Mục Lục
Mục lục Trang1
Phần mở đầu 3
Lí do chọn đề tài. 3
Lịch sử vấn đề. 4
Mục đích nhiệm vụ của đề tài. 8
Đối tượng, phạm vị nghiên cứu 8
Phương pháp nghiên cứu 9
Cấu trúc luận văn 9
Phần nội dung 10
Chương 1: Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. 10
1.1. Đời sống lao động nông nghiệp. 10
1.2. Đời sống chiến đấu. 21
1.3. Đời sống tình cảm. 33
Chương 2: Những xu hướng chính trong thơ Hoàng Trung Thông. 47
2.1. Xu hướng khái quát. 47
2.1.1. Xu hướng khái quát trong
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3305 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thơ Hoàng Trung Thông trước hết được thể hiện ở ngay trong một đề tài ở mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng đều được nhận thức và nâng cao hơn. 48
2.1.2. Tuỳ theo đối tượng thẩm mỹ, khả năng khám phá mức độ suy nghĩ, tính khái quát được thể hiện ở nhiều khía cạnh: ở câu chữ, ở đoạn thơ, ở hình ảnh hoặc hình tượng thơ, ở kết cấu chủ đề toàn bài. 55
2.2. Xu hướng chính luận. 59
2.2.1. Cảm hứng lấy tư duy làm điểm tựa. 59
2.2.2. Triết luận trong thơ Hoàng Trung Thông. 62
2.2.2.1. Triết luận về các vấn đề xã hội. 63
2.2.2.2. Triết luận tâm tình. 65
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông 72
3.1. Giọng điệu. 72
3.1.1. Khái quát về giọng điệu. 72
3.1.2. Đặc sắc trong giọng điệu thơ Hoàng Trung Thông. 73
3.2. Thể thơ. 75
3.2.1. Sự thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ. 77
3.2.1.1. Câu ngữ pháp tràn biên. 78
3.2.1.2. Cách ngắt câu thơ thành câu thơ bậc thang. 82
3.3. Hình ảnh, mô típ. 84
3.3.1. Hình ảnh. 84
3.3.1.1. Hình ảnh những con đường, những bước đi. 84
3.3.1.2. Những hình ảnh gắn bó với nông thôn và miền núi. 85
3.3.1.3. Hình ảnh rượu và em 89
3.3.2. Mô típ 92
Phần kết luậN 96
Tài liệu tham khảo 99
phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hoàng Trung Thông sinh ra trong một gia đình tiểu thương ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Quê hương ông vốn có truyền thống hiếu học và cách mạng, nổi danh với nhiều nhà khoa bảng yêu nước. Tiếp thu truyền thống của quê hương,Hoàng Trung Thông rất chịu khó học và ông cũng tham gia cách mạng từ rất sớm, khi ông còn là học sinh trường tỉnh. Năm 1945, ông tham gia giành chính quyền ở địa phương rồi đi theo kháng chiến. Ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam năm 1946. Năm 1948 ông tham dự lớp bồi dưỡng khoá 2 Văn hoá kháng chiến Liên khu IV. Trong thời gian này, ông sáng tác tác phẩm đầu tay Bài ca vỡ đất. Bài thơ mang phong cách chân thực, khỏe khoắn, phù hợp với không khí kháng chiến nên được nhiều người ưa thích. Từ đây sự nghiệp sáng tác của Hoàng Trung Thông bắt đầu. Sáng tác của ông chủ yếu là thơ, ngoài thơ trữ tình ông còn viết thơ châm biếm và thơ đả kích.
Hoàng Trung Thông thuộc thế hệ cầm bút trưởng thành trong kháng chiến. ông đã gặt hái được nhiều thành công ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Thơ ông giàu tính thời sự, gắn bó với từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thơ ông ghi nhận sự đổi mới của đất nước, ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, quê hương và con người Việt Nam. Nhà thơ đã khẳng định được bản sắc riêng biệt độc đáo, tạo ra dấu ấn trong phong cách nghệ thuật của mình. Hoàng Trung Thông là một nhà thơ, nhưng không chỉ vậy ông còn là một nhà dịch thuật, nhà nghiên cứu phê bình văn học. Với tầm hiểu biết rộng và sâu, nhất là văn học Trung Quốc, ông đã dịch và giới thiệu nhà thơ lớn của Trung Quốc cũng như của nhân loại như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Maiacôpxky, Pêtôphi, Adam Mickievich, Henrich Hainơ. Ngoài ra, những tập tiểu luận phê bình sắc sảo của ông cũng dành không ít cho sự nghiệp nghiên cứu văn học.
Hoàng Trung Thông từng đảm nhiệm các chức trách: cán bộ văn nghệ của khu ủy Liên khu IV, tỉnh ủy viên tỉnh Nghệ An, ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương, Giám đốc Nhà Xuất Bản Văn học, thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ, thư ký tòa soạn báo Văn nghệ, vụ trưởng Vụ văn nghệ trung ương, ủy viên thường vụ Hội nhà văn, viện trưởng Viện Văn học, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn học
Từ vai trò và vị thế nói trên, chúng tôi chọn đề tài: Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông nhằm mục đích tìm hiểu một cách đầy đủ và toàn diện sự đóng góp của Hoàng Trung Thông cho thơ ca và cố gắng chỉ ra những dấu hiệu thuộc tính riêng trong nội dung và nghệ thuật của thơ ông, để khẳng định những phương diện cơ bản nhất, bản chất nhất thuộc phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ sáng tác đầu tay Bài ca vỡ đất (1948) thơ Hoàng Trung Thông đã được dư luận quan tâm, đánh giá nồng nhiệt trong cả giới nghiên cứu phê bình và sáng tác. Sự nghiệp thơ văn Hoàng Trung Thông ngày càng dày dặn thì các ý kiến đánh giá về thơ ông cũng ngày càng sôi nổi.
Năm 1964 đã có những cuộc trao đổi về vấn đề phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Tác giả Hồ Tuấn Niêm trong bài viết: Hoàng Trung Thông và Những cánh buồm, in trong Tạp chí Văn học số 8 - 1964 đã dành hẳn một mục bàn về “Vấn đề phong cách của thơ Hoàng Trung Thông. Tác giả viết với Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông đã có một phong cách thơ chưa? Vấn đề này đã từng được đem trao đổi trong một số ít anh chị em làm công tác phê bình văn học. Qua cuộc trao đổi phần đông đều nghiêng về câu trả lời khẳng định”. [38,tr.22]
Rõ ràng, vấn đề phong cách thơ Hoàng Trung Thông đã được chú ý và được một số nhà phê bình đánh giá từ rất sớm. Hồ Tuấn Niêm cho rằng: “Tôi nghĩ rằng anh đang tiến dần đến một phong cách thơ chứ chưa phải đã có một phong cách hoàn chỉnh. Tuy nhiên, căn cứ vào những bài thành công nhất trong thơ Hoàng Trung Thông, chúng ta có thể thấy trước dấu hiệu của một phong cách mới, đó là cái chắc, cái khoẻ được thể hiện qua những câu thơ rắn rỏi bình dị như cách ngôn, tục ngữ ”. [38,tr.23]
Mấy năm sau cũng chính tác giả Hồ Tuấn Niêm lại tiếp tục bàn về phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Trong bài Hai mươi năm ấy (Nhân đọc tập thơ Đầu sóng của Hoàng Trung Thông) cũng đã dành riêng một mục một phong cách thơ để bàn về phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Theo đánh giá của tác giả này thì phong cách thơ Hoàng Trung Thông là “Phong cách thực tiễn và chiến đấu. Về nội dung, bài nào cũng nhằm một yêu cầu cụ thể. Về hình thức, Hoàng Trung Thông thường dùng những ngôn ngữ được rút ra từ cách nói giản dị, chắc thật của quần chúng. Tuy nhiên, phong cách của anh vẫn còn nghèo”. [29,tr.79]
Nhà nghiên cứu phê bình văn học Hà Minh Đức trong Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 xuất bản năm 1983 nhận định rằng phong cách thơ Hoàng Trung Thông là “phong cách thơ ca chân thực, khoẻ khoắn bám sát từ trong cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta”, ông còn nhận xét “Thơ Hoàng Trung Thông khoẻ và có khí thế” [60,tr.156]. Nhận xét của Hà Minh Đức nói trên đã quan tâm đến cả lĩnh vực nội dung và nghệ thuật trong phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Tuy nhiên, những nhận xét này mới ở mức khái quát chung chung.
