Tài liệu Phong cách Nguyễn Tuân qua tùy bút kháng chiến (1946 - 1954): ... Ebook Phong cách Nguyễn Tuân qua tùy bút kháng chiến (1946 - 1954)
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Phong cách Nguyễn Tuân qua tùy bút kháng chiến (1946 - 1954), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------- -----------
BÙI THỊ ANH CHUNG
PHONG CÁCH NGUYỄN TUÂN QUA
TUỲ BÚT KHÁNG CHIẾN
(1946 - 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN , NĂM 2007
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------- -----------
BÙI THỊ ANH CHUNG
PHONG CÁCH NGUYỄN TUÂN QUA
TUỲ BÚT KHÁNG CHIẾN
(1946 - 1954)
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học : PSG. TS. TÔN THẢO MIÊN
THÁI NGUYÊN , NĂM 2007
3
Lêi c¶m ¬n
Sau mét thêi gian häc tËp vµ nghiªn cøu, t«i ®· hoµn thµnh luËn v¨n th¹c
sÜ khoa häc Ng÷ v¨n víi ®Ò tµi: Phong c¸ch NguyÔn Tu©n qua tuú bót kh¸ng chiÕn
(1946 - 1954).
§Ó thùc hiÖn ®•îc luËn v¨n, ngoµi sù nç lùc, cè g¾ng cña b¶n th©n t«i ®·
®•îc sù d¹y b¶o, ®éng viªn gióp ®ì cña c¸c thÇy c« gi¸o, b¹n bÌ ®ång nghiÖp vµ gia
®×nh.
T«i xin bµy tá sù kÝnh träng vµ lßng biÕt ¬n s©u s¾c ®Õn PGS.TS. T«n
Th¶o Miªn - ng•êi ®· tËn t×nh h•íng dÉn, chØ b¶o t«i trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn
®Ò tµi.
T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n Ban Gi¸m hiÖu, khoa Sau ®¹i häc, Ban chñ
nhiÖm khoa Ng÷ v¨n, Tæ bé m«n V¨n häc ViÖt Nam, c¸c thÇy c« gi¸o tr•êng §¹i
häc S• ph¹m Th¸i Nguyªn ®· t¹o ®iÒu kiÖn thuËn lîi cho t«i trong suèt qu¸ tr×nh
häc tËp vµ nghiªn cøu.
T«i xin göi lêi c¶m ¬n s©u s¾c tíi gia ®×nh vµ ng•êi th©n, xin c¶m ¬n anh
em, b¹n bÌ vµ ®ång nghiÖp ®· ®éng viªn gióp ®ì t«i thùc hiÖn thµnh c«ng luËn v¨n
nµy.
Th¸i Nguyªn, ngµy 02 th¸ng 10 n¨m
2007
T¸c gi¶ luËn v¨n
Bïi ThÞ Anh Chung
4
5
MỤC LỤC
Mở đầu.......................................................................................................... 1
I. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
II. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 9
IV. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 9
V. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 10
VI. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 10
VII. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 11
Nội dung...................................................................................................... 12
Chƣơng 1. Từ phong cách nhà văn đến quan niệm chung về thể tài tuỳ
bút và phong cách tùy bút của Nguyễn Tuân ............................................. 12
1.1. Khái niệm phong cách nghệ thuật .......................................................... 12
1.2. Khái niệm về thể tuỳ bút......................................................................... 16
1.3. Nguyễn Tuân và thể tuỳ bút .................................................................... 18
1.4. Tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân – dấu ấn sáng tạo của một chặng
đường .......................................................................................................... 22
Chƣơng 2. Những đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tuỳ
bút kháng chiến (1946 - 1954 ) .................................................................... 30
2.1. Từ kẻ lãng du đến con người nhập cuộc .................................................. 30
2.2. Những đặc điểm chung về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân .............. 34
2.3. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tuỳ bút kháng chiến.................. 39
2.3.1. Cảm hứng nghệ thuật bao trùm: Kháng chiến như một phong hội mới ... 39
2.3.2. Sự chuyển biến và thống nhất phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua
tuỳ bút kháng chiến ...................................................................................... 54
Chƣơng 3. Phong cách ngôn ngữ trong tuỳ bút kháng chiến của
Nguyễn Tuân.............................................................................................. 63
3.1. Cơ sở hình thành ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Tuân ............................... 63
3.1.1. Nguyễn Tuân với tình yêu tiếng việt tha thiết ....................................... 63
3.1.2. Nguyễn Tuân - một bậc thầy về ngôn từ .............................................. 64
3.2. Ngôn từ nghệ thuật trong tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân .............. 66
3.2.1. Từ ngữ được lựa chọn trong miêu tả .................................................... 67
3.2.2. Sự lạ hoá trong sáng tạo từ ngữ của Nguyễn Tuân................................. 69
3.3. Câu văn và giọng điệu nghệ thuật ........................................................... 73
3.3.1. Câu văn nghệ thuật .............................................................................. 73
3.3.2. Giọng điệu nghệ thuật ......................................................................... 84
Kết luận .................................................................................................... 93
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 95
6
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Nguyễn Tuân là một trong chín nhà văn được chọn học trong
chương trình phổ thông với tư cách là tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông là một trong số không nhiều nhà văn đã tạo được cho
mình một phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo và có nhiều cống hiến cho
văn chương Việt Nam thế kỷ XX. Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học
đồ sộ với những trang viết độc đáo và tài hoa. Ông xứng đáng được coi là
một nghệ sĩ lớn. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1).
Văn nghiệp của Nguyễn Tuân trải qua hai giai đoạn trước và sau
cách mạng. Với thể loại tuỳ bút, Nguyễn Tuân đã tìm được cho mình một
hướng đi riêng, mà cho đến nay chưa ai vượt qua được. Tuỳ bút đã thực sự
trở thành “lãnh địa” của Nguyễn Tuân. Ông được tôn vinh là nhà tuỳ bút
số một của Việt Nam. Ông để lại được dấu ấn và tên tuổi của mình chính
là nhờ thể tài này.
2. Sau Cách mạng Tháng tám, cùng với tuỳ bút Sông Đà, Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi, Tuỳ bút kháng chiến đã góp phần bộc lộ rõ thêm phong cách
độc đáo, tài hoa và cả khuynh hướng “muốn được cống hiến với tất cả trái
tim nhiệt thành cùng cái đầu uyên bác của nhà văn đối với công cuộc đấu
tranh và dựng xây đất nước”. Có thể nói, trong những trang tuỳ bút độc đáo
của mình nhà văn đã diễn tả được “mọi niềm vui và nỗi đau giằng xé của
thời đại giông bão này” (Trích Điện chia buồn của các nhà văn Liên Xô,
1.8.1987, VN số 32,1987).
3. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn luôn có ý thức khám phá và cống hiến
tài năng của mình cho văn chương. Ông đã từng thử sức ngòi bút của mình
qua nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết... nhưng tuỳ bút là thể loại
mà ông thành công nhất. Từ trước đến nay, đã có khá nhiều công trình khảo
7
sát, nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Tuân ở nhiều góc độ khác nhau.
Song, để tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu vào đặc điểm nghệ thuật tuỳ bút
Nguyễn Tuân qua Tuỳ bút kháng chiến, làm rõ hơn phong cách Nguyễn Tuân
thì gần như chưa có công trình nào thực hiện một cách hệ thống. Bên cạnh
đó, với tinh thần đổi mới phương pháp và quan điểm dạy học môn Văn trong
nhà trường phổ thông là chú ý dạy theo hệ thống thể loại cùng với tiến trình
phát triển của văn học, chúng tôi đã lựa chọn thể loại tuỳ bút của Nguyễn
Tuân để nghiên cứu.
Đó là những lý do cơ bản để chúng tôi chọn Phong cách Nguyễn
Tuân qua tuỳ bút kháng chiến (1946-1954) làm đề tài luận văn Thạc sĩ
của mình.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nguyễn Tuân là một tác gia văn học lớn. Ông khẳng định tài năng thực
sự của mình ở thể tài tuỳ bút. Có thể nói, tuỳ bút Nguyễn Tuân đã trở thành
đối tượng thu hút được sự quan tâm và chú ý của đông đảo bạn đọc cũng như
các nhà nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói
chung, tuỳ bút Nguyễn Tuân nói riêng với nhiều cấp độ, nhiều nội dung khác
nhau, nhưng ở đây chúng tôi muốn nói đến những chuyên gia đã dành nhiều
tâm huyết và công sức cho nhà văn Nguyễn Tuân, như Nguyễn Đăng Mạnh,
Phong Lê, Vương Trí Nhàn, Hà Văn Đức....Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
khẳng định“Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học phức tạp”.
Trước Cách mạng, do bất hoà với xã hội, ông sống ngông nghênh, quay lưng
với thực tại, chỉ coi trọng cái tôi vị kỷ của mình. Nhưng sau Cách mạng,
Nguyễn Tuân đã có nhiều thay đổi. Không hoàn toàn đoạn tuyệt ngay với quá
khứ, nhưng ông đã nhận thấy ý nghĩa của cuộc sống khi hoà mình vào nhân
dân. Nguyễn Tuân cùng đi, cùng nghĩ, cùng sống với bộ đội, với quần chúng
lao động. Bởi vậy Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Cách mạng tháng Tám đã
cứu sống Nguyễn Tuân”. Cách mạng tháng Tám là cơn bão táp may mắn, giúp
8
Nguyễn Tuân hồi sinh trong niềm vui lớn của đất nước. “Mê say với ánh sáng
trắng vừa giải phóng, tôi đã là một dạ lữ khách không mỏi, quên ngủ của một
đêm phong hội mới”... Nguyễn cũng sáng suốt bốc cho mình một vị thuốc
nữa: Phải đấu tranh tư tưởng, tiêu diệt con người cũ, phải “lột xác”. Nguyễn
Tuân đã tiến hành một cuộc “Cách mạng” trong lòng mình. Sự chuyển biến
thực sự của ngòi bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng, có thể xem như bắt đầu từ
Đường vui. Đây là kết quả của một chuyến đi dài, không phải như anh chàng
Bạch ngày xưa xê dịch trên xe, trên tàu, thui thủi một mình, mà đi bộ “mình
cưỡi lên mình mà trườn qua núi sông đẫm mùi thuốc súng.” Tiếp theo Đường
vui (1949), Nguyễn Tuân viết Tình chiến dịch (1950). Hai tác phẩm như cùng
được viết trong một mạch văn, một hơi văn, nhưng thực ra, có những điểm
khác nhau quan trọng. So với Đường vui, ở Tình chiến dịch tác giả nhập cuộc
hơn vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Trong bài "Thể tài tuỳ bút của Nguyễn
Tuân”, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo và
sự tài hoa của nhà văn này qua thể tài tuỳ bút.
Theo Giáo sư Phong Lê: “Tên tuổi của Nguyễn Tuân gắn với trào lưu
văn học lãng mạn trong văn học Việt Nam sau đại chiến thế giới lần thứ hai”.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân “thất vọng trước hiện tại, nhà văn quay về
quá khứ, nhấm nháp những Vang bóng một thời, những thú chơi được xem là
thanh lịch như ướp hương bưởi, thả thơ, đánh thơ...đó là cả một sự bế tắc
nằm trong sự bế tắc chung của nền văn học công khai, dưới ách thống trị của
thực dân trong xã hội cũ. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn
Tuân chính là một trong số các nhà văn lãng mạn hiếm hoi ngay từ đầu đã có
cái may mắn tiếp nhận được ánh sáng mới, để tìm ra con đường giải thoát
cho cuộc sống và nghệ thuật của mình. Nhà văn đã hồ hởi đi theo cách mạng
và có lúc chan hoà vào dòng người, vui cái vui xuống đường trong những
ngày đầu sau khởi nghĩa. Nhưng phải đến cuộc kháng chiến chống Pháp,
sống trong đời sống của nhân dân, trong ngọn lửa của chiến đấu, con người
và nghệ thuật của Nguyễn Tuân mới có điều kiện “gột rửa” dần những mặt
9
tiêu cực để hướng vào quỹ đạo của văn nghệ cách mạng. Tuỳ bút Đường vui
chính là tác phẩm mở đầu đánh dấu một giai đoạn sáng tác mới của Nguyễn
Tuân, là minh chứng cho sự “nhập cuộc” của nhà văn với cách mạng và
kháng chiến. Nhưng phải đến Tình chiến dịch mới cho ta thấy hình ảnh một
Nguyễn Tuân thật gần gũi. Ông đã thực sự hoà mình vào cuộc kháng chiến vĩ
đại của nhân dân, ông đã đi cùng bộ đội, nhân dân trên các nẻo đường kháng
chiến gian nan. Cuộc kháng chiến đã mang lại cho Nguyễn Tuân những tình
cảm mới mà ông gọi là “nếp tình cảm mới”. Tình cảm đó không có trong các
trang viết trước đây của Nguyễn Tuân. Những mối “tình đơn vị”, “tình chiến
dịch”, hoặc cái “nỗi nhớ miên man” nó gắn bó con người với nhau. Sau cách
mạng, căn bản đã hết rồi cái say sưa tự nhấm nháp mình, Nguyễn Tuân còn
phấn đấu đi xa hơn thế. Trong sáng tác của ông đã dần dần xuất hiện những
con người kháng chiến mà ông yêu mến khâm phục: anh giao thông “Dầu
Gáo”, anh biệt động, anh tự vệ thủ đô, anh du kích liên xã... Trong cái cố
gắng “không viết tuỳ theo bút”, có lúc ông đã thử bước sang địa hạt truyện
ngắn để dựng hẳn một chân dung quần chúng cách mạng như trong Những
con đò danh dự (Độc lập, số 23, tháng 6 1950), hoặc một khung cảnh chiến
thắng với nhiều tâm trạng, nhiều khuôn mặt khác nhau của quân dân vùng
địch hậu như trong Thắng càn (1954). Có thể nói: Con đường đi của Nguyễn
Tuân trong ba mươi năm qua là con đường có nhiều bước thăng trầm. Ông đi
vào đời sống, xuất phát từ đời sống (chứ không phải từ cá nhân mình), gắn
bó, chan hoà với quần chúng (chứ không phải đứng tách ra ngoài), tin ở cách
mạng, và rèn luyện mình theo lập trường và quan điểm của Đảng.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Vương Trí Nhàn trong bài“Nhà
văn Nguyễn Tuân” đã viết “Nên hiểu sự khinh bạc lộ liễu của Nguyễn Tuân
trước Cách mạng chẳng qua cũng là một cách nhà văn tự mài sắc mình để
làm nghề cho thật đắt, chúng ta sẽ không quá thành kiến với nó, và có thể
hiểu tại sao, nó lại tồn tại đồng thời với những phẩm chất ngược lại, như tinh
thần phục thiện và một tấm lòng biết thông cảm. Chẳng phải từ sau Cách
10
mạng, khi không còn thật cần thiết cho nghề nữa, thói quen khinh bạc đó đã
được gội rửa rất nhiều?” [24;tr.30].
