạ đói rách
về làm dâu bà, làm vợ anh Tràng - con trai của bà. Câu nói “Thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”, thật ngắn gọn, giản dị nhưng
đã toát lên tấm lòng vị tha cao quý của bà. Tình thương ấy còn thể hiện trong
những hành vi ý nghĩ rất cụ thể, từ việc bà cho phép con trai kiếm cái phên nứa
ngăn riêng chỗ của vợ chồng con cho kín đáo, chuyện “khi nào có tiền ta mua
lấy đôi gà” đến những ước mơ xa vời hơn mà cũng đớn đau hơn về một ngày
“Rồi may ông giời cho khá… có ra thì rồi con chúng mày về sau”. Có thể nói bà
đã hội tụ tất cả vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam - một người mẹ già nua,
nghèo khó nhưng lại giàu lòng nhân hậu vị tha, luôn yêu thương con cái và luôn
lạc quan tin tưởng vào tương lai. Người mẹ ấy rõ ràng là chỉ sống vì con, hy vọng
cho lớp con cháu, tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho
con, ước mơ cho con. Tấm lòng cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung
là thế đấy!
Khi viết về phong tục làng quê với những thú chơi tao nhã, “phong lưu đồng
ruộng”, Kim Lân chỉ tập trung xoay quanh nét sinh hoạt văn hoá tinh thần của
những người dân quê. Nhưng rõ ràng đọc sâu, ngẫm kĩ ta mới thấy ẩn đằng sau
những câu chữ ấy là khám phá, phát hiện của nhà văn về giá trị văn hoá cổ truyền
của dân tộc mà trong đó có tình cảm con người hiện lên rất rõ.
27
Truyện “Con mã mái” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết
về đề tài phong tục. Toàn bộ nội dung của truyện, Kim Lân chỉ tập trung xoay
quanh nét phong tục sinh hoạt văn hoá tinh thần của những người dân ở chốn
thôn quê với thú chơi hết sức tao nhã. Ví như thú chọi gà của ông Cả Chuẩn:
“ông mê đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ
con đầu tắt mặt tối ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình” [65]. Cứ ngỡ
rằng ông Cả Chuẩn ham mê chọi gà như vậy thì vợ con ông sẽ dễ dàng có phản
ứng với ông. Họ có thể cho ông là người ham chơi lười nhác, sẽ mặt nặng mày
nhẹ với ông. Ấy vậy mà không, ông Cả Chuẩn cứ việc “mê thích chọi gà”, còn
hai mẹ con bà Cả cứ việc “tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình”. Có được sự êm ấm
hoà thuận như vậy là nhờ họ hiểu được sở thích của ông Cả Chuẩn và chiều theo
ông. Thậm chí khi mua gà vào ban đêm: “…rồi cứ cầm gà trên tay đi vào buồng
nâng đầu vợ gọi:
- Này! Này! Đưa mượn tạm năm đồng.
Bà Cả oặn oại, ậm ờ, giọng khê nồng nặc:
- Bây giờ còn lấy tiền làm gì?
Ông phát bẳn:
- Có việc chứ còn làm gì nữa? Hỏi lẩn thẩn mãi!
Bà Cả đành phải đấu dịu. Bao giờ ông gắt bà cũng phải đấu dịu như thế:
- Ở cái bao trong bồ hàng ấy. Lấy đúng năm đồng thôi nhé!” [65]
Có thể nói sự dịu dàng, chiều chồng của bà Cả Chuẩn như thế đủ thấy gia
đình bà sống rất giàu tình người. Tình cảm gia đình giữa họ thật sâu đậm vô
cùng.
“Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật” cũng là một truyện ngắn như
thế. Ở đây Kim Lân chỉ tập trung miêu tả cảnh đấu vật “tranh hùng quyết liệt”
với không khí tưng bừng trong các ngày hội vật của những đô vật kỳ tài vang
danh khắp thiên hạ. Nhưng ẩn sau cảnh và việc là tình cảm của một người mẹ
suốt đời tần tảo, vất vả, chuyên cần làm việc để cố lo cho con, mong cho “sau
này không đến nỗi đần ngu vô dụng” [65]. Truyện cũng thể hiện tình cảm của
28
một người cha lần đầu tiên gặp gỡ con mình - sự gặp gỡ giữa Đức Thái Tông
Trần Cảnh với Trạng Sặt. Ấy là khi tranh hùng với Trạng Kế, Trạng Sặt lâm vào
thế nguy đến nỗi “Có tiếng người cùng sân với Trạng Sặt thét: - Thôi chịu thua
đi Sặt ơi không chết mất”. Nhưng Trạng Sặt vẫn cố sức chống trả, chiếc khăn võ
sinh bị tuột, chiếc khăn vàng khác rơi theo khiến cho Trần Cảnh nhìn thấy “mảnh
áo làm tin” ngày xưa “Ngài tái mặt hẳn đi, vội vàng xuống lệnh hoãn cuộc thi
đấu để cứu nguy cho đứa con chưa hề biết mặt (…). Đức Thái Tông Trần Cảnh
ôm ghì Sặt trong lòng. Hai mắt đẫm lệ” [65]. Tình cảm cha con, tình cảm gia
đình quả là có sức mạnh khác thường, làm xúc động lòng người.
Tình cảm của con người trong truyện ngắn Kim Lân không dừng lại ở mối
quan hệ của những con người trong phạm vi gia đình mà nó còn mở rộng ra ở
phạm vi cộng đồng. Đó chính là tình cảm của con người với bà con, họ mạc, làng
xóm, quê hương. Đọc “Đôi chim thành”, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra điều này.
Ông Trưởng Thuận - một người say mê với thú chơi chim câu và rất quý chúng,
nên ông không bao giờ dám thả chim trong điều kiện thời tiết xấu, như thế, sẽ có
hại cho chim. Hơn nữa, ông rất quý đôi chim thành vì nó đã giúp ông giành được
“thành tích chưa từng có” thì không dễ gì ông lại thả những con chim của mình
lúc trời không được đẹp. Thế mà khách đến chơi nhà ông - những người cũng có
thú chơi như ông, toàn là những người “sành chơi” cả và họ đã đề nghị ông thả
chim trong điều kiện thời tiết “xấu trời lắm: vừa oi, vừa gió tây”. Nhưng vì tình
người mà ông đã đáp ứng yêu cầu của khách - thả chim cho họ xem mặc dù trong
thâm tâm ông vẫn hơi ngần ngại.