Trong Nhà thơ Việt Nam hiện đại với bài Hoàng Trung Thông, nhà nghiên cứu phê bình văn học Mã Giang Lân nhận xét: “Điều quan trọng ở nhà thơ Hoàng Trung Thông là thơ anh có những nét riêng không lẫn với ai. Đó là một phong cách thơ giàu chất liệu sống, đôn hậu, chắc khoẻ. Thơ anh ít dùng tứ. Cái còn lại trong thơ anh là những xúc động tươi sáng chân thành”. [61,tr.299]
Phong Lan trong bài: Nhân đọc Trong gió lửa, tập thơ thứ tư của Hoàng Trung Thông cũng đã có nhận định: “Có thể nói, ở thơ Hoàng Trung Thông, tư tưởng và cảm xúc luôn khoẻ khoắn và trong sáng. Anh nhìn nhận, bình giá thực tế bằng con mắt cách mạng và xây dựng cảm hứng thơ ca trên sự đồng điệu giữa tâm trạng và hiện thực của đời sống. Nhờ vậy, thơ anh chân tình, cởi mở. Mặt khác, những điều anh viết thường được rút ra từ những sự kiện, cảnh ngộ của đời sống thực nên thơ anh mang nét dân dã, gần gũi của một hồn thơ chân chất mộc mạc” [29,tr.91]. Nhận xét trên của Phong Lan chính là những nhận xét, bình giá về bình diện phong cách thơ Hoàng Trung Thông mặc dù còn dè dặt, khái quát.
Nhà phê bình văn học Thiếu Mai khi bàn về thơ Hoàng Trung Thông có viết: “Thơ Hoàng Trung Thông có đặc điểm khá dễ nhận dạng, nghĩa là thơ có bản sắc, một tiếng thơ khỏe, chắc nịch, nhiều nghĩ suy và nhìn chung thì ít bị nồng cay, song không phải là không có những phút giây mà cảm hứng bừng lên mãnh liệt trong thơ” [30,tr.96]. Bà còn viết: “Nhìn chung suốt cả quá trình hơn 40 năm sáng tác của Hoàng Trung Thông, quả là khó phân biệt rạch ròi từng giai đoạn với những đặc điểm rõ rệt. Tuy nhiên, cũng có một vài nhận xét về đại thể để thấy rõ hơn phong cách thơ anh. Thơ Hoàng Trung Thông khỏe, gân guốc. Cái khỏe, cái gân guốc ở đây không phải do từng câu từng chữ mà cả trong suy nghĩ, cảm hứng của nhà thơ. Mặt khác, người ta cũng thấy thơ anh khô và không phải không ít người nghĩ rằng vì khỏe nên khô. Tôi không nghĩ vậy. Theo ý tôi, nhiều bài thơ của anh có phần khô là do cảm xúc chưa đủ mạnh, chưa cân bằng với lý chí vốn rất mạnh của anh” [30,tr.99]. ý kiến của Thiếu Mai cũng góp phần chỉ rõ phong cách thơ Hoàng Trung Thông trên nhiều bình diện biểu hiện, đồng thời tác giả cũng chỉ ra những hạn chế của thơ Hoàng Trung Thông.
Nhà thơ Nguyễn Bao cũng có nhận xét về nghệ thuật biểu hiện của thơ Hoàng Trung Thông: “Cách nói khỏe khoắn, dung dị, hình ảnh mộc mạc chân chất nhưng phía sau là những xúc cảm có thật và hết sức chân tình, là bản lĩnh và tri thức, là tính cách một vùng đất, tất cả tạo nên một “Hoàng Trung Thông - thi sĩ” của xứ Nghệ không dễ lẫn lộn, không hề pha trộn với những phong cách khác” [5,tr.6]
Nhà phê bình, nghiên cứu văn học Phan Ngọc nhận xét: “Hoàng Trung Thông chỉ là học giả trong các bài nghiên cứu. Còn trong thơ không ai mộc mạc bằng anh. Anh không thích cái gì bí hiểm triết lý, anh thích cái đơn giản. Toàn từ đơn tiết thuần việt, toàn những hình ảnh mộc mạc. Tôi hiểu mánh khóe này. Với cuộc đời có khi phải đóng kịch. Nhưng với nghệ thuật ta phải chân thành” [40,tr.129]. Đây cũng là một nhận xét nghiêng về phương diện nghệ thuật biểu hiện trong thơ Hoàng Trung Thông.
Nhà nghiên cứu văn học Mai Hương cũng khẳng định một phong cách độc đáo trong thơ Hoàng Trung Thông: “Với những bài, những từ, những câu thơ vừa vạm vỡ, chắc khỏe, vừa hồn hậu, phóng khoáng, giản dị, tựa vững trên nền của hiện thực đời sống, Hoàng Trung Thông đã tạo được một phong cách thơ độc đáo, một dấu ấn riêng không pha trộn và góp phần đáng kể tạo dựng diện mạo mới cho nền thơ chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.[22,tr.137].
Lê Quang Hưng viết về Hoàng Trung Thông có nhận xét: Thơ Hoàng Trung Thông “bám chắc hiện thực đời sống và gia tăng sự khái quát tính chính luận” [62,tr.338] và “tâm hồn chân chất đôn hậu, tiếng thơ khỏe khoắn tự nhiên” [62,tr.341]. Phải chăng đó chính là những nét biểu hiện của phong cách thơ Hoàng Trung Thông.
Tóm lại, đánh giá về phong cách thơ Hoàng Trung Thông có những ý kiến khác nhau hoặc về phương diện nội dung hoặc về phương diện nghệ thuật. Đó là ý kiến hết sức quí báu nhưng chưa có bài viết nào xem xét, đánh giá về phong cách thơ Hoàng Trung Thông một cách toàn diện. Tuy vậy, đây là những ý kiến mang tính chất gợi ý, định hướng để chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài có mục đích tìm hiểu, thẩm định, đánh giá phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Chúng tôi hy vọng qua từng phần đánh giá, thẩm định có thể đóng góp cho sự nhận biết gương mặt thơ ca của Hoàng Trung Thông. Cũng mong đây chính là điều đóng góp nhỏ bé của luận văn trong quá trình tiếp cận và giải mã thơ Hoàng Trung Thông.
3.2. Nhiệm vụ
Thực hiện đề tài này, người viết có nhiệm vụ tiếp cận, tìm hiểu, phân tích các tác phẩm thơ Hoàng Trung Thông. Mặt khác đề tài còn có nhiệm vụ so sánh với một số nhà thơ đương thời và không cùng thời với ông để thấy rõ bản sắc độc đáo của tác giả này. Tức là phong cách nghệ thuật thơ. “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học dân tộc”. [59,tr.256 - Tập 2]
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoàng Trung Thông được nhiều người biết đến với tư cách là một nhà thơ nhưng ông còn là cây bút sáng tác văn xuôi, là một dịch giả đồng thời tham gia nghiên cứu phê bình văn học. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đa dạng phong phú. Do điều kiện thời gian và nhiều điều kiện khác nên chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu phong cách nghệ thuật biểu hiện trong thơ của tác giả này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài này là tất cả các tập thơ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Mặt khác chú ý tiếp cận, giải mã cả hai địa hạt thể hiện phong cách là: Nội dung tác phẩm và nghệ thuật biểu hiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở văn bản nghệ thuật (các tập thơ của Hoàng Trung Thông) tiến hành thống kê, phân loại một số vấn đề theo định hướng, từ đó thâm nhập để phân tích lý giải về giá trị riêng của thơ Hoàng Trung Thông theo từng khu vực đã được định hình. Chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp phân tích tác phẩm
Tìm ra những đặc sắc nghệ thuật của văn bản thơ Hoàng Trung Thông.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Giúp cho việc hình thành những luận điểm khoa học.
5.3. Phương pháp so sánh (tương đồng hoặc dị biệt)
Với một số nhà thơ khác, nhất là những nhà thơ cùng thời để tìm ra những nét riêng biệt của thơ Hoàng Trung Thông.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông.
Chương 2: Những xu hướng chính trong thơ Hoàng Trung Thông.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông.
Sau cùng là danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung
Chương 1
Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông
1.1. Đời sống lao động nông nghiệp
Hoàng Trung Thông là nhà thơ gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn. “Tuổi thơ của Hoàng Trung Thông sống ở nông thôn. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, môi trường công tác của anh cũng ở nông thôn. Anh gắn bó mật thiết với cuộc sống nông thôn” [61,tr.285]. Hoàng Trung Thông không phải là nhà thơ xuất thân từ nông dân nhưng như đã từng gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn. Vì vậy, ngay từ bài thơ đầu tiên, ông đã đứng trên cương vị người nông dân kháng chiến mà thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình và càng về sau càng có nhiều bài thành công theo hướng đó. Bài ca vỡ đất được cất lên từ những ngày đầu kháng chiến, tuy còn đượm vẻ thanh bình của vùng tự do, nhưng đã trở thành tiếng hát lạc quan của người nông dân đi khai hoang để phục vụ tiền tuyến. Trong những ngày đi vào vùng địch hậu, nhà thơ đã viết Đồng bằng, quê hương chiến đấu. Với tình cảm sôi nổi và lòng tin sắt đá của những người nông dân mặc áo lính trở về giải phóng đồng bằng, giải phóng quê hương. Trong năm đầu của cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp (1958) ông viết Thăm lúa, Cho lúa ta lên tới ngang trời. Tư thế của người nông dân tập thể được thể hiện qua ý thơ chắc khỏe và giọng thơ thật phóng khoáng.