Vương Trí Nhàn quan niệm tuỳ bút là một thể loại “rất kén tác giả. Ấy
vậy mà tên tuổi Nguyễn Tuân lại gắn với mảnh đất đáng gọi là “tử địa” ấy.
Ông là nhà tuỳ bút số một của văn học Việt Nam hiện đại; sau ông người ta
mới gượng gạo nhắc tới vài tên tuổi khác cũng có đôi ba phen thử sức trong
nghề - ấy là sau khi họ phải vượt qua con đường khốn khó, hai bên là hai cái
vực: hoặc là viết giống Nguyễn Tuân ; hoặc không phải tuỳ bút.” Ông đưa ra
kết luận về sự gắn kết của Nguyễn Tuân với thể tài tuỳ bút: “Nó là một bộ
phận của con người ông, ông sống với nó và cũng được chết với nó.” Vương
Trí Nhàn khẳng định: “Những gì xảy ra trong đời sáng tác của Nguyễn Tuân
những năm sau 1945, làm chứng cho điều đó”.
Trong cuộc tranh luận về nghệ thuật ở Việt Bắc tháng 7 năm 1949, khi
bàn đến Đường vui, Nguyên Hồng nhận xét “anh yêu mình nhiều quá, dựng
mình lên nhiều quá.”; còn một cán bộ văn nghệ khác thì bảo “tôi có cảm
tưởng là anh đi trên bờ suối, đi trên đường để ngắm cảnh”, những điều này
không phải Nguyễn Tuân không biết và ông đã khổ vì nó lắm lắm, trong cơn
lúng túng, ông đổ tội cho thể tài. Trong một buổi họp, chính Nguyễn Tuân đã
phát biểu: “Nhân nói đến tuỳ bút, tôi có ý kiến là chúng ta ghi chép tài liệu
đã nhiều. Bây giờ là thời kì viết tiểu thuyết, đừng viết tuỳ bút nữa.” Một chỗ
khác, ông nói rõ hơn: “Người viết tiểu thuyết có điều kiện khách quan hơn”.
“Riêng tôi, ở tuỳ bút, tôi dễ phóng túng.” Rồi, làm đúng như điều mình tính,
một số tác phẩm ra sau Đường vui, đều được ông gọi là tiểu thuyết. Chỉ có
một điều hơi phiền: những tiểu thuyết này không hay, hơn thế nữa, những
người tinh tường nhận ra rằng nó chỉ tiểu thuyết ở cái vỏ, còn hơi văn, giọng
điệu, vẫn là tuỳ bút. Có lẽ vì cũng nhận ra rằng sự thực là như thế, nên khi
tập hợp những gì đã viết hồi ở Việt Bắc, và mới về Hà Nội, Nguyễn Tuân gọi
chung chúng là tuỳ bút: Tuỳ bút kháng chiến, Tuỳ bút kháng chiến hoà bình .
11
Tác giả Hà Văn Đức với “Tuỳ bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
Tám” đã khẳng định: “Có nhiều nhà văn viết tuỳ bút, nhưng hiếm có một cây
bút nào lại thuỷ chung gắn bó với nó suốt một đời sáng tác như Nguyễn Tuân.
Ông gắn với bó với thể loại tuỳ bút và tạo dựng được cho mình một phong
cách riêng ở thể loại này, bởi nó phù hợp với sở trường cũng như cá tính của
ông.”, và “tuỳ bút Nguyễn Tuân không chỉ giàu chất hiện thực, mang tính thời
sự cao, mà còn đậm đà chất trữ tình, thơ mộng. Chất tình cảm trong tuỳ bút
Nguyễn Tuân trước cách mạng thường là buồn, phản ánh cái tâm trạng bức
bối, chán chường của tác giả trước một cuộc đời tù túng, tẻ nhạt (Thiếu quê
hương). Sau Cách mạng tháng Tám, cảm xúc và suy nghĩ của Nguyễn Tuân
có nhiều thay đổi: say mê, nhiệt tình và lạc quan hơn...” [24;tr.140]. Nhiều
thiên tuỳ bút sau cách mạng (nhất là trong tuỳ bút Sông Đà) là những áng văn
trữ tình giàu chất thơ.
Phan Cự Đệ cũng có những nhận xét và đánh giá tinh tế về nghệ thuật
độc đáo của Nguyễn Tuân. Ông luôn có sự so sánh những biến đổi về phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ở hai giai đoạn trước và sau cách mạng: “giờ
đây tác phẩm Nguyễn Tuân vẫn thường lưu ý chúng ta đến góc độ thẩm mĩ
trong cuộc sống hàng ngày bận rộn, đề nghị một lối sống đẹp, nhã nhặn,
thanh lịch. Trước cách mạng, trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã hình thành
một phong cách tài hoa và độc đáo...Khi thế giới quan và phương pháp sáng
tác đã chuyển biến về cơ bản thì phong cách nghệ thuật cũng thay đổi theo.
Tuy nhiên, phong cách mới không phủ định phong cách cũ một cách tuyệt
đối mà có sự phê phán và kế thừa. Nhiều hình tượng và môtíp, nhiều thủ
pháp nghệ thuật được lặp lại và mang một ý nghĩa mới qua những hình tượng
gió, con đường, dòng sông, sân ga, biên giới...có thể thấy được sự lớn lên, sự
chuyển biến trong phong cách Nguyễn Tuân” [24; tr.114].
Còn có thể kể đến tác giả Tôn Thảo Miên với một số bài viết về
Nguyễn Tuân, như "Nguyễn Tuân- tài hoa văn chương", "Nguyễn Tuân- dấu
ấn của cá tính sáng tạo". Trong đó tác giả vừa giới thiệu một cách khái quát
về sự nghiệp sáng tác, vừa đi sâu tìm hiểu cá tính sáng tạo của nhà văn. Tôn
12
Thảo Miên viết “Tìm hiểu quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân chúng ta sẽ
thấy được sự chuyển biến về tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của
ông giữa hai mốc lịch sử trước và sau cách mạng tháng Tám"[24; tr22]. Theo
tác giả, mặc dù Nguyễn Tuân là một nhà văn đến với cách mạng khá sớm, có
thể nói là ngay từ những ngày đầu tiên, nhưng từ Lột xác đến Chùa Đàn sự
quyết tâm từ bỏ con người cũ, cuộc sống cũ dường như mới thể hiện ở
phương diện lý thuyết. Còn trên thực tế, Nguyễn Tuân vẫn chưa đoạn tuyệt
hẳn với nó. Ngay ở Đường vui một thiên tuỳ bút được coi là có sự chuyển
biến thực sự của ngòi bút Nguyễn Tuân sau cách mạng thì người đọc vẫn
thấy thấp thoáng một Nguyễn Tuân ham “xê dịch”, ham đi: “...đi bao giờ
cũng vui. Chỉ những lúc ngừng mới là hết thú”. Tất nhiên, không giống với
trước cách mạng, Nguyễn chỉ đi một mình, lang thang cô độc. Đi không
mục đích, không phương hướng. Bây giờ Nguyễn đi cùng với nhân dân,
với bộ đội, và Nguyễn đã nhận thấy “sức mạnh của đất nước luôn luôn hiện
hình trên từng tấc gang đường xa”. Đường vui là bài ca của một con người
mang tâm trạng náo nức, tươi vui, tin tưởng đi vào cuộc kháng chiến. Chất
nghệ sĩ, chất lãng mạn, “chất công dân” trong con người Nguyễn Tuân đã tạo
nên những trang viết thật hồn nhiên, thật xúc động.
Tình chiến dịch là sự tiếp nối âm hưởng sôi động của cuộc kháng chiến
được bắt đầu từ tuỳ bút Đường vui. Nếu ở Đường vui Nguyễn Tuân mới chỉ
đứng bên lề cuộc chiến đấu với tư cách là người quan sát thì ở Tình chiến
dịch ông là một chiến sĩ- nhà văn. Tuy ông không trực tiếp tham gia vào các
trận đánh, nhưng ông cũng theo sát bộ đội trong các cuộc hành quân, cũng
sống ở chiến khu, cũng vào đồn địch, cũng làm công tác dân vận... Có lẽ,
Nguyễn Tuân muốn chứng minh cho sự Lột xác triệt để của mình nên đôi khi
đã bỏ qua những đặc trưng nghệ thuật “rất Nguyễn Tuân ”.
Tác giả Tôn Thảo Miên cũng nhấn mạnh tới cá tính sáng tạo và thành
công của Nguyễn Tuân qua thể tài tuỳ bút: "Đặc biệt với tuỳ bút ông đã tạo
nên “thương hiệu” của riêng mình, đó là tuỳ bút Nguyễn Tuân.(...) Cá tính
sáng tạo và tài năng của Nguyễn Tuân được thể hiện ở nhiều phương diện,
13
gắn liền với hành trình sáng tạo của nhà văn từ khi bắt đầu cầm bút cho đến
lúc từ giã cuộc đời...Sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng bộc lộ rõ
cái tôi chủ quan. Sau Cách mạng cái tôi đó đã hoà chung vào cái ta chung
của dân tộc. Nhưng dù ở giai đoạn nào, cá tính sáng tạo của ông vẫn được thể
hiện một cách đặc sắc” [24; tr73,74].
Một trong những tác giả trẻ gần đây nhất đã viết về Nguyễn Tuân
trong cuốn “Tam diện tuỳ bút” là Trần Thanh Hà, với bài viết “Nguyễn
Tuân- Một thời và mọi thời vang bóng” khi nói đến tuỳ bút kháng chiến của
Nguyễn Tuân chị cũng khẳng định tuỳ bút kháng chiến đã đánh dấu một
chặng đường sáng tác mới của nhà văn Nguyễn Tuân.
Nhìn chung, trong những công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân, các
tác giả đều có những nhận xét, đánh giá trên phương diện khái quát về phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau cách mạng và đều có nhắc tới hai tập
tuỳ bút của ông trong kháng chiến chống Pháp (giai đoạn 1946-1954) là
Đường vui và Tình chiến dịch. Các tác giả đều gặp nhau ở một nhận định là:
Với hai tập tuỳ bút này, Nguyễn Tuân đã thực sự đến với kháng chiến, hoà
vào cuộc sống chiến đấu của nhân dân. Đến với kháng chiến, nhà văn đã có
cái nhìn mới với quan điểm nghệ thuật mới và sự đổi mới, phát triển về
phong cách nghệ thuật dựa trên những đặc điểm nổi bật đã trở thành dấu ấn
trong phong cách nghệ thuật của ông.
Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên là nguồn tư liệu quý
giúp gợi mở và định hướng cho đề tài nghiên cứu mà chúng tôi đã lựa chọn.
III. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đặc điểm nghệ thuật thể loại tuỳ bút và phong cách của Nguyễn Tuân
thể hiện trong tuỳ bút thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).
2. Phạm vi nghiên cứu
14
Toàn bộ tuỳ bút của Nguyễn Tuân thời kỳ chống Pháp (1946 - 1954)
trong đó tập trung chủ yếu ở hai tập Đường vui và Tình chiến dịch. Có so
sánh với tuỳ bút thời kỳ trước và sau đó.
IV. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm sáng rõ thêm phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân, đặc biệt là phong cách tuỳ bút của nhà văn này qua
tuỳ bút viết trong thời kỳ chống Pháp (1946 - 1954), tuy được sáng tác ở giai
đoạn sau cách mạng nhưng vẫn bộc lộ rõ “chất tuỳ bút ” độc đáo riêng có
của Nguyễn Tuân.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Xác định rõ khái niệm phong cách và thể tài tuỳ bút.
2.2. So sánh đối chiếu tuỳ bút của Nguyễn Tuân với những đặc điểm
chung của thể loại để tìm ra những nét riêng biệt trong phong cách tuỳ bút
của nhà văn Nguyễn Tuân.
2.3. So sánh tuỳ bút Kháng chiến (1946 - 1954) với một số tuỳ bút của
Nguyễn Tuân viết trước cách mạng, để thấy được sự ổn định và phát triển
của tuỳ bút Nguyễn Tuân.
2.4. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tuỳ bút Kháng chiến (1946 -
1954) luận văn góp thêm tiếng nói vào việc tìm hiểu và khẳng định sự đa
dạng, phong phú và đặc sắc trong phong cách sáng tác tuỳ bút của nhà văn
Nguyễn Tuân.
V.PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp hệ thống, phân loại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
VI. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
15
- Đề tài luận văn là sự tiếp nối các công trình khoa học đã được nghiên
cứu trước đây. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng tìm
ra điểm mới khi đi sâu vào mảng tuỳ bút viết trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp của Nguyễn Tuân - một khu vực còn chưa được quan tâm một
cách đầy đủ và hệ thống.
- Đề tài Phong cách Nguyễn Tuân qua tuỳ bút kháng chiến (1946
– 1954) góp phần làm rõ hơn phong cách và đặc điểm thể tài tuỳ bút của
Nguyễn Tuân nói chung và tuỳ bút kháng chiến (1946 - 1954) của ông
nói riêng.
VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn được
chia thành ba chương:
Chương 1: Từ phong cách nhà văn đến quan niệm chung về thể tài tuỳ
bút và phong cách tuỳ bút của Nguyễn Tuân
Chương 2: Những đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tuỳ
bút kháng chiến (1946-1954).
Chương 3: Phong cách ngôn ngữ trong tuỳ bút kháng chiến của
Nguyễn Tuân.
16
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
TỪ PHONG CÁCH NHÀ VĂN ĐẾN QUAN NIỆM CHUNG
VỀ THỂ TÀI TUỲ BÚT VÀ PHONG CÁCH TUỲ BÚT CỦA
NGUYỄN TUÂN
1.1. Khái niệm phong cách nghệ thuật
Phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa
học khác nhau tuỳ theo tính chất của ngành khoa học đó. Ngay trong giới
nghiên cứu văn học, nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về phong cách
cùng đang tồn tại. Trong công trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển của văn học, viện sĩ Khrapchenco đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau
của các nhà nghiên cứu xung quanh định nghĩa về phong cách (V.Kovalev,
L.Novicchenco, V.Turbin..) Theo ông, các định nghĩa này “xoè ra như cái
quạt” mà một phía thì thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm
mĩ rộng nhất, bao quát nhất, nhưng phía khác lại coi phong cách như một đặc
điểm của từng tác phẩm văn học riêng lẻ. Rồi chính Khrapchenco sau đó
cũng đưa ra một quan niệm về phong cách của mình. Đó là còn chưa nói đến
nhiều quan niệm khác nhau tồn tại ở hàng trăm công trình nghiên cứu
khác liên quan đến phong cách cá nhân nhà văn hoặc những vấn đề xung
quanh nó.
Ở Việt Nam, trong lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học từ sau 1945
đến nay, tiếp cận tác giả, tác phẩm dưới góc độ phong cách chưa phải là một
thao tác phổ biến trong giới nghiên cứu. Điều đó có thể là do “các khái niệm
làm cơ sở cho nó như phong cách, phong cách thể loại, phong cách thời đại,
phong cách tác giả… vẫn chưa được xác định một cách nhất quán. Phong
cách học chưa xây dựng cho mình một hệ thống thao tác có hiệu lực để khảo
sát phong cách tác giả một cách khách quan.” (Phan Ngọc) Hơn nữa, trong
một thời gian khá lâu, phong cách chưa được coi là một tiêu chí quan trọng để
17
đánh giá sự đóng góp của nhà văn, và chính quan niệm này cũng phần nào
hạn chế hứng thú tìm tòi, phát hiện ở nhà nghiên cứu. Những năm gần đây,
giới nghiên cứu nói chung đã bắt đầu tiếp cận tác giả, tác phẩm từ góc độ
phong cách. Trong một số sách công cụ như Từ điển văn học, Từ điển thuật
ngữ văn học, các giáo trình Lý luận văn học dùng trong các trường Đại học do
Hà Minh Đức, Phương Lựu, Nguyễn Văn Hạnh chủ biên đã đưa ra khái niệm
cơ bản nhất về phong cách. Hoặc trong một số công trình nghiên cứu cụ thể
như: Nhà văn - tư tưởng và phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh, Một số vấn
đề thi pháp học hiện đại của Trần Đình Sử, Phong cách học Tiếng Việt của
Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà, Văn học và học văn của Hoàng Ngọc
Hiến… Khi đề cập đến khái niệm này, các tác giả cũng đề xuất vấn đề dưới
những hình thức khác nhau những cách hiểu về phong cách của mình.
Qua các công trình đó, có thể thấy, nhìn chung các tác giả đều coi trọng
các yếu tố hình thức trong tính thống nhất với nội dung tác phẩm, đồng thời
đề cao vai trò sáng tạo của cá nhân. Ở đây, chúng tôi xin đưa ra một số định
nghĩa và cách hiểu chung nhất về phong cách nghệ thuật.
Từ điển thuật ngữ Văn học đã định nghĩa: “Phong cách nghệ thuật là
một phạm trù thẩm mĩ chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của các phương
tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà
văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.
Phong cách khác phương pháp sáng tác ở sự thực hiện cụ thể trực tiếp của nó:
Các dấu hiệu phong cách dường như nổi lên trên bề mặt tác phẩm, như một
thể thống nhất hữu hình và có thể tri giác được của tất cả mọi yếu tố cơ bản
của hình thức nghệ thuật. Trong nghĩa rộng phong cách là nguyên tắc xuyên
suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính
chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng điệu và sắc thái thống nhất. Với ý
nghĩa này người ta phân biệt các “phong cách lớn”, hay còn gọi là “phong
cách thời đại” (phong cách Phục hưng, phong cách Baroc, chủ nghĩa cổ
điển...), các phong cách của các trào lưu và dòng văn học, phong cách dân
18
tộc, phong cách cá nhân của tác giả. Nói chung, phong cách là qui luật thống
nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật, là một biểu hiện của tính nghệ thuật.
Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ có những nhà văn có
tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy
thể hiện ở các tác phẩm và được lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà
văn làm cho ta có thể nhận ra sự khác nhau (...) Trong chỉnh thể nhà văn,
(hiểu theo nghĩa là các sáng tác của một nhà văn), cái riêng tạo nên sự thống
nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở
hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy. Ngoài thế giới
quan, những phương diện khác như tâm lí, khí chất, cá tính đều có ảnh hưởng
quyết định đến sự hình thành phong cách của một nhà văn. Phong cách của
nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và của thời đại. [12;tr. 212,213]
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân cho phong
cách văn học là “những nét chung lớn tương đối bền vững của hệ thống hình
tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng
tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng văn học, một nền văn
học dân tộc nào đó. Khác với các phạm trù khác của thi học, phong cách có sự
thể hiện cụ thể trực tiếp: những đặc điểm phong cách dường như hiện diện ở
bề mặt tác phẩm, như là một sự thống nhất hiển thị và cảm giác được của các
yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ thuật. Theo nghĩa rộng, phong cách là
nguyên tắc xuyên suốt tác phẩm, khiến tác phẩm có tính chỉnh thể, có giọng
điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt. Sự thay đổi các phong cách văn học không
bộc lộ như một chuỗi kế thừa liên tục: có sự thừa kế và sự đứt gẫy của truyền
thống; có sự lĩnh hội các đặc tính bền vững của phong cách quá khứ và sự
chối bỏ chúng; sự thất thường này là nét tiêu biểu ở các giai đoạn văn học sử
khác nhau, ở các tác giả khác nhau...” [3; tr.254,255].
Sau khi tham khảo các quan niệm về phong cách nghệ thuật và qua
khảo sát từ thực tế nghiên cứu, trước hết chúng tôi hiểu phong cách nghệ
thuật của một nhà văn chính là cá tính của chủ thể sáng tạo, là dấu ấn riêng
19
của nhà văn có trong mỗi sáng tác của mình và trong đó tư tưởng nghệ thuật
như một tiêu chí quan trọng vừa có ý nghĩa mở đầu, vừa có tính chất chỉ đạo.
Điều đó được thể hiện thông qua việc lựa chọn chất liệu và cách tiếp cận đối
tượng nghệ thuật, cách xây dựng tác phẩm, các thủ pháp và phương tiện biểu
đạt đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ…Quá trình sáng tạo đó của người nghệ sĩ
không đơn thuần là việc lựa chọn, càng không phải là việc thêm bớt những
yếu tố mà là việc tổ chức chúng lại thành một cấu tr._.úc tinh vi, nhuần nhuyễn
đến mức mà tất cả những dấu hiệu của hình thức đều mang tính nội dung và
ngược lại. Là biểu hiện những đặc điểm của các tính sáng tạo, trong tư tưởng,
trong nhận thức, trong cách nhìn, cũng như trong các phương thức thể hiện
của nhà văn đối với thế giới hiện thực, con người, sự biểu hiện đó trước tiên
bao giờ cũng đòi hỏi phải có sự độc đáo. “Văn là người”- câu nói nổi tiếng
của Buffon có lẽ cũng là trên tinh thần ấy.
Một tác phẩm nghệ thuật độc đáo không thể là một tác phẩm kém
cỏi về cả hai phương diện - hoặc một trong hai phương diện. Nội dung chỉ
tồn tại thông qua hình thức và ngược lại. Một tác phẩm văn học hay là
khi, với nội dung đó, tác giả của nó đã lựa chọn được một hình thức thích
hợp để diễn đạt thành công nội dung. Có những nhà văn gần nhau về tư
tưởng, có cùng một thế giới quan, cùng viết về một đề tài nhưng sản phẩm
nghệ thuật đó như thế nào lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào hình thức mà nhà
văn chọn, vào cái “tạng” của mỗi nhà văn. Bức tranh đời sống trở thành
một văn bản nghệ thuật mà giá trị của nó được xác định bởi toàn bộ các
thành tố như tình tiết, cốt truyện, nhân vật… trong một thể thống nhất, in
dấu ấn riêng của mỗi nhà văn. “Trong một tác phẩm nghệ thuật đích thực,
tất cả nội dung được chuyển hoá vào hình thức và ngược lại”.
Nghiên cứu các lý thuyết về phong cách và soi chiếu vào các văn
bản nghệ thuật cụ thể, chúng tôi hiểu rằng phong cách là một thực thể ẩn
hiện mà vẫn có hình thù, được hình thành ngay từ lúc nhà văn mới cầm
bút, nhưng lại vận động, phát triển và chịu ảnh hưởng của thế giới quan,
của môi trường sống, của bối cảnh thời đại, của các nhà văn mà họ yêu
20
thích. Phong cách được hình thành trên cơ sở tài năng nhưng nếu nhà văn
không khổ công trong lao động nghệ thuật thì tài năng cũng chỉ ở thế tiềm
năng bẩm sinh. Quá trình mỗi người viết tạo nên được cho mình một
phong cách là quá trình đòi hỏi sự lỗ lực trong sáng tạo, là cuộc hành
trình để khẳng định cái bản ngã cá nhân trong nghệ thuật của người cầm
bút. Phấn đấu để có được một phong cách nghệ thuật cá nhân, đó là sự
đóng góp đích thực của mỗi người viết cho sự phát triển chung của cả nền
văn học. Bởi vì một nền văn học càng có nhiều phong cách cá nhân độc
đáo thì càng có nhiều khả năng trở thành một nền văn học lớn.
Từ những nhận thức về phong cách như vậy, chúng tôi cố gắng vận
dụng để tìm hiểu phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân qua hai
tập tuỳ bút tiêu biểu nhất cho tuỳ bút Nguyễn Tuân trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp: Đường vui và Tình chiến dịch.
1.2. Khái niệm về thể tuỳ bút
Từ điển Bách khoa văn học của Liên Xô trước đây định nghĩa:“Tuỳ bút
(essai- tiếng Pháp) là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ và có cấu trúc tự do, biểu thị
những ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể
và hoàn toàn không tính tới việc đưa ra giải thích cố định và đầy đủ về đối
tượng”. Trong một cuốn từ điển khác người ta còn nói rõ thêm: “Được gọi là
tuỳ bút là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất những
phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái
giọng điệu độc đáo của riêng mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân
tích, đồng thời là những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng
viết chặt chẽ như châm ngôn…những người đó mới đi vào tuỳ bút”. (Dẫn
theo Vương Trí Nhàn- Nguyễn Tuân với thể tuỳ bút).
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa tuỳ bút “là một thể văn thuộc loại
hình kí, rất gần với bút kí, kí sự. Nét nổi bật ở tuỳ bút là qua việc ghi chép
những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc
bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc
sống. So với nhiều thể loại khác của kí, tuỳ bút vẫn không ít những yếu tố
chính luận và chất suy tưởng triết lí. Cấu trúc của tuỳ bút nói chung, không bị
21
ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể. Song nội dung của nó vẫn được
triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định. Ngôn
ngữ tuỳ bút giàu hình ảnh và chất thơ. Ở Việt Nam, Nguyễn Tuân là nhà văn
viết tuỳ bút nổi tiếng…”[12; tr.323,324].
Từ điển văn học cũng cho tuỳ bút là một thể loại kí gần với bút kí. Lối
viết phóng khoáng, nhà văn tuỳ theo cảm hứng lôi cuốn, có thể nói từ sự việc
này sang sự việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng kia…để bộc lộ
những cảm xúc, những tâm tình, phát biểu những suy nghĩ, những nhận xét về
con người và cuộc đời. Bản ngã của nhà văn được thể hiện trong tuỳ bút gần
như trong thơ trữ tình. Tuỳ bút là thể văn giàu chất trữ tình nhất trong các loại
kí. Tuy nhiên, cái lối viết “phóng khoáng” trong tuỳ bút không giống với lối
viết “tản mạn, tuỳ tiện” mà nó phải tuân theo “ trật tự” trong mạch cảm nghĩ
của tác giả. Hơn nữa, giá trị của tuỳ bút còn thể hiện ở những nội dung mang
tính chân thực, nằm trong “những suy nghĩ thâm trầm” rút ra từ những sự việc
tưởng như riêng tư, bình thường với ngôn ngữ “giàu hình ảnh, giàu chất thơ”
và có tính bất ngờ, kì thú đặc biệt cuốn hút người đọc.
Vậy tuỳ bút là gì? Định nghĩa “vừa dễ lại vừa khó”. Dễ vì khái niệm
bản thân nó đã tự giải thích: là phóng bút, tuỳ bút mà viết. Nhưng chính vì thế
mà khó. Ở Phương Tây hiện đại, tuỳ bút rất phát triển. Nhưng càng phát triển,
khái niệm tuỳ bút càng mơ hồ hơn. Có người nói “tự do là phép tắc của tuỳ
bút ” có thể hiểu một cách chung nhất là: Người viết tuỳ bút thường tìm cách
thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà mình có trải qua để nhân
đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, đưa
ra những suy tưởng của mình một cách thoải mái, phóng túng.