Còn trong truyện “Ông Cản Ngũ” thì nội dung câu chuyện xoay quanh việc
mô tả các đô vật có tiếng tăm trong thiên hạ. Ông Cản Ngũ là đô vật vô địch xứ
Bắc. Ông về hội vật đền Đô và ông đã chiến thắng dễ dàng đô vật Quắm đen.
Trong suốt mấy ngày không có ai dám ra vật với ông Cản Ngũ “nhưng trong keo
vật với cụ Cả Lẫm, ông Cản Ngũ đã bị năm đầu ngón tay cứng như cái vuốt sắt
của cụ Cả Lẫm quặp chặt lấy xương quai xanh… toàn thân ông Cản Ngũ đã run
lên bần bật… Ông Cản Ngũ hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển theo ý muốn
29
của cụ Cả Lẫm…”. Cản Ngũ sắp thua, nhưng cũng đúng vào thời điểm ấy, cụ Cả
Lẫm đã tha cho ông Cản Ngũ. Chính ông Cản Ngũ đã nói lên điều đó: “Một ông
đô vật dày dạn, lỗi lạc như cụ, không khi nào để tôi thoát khỏi miếng vật hiểm
nghèo ấy một cách quá dễ dàng như thế… Đúng là cụ tha cho tôi keo vật ấy”.
Còn cụ Cả Lẫm thì lại nghĩ “Khi phải đánh những miếng hiểm độc đã là hạ sách
rồi… huống chi ông Cản Ngũ tiếng là đô vật, nhưng ông lại là một ông tướng
nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì
dân vì nước không?” [65]. Với suy nghĩ như thế, rõ ràng cụ Cả Lẫm đã vì tình
cảm của con người với cộng đồng dân tộc mà chịu thua không nỡ hại ông Cản
Ngũ.
Đó cũng là tình cảm của Đoàn trong “Ông lão hàng xóm”, của ông Hai trong
“Làng”, của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”… Rất nhiều, rất nhiều…, nếu xâu chuỗi
tất cả các truyện ngắn của Kim Lân chúng ta sẽ thấy con người luôn tốt và cái tốt
đó có thể biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong mỗi hoàn cảnh cụ thể thì
cái tốt đó sẽ mang đậm tính nhân văn cao cả của nhà văn bởi nó đã thể hiện được
cái tình cảm sâu nặng nhất giữa con người với con người.
Có thể nói mỗi tác phẩm của các nhà văn đều là phát ngôn về tư tưởng đối với
con người và cuộc sống. Ông luôn có ý thức đứng về phiá những người nghèo
khổ bị lép vế trong xã hội cũ. Nhưng lại có một sự khác biệt khá rõ là con người
trong tác phẩm của Kim Lân, họ không chỉ ngồi trong nhà, trên giường, trong
bếp, nơi đầu hè hay một xó vườn hoang - vợ chồng, cha con, mẹ con, hoặc một
đôi tình nhân bị đời hắt hủi tâm sự với nhau nếu không phải là một mình đối diện
với mình. Mà hầu như, họ có mặt ở khắp mọi nơi trong môi trường xã hội ở làng
quê nông thôn Việt Nam. Kim Lân tuy viết ngắn, viết ít, viết về những chuyện
đời tư, đời thường, những chuyện vụn vặt hàng ngày trong quan hệ cá nhân nhỏ
hẹp ở làng quê nông thôn, nhưng nhà văn lại soi vào đấy ánh sáng của những tư
tưởng lớn bằng một trí tuệ sâu sắc và một tấm lòng nhân đạo bao la. Đây cũng
chính là một cái nhìn thật mới mẻ, thật nhân hậu của nhà văn về người nông dân
- những con người dù trong hoàn cảnh lay lắt, nghèo đói khốn cùng nhưng họ
30
vẫn yêu thương, vẫn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau và vẫn luôn lạc quan, tin tưởng
hướng về cách mạng, về một tương lai tươi sáng hơn. Điều này đã khẳng định
truyện ngắn của Kim Lân có nội dung rộng lớn và sâu sắc.
Tiếp đến, ta có thể thấy con người luôn là đề tài vô tận trong sáng tác văn
chương. Những nhà văn lớn đều là những nghệ sĩ có trái tim giàu lòng yêu
thương luôn thấu hiểu và rung động trước cuộc sống của con người ở mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoàn cảnh, mọi khía cạnh. Có lẽ vì thế mà trái tim của Kim Lân
không chỉ cảm nhận được tình người sâu đậm giữa con người với con người, mà
bằng sự quan sát khá tinh tế, ông còn thấy được cả những tình cảm chân thành
của con người đối với con vật nuôi của mình, đối với thiên nhiên cây cối.
Con người trong sáng tác của Kim Lân đều là những người nông dân gắn liền
với cuộc sống làng quê qua những thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng” như
chơi gà chọi, chơi chim… Cho nên phần nào tình cảm giữa con người và con vật
nuôi luôn gần gũi, đằm thắm sâu đậm thật sự. Họ quan tâm, lo lắng cho các con
vật nuôi của mình khi nó bị ốm đau, họ buồn phiền khi nó thi đấu kém hiệu quả
và họ lại vui vẻ hồ hỡi khi nó khoẻ mạnh chiến thắng trong ngày hội….