Nhờ gắn bó sâu sắc với đời sống nông nghiệp và mỗi chặng đường thơ ông đều có những sáng tác xoay quanh đời sống nông nghiệp mà người đọc cảm nhận rất rõ: Đời sống nông nghiệp là một trong những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Và trong cảm hứng này nhà thơ đã thể hiện khá phong phú các sắc độ, các phương diện của đời sống nông nghiệp.
Hoàng Trung Thông thuộc thế hệ các nhà thơ ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Các nhà thơ thuộc thế hệ này có cái may mắn là vừa lớn lên là gặp cách mạng và đi theo Đảng cho nên họ có điều kiện thuận lợi trong sự tiếp thu những tình cảm mới. Tình cảm của quần chúng cách mạng đến với họ tương đối nhanh hơn và trực tiếp hơn, do đó cái lạc quan trong thơ họ thường có tính chất cởi mở, tính chiến đấu trong thơ họ thường mạnh mẽ. Đây là điểm khác với các nhà thơ lớp trước. ở các nhà thơ lớp trước, “có nhà thơ vì cảm cái vui, cái hùng của hiện tại mà xót thương cho ông cha ta thủa trước đã từng sống trong tâm trạng dằn vặt, tủi cực, hay đã trải qua những cảnh đời oan nghiệt, bất công. Có nhà thơ càng sống với tình cảm rộng lớn nhân đạo của thời đại càng thấy thấm thía cái khổ của tâm hồn bé nhỏ, yếu hèn, bơ vơ thủa trước. Do đó cái vui trong thơ họ có phần chìm lắng hơn là phơi phới, tính chiến đấu trong họ thường biểu hiện ở chỗ giành thắng lợi cho tâm hồn mới với những cái rớt của tình cảm lỗi thời” [38,tr.27].
Qua các trang thơ viết về đời sống lao động nông nghiệp của Hoàng Trung Thông, người đọc luôn được sống trong không khí hăng say lao động và trong niềm tự hào về quá khứ và về hiện tại của đất nước. Cả tập thơ như muốn nói lên với người đọc rằng: Cuộc sống lao động hoà bình trên miền Bắc thật vui, thật đẹp, thật hùng và cần được ca ngợi ngàn lần. Trong Những cánh buồm người đọc thấy cái vui ở đây chủ yếu là thấy cái vui của thế hệ trẻ đang lao động quên mình vì Tổ quốc. ở Bài ca vỡ đất đó là một tiếng ca reo vui của người lao động nhưng vẫn còn có phần vắng lặng. ở đây, ta gặp cái hào hứng đến sôi nổi của nhà thơ trong Đường chúng ta đi:
Mặt trời chiều má đỏ hây hây
Gió thổi hương đồng sực nức
Đi thăm lúa như cờ bay trước ngực.
...Đi bên lúa như bên ngọn lửa
Mừng được mùa bếp đỏ cơm thơm.
(Thăm lúa)
Nắng thu vàng tháng tám.
Gió heo may giải đồng.
Bờ tre cò liệng trắng.
Lúa vờn xanh mênh mông
Câu ca tung cánh bổng
Mồ hôi đầm áo manh
Yêu bao nhiêu cuộc sống
Khoẻ như màu áo xanh.
(Đồng tháng tám)
Tiếng kẻng bay dồn như gió vang
Nghe vui sao khúc nhạc xóm làng
Nghìn năm mơ ước giờ trông thấy
Ruộng đất cày chung cấy tập đoàn.
(Trên gác chùa Keo).
Người cán bộ ở xóm thôn là linh hồn và trụ cột của phong trào. Trong cuộc sống họ là những người luôn lo toan tất bật với công việc xóm làng. Họ ít được nghỉ ngơi, sống không giờ giấc, khó khăn ở đâu cũng gọi tới, phúc lợi lại ít được chia phần. Hoàng Trung Thông đã dựng được hình ảnh chân thực về anh chủ nhiệm trong thơ. Đến với Anh chủ nhiệm người đọc không chỉ thấy cái tư thế làm chủ, năng nổ tận tụy trong công việc của người nông dân cốt cán:
Có mùa mạ cháy đồng khô cạn
Mười bậc nước leo lên ruộng hạn.
Có mùa lúa chín, lụt tràn qua
Lại phải nghiêng đồng hắt nước ra.
Người nhiều, ruộng ít, trâu bò ít
Chạy ngược chạy xuôi, lo rối rít.
Ngoài ba mươi tuổi máu đương sôi
Không chịu khoanh tay đứng ngó trời…
(Anh chủ nhiệm)
Không phải chỉ là sự tháo vát năng động mà sâu sắc hơn là tinh thần cách mạng tiến công và niềm thiết tha mơ ước thấm sâu vào trong suy nghĩ, chi phối hành động của anh chủ nhiệm. Cảm hứng về tương lai đã đến khá rõ nét từ trong những vất vả lo toan của cuộc sống hiện tại:
Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh
Vẽ cả ngày mai thành bức tranh:
(…)
Chân vẫn bước đều, miệng vẫn nói,
Phơi phới lòng anh cơn gió thổi.
(Anh chủ nhiệm)
Hoàng Trung Thông nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang lên đâm chồi nảy lộc trong nông thôn hợp tác hóa. Tác giả không đứng ngoài cuộc mà nhìn ngắm thăm dò. Ông cũng không thi vị hóa nông thôn đang vượt qua những thử thách nặng nề. Hiện thực cuộc sống đi vào thơ Hoàng Trung Thông qua những mạch chìm sâu và chắt lọc. Khi nói đến kết quả nhà thơ thường chú ý đến nguyên nhân, nói về niềm vui thắng lợi lại nói đến những gian truân, nói về ngày mai từ những xây đắp cho cuộc sống hôm nay. Trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hoàng Trung Thông lại có những đóng góp mới đặc biệt qua mảng đề tài trên. Tác giả chú ý đến phần thú vị của cuộc sống nhưng trước hết vẫn là sự nhạy cảm với những khó khăn và trách nhiệm. Nông thôn trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội bề bộn sự sống và gợi nhiều cảm hứng thi ca. Huy Cận miêu tả một nông thôn đang lao động cần cù và sáng tạo, một nông thôn đang sinh sôi nảy nở không ngừng. Những con gà béo tròn, mẹ gà ấp ủ đàn con, những chú nghé vui chơi nhảy nhót Có lúc suy nghĩ về sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên được thể hiện trong niềm vui lao động, trong cảnh trời nước mênh mông. Cảnh trong bài Đoàn thuyền đánh cá óng ánh như một bức tranh sơn mài:
Cá nụ, cá chim, cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.
(Đoàn thuyền đánh cá- Huy Cận)
Hoàng Trung Thông cũng nói về nhịp sống đang lên đó. Hình ảnh huyện ủy miền núi về họp từ các nơi trong không khí nhộn nhịp, vui vẻ để rồi lại trở về trong những trách nhiệm khác nhau:
Huyện ủy chia nhau về bản
Gấp gấp vó ngựa lên đường
Người về lũng xa chống hạn
Người lên biên giới mua lương.
(Huyện ủy miền núi).
Ông nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang đâm chồi nảy lộc trong phong trào nông thôn hợp tác hóa:
Anh trỏ: Đây ruộng mình hợp tác
Lúa tươi vàng như ráng như mây.
Tôi nói: Lúa làm chung phải khác
Hạt mẩy bông dài cây sát cây.
Mặt trời chiều má đỏ hây hây
Gió thổi hương đồng sực nức
Đi thăm lúa như cờ bay trước ngực
Xắn tay lên ta gặp mùa đầu.
(Thăm lúa)
“Khi viết về con người mới, cuộc sống mới, nhà thơ tỏ ra có nhiều suy nghĩ. Cái mới mà tác giả ca ngợi, khẳng định đã có sức thuyết phục. Bao hợp tác xã có được những dòng suối thóc lấp lánh” là vì đã trải qua bao đêm “Chong đèn giải quyết việc vào ra” và bao ngày “Cày vỡ vai trâu tát thủng gầu” (Gửi Thái Thụy). Bao đồng chí chủ nhiệm đã kiên trì vật lộn với nhiều khó khăn để cùng xã viên “Xốc cả phong trào vững tiến lên” (Anh chủ nhiệm). Tác giả đã giải thích (bằng thơ) rằng cái mới ngày nay vốn có quan hệ với truyền thống đấu tranh sản xuất [38,tr.69]. Nhưng con người trong phong trào hợp tác hóa ấy chính là những con người nông dân tập thể. Con người nông dân ngày nay chính là hiện thân của Tài Ngào, một nhân vật thần thoại tiêu biểu cho truyền thống lao động vì nhân dân:
Có sức nào bằng sức người hợp tác
Có thác gì bằng ngọn thác cần lao?