Những định nghĩa nói trên đều gặp nhau ở một điểm là biện hộ cho tính
chất chủ quan đầy rẫy trong các tuỳ bút, chẳng những thế, cho rằng phải chủ
quan mới ra tuỳ bút. Và rất có thể ngay bản thân Nguyễn Tuân cũng chưa đọc
những định nghĩa ấy, song chính những tác phẩm của ông là một thứ minh
hoạ tốt nhất cho chúng. Cũng như định nghĩa tuỳ bút, viết tuỳ bút vừa dễ vừa
khó. Nhưng để trở thành một nhà tuỳ bút, tạo cho mình một sự nghiệp văn
22
chương chủ yếu bằng tuỳ bút, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân. Bởi “phong cách và
tính cách của Nguyễn Tuân đã tự tìm đến thể tài tuỳ bút như là một tất yếu…”
[19; tr.72].
Nhà văn Nguyễn Tuân khi nói về thể loại tuỳ bút đã đưa ra một nhận xét
ngắn gọn “tuỳ bút là viết tuỳ theo bút, theo cảm hứng”. Nói như vậy, không có
nghĩa đây là một thể loại dễ viết. Nếu người viết tỏ ra kém bản lĩnh hay thậm chí
là non tay thì sẽ dễ gây cho người đọc cảm giác nhàm chán bởi sự kể lể dài dòng
không có sức lôi cuốn.
1.3. Nguyễn Tuân và thể tuỳ bút
Đọc tuỳ bút Nguyễn Tuân, trong mỗi trang viết của ông, người ta thường
bắt gặp ở đó những điều thú vị, bởi nhà văn đã trải lên trên mặt giấy một lượng
tri thức phong phú, đa dạng, chính xác về nhiều ngành khoa học, nghệ thuật và
nhiều lĩnh vực khác thông qua những liên tưởng vô cùng độc đáo với một vốn
ngôn từ hết sức phong phú và linh hoạt. Ông vốn xuất thân là một nhà báo có
vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng cùng với cái thú “xê dịch” dường như đã trở
thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của nhà văn. Nguyễn Tuân đã
từng quan niệm: đi là để “thay đổi thực đơn” cho con mắt và đời sống tinh thần.
Thế nên, qua những trang tuỳ bút của Nguyễn Tuân có thể thấy ông có mặt ở
nhiều nơi, quan tâm đến nhiều vấn đề của cuộc sống. Chính vì vậy mà tuỳ bút
của Nguyễn Tuân bao giờ cũng có độ thông tin rất cao và chính xác. Nhiều bài
tuỳ bút của ông đã cung cấp cho người đọc những kiến thức đa dạng nhiều mặt
cả về lịch sử, điạ lý, địa chất, hội hoạ, âm nhạc, thậm chí là trên cả những lĩnh
vực như thể thao, quân sự…Trong một lần đề cập đến nghề viết của mình,
Nguyễn Tuân đã cho rằng: “Có hai lối viết, tôi gọi là lối nóng và lối lạnh. Cũng
như tạng người, có tạng hàn và tạng nhiệt. Tôi thích viết lối lạnh…”
Trong tuỳ bút Nguyễn Tuân, chúng ta nhận thấy cái Tôi bản ngã
được thể hiện một cách rõ nét ở nhiều nhân vật trong tác phẩm. Nguyễn
Tuân sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “Tôi” và thậm chí các nhân
23
vật khác của ông, mặc dù tên gọi có thể thay đổi nhưng trên thực tế vẫn
mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả. Tuỳ bút của Nguyễn Tuân không
chỉ trình bày những cảm xúc, suy nghĩ chủ quan, mà trong một chừng mực
nhất định, ông còn mô tả, khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo nên những
cảnh, những cốt truyện đơn giản. Đồng thời, tuỳ bút của Nguyễn Tuân còn
rất giàu chất hiện thực, mang tính thời sự cao. Ông thường viết về những
con người thực với những việc thực mà có khi chỉ là những câu chuyện
trên đường “xê dịch” của ông hoặc cũng có khi là những con người mà
ông đã từng gặp gỡ, quen biết họ để rồi chính họ đã trở thành “tri kỉ” với
ông trên những trang viết. Nhất là những trang tuỳ bút kháng chiến, ở giai
đoạn này Nguyễn Tuân đã hoà mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân
dân. Ông đã “xê dịch” trên mọi nẻo đường kháng chiến, gặp gỡ tiếp xúc
với bao con người kháng chiến, với những sự kiện chính trị nóng hổi,
những nhiệm vụ của cách mạng. Đồng thời, đọc tuỳ bút của Nguyễn Tuân
dù ở giai đoạn nào thì người đọc cũng thấy dồi dào chất thơ và giàu chất
trữ tình. Chất trữ tình đậm đà ấy được kết hợp với chất trí tuệ sắc sảo đã
tạo nên nét độc đáo riêng biệt của Nguyễn Tuân. Qua các thiên tuỳ bút,
Nguyễn Tuân trò chuyện với bạn đọc không chỉ bằng trái tim nghệ sĩ giàu
cảm xúc, mà còn bằng trí tuệ sáng suốt của một con người từng trải, lịch
lãm có học vấn rộng về nhiều lĩnh vực, có tác phong nghiên cứu điều tra
tường tận, tỉ mỉ. Đó cũng là ý thức trách nhiệm của người cầm bút, ý thức
của một người làm khoa học, cái tâm của người nghệ sĩ. Vì thế mà ông
luôn giữ được tình cảm cũng như sự tin yêu, mến mộ của bạn nghề và bạn
đọc.
Tính chất đa nghĩa cũng là mặt mạnh trong phong cách tuỳ bút của
Nguyễn Tuân. Đọc tuỳ bút của Nguyễn Tuân, cái đầu của người đọc thực sự
phải làm việc, phải nghiền ngẫm suy nghĩ, phải có cùng một hướng tư duy
nghệ thuật với nhà văn thì mới có thể cảm nhận hết được cái hay cái đẹp
trong mỗi trang viết của ông. Nói một cách hình ảnh như nhà nghiên cứu Hà
24
Văn Đức đã so sánh thì “tuỳ bút Nguyễn Tuân giống như một khối ru-bi mà
nhìn ở mặt nào, khía cạnh nào người đọc cũng thấy sự toả sáng”[9 ; Tr.141].
Đặc sắc trong tuỳ bút Nguyễn Tuân còn thể hiện ở “cái tài kể chuyện
rất vui, rất hóm và có duyên” của ông. Văn Nguyễn Tuân viết tự nhiên như
“người nói chuyện”. Ông trò chuyện với bạn đọc một cách thoải mái chân
tình, có khi điềm đạm thẳng thắn nghiêm trang, nhưng nhiều khi lại vui nhộn,
linh hoạt kiểu tán gẫu nói trạng, đưa lại cho người đọc những trang viết
không kém phần thú vị. Và có lẽ đây cũng chính là tính chất hết sức tự do
của tuỳ bút. Mạch văn như trôi theo dòng suy nghĩ miên man của tác giả,
chuyện nọ díu vào chuyện kia, dường như là gợi lại theo trí nhớ “lông bông”,
“tài tử” mà liên tưởng “tạt ngang” bất chấp trình tự thông thường của thời
gian, không gian. Có nhiều người quen đọc lối văn xuôi dòng “nhẹ chèo mát
mái”, không ưa, cũng không chịu nổi thì gọi đó là lối văn “đầu Ngô mình
Sở”; còn người thích thì gọi là có tài đánh “vận động trên trận địa bút ký”.
Phải thừa nhận rằng, lối hành văn, dẫn truyện như thế có ưu điểm là biến
hoá linh hoạt, không đơn điệu, tẻ nhạt, với lượng thông tin phong phú, hình
tượng chồng chất đa dạng. Và tất nhiên muốn thấy được điều đó, phải đọc
chậm, đọc kỹ, đặt mình vào dòng liên tưởng của tác giả mà bắt lấy mạch văn.
Rồi phải đọc lại, và lùi xa ra mà ghi nhận lấy ấn tượng toàn cảnh, khí mạo
toàn bài. Đọc tuỳ bút cũng giống như khi người ta đứng trước một dáng hình
mà dân gian vẫn gọi là “ưa nhìn”. Nếu ta chỉ đọc thoáng qua như một sự giải
khuây trong phút chốc thì tuỳ bút không bao giờ mang lại hiệu quả như một
bài thơ hay một đoạn văn bay bổng mà đọc tuỳ bút phải thực sự công phu,
nghiền ngẫm đọc càng kỹ, ngẫm càng sâu, nhìn càng lâu mới thấy hết được
vẻ đẹp của nó. Người ta nói, đọc Nguyễn Tuân phải đọc lúc nhàn rỗi là vì
thế. Nhưng đặc điểm này chỉ có thể “chịu” được khi dừng ở một mức độ nào
đấy. Nguyễn Tuân quả có nhiều trường hợp như Trương Chính nhận xét,
“không biết tự hạn chế. Người đọc cứ theo ông mà đi như đi vào một bát
quái trận đồ không có lối ra”. Nguyễn Tuân đã gọi đó là “chơi lối độc tấu”
25
và để chơi được một cách “sành điệu” thì tất yếu lúc nào cũng phải giữ được
cái “Tôi” đầy bản lĩnh, lúc nào cũng có duyên mặn mà, lúc nào cũng tự “làm
mới mình” để không bị “lỗi mốt”, bị nhàm chán… và để phấn đấu đạt yêu
cầu đó một cách thường xuyên liên tục thật khó vậy thay! Nguyễn Tuân đã tự
dấn thân vào một con đường cheo leo, nguy hiểm giống như một sự thử thách
nặng nề mà suốt cả đời cầm bút của mình nhà văn đã luôn đối mặt và vượt
qua thử thách ấy.
Văn tuỳ bút của Nguyễn Tuân biến đổi rất linh hoạt. Mạch văn tuôn
chảy theo dòng cảm xúc hết sức thoải mái, chuyện này chồng chéo lên
chuyện kia không theo một trình tự nào và cũng không bị ràng buộc hạn chế
bởi không gian, thời gian. Văn của ông khi thì lướt rất nhanh, chỉ điểm một
vài nét chấm phá, khi thì dừng lại rất lâu ở một cảnh, một sự việc rồi xoay
ngang, xoay dọc, tỉa tót chạm trổ tỉ mỉ công phu như một nghệ nhân tài ba
mà có lẽ nhà văn muốn người đọc ấn tượng sâu về nó. Có những lúc tác giả
như huy động hết tất cả mọi giác quan của mình để miêu tả kết hợp giữa mắt
nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi liếm, trí óc liên tưởng…Và chính những đặc
điểm này đã thực sự làm cho tuỳ bút của Nguyễn Tuân có được những nét
đặc sắc riêng biệt mà người đọc không thể nhầm lẫn.
1.4. Tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân - dấu ấn sáng tạo của một
chặng đƣờng
1.4.1. Đường vui là tập tuỳ bút gồm 13 bài tuỳ bút với lời đề tặng đầu
sách: “Gửi Giang và cháu Dũng, hai độc giả trong Ngày tới”. Cuốn sách tập
hợp những bài tuỳ bút được viết trong thời kì 1947 - 1950, ghi lại những quan
sát, cảm nghĩ của tác giả trên những nẻo đường kháng chiến, sau những đợt
cùng bộ đội tham gia các chiến dịch. Mở đầu tập tuỳ bút là hình ảnh con
đường ra trận, trên đó là hình ảnh tác giả với hành trang nhẹ nhàng và tâm
trạng còn đôi chút lãng tử đang phấn chấn hoà vào những đoàn người
kháng chiến. Biết bao niềm vui mở ra - đi để thấy sự khoẻ lành của tâm
hồn mình, để được gặp, được sống trong nhịp sống sôi nổi của đời sống
26
kháng chiến. Các tuỳ bút Thăng Long phi chiến địa, Thấy lại Hà Nội, Một
buổi thi chính trị là hình ảnh của thủ đô và con người thủ đô trong những
năm đầu của kháng chiến.
Tuỳ bút Khu Năm, Khu Bốn ghi lại cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt
của một dải đất miền trung trong dịp tác giả cùng đoàn kịch lưu động vào
diễn ở vùng này. Badôca là những ghi chép về một cuộc thử súng, có cả đau
thương của thất bại và hoan hỉ của thành công. Cảnh những lớp học Bình dân
học vụ trong kháng chiến được tác giả ghi lại với nhiều cảm xúc và suy nghĩ
trong Những vị huấn đạo của bây giờ. Tình tề là tuỳ bút ghi lại một chuyến
vào vùng tề của tác giả: những trắc trở nguy hiểm khi vào đất tề, một vùng
đất hoang vắng, cô quạnh, nghẹt thở vì sống dưới sự kiểm soát của giặc. Tác
giả cũng hiểu thêm tâm trạng người dân vùng tề: khổ vì bị ngờ vực, khinh bỉ,
nhưng lòng họ cũng tha thiết ngày giải phóng. Nấm miền xuôi là một bài tuỳ
bút mà cái tên gợi hình ảnh của những cái chợ Cống Thần, Đồng
Quan,...những chợ hàng lậu mọc lên lố nhố có đủ thứ hàng hoá Âu- Mĩ. Ở
đây bộc lộ bao nhiêu cái xấu xa bệ rạc của những kẻ chỉ mải mê với đồng
tiền. Đó là những cảnh xa lạ, lạc lõng với kháng chiến, “không thể là nơi cho
ta kết tinh một điều khoẻ đẹp nào đáng kể”. Chân trời Việt Bắc là một tuỳ bút
có thể hiện rất nhiều tâm trạng của nhà văn. Tác giả nói lên nỗi thèm chân
trời khi mà bốn bề Việt Bắc chỉ là rừng núi vây quanh, màu xanh trùng điệp.