Đọc truyện “Con mã mái” người đọc sẽ thấy rõ điều này. Ông Cả Chuẩn
“suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường
ông đã để ý xem hôm nay con Chuối gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy
tiếng được mạnh khoẻ không?” [65]. Còn khi con gà bị ốm thì “… ruột gan ông
Cả Chuẩn rối bời lên chạy thuốc cho hai con gà. Đứng không yên, ngồi không
yên ai mách lối nào ông cũng làm” [65]. Chạy chữa mãi mà hai con gà quý của
ông vẫn chưa khỏi “Cả Chuẩn như mất hồn, trong người sút hẳn đi, phờ phạc,
xanh xao suốt đêm không ngủ” [65]. Tình cảm của ông Cả Chuẩn đối với hai con
gà mà ông nuôi chẳng khác gì tình cảm người cha đối với đứa con thân yêu của
mình. Ông thật sự đã chăm chút, lo lắng cho chúng như đối với một con người
thực thụ cả khi chúng khỏe mạnh lẫn khi chúng ốm đau, bệnh tật.
Với “Đôi chim thành” cũng thế. Ông Trưởng Thuận cũng hết sức yêu quý đàn
chim câu của mình. Ông đã phát sốt lên khi đàn chim câu của mình bị gió đánh
31
bạt đi. Còn khi đàn chim bay trở về, “Ông Trưởng đang rên hừ hừ, vùng trở dậy,
run lẩy bẩy chạy ra sân, miệng hỏi: - Đâu! Thật không? (…) hai mắt của ông
sáng lên vì sung sướng. Cặp môi héo của ông nở một nụ cười rất tươi” [65].
Không phải chỉ nhằm vào các lễ hội hoặc những thú chơi tao nhã thì con người
mới có tình yêu đối với con vật nuôi như vậy. Tình yêu đó thể hiện ở mọi lúc mọi
nơi. Thật là cảm động khi chúng ta hiểu và chia xẻ tấm lòng nhân vật xưng “Tôi”
trong truyện “Con chó xấu xí”. Sau khi nghe vợ của mình kể về chuyện con chó
xấu xí đã lê lết về nhà để gặp chủ trước khi chết, anh ta vừa thương xót vừa xấu
hổ vì cảm thấy ăn năn với những sự việc, những hành động mà mình đã đối với
con chó: “Tôi tối sầm mặt lại, vừa thương xót con chó vừa cảm thấy xấu hổ. Quả
thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỷ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con
mình. Đến như con chó mình nuôi mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa
của nó đối với mình đâu” [65]. Lời của “Tôi” rất thành thật cảm động. Một sự
hối lỗi muộn màng, nhưng đó là tình cảm của con người đối với con chó mà
mình đã nuôi chẳng khác là bạn với tình cảm mà con người vẫn dành cho nhau.
Chơi cây cảnh cũng là một thú vui tao nhã của người dân thôn quê. Ông Cả
Chuẩn chơi cây cảnh chẳng qua rượu say tức đời đem câu “danh lợi bất như
nhàn” hay “bần thanh còn hơn trọc phú” ra an ủi mình và để lên mặt khinh đời.
Nghĩa là khinh mấy ông giàu có trong làng mà ông cho là những người keo bẩn,
thô tục, không bao giờ hiểu được cái nhàn nhã như ông. Miêu tả thú chơi cây
cảnh của Cả Chuẩn, Kim Lân cũng đã ngầm nói lên một điều: người nông dân
tuy còn nghèo khó nhưng họ là những con người có tình cảm, có tình yêu thiên
nhiên cây cỏ. Chính tình yêu thiên nhiên cây cỏ này đã góp phần tạo nên sự
phong phú trong đời sống tinh thần của người dân thôn quê.
Yêu vật nuôi vốn là bản tính của người nông dân. Tình yêu này vừa bộc lộ sự
phong phú của tâm hồn, lại vừa tạo ra sức mạnh ._.ao nó lại sướng đến thế
nhỉ? Bằng ông Lưu Bị vớ được cụ Gia Cát Lượng đấy nhá!” [65]
Đưa sự vật này so sánh với sự vật kia chủ yếu bằng chất liệu ngôn ngữ đời
thường, một mặt Kim Lân đã nâng cấp tính bác học cho câu văn của mình, mặt
khác ông kéo gần các sáng tác đó lại với đời sống, đó là lí do khiến cho ngôn ngữ
trong tác phẩm của ông giàu tính biểu cảm.
Xâu chuỗi lại tất cả sự phân tích trên đây đã cho thấy những vẻ đẹp đặc
sắc đáng quý của ngôn ngữ VXNT Kim Lân. Nó là ngôn ngữ của đời sống của
tâm hồn rất mộc mạc, bình dị tự nhiên mà vẫn trong sáng hóm hỉnh, tươi tắn rất
Kim Lân. Đây cũng là phần đặc sắc nhất trong những tìm tòi thể nghiệm của nhà
văn. Do đó, có thể nói ngôn ngữ đã góp phần hình thành nên phong cách VXNT
Kim Lân.
Nói đến một Kim Lân của nông thôn làng quê Bắc bộ, là nói đến một
giọng điệu thủ thỉ, chậm rãi, rất đôn hậu, trầm sáng, gần với giọng cổ tích. Giọng
điệu này được quy định do cảm hứng của tác giả, một phần là từ những cảm xúc
thật sự trước cuộc sống của con người ở làng quê ông, một phần cũng là do tác
giả muốn ca ngợi phẩm chất của những con người lao động nghèo dù trong hoàn
120
cảnh khốn cùng họ vẫn yêu thương, cưu mang nhau và vẫn lạc quan tin tưởng
hướng về một tương lai tươi sáng hơn.
Trong văn học, giọng điệu thường chứa đựng thái độ tình cảm, lập trường
tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả. Giọng điệu qui
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm. Giọng điệu tạo ra sự xa
gần thân sơ thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Do đó, là nhà văn
chuyên viết truyện ngắn, Kim Lân đã phải lựa chọn giọng điệu phù hợp với từng
chủ đề, từng hoàn cảnh, từng loại nhân vật trong truyện.
Quan điểm về hiện thực và con người thay đổi đã kéo theo những thay đổi
khác về các biện pháp nghệ thuật, về tư tưởng, thẩm mỹ… đưa nhà văn tìm đến
sự khám phá con người trong mối quan hệ giữa ý thức và vô thức, giữa cao cả và
thấp hèn.