Cảm ơn ông hỡi ông Tài Ngào!
Ông có một trái tim nóng hổi
Ông đem sức đào khe đục núi
Mà không vì lợi lộc riêng tây.
(Nói chuyện với ông Tài Ngào).
Viết về đời sống nông thôn, về lao động nông nghiệp, Hoàng Trung Thông không chỉ ca ngợi cuộc sống đang lên với những niềm vui phơi phới, ca ngợi những con người lao động mới, con người nông dân tập thể mà ông còn chú ý đến những nỗi gian khổ, nhọc nhằn. Lớn lên trong thực tế chiến đấu và xây dựng của dân tộc, lại sẵn có niềm vui trong lòng, Hoàng Trung Thông có cách nhìn, cách cảm đúng đắn trước cuộc sống còn nhiều khó khăn gian khổ, mà cũng thấy được sức ta, thế ta, lòng ta lạc quan phấn chấn:
Ôi cái đất này vất vả sao
Đồng chua nước mặn thấp liền cao
Vùng kế bên hạn muôn tay chống
Cày vỡ vai trâu tát thủng gầu.
Hay:
Có đêm nằm nghĩ cảnh gieo neo
Vợ yếu con đông chưa hết nghèo.
Nhưng rồi thấy rõ đường đi tới
Nước nổi lo chi bèo chẳng nổi.
Lại lao vào việc lòng say sưa
Hết sớm thôi chiều, nắng lại mưa.
(Anh chủ nhiệm)
Không phải chỉ Hoàng Trung Thông mới có cảm hứng về đời sống nông nghiệp. Nhiều nhà thơ khác cũng có cảm hứng này. Trần Hữu Thung cũng có những câu thơ gắn với đồng ruộng, với chuyện được mất của mùa màng:
Gió mưa chi rứa
Trời hỡi là trời
Lúa ba tháng xểnh mất rồi
Miếng ăn toan đổ vô nồi trật đi.
Trần Hữu Thung cũng là cây bút “nhập cuộc” ( có cách nói trực tiếp của người trong cuộc) nên đã nói được những lời gan ruột của bà con trong một lối phô diễn tự nhiên. Phải chăng, Hoàng Trung Thông và Trần Hữu Thung đã gặp nhau ở điểm này. Tuy vậy, giữa hai tác giả này vẫn mỗi người, mỗi vẻ. Trần Hữu Thung có những câu thơ gắn bó với đồng ruộng nhưng nặng về tuyên truyền cách mạng. Còn “Hoàng Trung Thông viết về đất đai đồng ruộng với bao tình nghĩa chan hoà với đất, gửi vào đất những yêu thương hy vọng” [61,tr.292]. Có lẽ vì thế mà viết về đời sống nông nghiệp đã trở thành một nguồn cảm hứng trong thơ ông. có lẽ cũng vì thế mà Hoàng Trung Thông viết những câu thơ về đất thường sâu sắc hơn những câu thơ viết về trời.
Trong cảm hứng viết về đời sống nông nghiệp còn “một mảng thơ đáng chú ý khác ở Hoàng Trung Thông là thơ viết về những đổi thay và nhịp sống lao động xây dựng ở miền núi” [61,tr.296]. Nhà thơ thường sáng tác ngay trong mỗi chuyến đi và “Mỗi đoạn đường rung một tứ thơ”. Trong mảng thơ này nét tươi tắn nhất là khi miêu tả thiên nhiên. “yêu đời và nhạy cảm, anh dễ dàng nhập vào được với không khí và con người nơi anh đến, dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tránh được hời hợt, chông chênh. ở đây nhiều bài già dặn cổ kính mang âm hưởng của đường thi. Tả nhưng rất gợi. Nhà thơ toả tâm hồn mình vào cảnh vật. Chi tiết không nhiều nhưng đắt và say. Gửi Việt Bắc, Trên hồ Ba Bể, Huyện uỷ miền núi, Thác Bản Dốc, Tiếng đàn, Đêm văn chải, Xoè, Lũng cú, Chợ Pakha ” [61,tr.297].
Chợ là nơi trao đổi, buôn bán hàng hoá, là bộ mặt kinh tế của một vùng, miền. Viết về những đổi thay và nhịp sống lao động dựng xây ở miền núi không gì hơn bằng viết về những đổi thay ở chợ. Đây là cảnh chợ huyện Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng:
Chợ Cô - sầu
Chẳng có ai sầu
Khăn thêu thổ cẩm, vải khoe mầu.
Người đi trẩy hội hay đi chợ
Anh đợi em hoài em ở đâu?
Bài thơ kết cấu trùng trùng điệp điệp gồm 4 đoạn. Đoạn hai, đoạn ba là cảnh vui tươi náo nức của cuộc sống miền núi đã có sự thay đổi da thịt:
Chợ Cô - sầu
Chẳng có ai sầu
Gà vịt nhiều hơn khoai với nâu.
Nón tre, túi vải người như nước
Anh đợi lâu rồi em đứng đâu?.
Chợ Cô - sầu
Lất phất mưa bay
Vai em vàng thắm gánh cam đầy
Đèo cao lũng thấp đường xa nhỉ
Xa mặc đường xa cứ tới đây.
Đoạn cuối kết thúc bài thơ, “ Đoạn bốn buâng khuâng tình tứ:
Chợ Cô - sầu
Lất phất mưa bay
Đừng sợ đường trơn anh dắt tay
áo chàm ai nhuộm mà xanh thế
Không rượu nhưng lòng vẫn cứ say.
Cảnh gợi tình và tình thấm vào cảnh. Lời dừng mà ý tứ còn ngân vang [61, Tr 297] Còn đây lại là một buổi họp chợ khác, chợ Pa Kha. Chợ họp sơ tán giấu trong một rừng cây. Cảnh họp chợ diễn ra ồn ã đầy tiếng nói tiếng cười, hàng hóa với những sắc màu rộn rã tươi vui. Tiếng kèn hoà quyện quyến luyến, lời mời uống rượu vui tươi lôi cuốn:
Trăm loại hàng bày ra
Trăm sắc màu giữa chợ,
Cô gái Mèo xúng xính váy hoa
Người Dao đến, áo quần rực rỡ
Chim cũng theo người đi
Chó cũng cùng người đến
Tiếng ngựa hí vang trời
Điệu khèn sao quyến luyến!
Chen chúc nhau bên vò rượu nhỏ
Bát rượu ngô kẻ uống người mời
Quây quần lại bên hàng thắng cố
Tiếng lửa reo tiếng nói tiếng cười.
Đó là cảnh chợ Pa Kha (Bắc Hà) ở Lào Cai vào những năm 70 cả nước đang đánh Mỹ. Người, ngựa, hàng hóa màu sắc, âm thanh như đan vào nhau, chen lấn phô bày những đổi thay sung túc của người dân miền núi. Nhưng cái hay của bài thơ lại nằm ở mấy câu “chuếnh choáng” Cuối cùng:
Buổi chợ này có mấy người say
Tôi cũng hơi chuếnh choáng
Trên đường về không có ai cầm ô theo sau
Che cho đầu tôi khỏi nắng.
(Chợ Pa Kha)
Trong một số bài thơ khác, khi ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con người miền núi Hoàng Trung Thông vẫn giữ được sự rung động của tâm hồn, điều này chứng tỏ nhà thơ thực sự có một tấm lòng yêu mến cuộc sống ấy. ở bài Xoè chẳng hạn, nhịp điệu tưng bừng của cuộc sống mới được thể hiện một cách nhuần nhị:
Hội xòe mở giữa sân hợp tác
Vòng xòe uốn lượn như dòng sông Nậm Na
Con trai áo chàm, con gái áo hoa cài khuy bạc
Tiếng đàn nhịp nhàng theo tiếng ca.
(Xòe)
Ngay ở nơi địa đầu của Tổ quốc, Lũng Cú, điểm cực bắc của nước ta ở huyện Đồng Văn thuộc tỉnh Hà Giang, nhà thơ đã tận mắt chứng kiến sự đổi thay của nhịp sống lao động, dựng xây nơi đây:
Đã trải qua những năm quét phỉ
Giờ tấn công vào sự đói nghèo
Nơi cực bắc xa xôi - Lũng Cú
Đã lớn lên hợp tác xã người Mèo
(Lũng Cú)
Cần nói thêm rằng, không phải Hoàng Trung Thông chỉ viết về đời sống nông nghiệp. Ông cũng có viết về công cuộc lao động xây dựng của người công nhân nhưng những bài thơ như thế vừa ít về số lượng vừa không mấy giá trị, mặc dầu nhà thơ vẫn diễn tả được nhịp sống hối hả của lao động xây dựng:
Bên kia mỏ thiếc bắc ngang mây
Goòng nối đuôi nhau chạy suốt ngày
Ta đào lòng đất đào sâu mãi
Đãi đá tìm vàng là ở đây.