Mắt đã chán ngấy màu xanh, còn tấm lòng thấy khủng hoảng vì nỗi nhớ chân
trời. Lại ngược ghi lại chuyến lên Việt Bắc cuối năm 1948 qua nhiều vùng
đất kháng chiến. Ở đâu cũng là nhịp sống kháng chiến sôi nổi với những
dòng người hồi cư, những đoàn bộ đội hành quân tấp nập. Ở đâu nhà văn
cũng cảm thấy sức mạnh vô cùng của đời sống kháng chiến. Lòng tác giả
như reo lên: “Đường hoa vui ngát như thế này thì bao giờ mỏi chân được,
hỡi các bạn đường”.
Tập tuỳ bút Đường vui đã ghi lại một cách sinh động và phong phú
hình ảnh cuộc sống những năm đầu kháng chiến trên nhiều vùng đất. Đi
27
nhiều, chăm chú quan sát, say sưa với cảnh và người kháng chiến, nhà văn có
những trang tuỳ bút sinh động về thực tế kháng chiến đầy mới lạ và hứng
thú, “một phong hội thật là thú vị”. Qua tuỳ bút, thấy hiện lên rất rõ hình ảnh
nhà văn: một con người hăng say đi vào kháng chiến, hoà mình vào bộ đội,
quần chúng kháng chiến. Vẫn là một cách cảm nhận đời sống độc đáo, đầy cá
tính trong cách nhìn và cách thể hiện nhưng người đọc có thể nhận ra những
đổi thay lớn trong tuỳ bút Nguyễn Tuân: Đầy niềm vui và lạc quan khi nhà
văn đã thực sự sống hết mình cùng nhân dân kháng chiến. Tuy nhiên trong
đó có nhiều hình ảnh vẫn còn mang dấu tích tinh thần của chủ nghĩa duy mĩ
trong văn Nguyễn Tuân trước cách mạng.
1.4.2. Tình chiến dịch là tập tuỳ bút gồm 10 bài được viết tiếp theo tập
Đường vui (1949), đây là tập tùy bút phản ánh nhiều mặt của cuộc sống
kháng chiến vào thời kỳ nhiều chiến dịch lớn được mở ra, không khí kháng
chiến càng sôi nổi với nhiều vùng đất được giải phóng. Nhà văn đã ghi lại
sinh động quang cảnh và tâm trạng náo nức chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc:
những trung đoàn chuyển quân, các đội dân công chuyển gạo,...hướng về Tây
Bắc. Tác giả thấm thía và cảm động với mối “tình chiến dịch” giữa bộ đội,
dân công, nhân dân các vùng đất Tây Bắc cùng gắn bó hy sinh trong gian khổ
mà vẫn đầy niềm vui, tiếng cười lạc quan, ấm áp tình người kháng chiến.
Hình ảnh nhà văn hòa lẫn vào bộ đội, nhân dân kháng chiến, cùng hành quân,
tham gia trận đánh, khai hội, giảng chính trị, chuyện trò với dân và học tiếng
địa phương...Tất cả đã trở thành “nếp tình cảm” để rồi mỗi cuộc chia tay là
bao bịn rịn lưu luyến (Tình chiến dịch, Bàn đạp Tây Bắc, Lửa sinh nhật).
Sau chiến dịch Biên giới, chiến khu đã thông thương với Trung Hoa. Ở
Ải khẩu - Nam Quan, vào một mùa thu đất biên giới, tác giả đã sung sướng
chứng kiến cảnh hoạt động nhộn nhịp, sôi nổi của một chợ Trung Hoa đầy hàng
hóa, thịt cá, hoa quả, tham dự một buổi liên hoan với dân chúng biên giới trên
một vùng đất còn đầy dấu tích tàn phá của chiến tranh. Bên những khung cảnh
sôi nổi hùng tráng, Mả bên sông Thao là sự trang nghiêm trầm lắng của một
28
đêm chôn cất những liệt sĩ trong ánh lửa đuốc bập bùng và tiếng súng đưa tiễn
cùng rất nhiều cảm xúc của tác giả về ý nghĩa của hy sinh.
Giữa một thị xã khôi phục và Đời lại mấy mươi tươi là hai bài tùy bút
tràn đầy niềm vui giải phóng. Sau giải phóng, cả thị xã, thành phố như sống
lại, nô nức cảnh bộ đội thu chiến lợi phẩm, dân chúng kéo về xây dựng, cày
cấy, buôn bán tấp nập, khắp nơi đầy hàng hóa thực phẩm, đâu cũng người
cũng hàng, rau xanh, hoa quả, gà lợn, quán xá tấp nập. Cuộc sống “ngóc dậy,
bật sáng”, mở hội tưng bừng.
Gió Lào là cảm nhận của tác giả khi trở lại thành phố Vinh tan hoang
trong cảnh tiêu thổ kháng chiến và ấn tượng này càng nặng nề khi những cơn
gió Lào khủng khiếp gào rú, thổi hơi nóng ngột ngạt khiến con người dường
như nghẹt thở. Bài viết đã có những trang đặc tả đầy ấn tượng về thứ gió Lào
cay nghiệt, hung hãn, có sức tàn phá cuộc sống con người.
Ngoài này trong ấy nói lên cảm xúc và suy nghĩ của Nguyễn Tuân,
một nhà văn Hà Nội đi kháng chiến, lòng vẫn luôn hướng về thủ đô với bao
nỗi vui buồn và hy vọng. Nhà văn tưởng tượng cảnh Hà Nội bị chiếm đóng
đang sống thê lương, ảm đạm trong ánh điện đỏ ngòm và tiếng giày đinh
hung bạo cùng bao cặn bã xấu xa. Nhưng Hà Nội vẫn đang có những đứa con
tỏa đi khắp nẻo đường kháng chiến và Hà Nội vẫn đang âm thầm tranh đấu
cho một ngày giải phóng. Rất nhiều buồn giận, tự hào, hy vọng trong cảm
xúc của Nguyễn Tuân khi nhớ về Hà Nội được thể hiện trong tùy bút này.
Cháy bản thảo là một tùy bút về Trần Đăng. Từ sự hy sinh của Trần
Đăng sau chiến dịch Biên giới, nhà văn nói lên những cảm xúc, nghĩ suy về
nghề văn, về tấm gương tiêu biểu của nhà văn - chiến sĩ Trần Đăng.
Tập tùy bút phản ánh sinh động quang cảnh và tinh thần kháng chiến
với nhiều trang viết sinh động, trong đó có những đặc tả hết sức đặc sắc về
những nẻo đường kháng chiến rộn rã, tấp nập, về sự sống và niềm vui hồi
sinh trên vùng đất giải phóng, về những trận công đồn mà tác giả là người
29
trực tiếp tham gia, về gió Lào và cát trắng trên đất Nam Đàn. Trong tác
phẩm, hiện lên chân dung nhà văn - một con người cầm bút hòa vào bộ đội
và dân chúng, sống hết mình trong những vui buồn của quần chúng kháng
chiến. Giọng tùy bút của Nguyễn Tuân đã bớt rất nhiều sự cầu kỳ, kiểu cách
nhưng vẫn giữ nguyên sự phóng túng, tài hoa và in đậm sắc thái cá nhân độc
đáo trong miêu tả và thể hiện, nhất là trong sự phơi bày những cảm xúc và
trải nghiệm của nhà văn.
1.4.3. Nhìn chung về tuỳ bút kháng chiến Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một nhà văn đã suốt đời lao động nghệ thuật bền bỉ với
ý thức trách nhiệm của một người nghệ sĩ chân chính. Ông cũng là một trong
số không nhiều nhà văn đã đi theo kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Có
thể nói cuộc Cách mạng tháng Tám là “sự đổi đời” đối với Nguyễn Tuân.
Cách mạng đã giúp Nguyễn Tuân thoát khỏi những bế tắc trong cuộc sống và
sáng tác nghệ thuật, đã làm hồi sinh lại nhịp đập của một trái tim nghệ sĩ vốn
sẵn có tình yêu quê hương đất nước. Một quan niệm nghệ thuật mới, một
hướng đi mới đã được mở ra với nhà văn Nguyễn Tuân. Chúng ta hãy lắng
nghe tấm lòng rạo rực của Nguyễn Tuân trong những ngày đầu đến với cách
mạng. “Mê say với ánh sáng trắng vừa được giải phóng, tôi đã là một dạ lữ
khách không mỏi, quên ngủ của một đêm phong hội mới…” Kháng chiến đưa
Nguyễn Tuân vào cuộc sống lớn lao của quần chúng, với ba lô (không phải
vali) trên vai, gậy cầm tay, nhà văn hăm hở lên đường. Cuộc hành trình theo
bước chân kháng chiến đã đưa Nguyễn Tuân tới những vùng xa: từ Khu Bốn
ra Việt Bắc, lại vào Khu Bốn, ra Khu Ba, qua Sơn Tây, đi Tây Bắc, theo bộ
đội vào Bắc Cạn...Ý thức trách nhiệm trong công tác và kết quả những chuyến
đi nối tiếp nhau đó đã bước đầu đem lại cho tuỳ bút Nguyễn Tuân những cảnh
sắc mới, những cảm xúc lạ...
Nếu như trước đây, Nguyễn Tuân chỉ quan tâm tới cái “Tôi” của mình
thì nay “nội tâm của chàng không chú trọng bằng ngoại cảnh ở quanh chàng”,
“bây giờ Nguyễn thuộc giá lên xuống của hạt gạo và để ý đến chung quanh
30
chàng nhiều lắm”... Cách mạng đã làm thức dậy trong lòng Nguyễn Tuân
niềm tin yêu đối với cuộc sống, đối với con người. Bây giờ muôn vẻ của đời
sống đều khiến cho Nguyễn thấy cái gì cũng thú vị cả, miễn là nó ở quanh
mình, nó ở trong cuộc đời mà ta có thể nhìn được, nghe được, sờ mó
được...Nguyễn đã làm một cuộc “lột xác” về tư tưởng. Quá trình “lột xác”
của các nhà văn “tiền chiến” nói chung và của nhà văn Nguyễn Tuân nói
riêng quả thật là không đơn giản. “Nguyễn thèm đến một con rắn mỗi năm
thoát xác một lần. Nguyễn nhớ đến những côn trùng mỗi mùa thay cánh một
lần...”, nhưng sự “tự huỷ diệt” con người cũ để “tái sinh” một nhận thức mới
ở con người không thể chỉ là một biến hoá vật chất đơn thuần như vậy mà nó
phải bắt đầu từ chính những thay đổi trong nhận thức, trong tư tưởng.
Đường vui là một tác phẩm được coi là “có sự chuyển biến thực sự của
ngòi bút Nguyễn Tuân sau cách mạng”, đó là “bài ca của một con người
mang tâm trạng náo nức, tươi vui, tin tưởng vào cuộc kháng chiến”. Đây là
kết quả của một chuyến đi dài - không phải như anh chàng Bạch ngày xưa
trên xe, trên tàu, thui thủi một mình, mà đi bộ “mình cưỡi lên mình” mà trườn
qua núi qua sông đẫm mùi thuốc súng “và có khi có đoàn có đội, đi với nhân,
đi với bộ đội, đi công tác, đi chiến đấu...” Chất nghệ sĩ, chất lãng mạn, “chất
công dân” trong con người Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang viết thật hồn
nhiên, thật xúc động.
Tiếp theo Đường vui, Tình chiến dịch là sự tiếp nối âm hưởng sôi động
của cuộc kháng chiến. Giờ đây, Nguyễn Tuân không còn “đi” một mình nữa,
cái thú “xê dịch” vẫn không ngừng cuốn bước chân của nhà văn nhưng là đi
cùng với nhân dân, đi trên những chặng đường cách mạng. Ông thấy, “khi đã
đi sâu được vào cái khổ của giai cấp, thì chỗ nào quanh xóm cũng thấy hiện
lên mâu thuẫn giai cấp...”. Nhà văn đã “đứng trên cái nhân sinh quan mới mà
đánh giá con người hiện tại trên hai tiêu chuẩn nhất định là chiến đấu và sản
xuất”. Nguyễn Tuân thực sự tâm huyết và có sự đồng cảm với nhân dân và
bộ đội trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ chống thực dân Pháp. Ngòi bút
31
Nguyễn Tuân ở đây có trách nhiệm và đầy tình người, chứng tỏ một sự thay
đổi về nhận thức rất quan trọng trong tư tưởng của Nguyễn Tuân ...làm sao có
thể không xúc động khi thấy một Nguyễn Tuân “phóng túng hình hài” vào các
tửu quán, cao lâu trước đây nay bỗng “trở nên thân mật với người ở bản xóm
như là đã quen biết từ lâu lắm...” Rõ ràng, ở đây chúng ta thấy Nguyễn Tuân
đã thực sự sống trong lòng quần chúng, cảm nhận và chia sẻ được niềm vui
cũng như những hi sinh, mất mát của họ...Những sáng tác sau này của
Nguyễn Tuân là sự khẳng định lập trường tư tưởng cách mạng của ông. Nhận
thức về đấu tranh giai cấp và quần chúng nhân dân của ông không hời hợt, dễ
dãi mà khá sâu sắc. Người nghệ sĩ tài tử “vị nghệ thuật” trước đây đã nhường
chỗ cho một nhà văn “vị nhân sinh”. Nguyễn Tuân bây giờ không làm nhiệm
vụ của người quan sát viên mà đứng hẳn ở giữa hai cuộc chiến đấu, lắng nghe
từng nhịp đập của trái tim quần chúng. Phương châm sống của ông là hành
động. Dứt bỏ hết mọi buồn thương giả tạo, mọi niềm vui trừu tượng để vui,
buồn với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân có những bài nghiêng về kí sự,
bởi những chuyến đi bây giờ nhà văn không còn là người “độc khách” mà
ông đi giữa quần chúng kháng chiến, đi với biết bao sự kiện cho nên nhà văn
giống như một “phóng viên chiến trường”, đi để ghi lại tình hình nóng bỏng
của chiến tranh. Có thể nói, kháng chiến đã thực sự trở thành một “phong hội
mới” không chỉ giúp Nguyễn Tuân “lột xác”, mà cũng như nhiều nhà văn
khác, kháng chiến đã giúp họ làm một cuộc đổi đời thực sự, thoát khỏi “chân
trời của một người để đến với chân trời của muôn người”. Song, điều quan
trọng là đọc tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân không phải chúng ta được
thấy một nhà văn Nguyễn Tuân hoàn toàn thay đổi mà là một Nguyễn Tuân
“đổi mới”, một Nguyễn Tuân - nhà văn của cách mạng đã viết bằng tất cả
lòng nhiệt tình yêu nước của mình và những tác phẩm của ông vẫn giữ được
những nét độc đáo, tài hoa, uyên bác vốn là dấu ấn riêng trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
32
CHƢƠNG 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
NGUYỄN TUÂN QUA TUỲ BÚT KHÁNG CHIẾN (1946 - 1954)
2.1.Từ kẻ lãng du đến con ngƣời nhập cuộc
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một cá tính độc đáo. Độc đáo trong
cách nghĩ, trong lối viết và cả trong cách sống. Toàn bộ sáng tác của Nguyễn
Tuân trước Cách mạng cho ta thấy: dù viết ở thể loại nào, dù nhân vật đó là
ai, chung quy lại cũng nhằm thể hiện con người và tư tưởng của nhà văn.