Tất nhiên, chúng tôi cho rằng sự đa dạng trong sáng tác Kim Lân chỉ là
thành quả bước đầu của sự đổi mới trên con đường hiện đại hóa văn học. Và với
ý nghĩa đó, chúng tôi thấy các tác phẩm viết về đề tài thế sự, đặc biệt là ở các
truyện bàn về công cuộc cải cách ở nông thôn đã thể hiện rõ hơn về giọng điệu
trong sáng tác của ông. Có thể nói, Kim Lân đã chọn chỗ đứng bình đẳng với
nhân vật để nhân vật nói lên tiếng nói của mình. Đọc các truyện Ông cả Luốn
gốc me, Con chó xấu xí, Người chú dượng... thật khó mà phân biệt đâu là giọng
tác giả, đâu là giọng nhân vật. Những cuộc độc thoại nội tâm đã mang tính chất
một cuộc đối thoại với nhiều giọng điệu khi thì mỉa mai phê phán, khi thì tự biện
lí giải cho hành động của mình… nhưng nổi bật lên vẫn là giọng điệu đôn hậu,
trầm sáng của những con người bị nỗi đau tinh thần giằng xé khiến cho trong một
con người luôn xảy ra những nghịch lý khi vừa phạm phải sai lầm lại vừa biết ăn
năn, đau khổ trước những sai lầm đó. Cách nhìn mới về con người như vậy ít
nhiều cũng đưa lại cơ sở nhất định để Kim Lân tạo thêm nhiều giọng điệu cho tác
phẩm của mình.
Đọc và xâu chuỗi lại hết toàn bộ truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận
thấy tất cả đều toát lên một sự nhẹ nhàng, đằm thắm, sâu lắng với một giọng kể
121
thủ thỉ, chậm rãi, trầm sáng và đôn hậu, lại phảng phất cách kể chuyện cổ tích, rất
hợp với đặc điểm tính cách của những nhân vật người lao động ở làng quê nông
thôn Việt Nam.
Với giọng văn như thế, Kim Lân đã rất thành công khi thể hiện đời sống
sinh hoạt tinh thần của người dân quê trong những sáng tác viết về đề tài phong
tục. Có thể nói là trong “Đôi chim thành” từ cách xưng hô, gọi tên, dùng từ đến
sắc điệu tình cảm đều toát lên giọng văn đôn hậu, trầm sáng.
“Trưởng Thuận chạy ra hiên đon đả:
- Nắng nôi thế này, cụ cũng chịu khó sang chơi.
Cụ Tú vuốt râu cười khanh khách:
- Có hề gì. Nhân thằng chánh Quyền nhà tôi bảo bên ông có quần chim
bay, nên muốn sang xem.
Ông Trưởng cười nhũn nhặn:
- Xin rước cụ vào trong nhà nghỉ ngơi cho mát đã”. [65]
Ta cũng cảm nhận được cái giọng văn đôn hậu, trầm sáng ấy trong các
truyện Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng Vật, Cầu đánh vật, Con mã
mái, Tông chim Cả Chuống, Ông Cản Ngũ …
Tính trầm sáng, đôn hậu trong giọng điệu của truyện ngắn Kim Lân được
thể hiện dưới nhiều sắc thái cụ thể. Chẳng hạn ở những truyện thuộc đề tài thế sự
như Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Người kép già, Làng, Vợ
nhặt… Giọng điệu của truyện tuy có cái bình thản của “sự đời cứ diễn ra như
thế” (Ban Dắc), nhưng tính trầm sáng, đôn hậu lại ẩn sau câu chữ của nhà văn. Ở
đây chúng tôi nhìn thấy một Kim Lân do điểm nhìn trần thuật của một người
“biết hết” nên tỏ ra tinh tế, hóm hỉnh trong cách phát hiện, thể hiện những vấn đề
của cuộc sống.
Từ chỗ quan sát và khám phá trong đời sống thường nhật, Kim Lân đã đi
thẳng vào tìm kiếm lẽ đời trong số phận cá nhân và các vấn đề xã hội. Từng bước
một ông dần dần hóa thân vào một nhân vật, sống cùng nhân vật để khám phá và
tìm hiểu cái chiều sâu của hiện thực. Trên cơ sở đó, ông đã tạo cho sáng tác của
122
mình một giọng điệu da diết, trầm lắng và cuốn hút hơn khiến người đọc phải
chiêm nghiệm suy ngẫm về những gì mà nhà văn đặt ra
Chẳng hạn truyện ngắn “Làng”, Kim Lân với tư cách là người kể chuyện,
ông đã kể về cảnh làng quê Việt Nam trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ở
đó nhà văn xoay quanh nhân vật chính ông Hai - một con người thuần phác, đôn
hậu có bản chất tốt đẹp: rất yêu làng của mình. Và qua câu chuyện, ông Hai đã tự
kể về làng của mình. Lúc thì ông khoe làng bằng một giọng say mê, hào hứng,
lúc thì ông nhớ về quê hương làng xóm bằng giọng điệu vừa trầm lắng trong
dòng hồi tưởng, nhưng cũng vừa tự hào về làng của mình. Rồi khi hay tin làng
theo giặc thì ông vô cùng đau khổ, ngỡ như không thể sống, giọng điệu trở nên
trầm lắng hẳn xuống, khi thì ngậm ngùi, khi thì thủ thỉ tâm sự… Giọng điệu càng
về sau càng có dư vị thương cảm hơn đối với một người vốn cả đời chỉ quẩn
quanh trong làng của mình; luôn yêu quý, tự hào, bằng lòng với tất cả những gì
thuộc về làng của mình, cùng một lúc buộc ông phải chịu hai cú sốc - xa làng đi
tản cư và nghe tin làng của mình theo giặc. Kim Lân đã vừa kể vừa tả tâm trạng
người dân yêu làng không muốn nghe người ta nghĩ và nói không tốt về làng của
mình - làng theo Tây - vì đây là một sự thật quá nghiệt ngã đối với ông mà lâu
nay ông không bao giờ tin cũng như không bao giờ nghĩ đến. Giọng điệu của
truyện trầm lắng dần. Truyện khép lại ở mạch kể. Ông Hai cảm thấy vô cùng
sung sướng tự hào khi được tận tai nghe ông chủ tịch làng đính chính làng mình
không theo giặc.