Chính vì thế mà nó chưa thể trở thành một cảm hứng lớn như khi Hoàng Trung Thông viết về đời sống lao động nông nghiệp.
Hoàng Trung Thông là một nhà thơ gắn bó sâu sắc với nông thôn. Mỗi chặng đường thơ ông đều có cảm hứng lớn về đời sống nông nghiệp. Vì thế mà ông có được những câu thơ sâu sắc khi viết về đất. Viết về đời sống nông nghiệp, Hoàng Trung Thông đã thể hiện được nhiều sắc độ, phương diện khác nhau. ở đó có cả những khó khăn vất vả, có cả những niềm vui phơi phới của cuộc sống đang lên, có không khí hăng hái lao động và có cả tư thế làm chủ của người nông dân tập thể. Đó là những đóng góp còn nhỏ bé nhưng đáng trân trọng.
1.2. Đời sống chiến đấu
Hoàng Trung Thông thuộc lớp nhà thơ sinh ra, lớn lên, trưởng thành cùng cách mạng. Không khí cách mạng, hiện thực kháng chiến vĩ đại của đất nước, dân tộc hàng ngày thấm đẫm, ăn sâu vào trong máu thịt của những người cầm bút. Có lẽ vì thế có thể nói không có nhà thơ nhà văn nào lại không viết về công cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc. Hòa vào xu hướng chung đó Hoàng Trung Thông đã thể hiện rõ nét trong những tập thơ của mình cái hiện thực kháng chiến của đất nước, của đồng bằng chiến đấu. Người đọc dễ ràng nhìn thấy đây cũng chính là một trong những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Cảm hứng này đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt các chặng đường thơ ông.
Ngay từ tập thơ đầu tay Quê hương chiến đấu Hoàng Trung Thông đã góp được một tiếng nói mới trong nền thơ kháng chiến trước kia. Lúc bấy giờ viết về kháng chiến là một vấn đề hoàn toàn mới đối với các nhà thơ. Có nhà thơ phải im lặng một thời gian để soát lại mình, có nhà thơ phải vừa đi vừa “Nhận đường”. Nhưng là một người sống nhiều ở nông thôn và sớm tham gia hoạt động cách mạng, Hoàng Trung Thông đã đi đúng đường thơ ngay từ những bước đầu tiên. Nhà thơ bắt đầu viết Bài ca vỡ đất, Cây lúa sức người ở vùng tự do. Sau đó trong những ngày lăn lộn ở vùng địch hậu ông đã viết khá nhiều về con người và cuộc sống ở đây: Chị lái đò sông Gianh, Chị giao thông trên đường Quốc lộ, Bao giờ trở lại, Bất khuất, Đồng bằng, quê hương chiến đấu, Bản Mường giải phóng. Cuộc sống kháng chiến trong thơ Hoàng Trung Thông là một cuộc sống đầy gian khổ và rất dũng cảm. Qua các trang thơ người đọc thấy rất rõ sự tôi luyện ngày càng già dặn của quần chúng cách mạng trong cuộc thử lửa với quân thù:
Đồng bằng ta
Thịt da còn rớm máu.
Nhưng thép luyện tinh thần.
Giặc càn đi quét lại quanh năm
Vùng căn cứ vẫn như đồng như thép.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Những con người quần chúng cách mạng đó căm thù giặc sâu sắc và quyết tâm đi theo con đường cách mạng, phục vụ cách mạng, phục vụ công cuộc kháng chiến vì một ngày mai tươi sáng hơn:
ơi đồng bằng!
Quê hương chúng ta
Căm thù vót sắc
Căm thù khắc sâu.
Người trước ngã, có người sau
Chỉ một con đường: Cách mạng.
Đây đồng bằng
Quê hương tháng Tám
Cờ đỏ sao vàng
._.
Trên chợ, trên sông, trên phố, trên làng,
Như ánh mặt trời cháy đỏ.
Cả đồng bằng
Ngửng đầu lên hớn hở,
Hướng về tương lai.
Cách mạng là đây,
Hạnh phúc đây rồi,
Nắm chặt bàn tay giữ lấy.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Con người mà nhà thơ ca ngợi không phải là những chàng trai, những cô gái trong một số bài thơ, câu hát phù hợp với khẩu vị của thanh niên tiểu tư sản những năm đầu kháng chiến. Không hiếm các cây bút khi viết về con người kháng chiến đã chịu ảnh hưởng nặng của các mẫu hình lý tưởng trong văn học trước đó kiểu như:
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo bào hoa.
Đã nói đến giầy phải là “giày vạn dặm”, nói đến bụi phải là “bụi trường chinh”, nói đến áo phải là “áo bào hoa”, đây là hình ảnh xa lạ với những con người kháng chiến trong hiện thực đầy gian nan vất vả. Hoàng Trung Thông không xây dựng những mẫu người như thế. Thơ ông giàu chất sống thực và đã góp một tiếng nói căm thù và chiến đấu trên đoạn đường kháng chiến trước kia. Nhưng do quá quan tâm đến những khó khăn vất vả trong kháng chiến mà giá trị hiện thực còn hạn chế. Cuộc kháng chiến của chúng ta không chỉ có gian nan mà còn cả niềm sung sướng lạc quan cách mạng. Nhà thơ Tố Hữu đã có lần nhắc lại:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
(Việt Bắc- Tố Hữu)
Hoặc:
Nhớ những lúc hầm sâu địch hậu,
Nhớ những đêm theo dấu đường dây.
Giặc lùng, giặc quét, giặc vây
Có dân, có Đảng đêm ngày vẫn vui.
(Ba mươi năm đời ta có Đảng- Tố Hữu)
Chúng ta càng thấy rõ điều đó khi đọc lại những vần thơ kháng chiến của Hồ Chủ Tịch và của một số nhà thơ khác.
Sự tôi luyện ngày càng già dặn của quần chúng cách mạng trong kháng chiến, khí thế chiến đấu kiên cường của dân tộc còn được Hoàng Trung Thông thể hiện trong hàng loạt các bài thơ khác.
Mảnh đất này là một bài thơ hay. Đó là bài thơ cùng một chủ đề, cùng một cảm hứng với Đồng bằng quê hương chiến đấu nhưng lại vượt xa bài này cả về nội dung, tình cảm và chất lượng nghệ thuật. Mảnh đất này ngắn hơn bài trên rất nhiều nhưng nội dung lại sâu hơn một bậc. Cả bài thơ như dựng lại trước mắt ta hình ảnh và tâm hồn Tiên Lãng dũng cảm: Chúng ta bắt gặp những câu thơ như “dao chém đá, rạ chém đất”. Đó là những lời thề quyết chiến và quyết thắng của những con người quyết bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của mình:
Mảnh đất này tên là Tiên - lãng
Mảnh đất này tên là dũng cảm
Mảnh đất này trải mấy nắng mưa
Lưng vẫn hằn sâu từng vết đạn.
Mảnh đất này tên là Tiên - lãng
Mảnh đất này tên là dũng cảm
Mảnh đất này không sợ hy sinh
Mảnh đất này mang dòng máu Đảng.
Càng đọc chúng ta càng thấy khí thế chiến đấu kiên cường của con người như bốc lên trên từng câu chữ:
Mười chín ngày mười chín đêm,
Giặc càn nắng hạn lại lùa thêm
Một tay cầm súng tay cầm cuốc
Khoai lúa trên đồng cứ mọc lên.
(Mảnh đất này)
Bài thơ đã phản ánh được phần nào thực chất của cuộc trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh của dân tộc ta trong thời gian trước đây. Một bài thơ như vậy tất nhiên sẽ góp phần nâng cao thêm tinh thần tự hào của nhân dân ta không những về qúa khứ hào hùng mà cả về cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào ta ở miền Nam trước kia.
Lòng căm thù giặc cũng được Hoàng Trung Thông thể hiện trong bài Cửa tùng. Đây là bài thơ khỏe và lưu loát từ đầu chí cuối. Lòng căm thù giặc Mĩ của đồng bào Nam Bắc ở hai bờ giới tuyến đã biến thành sức mạnh chiến đấu hoặc thành một thứ tình cảm thôi thúc hàng ngày. Tác giả đã nói lên hiện thực đó bằng những câu thơ vừa tự hào vừa đau sót và thấm nhuần một tinh thần đấu tranh:
Chào đồng bào Cát - sơn, chào đồng bào miền Nam bên nớ
Tám năm rồi vẫn dạ sắt son
Rào thép xiên hông, bốt đồn chẹn cổ
Mũi tầm vông lại vuốt nhọn căm hờn.