Nguyễn Tuân giống như một “kẻ lãng du” đi giữa cuộc đời với chất “ngông”
của mình. Ông dùng tài năng văn chương để chơi ngông với thiên hạ bằng
việc tôn thờ cái đẹp và dùng “chủ nghiã xê dịch” để đi “săn tìm cái đẹp”. Thời
kì trước cách mạng, Nguyễn Tuân hầu như viết về những con người, những
sự việc mà trong quan niệm của cá nhân ông cho là có tính thẩm mĩ cao. Có
thể thấy rất rõ nhân vật của ông toàn là những con người tài tử, họ sống với
nghề của mình giống như những người nghệ sĩ tài hoa. Ông không phân biệt
họ ở bất cứ lĩnh vực nào: một tên đao phủ với “nghệ thuật” chém người cũng
được ông ca ngợi hết lời và đặt cho cái cách chém ấy là “chém treo ngành”.
Hay là cả đến cái tài nghệ “bắt gà” của một kẻ giang hồ tuy đã rửa tay gác
kiếm mà xem ra đường đao, mũi kiếm vẫn còn sắc ngọt lắm. Hiện thực cuộc
sống xã hội đương thời và xuất thân từ một gia đình có truyền thống nhà nho
tài tử, Nguyễn đã biết đến những thú vui, những kiểu chơi, cách chơi, những
thú thưởng trà, thưởng hoa, uống rượu rất sành. Có thể tìm thấy trong Vang
bóng một thời tất cả những cái đó: từ một người ăn mày cổ quái chẳng xin gì
ngoại trừ một ấm trà bởi đó chính là kẻ đã mê trà, say trà cho đến nông nỗi
khuynh gia bại sản; đến những trò thả thơ, đánh thơ, thú chơi hoa lan, thưởng
hương cuội... Tất cả đều vô cùng hấp dẫn người đọc bởi ngoài những gì được
biết về nội dung ra, người ta còn bị cuốn hút bởi cái chất tài tử, lãng du dường
như vốn đã tiềm ẩn trong con người của Nguyễn. Có thể nói, để có được
33
những trang viết ấy phần nhiều cũng bởi Nguyễn Tuân đã đi rất nhiều, biết rất
nhiều. Trên suốt những hành trình “xê dịch” của mình Nguyễn đã ghi lại
những hiểu biết, những khám phá với một cách riêng đủ để người ta có thể
hiểu được mà rất khó bắt chước được. Với lối chơi “độc tấu” ấy, Nguyễn
Tuân cứ một mình nhẩn nha đi và viết, nhẩn nha cắt xén, gọt giũa từng câu từ,
từng hình ảnh cho đến khi nó hiển hiện rõ cái “dấu triện” của riêng ông thì
thôi. Cũng có nhiều người thấy văn Nguyễn Tuân khó đọc, không thích văn
ông nhưng cũng có nhiều người mê văn Nguyễn Tuân, không ít kẻ bắt chước
lối viết của ông nhưng kết quả chẳng thể có một Nguyễn Tuân thứ hai hay
một “bản sao” nào khác.
Chất lãng du, tài tử còn bắt nguồn từ ý thức biết coi trọng cái “Tôi” của
nhà văn. Nguyễn Tuân không những chỉ có ý thức về bản thân mình mà ở ông
cái Tôi cá nhân ấy còn phát triển rất cao. Ông đồng thời cũng là người biết
yêu mình, biết quý trọng._.ng hoa của ngôn ngữ nghệ thuật đã tạo
nên những câu văn tràn đầy hình ảnh, màu sắc âm thanh cùng chất thơ của
cuộc sống tươi đẹp. Phải thừa nhận rằng, càng về sau này, tài năng ngôn ngữ
của ông càng chín. Những hình ảnh ông tạo ra trở nên đẹp đẽ, thơ mộng nhiều
sức sống hơn, khả năng phối màu, pha âm càng điêu luyện, tài ba. Và ông đã
tạc, đã khắc lên những trang văn đẹp như gấm thêu, vung những nét bút như
phượng múa rồng bay để dệt nên những tấm thảm ngôn ngữ tuyệt tác. Đọc
trong Đường vui và Tình chiến dịch ta có thể bắt gặp rất nhiều kiểu câu này.
80
Có thể nói đây cũng chính là một kiểu câu được tác giả sử dụng khá nhiều
trong tuỳ bút kháng chiến. Không chỉ là những câu văn giàu chất thơ mà cả
những hình ảnh so sánh cũng hết sức độc đáo và bất ngờ: Chỉ là một hương vị
cà phê bất chợt ngửi thấy giữa chiến trường mà Nguyễn Tuân lại có cái cảm
nhận “hương vị đặc biệt như cái hơi da thịt quen thuộc ở người tình
nhân”[43; tr.172] thì cũng đến lạ! Dường như cái gì thông qua lăng kính chủ
quan của nhà văn cũng đều được ông miêu tả với những cấp độ liên tưởng
bằng những hình ảnh so sánh ít có ai ngờ. Trong một đoạn văn khác, khi đi
qua đoạn đường hoang vắng nhà văn cũng có cảm nhận về hương vị cà phê
“Chiều xuân lữ thứ, ở những thôn xóm hẻo lánh, cô đơn cũng bốc mùi cà phê
của bâng khuâng ”[43; tr.181]. Thế mới biết, chất tài tử nghệ sĩ lúc nào cũng
luôn ẩn hiện trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Chỉ là chút hương vị cà phê của
chốn thị thành mà nó có sức mạnh ám ảnh đến từng câu văn của ông trên
những bước đường kháng chiến, dù cho chỉ là sự thoáng qua nhưng rõ là vẫn
thấy được nét phong lưu, phóng túng của một kẻ lãng du tài hoa, hơn người.
Tuy nhiên, hình ảnh và chất thơ trong văn Nguyễn Tuân bây giờ cũng không
còn hoàn toàn là vẻ đẹp của của chủ nghĩa duy mĩ mà nhà văn đã lồng vào đó
hình ảnh của những con người kháng chiến và những cảnh sắc mang đầy sức
sống mới. Ví dụ như khi miêu tả nét rạng ngời trên khuôn mặt của con người
nhà văn đã viết: “Mạ xanh vụ chiêm tới, tràn dần vào lòng con đường cắt. Trở
về qua đường cũ, người công binh phá hoại níu một anh liên lạc, chỉ cái sức
sống xanh rờn sắp mặt nước lấn đường kia mà cười. Điệu hát đi cấy ngày cũ,
cô thôn nữ lom khom phân phát mạ xanh dưới kia đang đổi thành một khúc ca
mới đăng báo khoảng năm nay thôi ” [43; tr.183]. Chất thơ trong văn Nguyễn
Tuân ở tuỳ bút kháng chiến cũng vậy, nó được nhà văn miêu tả ở những hình
ảnh hết sức giản dị và đáng yêu, như là hình ảnh của một trẻ mục đồng trong
những câu văn sau: “Ấy là một trẻ mục đồng đưa trâu qua ụ đất. Cô bé để trái
đào, mặc váy nâu, ,ngồi trên sống trâu, tay cầm cuốn sách Tập đọc lấm đất.
”[43; tr.184]; hình ảnh của “Vai đê Đại Hà cỏ dầm sương mai nũng nịu một
81
chất tuyết của nhung tơ” [43; tr.262], cái hình ảnh non tơ của vạt cỏ ấy sau
này ta lại bắt gặp trong áng văn Sông Đà : “Cỏ gianh đồi núi đang ra những
nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương đêm. Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ”.
Hay chỉ là một câu văn duy nhất nói về giấc ngủ mà đã khiến cho ta thèm biết
bao nhiêu một giấc ngủ bình an ngay giữa vùng kháng chiến trước giờ xuất
kích tiêu diệt đồn giặc. “Nhiều đội viên đã lăn ra ngủ. Giấc ngủ ngoan như
giấc nhi đồng” [43; tr.344].
Đọc những câu văn giàu hình ảnh và chất trữ tình của Nguyễn Tuân, ta
thấy nhà văn đã tái hiện không chỉ là nhịp sống mà còn là nhịp điệu tâm hồn
của chính tác giả. Những câu văn như thế đã gây được ấn tượng và khoái cảm
thẩm mỹ cho người đọc. Đó thường là những câu cảm giác, cho nên khi được
người đọc tiếp nhận nó truyền cảm xúc mãnh liệt và găm vào trí nhớ của độc
giả. Phải công nhận rằng những người viết được những câu văn như thế phải
là người có khiếu quan sát, trí tưởng tượng và óc liên tưởng thẩm mỹ phong
phú độc đáo. Nếu như chỉ miêu tả theo lối kể đơn thuần chắc chắn sẽ không
thể tạo nên những lời văn vừa giàu chất thơ, lại vừa đa dạng về hình ảnh đến
như thế.
Ngôn từ nghệ thuật của nhà văn không chỉ xuất phát từ vốn ngôn ngữ
giàu có của họ mà trên thực tế nó còn được hình thành trong suốt quá trình
sáng tạo nghệ thuật. Quá trình đó cũng không thể tách rời với ngữ cảnh của
đời sống xã hội, chính trị, văn hoá, truyền thống và gắn liền với cá tính sáng
tạo, sự lựa chọn từ ngữ để hình thành nên thế giới nghệ thuật của nhà văn.
3.3.2.Giọng điệu nghệ thuật
Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học mà còn là yếu
tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một
chỉnh thể. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị
82
hiếu của tác giả và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng
điệu khó có thể nhận ra một nhà văn. Nhưng cần phân biệt giọng điệu nghệ
thuật với ngữ điệu. (là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách
lên giọng xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu...). Đối với Nguyễn Tuân, khi
sáng tác văn chương ông thường sử dụng các giọng điệu sau:
3.3.2.1.Giọng điệu trữ tình
Trữ tình là một giọng điệu nghệ thuật cơ bản được Nguyễn Tuân sử
dụng trong suốt quá trình sáng tác với đủ các sắc diện. Trong những năm đầu
của cuộc đời cầm bút, cũng như các nhà văn, nhà thơ cùng thời, Nguyễn
Tuân phải sống trong một môi trường chật hẹp, tù túng với bao nhiêu phẫn
uất, bức bối xen lẫn khổ đau, thất vọng. Để biểu hiện những trạng huống tình
cảm, cảm xúc đó, ông đã tìm tới phương thức trữ tình với những câu văn lắng
đọng biết bao cảm xúc, suy tư, những buồn thương day dứt. Giọng điệu trữ
tình ấy chỉ thực sự tràn đầy sức sống, niềm tin yêu lạc quan khi nhà văn đến
với kháng chiến và cuộc sống mới. Dường như nguồn cảm hứng mà cách
mạng mang đến đã làm thay đổi không chỉ quan niệm nghệ thuật, hình ảnh,
mà còn làm thay đổi cả giọng văn của Nguyễn Tuân. Chất trữ tình trong
giọng văn của ông bây giờ là cái thiết tha với đất nước, với nhân dân và cuộc
kháng chiến. Trong Đường vui và Tình chiến dịch ta cũng có thể nhận thấy rõ
sự chuyển biến này. Chất trữ tình trong văn ông giờ đây vừa chân tình vừa
ấm áp, nó ánh lên tình yêu đất nước, yêu cuộc sống thiết tha và niềm lạc
quan tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Chẳng hạn khi bất ngờ được mời làm
giám khảo “một buổi thi chính trị” nhà văn đã thốt lên: “Thật là một điều mới
mẻ cho đời tôi! Một người vốn nửa đời chỉ sống với hoa nở bên đường, trôi
nổi bên dòng liễu nhàn và thích những vừng mây xa quá tầm với của tay
mình, một người nặng căn mộng tưởng như thế, nay nhất đán phải đứng
trước chỗ “ba quân” để đố thách những người quân nhân cách mạng! ”[43;
tr.161,162]. Đặc biệt là trong những câu văn tả cảnh, bao giờ chúng cũng luôn
mang giọng điệu trữ tình, chuyển tải chất tình đằm sâu của nhà văn say sưa với
83
cảnh và người trên những con đường kháng chiến, dù có thể đó không phải là
cảnh vui mà là cảnh hoang vắng u buồn. “Đồng lúa chín tắt tiếng đạn, lại càng
thăm thẳm hơn. Cái mênh mông vàng nẫu của đồng lúa chín không bóng dáng
lom khom của dân cày, trông còn cô quạnh bằng mấy mươi cái tịch liêu xanh
lè của rừng”[43; tr.231], “Ở đây xa vắng quá, trơ lạ quá ” [43; tr.231]. Nỗi
nhớ nhà chợt đến qua hình ảnh của một món ăn hiện ra ngay trước mắt trên đất
bạn cũng được Nguyễn Tuân viết bằng giọng điệu trữ tình của một nỗi lòng
sầu xứ. “Thấy nhớ nhà qua hình ảnh miếng chín nơi tha phương. Thấy nhớ
những buổi chiều trước kháng chiến ở phố Hàng Buồm thủ đô, phố Hàng
Cháo Hải Phòng và phố chợ cũ Sài Gòn” [43; tr.323].