Còn con người mụ chủ nhà đáng ghét tham lam, bủn xỉn, hay xoi mói,
thóc mách bỗng trở nên đáng thương, vì mụ cũng “tỏ vẻ vui sướng, mụ giương
tròn cả hai mắt lên mà reo.
- A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê
ấy. Thôi bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao
nhiêu.
Mụ cười khi khí.
- Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy!” [55]
123
Chúng ta thấy trong con người Việt Nam luôn tiềm tàng tinh thần yêu
nước. Có lẽ vì thế mà mụ chủ nhà lại thay đổi tính cách nhanh như thế. Và điều
này cũng đã cho thấy khi mọi người biết tìm cái chung trong nguồn tình cảm
thiêng liêng thì họ sẽ trở nên gần gũi nhau hơn. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện
nổi bật lên là giọng kể thủ thỉ, tâm tình rất đôn hậu, trầm, sáng của một con người
vốn là “con đẻ của đồng ruộng”.
“Anh chàng hiệp sĩ gỗ” là truyện ngắn duy nhất của Kim Lân mang
những nét viễn tưởng với sự giả định rằng đây là “Câu chuyện cảm động về một
con rối và trái tim người” và hậu vận của anh chàng hiệp sĩ gỗ khi đã bằng lòng
với mụ phù thủy là giết một cô gái để được biến thành người, đặc biệt là cuộc đối
thoại giữa anh chàng hiệp sĩ gỗ với mụ phù thủy và cô gái. Những nét viễn tưởng
ấy làm cho truyện thi vị hơn, trong trẻo hơn trong cái kết thúc có hậu về tình đời,
tình người.
Giọng chủ đạo đó được trở lại trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, các nhân vật
ở đây chủ yếu cũng vẫn là những “mảnh đời đầu thừa đuôi thẹo” và cũng vẫn
hơi văn, mạch văn ấy, thay vì ông đi sâu vào những vấn đề mưu sinh và tính chất
phức tạp đặt ra trong các mối quan hệ của cuộc sống ngay nạn đói thì ông lại đi
sâu vào quan hệ tình người. Đặt nhân vật vào quầng sáng của thế giới tình cảm,
Kim Lân đã phát huy thế mạnh của một ngòi bút trữ tình nhân bản, của một tâm
hồn đồng cảm với niềm vui và nỗi đau con người. Mặc dù viết về sự nghèo khó
khốn cùng của con người trong nạn đói nhưng tác phẩm vẫn toát lên một vẻ đẹp
của tình người. Đó là sự yêu thương, cưu mang, đùm bọc giữa những con người
nghèo với nhau, đặc biệt là dù cuộc đời đói khổ nhưng họ vẫn khao khát một mái
ấm gia đình hạnh phúc, vẫn hướng tới một ngày mai tươi sáng, no đủ hơn. Có thể
nói “Vợ nhặt” vừa có sự xót xa đồng cảm với nỗi đau khổ của con người lại vừa
tin tưởng ngợi ca tấm lòng bao dung, nhân hậu, cùng với tinh thần lạc quan luôn
khao khát cuộc sống gia đình hạnh phúc của những con người lao động nghèo
nên giọng điệu của “Vợ nhặt” có phần độc đáo hơn so với những sáng tác khác.
Nhưng, nhìn chung thì từ lời độc thoại nội tâm, đến lối kể chuyện, cách xưng hô,
124
gọi tên, cách dùng từ, sắc điệu tình cảm… trong “Vợ nhặt” nói riêng và trong
VXNT Kim Lân nói chung, đã thể hiện thái độ thẩm mỹ và năng lực nghệ thuật
của ông đối với người nông dân và thân phận của họ. Tất cả đều toát lên một
giọng điệu thủ thỉ, chậm rãi; nhẹ nhàng, sâu lắng; đôn hậu, giản dị mà vẫn trong
sáng, hóm hỉnh, tươi tắn. Đây cũng là một giọng điệu riêng mà chính nó đã góp
phần tạo nên phong cách VXNT Kim Lân.
125
KẾT LUẬN
Tiếp cận phong cách nghệ thuật với tính cách một hệ thống cụ thể về hình
thức và nội dung, “một nguyên lý mỹ học của kết cấu thống nhất tất cả nội dung
và tất cả hình thức của tác phẩm”, trên đây chuyên luận đã lần lượt tìm hiểu,
khảo sát phong cách VXNT của Kim Lân trên tất cả các bình diện thuộc về hình
thức (phương thức tự sự [chương ba] ) và nội dung (quan niệm nghệ thuật; nội
dung tự sự [chương một, chương hai] ). Trong đó các yếu tố nội dung được xem
là nguồn gốc hay cơ sở cắt nghĩa cho những biểu hiện cụ thể của phong cách
nghệ thuật thành những đặc điểm về hình thức của tác phẩm.
Từ sự khảo sát và phân tích đó, chúng tôi có thể rút ra mấy kết luận sau đây
về phong cách VXNT của ông.
1. Về quan niệm nghệ thuật của Kim Lân
1.1. Trong VXNT Kim Lân, con người được đề cao là con người cá nhân ở đời
sống nông thôn làng quê Việt Nam. Con người ấy được nhìn nhận trong tư cách
một chủ thể sống, tự cảm nghiệm, nhận thức thế giới và con người. Nó không
phải là con người hành động hay con người tư tưởng (như trong sáng tác của “Tự
lực văn đoàn”), cũng không phải là con người tâm lý với những quá trình xung
đột tâm lý rõ rệt (như trong sáng tác của Nam Cao), mà là con người ở nông thôn
với những tình cảm hết sức tốt đẹp bên cạnh đời sống tâm hồn phong phú và
được soi chiếu trong nhiều mối quan hệ giữa con người với con người; giữa con
người với con vật nuôi, với thiên nhiên. Con người ấy biết quý trọng đời sống nội
tại của bản thân và của người khác; thích tự mình cảm thụ cái đẹp, tự cảm
nghiệm lấy các chân lý, tự tạo ra cái đẹp, tạo ra hạnh phúc, niềm vui hoặc biết
thực sự trân trọng ý nghĩa của sự sống và không dễ dàng thỏa hiệp buông xuôi
trước sự sống đó. Chính do quan niệm này mà nhân vật của Kim Lân thường
được miêu tả rất riêng, rất tình người, rất Kim Lân, mang cốt cách văn hóa của
con người Việt, làng quê Việt.