Chào đồng bào bên ni Di - loan Tùng- luật
Thuyền cá đi về buồm căng gió phất
Bưng bát cơm đầy ăn chẳng ngon
Thù hận sớm chiều giăng trước mặt.
(Cửa Tùng)
Trong mảng thơ viết về đời sống chiến đấu, ông không chỉ viết về hiện thực nóng bỏng nơi tiền tuyến mà còn chú ý khai thác những gì đang diễn ra ở hậu phương. Thơ Hoàng Trung Thông là tiếng nói của hậu phương, hậu phương đang đóng góp cho chiến trường. Những làng quê kháng chiến đang gửi bao lớp thanh niên lên đường đi chiến đấu, những làng quê của tình nghĩa đồng bào, đồng chí chờ đón những đứa con thân yêu trở về.
ở mạch thơ viết về đời sống chiến đấu, cảm hứng tập trung nhất của Hoàng Trung Thông là phản ánh cuộc kháng chiến gian khổ nhưng anh dũng của dân tộc. Nhà thơ ca ngợi thực tế mới nhưng không thi vị hóa cuộc sống, nhanh chóng chuyển hoá sang sức mạnh căm thù và phấn đấu. Thơ đã kết tụ được khí thế hào hùng của dân tộc. Bước vào thời kỳ cả nước sục sôi chống Mĩ, thơ Hoàng Trung Thông lại được mùa nở rộ. Đầu sóng là tập thơ chống Mỹ đáng chú ý của ông. Đã có bề dày kinh nghiệm sáng tác lại được sống trong thực tế vĩ đại của đất nước trên tuyến đầu chống Mỹ, đó là những yếu tố chủ quan và khách quan đã làm lên giá trị của tập thơ, trước hết là giá trị hiện thực. Tác giả không chỉ ghi lại hình ảnh những con người anh hùng đang nở rộ như hoa mùa xuân trên trận địa phòng không, những bến phà, giữa những đoạn đường hay trên cánh đồng năm tấn. Nhà thơ đã gợi lên rằng thực tại anh hùng ngày nay vốn bắt rễ từ trong truyền thống chống ngoại xâm oanh liệt. Hoàng Trung Thông đã từng viết về Bạch Đằng:
Nghe gió thổi dập dờn tiếng trống
Như ba quân đang cướp giáo giữa dòng
Nghe mưa bay tên vút ngang sông.
Như thuyền giặc trên cọc ngầm tan xác.
(Mưa trên sông Bạch Đằng)
Nhưng phải nói đến khi đứng giữa trận địa phòng không bố trí trên bờ sông Bạch Đằng ông mới thấy trong trái tim mình rung lên một khúc hát hào hùng:
Tiếng hát Bạch Đằng
Tiếng hát quân reo trên đỉnh sóng
Tiếng hát gươm trần giáo dựng
Tiếng hát hôm nay đầu sóng vọng về.
(Bên bờ sông Bạch Đằng)
Kỳ tích thắng Mỹ của nhân dân ta chính là kỳ tích của Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Đây là sự liên tưởng thú vị, vì nó nói lên tài năng, mưu trí, quả cảm của người Việt Nam khi phải đương đầu với một kẻ thù nhiều mưu ma chước quỷ như đế quốc Mỹ:
Ta đứng dậy vác gươm vào đạn lửa
Như Thạch Sanh xưa kiêu dũng chém xà tinh
Với phép thần thông ba chục triệu dân mình
Sức nghìn triệu cánh tay trên trái đất
Ta bẻ gãy từng chiếc răng quái vật.
(Gửi nước Mỹ)
Từ cái nhìn chân thực khỏe khoắn, không bỏ qua, không xoa dịu những gian khổ mất mát và nhanh chóng chuyển hoá sang sức mạnh căm thù và phấn đấu thơ Hoàng Trung Thông đã kết tụ được khí thế hào hùng của dân tộc một thời nóng bỏng:
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.
(…)
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Hai mươi năm súng kết cùng thơ
Thơ ta thét tiếng kêu căm giận
Súng ta cầm giữ lấy ước mơ.
Đi đi lên tay ghì chặt súng
Đi đi lên giải phóng miền Nam!
Trên đỉnh núi tung bay cờ chiến thắng
Cờ ta bay như lửa đỏ xóm làng.
(Bài thơ báng súng)
Những câu thơ bừng bừng khí thế của cả dân tộc “Những câu thơ như súng giao tận tay từng người, thôi thúc” [61, tr 291]. Đọc những câu thơ của Hoàng Trung Thông ta lại nhớ đến những câu thơ đầy khí thế anh hùng, với phong cách sử thi trang nghiêm như cảnh rừng Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp của Tố Hữu:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Hay những câu thơ nói lên sự chiến thắng tất yếu của cách mạng, sự bất tử của dân tộc và cũng bừng bừng khí thế hào hùng của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Đất nước- Nguyễn Đình Thi)
Cuộc sống thời đánh Mĩ hiện lên qua thơ Hoàng Trung Thông nhiều khó khăn thử thách và hy sinh, nhưng nhờ biết nhìn cuộc sống từ hai phía bóng tối và ánh sáng, nên thơ ông không lưu lại một chút sương mù ảm đạm nào. Cũng xuất phát từ cái nhìn khoẻ mạnh, không xoa dịu khó khăn, mất mát của chiến tranh mà chuyển nó sang dạng sức mạnh của căm thù. Nhà thờ Di - loan là một trong những bài thơ như thế. Đây là một bài thơ hay, sau khi mô tả cảnh nhà thờ hoang tàn đổ nát vì bom đạn Mĩ, nhà thơ viết:
Tội ác đến đây quỳ thú tội
Ai rửa nổi cho bay?
Tượng chúa tan tành còn trơ một bàn tay
Bàn tay ban phép lạ
Bàn tay bị đóng đinh
Trong đạn bom của Mỹ
Chúa lại bị hành hình.
Hình ảnh chúa lại bị hành hình là một sáng tạo của nhà thơ. đau thương và căm hờn được dồn nén lại căng thẳng trong hồn thơ Một bàn tay chúa. Cảm xúc bài thơ được nâng lên mức lý trí mà không hề siêu hình. Bài thơ mang tính tạo hình rất rõ nét.
Trong thơ ca của chúng ta, chưa bao giờ chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện tập trung và rực rỡ như lúc này. Những con người Việt Nam đánh Mỹ rất đẹp. Tất cả đều dũng cảm, thanh thản và tràn đầy sức lực. Chất liệu thơ ấy kể ra là quen thuộc với các nhà thơ. Có điều ở Hoàng Trung Thông giản dị, trực tiếp mà vẫn xôn xao, sâu lắng:
Một chuyến phà rồi một chuyến phà sang
Như nhịp cầu di động dọc ngang.
Một đoàn xe một đoàn xe nữa đến.
Băng qua những dòng sông hỏa tuyến
Ôi gian lao thử thách tim người
Đêm nay đêm thứ mấy trăm rồi.
(Phà đêm)
Con người những năm đánh Mỹ đi vào thơ Hoàng Trung Thông quả là rất đẹp, vẻ đẹp của phẩm chất tự phát sáng mà tâm hồn nhà thơ như tấm gương đã hội tụ được những tia sáng quý giá và phản chiếu lại cho chúng ta soi ngắm. Từ hình ảnh những nam nữ thanh niên xung phong tươi trẻ, người dân công tải thương, người nông dân cày trên bom đạn, đến cô gái mảnh dẻ bình tĩnh đứng trên bom nổ chậm để mọi người yên tâm gặt lúa, tất cả đều dũng cảm, thanh thản và tràn đầy sức mạnh:
Một quả bom chỉ chực nổ tung ra
Một cô gái đứng nhìn như thách thức
Chiếc áo lót bó người căng bộ ngực
Không lặng im như pho tượng trang nghiêm.
Vẻ đẹp ở đây chính là sự đối trọi giữa sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất, giữa cái chết và sự sống, là sự kết hợp hài hoà giữa cái bình thường và cái vĩ đại, giữa sức mạnh ghê gớm và vẻ đẹp dịu dàng. Nhiều người ưa thích bài Đúc của Hoàng Trung Thông vì trong nét đơn sơ và dễ dãi lại có ẩn cái duyên ngầm và hơi thở mang tâm hồn tự tin mộc mạc, sảng khoái của nhân dân ta qua hình ảnh hai bố con bác thợ rèn. Họ làm việc và đánh giặc thật giản dị và nhìn kẻ thù bằng con mắt của người chiến thắng:
Chà chà! Ta quật lại
Súng nổ như ngô rang
Thằng lủi bay tháo thân
Thằng xác tan dưới đất
Thấy mà hả tấm lòng
Trông mà sướng con mắt!