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều câu văn miêu tả mang giọng điệu trữ
tình, vừa đẫm chất thơ, vừa thấm chất tình của tâm hồn nhà văn. Có lẽ
Nguyễn Tuân là một người thường tả rất hay về những dòng sông chăng?
Người đọc bị ám ảnh nhiều bởi vẻ đẹp của con sông Đà trong sáng tác của
ông, đó là hình ảnh một dòng sông mà nước sông thay đổi theo mùa: “Mùa
xuân dòng xanh màu ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh
canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn
bực bội gì mỗi độ thu về ”. Ở tuỳ bút kháng chiến ta cũng bắt gặp hình ảnh của
dòng sông Thao cũng được miêu tả bằng chất giọng trữ tình mượt mà như thế:
“Dưới chân phố, nước sông Thao lừng khừng một màu nâu non, càng vẩn
ngầu lên những bột canh cua đồng chờ lửa bếp”[43; tr.359]. Hình ảnh “cái tha
ma xinh bé bên sông đã rào quây lại và vòng hoa đã chắc lại như vòng hoa
cườm” [43; tr.363] không làm cho người đọc ghê lạnh mà lại dấy lên một
niềm tiếc thương đối với những người lính đã hi sinh trong trận Đại Bục giờ
họ đang nằm lại bên bờ sông Thao. Dòng sông đã gắn bó chảy giữa đôi bờ của
cuộc kháng chiến, nó gợi nhắc cho ta nhớ đến hình ảnh của dòng sông Mã và
cái chết của những người lính Tây Tiến trong thơ Quang Dũng. Những hình
ảnh ấy đã gợi lên chất bi tráng, hào hùng về sự hi sinh anh dũng của bao người
84
chiến sĩ đã quên mình vì Tổ quốc, họ đã nằm lại ngay giữa chiến trường nơi
mà họ đã chiến đấu và ngã xuống trong sự tiếc thương không chỉ của đồng
đội, của những người đang sống mà trong cả tiếng khóc lớn của thiên nhiên,
của núi rừng, của những cánh rừng, dòng sông, con suối...
Bây giờ văn Nguyễn Tuân vẫn ca ngợi cái đẹp, song ý vị câu văn đã
khác trước, nó giản dị hơn. Nhìn vào giọng điệu trữ tình ta đã thấy được quá
trình vận động trong tư tưởng của Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ trân trọng
cuộc sống, yêu quý vô cùng sự sống, biểu dương cuộc sống mới. Sống trong
xã hội cũ, Nguyễn Tuân không thể có giọng văn chan chứa yêu thương, tin
tưởng như thế.
3.3.2.2. Giọng điệu trần thuật
Tác phẩm văn học là những câu chuyện, những vấn đề về cuộc đời,
nên câu văn tự sự là câu văn kể lại sự kiện, hành động. Trần thuật là một
trong những biện pháp nghệ thuật cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Trước đây,
trong nghiên cứu, người ta chỉ coi trọng miêu tả, coi nhẹ trần thuật. Nhưng
bây giờ người ta thấy, trong trần thuật nhà văn đã thể hiện quan điểm chung
của mình đối với tổng thể: Đối với nhân vật, sự kiện, bối cảnh thời gian. Tất
cả sự trần thuật đó thể hiện thái độ, tư tưởng, cách nhìn và phong cách của
nhà văn. Chính cách nhìn trong trần thuật thể hiện giá trị thẩm mĩ của lời văn.
Văn Nguyễn Tuân là văn xuôi tự sự cho nên giọng điệu trần thuật cũng là một
yếu tố quan trọng thể hiện phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Giọng điệu trần
thuật là giọng kể của nhà văn về các sự kiện, những vấn đề mà nhà văn ghi lại
trong sáng tác của mình. Giọng điệu trần thuật trong tuỳ bút Nguyễn Tuân
cũng mang dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Đọc tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân, ta cũng phát hiện ra giọng
điệu trần thuật trong mỗi bài viết, mỗi sự kiện mà nhà văn đã ghi lại trong hai
tập Đường vui và Tình chiến dịch. Thường mở đầu mỗi bài tuỳ bút bao giờ
nhà văn cũng đưa người đọc vào một hoàn cảnh cụ thể của sự việc sẽ ông nói
đến. Ví dụ trong Đường vui mở đầu nhà văn viết: “Sau toàn quốc kháng
85
chiến, trong vô số hình ảnh quanh ta thì hình ảnh con đường, những con
đường đập mạnh vào mắt ta, tâm óc ta nhiều nhất.” [43; tr.142], hay trong
bài Khu Năm - Khu Bốn ông lại viết: “1946. Trước ngày toàn quốc kháng
chiến một tháng. Núi Buôn Ma Thiêng. Thật là một địa danh gợi cảm cho
người phương xa và để lại trong lòng người đến đây một vết kỉ niệm khó mà
nhoè nhạt.” [43; tr.166]. Có khi là giọng kể hết sức tỉ mỉ, thể hiện sự chăm
chú quan sát trong hồi hộp, chờ đợi: “Anh D quỳ xuống, một đầu gối sát mặt
đất, một vế đùi làm cỡ cho cùi tay trái, và để khẩu súng lên vai” [43; tr191].
Cũng có khi nhà văn lại sử dụng cả so sánh trong giọng trần thuật, ví dụ như ở
đoạn văn nói về sự xuất hiện của hoa đào. “Năm ngoái thấy đào nở giữa giời,
có người hờn mát với Tạo Vật, cho rằng Tạo Vật là một giống chúa vô tình
với nhân sự. Vui gì mà phô phang màu sắc trước cái đau thương tự vệ của
dân tộc(...)Năm nay, trông đào dật dờ trước gió hiên, người ta không còn
nghiêm khắc nữa, không gọi việc ấy là vô lý là manh động, không cần bắt Tự
Nhiên phải thông cảm với con người” [43; tr.184]. Đọc câu văn mang giọng
điệu kiểu này ta có thể cảm nhận được sự suy ngẫm, nhìn nhận đánh giá một
vấn đề khách quan trong cuộc sống đời thường của nhà văn. Có khi ông nói
về những biến đổi của tự nhiên với giọng kể thật ấn tượng “Gió Lào về chiều,
về tối càng thốc lửa lên những ngôi sao đúng hẹn” [43; tr.382]; có khi lại là
giọng kể êm đềm, chan chứa chất thơ: “Thuyền tôi qua Cầu Bầu, thuyền tôi
qua Quán Bóng, thuyền tôi trôi xuống Đồng Quan. Tôi là một người khách
lạc điệu giữa một chuyến đò đông”[43; tr.239]. Như vậy, có thể thấy giọng
điệu trần thuật trong tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân có sự biến đổi khá
linh hoạt, trước mỗi một sự kiện, một tình huống, nhà văn lại có những giọng
kể khác nhau phù hợp với hiện thực được miêu tả cũng như cảm xúc của
chính lòng mình.
3.3.2.3.Giọng điệu trào phúng, khinh bạc
Trước cách mạng, trào phúng và khinh bạc là một giọng điệu nghệ
thuật cơ bản trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Nó nảy sinh từ sự bất đồng
86
quan điểm sống giữa ông và xã hội đương thời, hay nói đúng hơn là sự bất
mãn trước hiện thực cuộc đời. Là một con người tài hoa, ông mong muốn
đem cái tài của mình ra phục vụ cuộc đời, góp phần xây dựng một cuộc sống
tốt đẹp. Đó là một quan điểm tích cực, nói như người xưa là: “nhập thế cứu
đời”. Nhưng cái hiện thực xã hội đương thời ấy đã làm cho ông khinh bỉ bởi
đâu đâu cũng chỉ là những lọc lừa xảo trá, con người đã đánh mất “thiên
lương”, đối xử với nhau không phải bằng tình người mà bằng thủ đoạn, bằng
sự “quay quắt”, “tàn nhẫn”. Những giá trị tốt đẹp ngàn đời của dân tộc bị
chôn vùi nếu có chăng thì chỉ còn là một thời vang bóng trong quá khứ, thay
vào đó là những chuẩn mực đạo đức, những tư tưởng mới mang đầy màu sắc
thực dụng, hãnh tiến của xã hội thực dân phong kiến.
Là người tri thức khát khao một cuộc sống tốt đẹp chân thực, Nguyễn
Tuân căm ghét cái xã hội ngu muội, tàn bạo ấy và luôn bày tỏ thái độ bất
đồng, bất hợp tác, không dung hoà. Ông luôn nguyền rủa nó, phủ định nó
trong cả cuộc đời lẫn văn chương nghệ thuật. Điều đó giải thích tại sao mà
trước cách mạng Nguyễn Tuân luôn luôn quay lưng, ngoảnh mặt với đời,
chống lại thiết chế xã hội bằng giọng văn đầy khinh bạc và cả sự mỉa mai
trào phúng. Sau cách mạng tháng Tám, trong văn chương Nguyễn Tuân vẫn
xuất hiện giọng điệu này nhưng chủ yếu nhà văn dùng nó để nói về những
mặt tiêu cực của xã hội và để nói về kẻ địch. Như trong bài Nấm miền xuôi
ông nói về những con buôn với giọng đầy mai mỉa: “Trong khoảng đó, nhiều
đèn pin cũng bắt đầu sáng chói. Người ta thò tay xuống dòng cọ đôi dép cao
su con Hổ con Nhạn con Bướm vừa gỡ ở chân ra. Tôi thừa biết rằng những
cái pin đang cháy ở trên bờ kia và trong khoảng này, đôi dép cao su đang kì
cọ kia, người ta sẽ bán cho người khác sau khi dùng giả vờ một hồi để che
mắt thuế quan ”[43; tr.239]. Thậm chí, nhà văn còn miêu tả cảnh mua bán
quần áo, xống váy ngay trên thân thể của cả người bán lẫn người mua.
“khoang đò chật thế mà cũng có người cố cởi được cái váy ra để bán luôn
cho người khác vừa ăn giá xong” [43; tr.239], đó là những cảnh buôn bán
87
chớp nhoáng nhà văn chỉ miêu tả thoáng nhanh như đúng những gì mình
nhìn thấy song đủ cho thấy sự “nhầy nhụa” của đồng tiền và lũ cơ hội tranh
thủ kiếm tiền mà ở thời nào cũng có. Trong một đoạn văn khác ông còn nói:
“Hãy tới đây sau một đêm đò thúng để mà chán sự đời để mà mạt sát sự
sống. Gian nào cũng tô hô ra mặt phố; mặt giời rọi ngang vào cái lộ liễu của
những giấc ngủ nặng nề co rúm của sau những tối đếm, tính, điều tra lừa
đảo ” [43; tr.240], hay “Ở những nơi quần tụ tứ chiếng chung chạ này - nó
mọc lại, hiện ra, rồi tàn lụi chuyển lên đi xuống theo cái đà của chiến sự lan
tràn - ở những thị trấn nấm, ở những phố cao su ở những chợ cóc nhảy này,
tha hồ cho chúng ta cọ chạm với nhiều thứ tâm lý tiêu cực của thời đại ” [43;
tr.241]. Đồng thời khi nói về đám con buôn này Nguyễn Tuân cũng dùng
đúng những từ thuộc “chuyên môn” của chúng. Những là “phất lên” nhờ
chăn len Úc, “kiếm khối tiền” nhờ việc “cho thuê cái bản thân” “lúc vào, nó
đóng khố, lúc ra nó quấn hàng may sẵn vào vào đầy người ” [43; tr.243],
điều đó chứng tỏ nhà văn không lạ gì những thủ đoạn làm ăn của đám này,
thậm chí có những tên từ lâu đã có “thâm niên” trong nghề từ trước cách
mạng đến giờ. Đọc văn cũng như tiếp xúc riêng với Nguyễn Tuân người ta
biết rằng ông ghét cay ghét đắng việc buôn bán và ông từng định nghĩa nghệ
thuật là một công việc “mà những con buôn quen sống với đổi chác hàng họ
và buôn Tần bán Sở đều gọi là vô ích” [23; tr.133] cho nên có thể hiểu vì sao
khi nói về bọn “nấm miền xuôi” nhà văn đã sử dụng giọng điệu này.
Nhất là ở những đoạn văn nói về quân địch, thấy cảnh Pháp đang lúng
túng rút quân “Dakota và Junker tiếp tế của nó hổn hển trong mù sương của
ngày mưa ẩm, mình thấy khoái trong lòng mặc dầu thời tiết có dằn vặt mình
trên những con đường lầy trơn như tráng mỡ nước ” [43;tr.249], dường như
nhà văn rất lấy làm vui trước những gì mình đang chứng kiến vậy. Đối với kẻ
địch nhà văn không tiếc lời nguyền rủa bọn chúng là: “tất cả đám da trắng,
da đen và cả bọn lính da vàng mà tâm hồn, thân thể đã cầm cố cho quỉ sứ
cướp giặc và vua chúa u tối.” [43; tr.295], hay “nhưng chúng mày chịu gì
88
được kham khổ. Chúng mày luôn tự hỏi chúng mày là gian khổ để làm gì?
Theo lời bác sĩ cho biết thì những thằng da đen to xác như thế nhưng mà sức
khoẻ và số mệnh cũng mỏng manh lắm. ,Không kham nổi thuỷ thổ Việt Bắc
nó chết bệnh rừng cũng nhiều” [43; tr.301]. Ngay đến cả cách miêu tả những
âm thanh di chuyển của giặc nhà văn cũng hết sức mai mỉa “ tiếng nó đi nghe
đặc biệt lắm. Nó như tiếng rú của hổ, khỉ, lợn lòi, chó sói. Tiếng ga cơ giới
rú, tiếng ọc ạch của xe tăng chuyển xích. Trên giời hàng chục khu trục cổ
ngỗng hồng hộc nhào lên, nhào xuống trông không khác gì cú vọ đi tìm gà
con” [43; tr.301]. Khi tả về cái sa bàn Nguyễn Tuân cũng liên tưởng đến hình
ảnh “Bàu cát đúng là một bàn mổ trên đó sõng sượt một cơ thể Pháp chờ giải
phẫu”[43; tr.336]. Đó là giọng chễ giễu pha chút hài hước châm biếm của
nhà văn. Đây cũng chính là “cái duyên” vốn sẵn có trong phong cách giao
tiếp của con người tài tử này và nó cũng để lại dấu ấn nhất định trong văn
chương của ông.