Con người mang truyền thống đạo lý của con người Việt Nam vốn là trung
tâm và là một bộ phận không tách rời của một thế giới không ngừng đổi thay,
126
luôn tồn tại vận động trong trạng thái giao chuyển phức tạp giữa các khoảng
không gian, thời gian khác nhau cho nên ô cửa để nhìn vào thế giới ấy phải mở ra
một góc tiếp cận đặc biệt. Ô cửa và góc tiếp cận ấy trong văn Kim Lân chính là
cái không gian làng xóm hay không gian nông thôn làng Việt giai đoạn trước và
sau Cách mạng tháng Tám.
1.2. Quan niệm về con người và thế giới như vậy mở theo nó quan niệm về văn
chương và cái đẹp mang tính chất phát hiện của Kim Lân: cái đẹp là sự sống; cái
đẹp trong thế giới vốn là phong tục, sinh hoạt văn hóa lành mạnh của người nông
dân ở làng quê nông thôn Việt Nam với những thú chơi tao nhã, “phong lưu
đồng ruộng”; cái đẹp ấy chỉ thực sự có giá trị khi nó sống với thực tại và được
con người cảm thấy. Tác phẩm văn chương phải mang trong lòng nó cái đẹp của
sự sống và nghệ sĩ chính là người tìm kiếm và nâng đỡ cái đẹp ấy trong cuộc đời.
Và đó cũng chính là cái mà người đọc có thể tri giác được qua hệ thống hình
tượng cảm tính, sinh động trong VXNT Kim Lân.
Như vậy, nếu cần khái quát quan niệm nghệ thuật của Kim Lân trong một
mệnh đề ngắn gọn, có thể gọi ông là Người ưa tìm cái đẹp của văn hóa làng
quê, lịch sử Việt Nam.
2. Về những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Kim Lân
2.1. Thế giới và cuộc sống con người trong VXNT Kim Lân về căn bản là thế
giới được nhìn từ quê hương, hay mang hình bóng quê hương đồng bằng Bắc bộ
vốn dung dị và kín đáo, thân thuộc của nhà văn. Thế giới ấy được biểu hiện sinh
động, đầy đủ nhất trong cấu trúc không gian làng - xóm rất Kim Lân. Ở đó,
người đọc nhận ra cái không khí xã hội Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, nhận ra những vẻ đẹp mang cốt cách văn hóa Việt, tâm hồn Việt.
2.2. Từ bức tranh quê hương với cái nhìn không gian làng xóm, nhà văn có được
nhiều góc tiếp cận thế giới và cái nhìn nhiều phía về con người, về đời sống sinh
hoạt văn hóa ở nông thôn tạo nên những nội dung tự sự mới mẻ của nhà văn: 1)
Con người văn hóa; 2) Cảm hứng “phong tục”.
127
2.3. Mỗi một nội dung tự sự như vậy có thể xem là một tìm tòi thể nghiệm tâm
đắc của Kim Lân trong cách tiếp cận hiện thực đời sống cũng như cách thể hiện
sự cảm nhận, suy ngẫm đánh giá của nhà văn. Khi kể những chuyện về đời sống
sinh họat văn hóa làng quê với những thú chơi “phong lưu đồng ruộng” của
người nông dân, Kim Lân đã đi sâu vào số phận, cốt cách, tâm trạng của họ ở
một góc độ tiếp cận trực diện. Đó cũng chính là góc tiếp cận hiện thực mới mẻ và
sở trường của riêng ông. Kim Lân mở ra một thế giới khác - một thế giới thứ hai
riêng thuộc về con người văn hóa ở làng quê Việt Nam. Đó là những con người
nghèo khó, khốn cùng mang mệnh danh “đầu thừa đuôi thẹo” nhưng lại trong
sáng, tài hoa, phong lưu, bặt thiệp…, đặc biệt là dù trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn
sống có đạo lý, vẫn lạc quan, yêu đời hướng về một tương lai tươi sáng hơn. Và
đây cũng là một hướng đi đầy triển vọng cho VXNT hiện đại.
Hướng về con người văn hóa ở làng quê Bắc bộ, Kim Lân tập trung viết
về những con người thượng võ, những nghệ sĩ làng quê và những con người
“đầu thừa đuôi thẹo” tạo nên một thế giới rất riêng. Nhân vật của ông vì thế mà
thường mang vẻ đẹp truyền thống, đồng thời cũng ẩn chứa một sức sống riêng
của con người hiện đại. Trang văn của ông vừa thanh thản, trang trọng bình dị
trong những câu chuyện đấu vật, những sinh hoạt văn hóa với những thú chơi
“phong lưu đồng ruộng”, lại vừa phảng phất một nỗi buồn man mác, hay niềm
suy tư nhẹ nhàng sâu kín về số phận con người. Nhiều trang văn của Kim Lân đã
chắt chiu những nét đẹp hồn hậu của tâm hồn Việt, cốt cách Việt…, phản ánh
những nét đẹp của văn hóa làng Việt. Và như thế cũng đủ thấy Kim Lân - nhà
văn hiện đại - có một tâm hồn “thuần hậu nguyên thủy” với nông thôn làng Việt
đến dường nào. Có thể nói Kim Lân - một nhà văn phong tục - Người lưu giữ
hoài niệm của văn hóa Việt, tâm hồn Việt.
3. Về phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân
3.1. Phương thức tự sự trong VXNT của Kim Lân chủ yếu là tự sự mang tính tự
truyện, đặc biệt là sự kết hợp hình thức trần thuật chủ quan với hình thức trần
thuật khách quan, lấy trung tâm chú ý của sáng tạo nghệ thuật là xây dựng nhân
128
vật, sự hòa phối kỹ thuật trong việc xây dựng tình huống và cốt truyện; ngôn ngữ
và giọng điệu thuần hậu, chân tình.