Vỏ quýt hắn có dày
Móng tay miềng lại nhọn
Còn dẫn xác đến đây
Thì hắn còn mất mạng
Mới biết Bác Hồ tài
Nhân dân miềng cũng gớm
Chấp thằng Mỹ hai xe
Mà hắn còn mất tướng.
(Đúc)
Hoàng Trung Thông có một số bài thơ về Cửa Tùng, về đêm ngủ dưới nhà hầm, về những con chim vùng tuyến lửa, về chùm hố tiêu Vĩnh Linh lớn lên trong đạn lửa “Vị càng thêm cay hương thêm nồng đậm”. Đi nhiều nơi gặp nhiều cảnh, nhiều người nơi đất lửa, ở Đêm trăng Đồng Hới tác giả đã rút ra được nhiều điều đáng suy nghĩ:
Ôi đất này đất lửa sục sôi
Đất căng thẳng từng giờ chết sống
Mà đêm nay nhìn ánh trăng trôi
Tôi bỗng hóa ra người mơ mộng.
Chính nhà thơ đã lây cái vẻ mơ mộng của những con người cầm súng nơi giáp mặt với kẻ thù, với cái chết. Cho nên, điều mà nhà thơ rút ra và gửi gắm đến bạn đọc là con người Việt Nam, phẩm chất Việt Nam cao đẹp hơn, mạnh mẽ hơn ngàn lần bom đạn và kẻ thù. Đó chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của chúng ta.
Đọc thơ Hoàng Trung Thông, người đọc dễ dàng nhận thấy ông ít nói đến riêng tư, đến bạn bè, vợ con, đến mơ ước buồn vui riêng lẻ, nghĩa là đến những cái thuộc quĩ đạo đời sống tâm tình riêng của cá nhân nhà thơ. Không phải vì tác giả cố tình né tránh, thu hẹp cái tôi lại mà là vì ông biết gạt bỏ đi những cái rườm rà vụn vặt của tâm hồn, biết hoà lẫn cái “tôi” vào cái “ta” chung một cách tự nhiên. Tâm hồn ông rộng mở đón lấy những nhịp rung từ thực tế, từ quần chúng nhân dân. Thơ Hoàng Trung Thông mang đậm màu tươi xanh của cuộc sống. Đi vào khu Bốn, nhà thơ rung cảm trước nỗi đau thương, lòng dũng cảm của nhân dân và viết lên một loạt bài, đôi khi dấu vết của thực tế còn nguyên đọng, nhưng mang được sức ấm lòng, nhịp đập bên trong cát bụi và khói lửa của đời sống chiến đấu, đằng sau vẻ thanh thản, yên bình của của buổi sớm vùng tuyến lửa:
Nắng rọi hàng phi lao
Cây dừa chao cánh biếc.
Tiếng gầu ai giội nước
Lên ruộng mạ xanh rì
Con trâu nhích từng bước
Gặm cỏ dọc đường đi.
Ôi đất biếc trời xanh thanh thản quá
Ngỡ đêm qua chẳng có đạn bom gì.
(Thanh thản)
Là một cái gì lớn hơn thế nữa, ấy là vẻ thanh thản, yêu đời, tự tin của tâm hồn Việt Nam đánh Mỹ.
ở mảng thơ viết về cảm hứng đời sống chiến đấu, thơ HoàngTrung Thông đã gặt hái được những thành công đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu cái dồi dào phong phú, còn nghèo về đề tài. “Những chiến công hạ máy bay Mỹ, những anh hùng chiến sĩ trên cả hai miền Nam Bắc, những thành tích sản xuất trên đồng ruộng, trong xưởng máy, bấy nhiêu hiện tượng nổi bật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đều chưa được thể hiện một cách đậm nét dưới ngòi bút của nhà thơ” [38,tr.67]. Mặc dù vậy, “điều quan trọng ở Hoàng Trung Thông là thơ anh có những nét riêng không lẫn với ai Từ một cảm hứng chủ đạo, anh gợi về những hình ảnh, tâm trạng và bồi đắp thành câu, thành bài, tự nhiên và thoải mái” [61,tr.299].
1.3. Đời sống tình cảm
Nhận xét về thơ Hoàng Trung Thông có ý kiến cho rằng: “Thơ Hoàng Trung Thông cởi mở, nồng ấm nhưng vẫn ít nhiều thiếu vẻ mềm mại, đằm thắm. Phải chăng vì thơ anh còn ít chất say mê nồng ấm? Dĩ nhiên, mỗi nhà thơ có phong cách có bút pháp riêng, nhưng dù là nhiệt tình hay tỉnh táo, thì sau cái tỉnh ấy, người đọc vẫn phải linh cảm thấy cái say, thấy một mảnh tâm hồn nhà thơ in dần lên đó” [28,tr.4]. Một nhà nghiên cứu văn học khác cũng có ý kiến tương tự: “ở Hoàng Trung Thông, có khi ý chí và nghị lực phấn đấu thể hiện ra một cách trần trụi. Do đó người đọc cảm thấy thơ anh còn khô khan” [39,tr.83]. Nhưng cũng có ý kiến khác nhìn nhận thỏa đáng hơn: “Dạo ấy cũng có ý kiến cho rằng thơ của anh Hoàng Trung Thông còn tỉnh quá, thiếu chất say, thiếu cái bay bay cần có của ngòi bút thơ. Nhận xét trên có căn cứ nhưng chỉ ít lâu sau không còn phù hợp với sự phát triển của thơ anh” [29,tr.6]. Quả thật trong mấy tập thơ đầu, từ Quê hương chiến đấu đến Trong gió lửa, viết về đời sống nông nghiệp và nhất là đời sống chiến đấu, thơ Hoàng Trung Thông “còn ít chất say mê, nồng ấm”, nhưng từ các tập tiếp theo: Như đi trong mơ, Hương mùa thu, cho đến Mời trăng thì tiếng thơ Hoàng Trung Thông ngày càng phong phú hơn. Bên cạnh hai nguồn cảm hứng lớn như đã trình bày ở trên trong thơ ông còn có nguồn cảm hứng chủ đạo khác: Đời sống tình cảm.
Thực ra, ngay từ các tập thơ ban đầu, trong khi thể hiện đời sống lao động nông nghiệp và đời sống chiến đấu thì Hoàng TrungThông đã thể hiện được cả tình cảm yêu nước, tình yêu Đảng. Mà trong các cung bậc của đời sống tình cảm thì yêu nước là tình cảm lớn, đáng trân trọng nhất của con người. Từ tình yêu giang sơn Tổ quốc sâu sắc mỗi người dân Việt Nam mới có ý chí, nghị lực phấn đấu vươn lên trong mọi khó khăn thử thách, cả trong sản xuất và chiến đấu. Tình cảm này thường “lặn sâu” trong các ý thơ, song cũng không phải không có lúc nhà thơ biểu hiện một cách “ồn ào lộ liễu”:
Ơi đồng bằng!
Quê hương chúng ta
Căm thù vót sắc
Căm thù khắc sâu
Người trước ngã, có người sau
Chỉ một con đường: Cách mạng.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Nếu không có tình cảm yêu nước, căm thù giặc sâu sắc thử hỏi làm sao những người nông dân buông cày, cầm súng lại có được những hành động thầm lặng mà anh dũng thế này:
Nhớ chăng anh
Trời rét,
Đêm đen,
Đồng chí giao thông,
Vượt sông Hồng đi vào địch hậu
Có những mảnh phong bì còn dính máu,
Những công văn một nửa nước phai mờ
Bao anh em chết cứng giữa dòng mưa
Bao anh chị sóng dồi ra biển cả
Những đồng chí chúng ta
Trở về bám xã,
Mưa. Đêm mưa!
Đứng giữa bờ đê.
Nghiến hàm răng
Đỏ mắt trông về:
Làng đổ nát loè nhèo ánh lửa.
Kìa quê hương! chất chồng đau khổ
Những vườn rau ruộng lúa tan hoang.
Bám lấy quê hương
Giữ chặt xóm làng
Giữ chặt lấy mối tình máu mủ.
(Sông Hồng Hà)
Tình quân dân thắm thiết cũng là một khía cạnh tình cảm mà Hoàng Trung Thông đã có những tiếng nói riêng, hòa vào cảm hứng chung của nhiều nhà thơ cùng thời bấy giờ. Bao giờ trở lại là một bài thơ đằm thắm và nhuần nhị về tình cảm giữa quân và dân trong cuộc kháng chiến. Các anh bộ đội về làng đã thắp sáng lên bao niềm vui xôn xao cho một xóm nghèo bé nhỏ. Những tấm lòng dân rộng mở đón các anh, đón những người ruột thịt:
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
(Bao giờ trở lại)
Về chủ đề này bài thơ Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông là một đóng góp. Chúng ta đã từng chứng kiến tình quân dân rất đằm thắm trong thơ của Tố Hữu (Cá nước), Hồng Nguyên (Nhớ), Thôi Hữu (Lên Cấm Sơn) giờ đây tình quân dân đó lại được biểu hiện với dáng vẻ riêng, chân thực ấm áp trong thơ Hoàng Trung Thông. Cái làng quê nghèo nhưng rất giàu tình nghĩa ấy lại bừng lên sự sống khi bộ đội trở về đóng quân. Chúng ta nhớ tới những câu thơ đẹp, trữ tình và đầy thơ mộng của Tố Hữu:
Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn, trong ngần tiếng ca.