Giọng điệu khinh bạc trào phúng trong văn Nguyễn Tuân ở tuỳ bút
kháng chiến chủ yếu tập trung vào kẻ địch. Nói về khẩu đại bác, một thứ vũ
khí chuẩn bị cho “đêm hội lửa” công kích đồn địch đón mừng sinh nhật Bác
mà nhà văn như nói về một người thân với tất cả lòng ngưỡng mộ và khâm
phục “có anh đi thì xôm trò và Tây thì vô khối là tan cửa nát nhà” [43; tr.345].
Nhà văn như nhìn thấy trước thảm hoạ của quân địch một khi “Anh Cả” đã
“yên chỗ mà lên giọng thì khối đứa dưới cái quả đồi mu rùa kia ôm nhau mà
khóc trong hội lửa” [43; tr.345]. Nhất là cảnh trại giặc tan hoang, bọn giặc
thua chạy loạn xạ “tiếng ơi ới của đám vợ giặc vẳng vào rừng nứa. Nghe lạ
tai lắm”, “giặc mặc quần đùi chạy như vịt”, “Đám khố đỏ dưới đồn kêu chí
choé ”[43; tr.344,351] “Cả bấy nhiêu thằng giặc bị tung hê lên. Trần lô cốt
sập. Chúng nó rụng rời nổ đốt, tay nhả súng, lao từ trên mặt chòi xuống ngã
quay cu lơ. Rụng như thị mõm, rơi như khỉ giật mình. Có thằng lom khom mới
tụt xuống nhưng nấc mạnh lên, vọt lên như tia nước, uốn ván rồi cắm ngửa
xuống dưới hàng rào lông dím. Nó lại giồng cây chuối, múa ngược chân lên.
89
Ai đùa với nó kia chứ! Alê, lưỡi kiếm xung kích beng luôn cái đầu củ chuối”
[43; tr.352]. Cả một đoạn văn dài nhà văn miêu tả cảnh thất bại của giặc bằng
cái giọng đầy say mê, hào hứng khoái chí, vì chính ông đã được tận mắt chứng
kiến trận đánh ấy. Giống như một cổ động viên nhiệt tình, Nguyễn Tuân vui
sướng trước sự thất bại của đối thủ. Ông không ngừng hô hào, cổ động cho
những đòn đánh mạnh của quân ta “Choét! Choét! Ùng! Các ông 60, các ông
80 làm việc đều tay (...)Badôca hay quá sẹt! Này một cái chớp thụt hậu, này
một cái chớp nữa phọt thẳng vào tường đất. Thế là bỏ mẹ những thằng trong
lô cốt (...) Bấm điện đi! Sẹt! Oàng!” [43; tr.352].
Nguyễn Tuân có giọng văn trào phúng rất đặc biệt, thường là ông phô
diễn một cách nói khôi hài, một kiểu châm chọc có duyên. Đôi khi lại kết
hợp với giọng trào lộng mỉa mai khinh bạc để nhằm tới kẻ thù. Với bản chất
nghệ sĩ, Nguyễn Tuân ghét cái xấu, cái tầm thường. Đồng thời, nhà văn cũng
nhận thức rất rõ cái xấu, cái cần phải phê phán đả kích chính là kẻ thù ngay
trước mắt, là đối tượng đả kích trực diện. Dù chưa thể nói rằng nhà văn dùng
ngòi bút để làm vũ khí đấu tranh cách mạng nhưng với tấm lòng yêu nước
của một người nghệ sĩ chân chính, rõ ràng Nguyễn Tuân đã đứng về phía
nhân dân kháng chiến, đấu tranh chống những mặt tiêu cực trong xã hội và
chống lại kẻ thù bằng chính giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác văn chương
của mình. Đây cũng là một trong những biểu hiện của sự chuyển biến phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng.
90
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn. Ông lớn vì nhân cách của một nhà
văn chân chính và lớn vì ở ông có một phong cách sáng tạo độc đáo. Cả cuộc
đời lao động bền bỉ, hiến mình cho nghệ thuật, NguyễnTuân đã góp cho đời
một thứ hương sắc riêng. Đó chính là những văn phẩm đầy tài hoa. Đặc biệt
là những trang tuỳ bút hết sức độc đáo thể hiện rõ “chất Nguyễn Tuân”. Sáng
tác văn học của Nguyễn Tuân là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam
hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Tuân đã trải qua nhiều bước
thăng trầm, từng được yêu, từng bị ghét, thậm chí là phê phán gay gắt, nhưng
rồi cuối cùng vẫn trở về và sống mãi trong lòng bạn đọc.
2. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến “nhà tuỳ bút số một”- người đã
đứng vững trên văn đàn với thể loại tuỳ bút. Với thể loại này, Nguyễn Tuân
đã bộc lộ hết tài năng và để lại dấu ấn rõ nét về phong cách nghệ thuật của
mình. Qua tuỳ bút Kháng chiến, thấy hiện lên rất rõ hình ảnh của nhà văn
trong một sự chuyển biến mới, ở một giai đoạn sáng tác mới. Nhà văn đã
thoát ra khỏi cái Tôi cá nhân nhỏ bé, tù túng chật hẹp, bế tắc để đến với cái
Ta rộng lớn: một con người hăng say đi vào kháng chiến, hoà mình vào bộ
đội và quần chúng nhân dân. Vẫn là một cách cảm nhận đời sống độc đáo
đầy cá tính trong cách nhìn và cách thể hiện, nhưng người đọc có thể nhận ra
những thay đổi lớn trong tuỳ bút Nguyễn Tuân sau cách mạng nói chung và
trong Tuỳ bút kháng chiến nói riêng.
3. Đọc tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân, nghiên cứu ngôn từ
nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm này cho ta thấy rõ hơn sự phong phú
của các biện pháp nghệ thuật mới lạ, thấu hiểu tài nghệ phi thường, cá tính
mãnh liệt cũng như bản lĩnh của một ngòi bút, không dễ bị mài mòn theo thời
cuộc. Với tình yêu tiếng Việt tha thiết, Nguyễn Tuân thực sự đã làm giàu cho
ngôn ngữ dân tộc. Ông là người có công lớn trong việc mở đường, bồi đắp và
phát triển tiếng Việt hiện đại. Trong sáng tác của mình, nhà văn luôn chú ý
khai thác những cách biểu đạt còn tiềm ẩn, đồng thời đã sử dụng chúng một
91
cách linh hoạt tài tình như một nghệ sĩ bậc thầy. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, chúng tôi đã chứng minh phong cách nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ.
Thứ nhất là việc lựa chọn từ ngữ của nhà văn trong miêu tả. Nguyễn
Tuân là nhà văn có ý thức nghệ thuật sâu sắc, ông chủ trương thận trọng và
kỹ lưỡng trong việc lựa chọn từ ngữ trong miêu tả. Do vậy, các từ ngữ
thường độc đáo nhưng không quá xa lạ với người đọc. Tuy vậy, điều mà
Nguyễn Tuân hay được độc giả nhắc tới đó là sự cầu kì, đôi khi đến khó hiểu
trong cách dùng từ của ông.
Thứ hai, Nguyễn Tuân cũng là nhà văn có quan niệm sâu sắc về nghệ
thuật ngôn từ, xem nghề văn là nghề của “Chữ” cho nên ông luôn có ý thức
đầy đủ trong sáng tạo ngôn từ theo qui luật lạ hoá của nghệ thuật. Đó là thủ
pháp làm lạ hoá những hình ảnh, sự vật quen thuộc bằng cách tạo cho nó một
hình thức mới, hoặc sử dụng các từ đồng nghĩa làm cho câu văn trở nên sinh
động, phong phú và hấp dẫn hơn.
Thứ ba, câu văn của Nguyễn Tuân cũng thể hiện hết sức phong phú
trong tuỳ bút kháng chiến, tạo được dấu ấn của cá tính và để lại được phong
cách riêng. Đó là những câu văn trùng điệp, phức cú; câu văn linh hoạt uyển
chuyển và câu văn giàu hình ảnh chất thơ.
Thứ tư, trong tuỳ bút kháng chiến, chúng tôi cũng tìm thấy các giọng
điệu đan xen trong văn Nguyễn Tuân, đó là giọng điệu trữ tình, trầm lắng
thiết tha; giọng trào phúng, khinh bạc; giọng trần thuật với lối kể độc đáo...
Tất cả những biểu hiện đó đã làm nên một Nguyễn Tuân - nhà ngôn ngữ xuất
chúng, nhà tuỳ bút số một với phong cách nghệ thuật độc đáo khó ai có
thể vượt qua.
92
THƢ MỤC THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1997), Nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa. In trong
“Nguyễn Tuân người đi tìm cái đẹp”. Hoàng Xuân tuyển soạn, NXB Văn
học, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 2, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
4. Vũ Bằng (1991), Quên làm sao được. In trong “Nhà văn Nguyễn Tuân -
con người và văn nghiệp” của Ngọc Trai, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Hoàng Kim Đáng: Nhà văn Nguyễn Tuân sống mãi. Báo Người Hà Nội,
số 50, ngày 15-8-1987.
6. Nguyễn Xuân Đào (2000) (Con trai nhà văn Nguyễn Tuân): Cha tôi - nhà
văn Nguyễn Tuân. Báo Văn nghệ, số 28, ngày 8-7-2000.
7. Hà văn Đức(1994), Nguyễn Tuân và cái đẹp, Tạp chí Khoa học số 5, (ĐH
Khoa học xã hội và nhân văn)
8. Hà văn Đức (1991), Nguyễn Tuân - một bậc thầy về ngôn ngữ. Tạp chí
Khoa học, số 4, (ĐH Khoa học xã hội và nhân văn)
9. Hà văn Đức (1992), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án Phó tiến sĩ.
10. Hà văn Đức (1996), Tuỳ bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám,
(một số đặc điểm thể loại) In trong “50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám”. NXB ĐH Quốc gia, Hà Nội.
11. Trần Thanh Hà (2007), Tam diện tuỳ bút, NXB Tri thức, Hà Nội.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999) (chủ biên), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Phong Lê (1977), Nguyễn Tuân trong tuỳ bút, Tác gia văn xuôi Việt Nam
hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
93
14. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, NXB Thanh niên, Hà Nội.
15. Tôn Phương Lan(1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Đặng Lưu (2001), Phép lạ hoá trong lời văn Nguyễn Tuân. Tạp chí Ngôn
ngữ và Đời sống, số 7 (69).
17. Đặng Lưu Nguyễn Tuân dùng từ Hán Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3 (190).
18. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tập1,
NXB Văn học, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, NXB
Văn học, Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài giảng về tác gia văn học trong
tiến trình Văn học hiện đại Việt Nam, Tập 1, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác gia văn học,
Trường ĐHSP Hà Nội 1, Hà Nội.
23. Tôn Thảo Miên (1997), Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn,
Tạp chí Văn học, số 1, Hà Nội.
24. Tôn Thảo Miên (2001), Nguyễn Tuân - Về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
25. Tôn Thảo Miên (2005), Vấn đề tiếp nhận và thực tiễn nghiên cứu phong
cách nhà văn, In trong “Lí luận và phê bình văn học - đổi mới và phát
triển”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Tôn Thảo Miên (2006), Nguyễn Tuân - Dấu ấn của cá tính sáng tạo, Tạp
chí Văn học, số 2, Hà Nội.
94
27. Tôn Thảo Miên (2006), Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách,
Tạp chí Văn học, số 5, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Thanh Minh(2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân
trong sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội.
29. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, (chuyên luận),
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Lê Thị Mai Ngân (1999), Danh từ đồng nghĩa trong văn chương Nguyễn
Tuân, Đề tài sinh viên NCKH Trường ĐHSP Thái Nguyên.
31. Phương Ngân (2000), Nguyễn Tuân - cây tuỳ bút tài hoa và độc đáo,
NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
32. Phan Ngọc (2000), Nguyễn Tuân - quá trình chuyển biến của một phong cách, In
trong “Thử xét văn hoá, văn học bằng ngôn ngữ học”, NXB Thanh niên, Hà Nội.
33. Vương Trí Nhàn (1988), Nhà văn Nguyễn Tuân, Tạp chí Sông Hương, số
31, tháng 5, 6.
34. Vương Trí Nhàn (2001): Nguyễn Tuân và sự độc đáo trong văn chương.
In trong “Chuyện cũ văn chương”, NXB Văn học, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Ninh (2004), Ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án tiến
sĩ khoa học Ngữ Văn, ĐHSP Hà Nội.
36. Vũ Đức Phúc (1980), Nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tạp chí Văn học, số 6,
Hà Nội.
37. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng
tạo. NXB Văn học, Hà Nội.
38. Trần Đình Sử (2000), Nguyễn Tuân toàn tập và di sản văn học của nhà
văn. Báo Văn nghệ số 3, 4, 5, Hà Nội.
39. Ngô Thảo (2000), Đã có một người mang tên Nguyễn Tuân. In trong
“Đời người - đời văn” (Phê bình và tiểu luận), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
95
40. Ngọc Trai (1991), Nhà văn Nguyễn Tuân - con người và văn nghiệp.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
41. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập1) NXB Văn học, Hà Nội.
42. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 2) NXB Văn học, Hà Nội.
43. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 3) NXB Văn học, Hà Nội.
44. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 4) NXB Văn học, Hà Nội.
45. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 5) NXB Văn học, Hà Nội.
46. Hoàng Xuân (1997) tuyển soạn, Nguyễn Tuân - Người đi tìm cái đẹp,
NXB Văn học, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9439.pdf