3.2. Là nhà văn vốn là “con đẻ của đồng ruộng”, ngòi bút của Kim Lân luôn
hướng tới sự gắn bó với cái CHÂN - THIỆN - MỸ của cuộc sống nông thôn
đồng bằng Bắc bộ. Truyện của ông đầy ắp những chi tiết đời tư - thế sự. Với lối
trần thuật linh hoạt, có duyên.
3.3. Phong cách VXNT Kim Lân còn tập trung ở những thủ pháp xây dựng nhân
vật. Nhà văn đặt con người vào mội trường sống bình thường, miêu tả cụ thể, sắc
sảo, rõ nét về cả ngoại hình, tên gọi lẫn nội tâm nhân vật. Đặc biệt là ông xây
dựng nhân vật mang tính tự truyện, chú trọng đi sâu vào tâm lý nhân vật và xem
đó như là một lợi thế để ông tự bộc lộ với mình những cảm xúc, những suy nghĩ.
Kim Lân đã tạo cho nhân vật của mình một vẻ đẹp tương đối hài hòa giữa nội
dung và hình thức. Đây có thể xem là một đóng góp vào thể tài truyện ngắn nói
riêng và nền văn xuôi đương đại nói chung những hình tượng nhân vật đặc sắc,
vừa nối tiếp truyền thống văn xuôi của những giai đọan trước, vừa góp phần vào
sự đổi mới nghệ thuật cho VXNT hiện đại Việt Nam.
3.4. Trong khi xem con người là đối tượng và đi vào bề sâu tâm lý, vào các số
phận cá nhân mà khám phá Kim Lân đã tạo được các dạng tình huống khác nhau
giàu tính nghệ thuật và đậm bản sắc riêng.
Kim Lân là một cây bút tài hoa tinh tế. Văn của ông rất giàu hình ảnh.
Ngôn ngữ trong sáng tác Kim Lân rất giàu tính biểu cảm đặc sắc. Kim Lân là nhà
văn nông thôn, nhân vật trong sáng tác của ông là những người nông dân nên
ngôn ngữ trong lời thoại của ông thường mang đậm tính khẩu ngữ. Đặc biệt là
ngôn ngữ văn xuôi của ông là ngôn ngữ của những người bình dân được sử dụng
một cách nghệ thuật mang vẻ đẹp của sự giản dị tự nhiên. Nhìn chung cuộc sống
và con người ở nông thôn làng quê Bắc bộ, dưới ngòi bút của Kim Lân, dù chỉ
với những nét chấm phá cũng rất gây ấn tượng. Bên cạnh giọng điệu trữ tình
truyền thống là một giọng điệu thủ thỉ, chậm rãi; nhẹ nhàng, sâu lắng; đôn hậu,
129
giản dị mà trong sáng, hóm hỉnh, tươi tắn phù hợp với đặc điểm tính cách nhân
vât người lao động xuất thân nông dân ở làng quê Bắc bộ.
4. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại Kim Lân thuộc vào số những nhà văn
sống và viết dưới hai giai đoạn khác nhau. Viết không nhiều, hơn năm mươi năm
cầm bút, Kim Lân chỉ để lại cho đời hơn ba mươi tác phẩm, nhưng Kim Lân vẫn
là một nhà văn tạo được phong cách nghệ thuật riêng.
Suy cho cùng, con người Kim Lân, tư tưởng và sự nghiệp Kim Lân đều
bắt nguồn từ một cái gốc chung cắm rất sâu vào một mảnh đất quê hương, bắt
nguồn từ một tấm lòng trân trọng yêu quý những truyền thống của dân tộc, tư
tưởng đạo lý của nhân dân, tinh thần của thời đại. Hiện thực đời sống thôn quê
Việt Nam được hấp thụ bởi một cá tính mãnh liệt, một nhân cách nghệ sĩ lớn. Đó
chính là vẻ đẹp đằm thắm và sức sống bền vững của một phong cách nghệ thuật.
130
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2003), Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục sở trường về miêu
tả trạng thái nhân thế, tạp chí văn (số 13), hội văn nghệ TP.HCM.
2. Toan Ánh (1992), Nếp xưa - Tiểu thuyết phong tục, Nxb Văn học, Hà
Nội.
3. Toan Ánh (1993), Các thú tiêu khiển Việt Nam, Nxb Mũi Cà Mau.
4. Lại Nguyên Ân (1986), Văn xuôi Kim Lân, Tạp chí Văn học (số 6), Viện
văn học- Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam.
5. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
6. Bakhtin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (bản dịch của Phạm
Vĩnh Cư), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
7. Y Ban (2004), Nhà văn Kim Lân: thuở ấy chúng tôi sống bằng hữu lắm,
Giáo dục và thời đại chủ nhật (số 17).
8. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học (số 9).
9. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp.
10. Nam Cao (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam
Ninh, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, Nxb Trẻ,
TP.HCM.
12. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn Nam
Cao, Nxb.
13. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
14. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt
Nam thời kỳ từ đầu những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công
Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Luận án PTS. ĐHSP. Hà Nội I.
131
15. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học (Phần Tác phẩm văn
học), Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.
16. Đặng Anh Đào (2001), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ
TP. HCM.
17. Nguyễn Đăng Điệp (2005), Chân dung các nhà văn hiện đại, Nxb Giáo
dục.
18. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Gorki M (1978), Bàn về văn học, Nxb Văn học.
22. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Hạnh (1979), Suy nghĩ về văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi
mới cách nhìn về con người, TCVH, số 3.
25. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hoá - vấn đề và suy nghĩ, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
27. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
28. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb
Đà Nẵng.
29. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ
thuật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb KHXH và Nxb Mũi
Cà Mau.
132
31. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
32. Tô Hoài (1959), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà
Nội.
33. Tô Hoài (1997), Những gương mặt (Chân dung văn học, in lần thứ 3),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Nguyễn Công Hoan (1959), Nghệ thuật viết truyện ngắn, Báo văn nghệ số
23-24.
35. Nguyễn Công Hoan (1969), Viết truyện ngắn, Báo Văn nghệ (số 30).
36. Trần Ninh Hồ (1991), Một ngày Kim Lân, Báo Văn nghệ (số 34).
37. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb tác phẩm
mới.
39. Khái Hưng (1957), Một quan niệm về văn chương, Báo ngày nay (89),
1937, Minh Đức in lại, Hà Nội.
40. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, TP.HCM.
41. Đào Khương (1987), Gặp gỡ 27 nhà văn có tác phẩm được chọn giảng
trong nhà trường, Sở Giáo dục Hà Sơn Bình.
42. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi
pháp, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
43. Nguyễn Trọng Khánh, (2006), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà
trường nhìn từ góc độ ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
45. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lý luận văn học, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
46. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
133
48. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
Nxb khoa học xã hội.
49. Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP. TP.HCM.
50. Kim Lân (1942), Cô Vịa, Báo Trung Bắc chủ nhật, số 135/142, trang 18.
51. Kim Lân (1944), Cô Dí, Báo Trung Bắc chủ nhật, số 189, trang 12.
52. Kim Lân (1945), Tông chim Cả chuống, Tiểu thuyết thứ 7 số 9, trang 60.
53. Kim Lân (1943), Món đồ mừng, tiểu thuyết thứ 7, trang 9.
54. Kim Lân (1944), Truyện chó chết, Báo Trung Bắc chủ nhật, số 234,
trang 10.
55. Kim Lân (1955), Làng, Truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
56. Kim Lân (1957), Ông lão hàng xóm, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
57. Kim Lân (1955), Anh chàng hiệp sĩ gỗ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
58. Kim Lân (1960), Cô gái công trường, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
59. Kim Lân (1962), Con chó xấu xí, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Kim Lân (1965), Vợ chồng anh đội trưởng, Báo Văn nghệ (số 13), Tuần
báo của hội liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam.
61. Kim Lân (1982), Nguyên Hồng - một nhà văn, TC Văn học (số 3).
62. Kim Lân (1983), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Kim Lân (1984), Chặng đường đi tới, TC Văn học (số 4).
64. Kim Lân (1984), Ông Cản Ngũ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
65. Kim Lân (1996), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
67. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
68. Phạm Quang Long (1994), Một đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao,
Tạp chí văn học (số 2), Hà Nội.
69. Nguyễn Văn Long, Trần Đăng Xuyền (1999), Tư liệu văn 12 - phần Văn
học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
134
70. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà,
La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
71. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
72. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), “Khải luận” Tổng tập văn học Việt Nam, tập
30A, Nxb KHXH, Hà Nội.
73. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), Các nhà văn nói về văn (tập 2),
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
74. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Các tác giả văn học Việt Nam (tập 2), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
75. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá (1995), Tổng tập văn học
Việt Nam tập 30B, Nxb KHXH, Hà Nội.
77. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ, TP.HCM.
78. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
79. Trần Đồng Minh (1994), “Bóng tối và ánh sáng trong câu chuyện nhặt
vợ” Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, TP.HCM.
80. M.B.Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội.
81. M.B.Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Quý Nghĩa (2004), Sức sống trong truyện ngắn Vợ nhặt, Báo giáo
dục và thời đại, (số 49).
83. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều,
Nxb KHXH, Hà Nội.
135
84. Bảo Nguyên (1997), Sử dụng ngôn ngữ- nghệ thuật đặc sắc của truyện
ngắn Kim Lân, TC Ngữ học trẻ, Nxb Hội ngôn ngữ học Việt Nam.
85. Lữ Huy Nguyên (1997), Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh
Bắc, Báo Văn nghệ (số 5+6), Hội nhà văn Việt Nam.
86. Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, Nxb Văn hoá thông tin.
87. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
88. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
89. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá - Từ một góc nhìn, Nxb
Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
90. Phùng Quý Nhâm - Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Trường ĐHSP
TP.HCM.
91. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học Việt Nam, văn học hiện đại giao lưu
gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
92. Nhiều tác giả (1992), Khảo cứu về các phong tục và những thú chơi đẹp
ở đồng quê miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
93. Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
94. Nhiều tác giả (2003), Tuyển tập 10 năm tạp chí văn học và tuổi trẻ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
95. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
96. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng
cho nhà trường, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
97. Ngô Văn Phu, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam
thế kỷ 20 (tập 4), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
98. Vũ Dương Quỹ (Tuỵển chọn và biên soan) (1999), Nhà văn và tác phẩm
trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD và ĐT,
Vụ Giáo viên, Hà Nội.
100. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường ĐHSP TP.HCM.
136
101. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học (tập tiểu luận), Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
102. Nguyễn Quốc Thanh (2006), Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Kim Lân, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP. TP .HCM.
103. Vương Thảo (2004), Nhà văn Kim Lân và sự im lặng của nỗi buồn, Báo
An ninh thế giới cuối tháng (số 30).
104. Đào Thản (1994), Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn
xuôi, TC Văn học Hà Nội (số 2).
105. Bùi Việt Thắng (1994), Văn xuôi gần đây và quan niêm con người, TC
Văn học Hà Nội (số 4).
106. Bùi Việt Thắng (2002), Văn học Việt Nam 1945 - 1954 (văn tuyển), Nxb
ĐHQG, Hà Nội.
107. Nguyễn Thành Thi (2000), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam,
Nxb Khoa học xã hội.
108. Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Nguyễn Quyến, Trần Thanh Hà (2000),
Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, TP.HCM.
109. Ngọc Trai (1987), Sự khám phá về con người Việt Nam qua truyện ngắn,
TC Văn nghệ quân đội (số 10).
110. Hoàng Trinh (chủ biên), 1993, Phương pháp luận về vai trò của văn hóa
trong sự phát triển, Nxb KHXH.
111. Hoàng Trinh (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng.
112. Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện của truyện ngắn, TC Văn học
(số 2).
113. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi
mới, Nxb KHXH, Hà Nội.
114. Hòa Vang (2004), Kim Lân những ấn tượng, TC Văn học và tuổi trẻ
(số 7), Nxb Giáo dục.
115. Hoài Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường - Kim Lân, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
137
116. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
117. Viện văn học (1988), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7124.pdf