Hoàng Trung Thông lại tạo được không khí xúc động qua bức tranh chân thực ấm áp của làng quê:
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ.
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp lớp đàn em, hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
(Bao giờ trở lại)
“Bao nỗi xôn xao ríu rít lắng xuống để thành niềm bịn rịn nhớ thương khi các anh đi. Xóm làng như sống mãi trong những kỷ niệm ngày nào - Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi, vẫn khắc khoải trông đợi ngày anh đánh tan hết giặc trở về. Niềm tin tưởng kháng chiến thắng lợi ẩn chứa sâu xa trong những câu thơ bình dị mà tha thiết. Những câu thơ ấy cho đến bây giờ đọc lại hoặc nghe lại qua giai điệu bài hát do nhạc sĩ Lê Yên phổ thơ vẫn có sức khơi gợi rất nhiều.” [61,tr.287]
Cùng với Bao giờ trở lại bài thơ Mẹ con cũng phần nào góp thêm một tiếng nói về tình quân dân gắn bó mật thiết trong lời tâm sự giữa hai mẹ con:
Con đi không hạn không kỳ,
Con đi buổi sáng con về buổi hôm.
Con đi đổ bốt tan đồn,
ở đâu có giặc con còn cứ đi.
Đêm sương gió rét kể gì.
Giết thù, giữ nước lòng ghi một niềm.
Con về ríu rít như chim,
Chim tìm đến tổ, con tìm đến dân.
Này đây tấm bánh con ăn
Nước ngon con uống, con nằm nghỉ ngơi.
(Mẹ con)
Những câu thơ trên là một đóng góp của Hoàng Trung Thông vào mạch cảm xúc chung của thơ ca kháng chiến: Tình quân dân thắm thiết. Tình cảm này được sinh sôi nảy nở trên mối quan hệ mật thiết giữa tiền tuyến và hậu phương. Hậu phương luôn là chỗ dựa, nguồn động viên tiếp thêm sức mạnh cho tiền tuyến. Cũng là nơi luôn ngày đêm mong ngóng chờ đón những người con thân yêu trở về:
Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong.
(Bao giờ trở lại)
Thơ Hoàng Trung Thông “phản ánh cơn bão lớn của thời đại, nhưng cũng có cả bóng dáng của những bông hoa như ngày thường”. [61,tr.293] Mảng thơ này quả thật như được kết lại từ những bông hoa như ngày thường, dọc theo vui buồn chiêm nghiệm cuộc đời, chiều dài của tuổi. Những bài thơ ghi lại bao rung cảm quen thuộc trong những mối quan hệ riêng tư thân thiết. Có tình người, tình đời, có tình yêu nam nữ và có cả tình cảm, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái hay nói rộng hơn là tình cảm trách nhiệm giữa các thế hệ. Về phương diện này, Những cánh buồm là một bài thơ hay và tiêu biểu.
Đứng trước biển con người ta đối diện với những gì lớn lao nhất trong thế giới này. ấy là không gian vô cùng vô tận, là dòng thời gian vô thuỷ vô chung và đại dương thì mênh mông vô hạn, người ta dễ cảm thấy sự ngắn ngủi và phù du của kiếp người, dễ cảm thấy sự vô nghĩa, nhỏ nhoi cứ muốn hoá vô biên, cứ muốn vượt thoát khỏi cái hữu hạn khắt khe tàn nhẫn của phận người. Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã gửi cái khát vọng mãnh liệt vào những chuyến đi xa ấy vào với biển:
Suốt cuộc đời biển gọi ước mơ
Nỗi khát vọng những chân trời chưa tới.
Phía bên kia biển còn biết bao bến bờ, biết bao bí ẩn, vừa như mời gọi vừa như thách thức, vừa khêu gợi những khát vọng vừa đánh đắm những ước mơ. Nhưng khát vọng vẫn không hề nguôi ngoai trong tâm thức của tuổi trẻ. Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông là bài thơ giản dị về cái điều lớn lao ấy của mỗi con người và cả thế giới nhân sinh. Giản dị vì đây chỉ là cuộc dạo chơi của hai cha con trên bờ biển. Giản dị vì bài thơ thật ít vẻ làm thơ. Toàn bài như văn xuôi. Như một mẩu chuyện giàu chất tự sự, tâm tình, chân thật và mộc mạc, nói về hai cha con, hai thế hệ, hai lớp người của nhân gian.
Trong bài thơ diễn ra cuộc đối thoại của hai cha con, hai thế hệ. Lời người cha thì từng trải, bao dung. Lời con thì ngây thơ, bồng bột. Một tiếng nói điềm đạm của kinh nghiệm đời. Một tiếng nói say mê nhiệt tình của tuổi bé thơ. Ban đầu mới chỉ là nỗi băn khoăn thơ trẻ, là nỗi tò mò của đứa bé lần đầu ra biển. Đôi mắt nhìn thế giới này đầy mới lạ, cái gì cũng muốn biết, muốn hỏi:
Nghe con bước lòng vui phơi phới
Con bỗng lắc tay cha khẽ hỏi:
Cha ơi!
Sao xa kia chỉ thấy nước, trời
Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?
Cha mỉm cười xoa đầu con nhỏ
Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa
Sẽ có cây, có cửa, có nhà
Vẫn là đất nước của ta
Nhưng nơi đó cha chưa hề đi đến.
Song việc đối thoại không dừng ở đó, cuộc đời cũng không dừng ở đó. Lớp trẻ đâu chỉ muốn biết mà còn muốn đến. Người cha đem đến cho con một tầm nhìn cũng đã khơi dậy trong con một khao khát. khao khát ấy bừng lên và vươn cánh:
Cha lại dắt con đi trên cát mịn
ánh nắng chảy đầy vai,
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời
Con lại trỏ cánh buồm xa nói khẽ:
Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé,
Để con đi
Bài thơ kết lại bằng những suy nghĩ độ lượng đầy ân tình của người cha. Đứng ở ranh giới của bờ và biển, người cha ấy nhận ra một điều giản dị mà linh thiêng của cha con và của sự sống:
Lời của con hay tiếng sóng thầm thì
Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm?
Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con.
Vậy là trên bờ biển kia đã diễn ra một cuộc chuyển giao đầy quan trọng. Bờ biển - chân trời đã thành một mô hình khái quát của cuộc đời. Bờ là điểm dừng của cha đã thành vạch xuất phát của con, cũng đang là điểm tựa cho con. Chân trời là cái đích chung, đã tắt lịm trong khao khát của cha, giờ lại bừng lên trong khao khát của con, cứ thế mà cuộc đời đi lên phía trước, cứ thế mà sự sống bừng lên. Những cánh buồm sẽ cứ nối tiếp nhau, không ngừng nghỉ, không nguội tắt.
Hoàng Trung Thông có một chùm thơ hết sức riêng tư đầy tình thương nhưng cũng đầy trách nhiệm đó là các bài: Thơ cho con, Dặn con. Riêng trong Dặn con gồm ba bài thơ nhỏ, mỗi bài là một lời khuyên cũng là mong muốn của cha mẹ đối với con cái, lời thơ giản dị mà ý thơ sâu xa:
Con ơi con, từng bữa lớn lên
Con hãy tập mắt quen nhìn ánh sáng.
(Nhìn đêm)
Cười lên nhé con ơi đừng khóc
Dù nỗi đau xé thịt da con
Ai chẳng có một lần răng mọc
Răng sữa rồi đến lượt răng khôn.
(Răng mọc)
Trên hai mảng thơ viết về nông thôn và miền núi, Hoàng Trung Thông đã hòa nhập vào trong cuộc sống, từ cảnh sắc thiên nhiên đến tấm lòng con người. Cũng vì thế, trong thơ ông ngoài chất liệu phong phú chân thực của đời sống, ông đã nói đựoc tình đời, tình người qua một số nhân vật gần gũi, quen thuộc của làng quê. Hoàng Trung Thông có những câu thơ hay về bà mẹ Việt Nam, bà mẹ kháng chiến ân cần chào đón bộ đội về làng.
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về.
(Bao giờ trở lại)
Bà mẹ La Văn Cần với cảnh nhà một mẹ một con đơn chiếc: “Một mẹ nhà sàn nương bóng núi, con đi bộ đội mười ba năm”. Bà mẹ Bường ở Vĩnh Linh với mái tóc bạc phơ kiên trì bám trụ giữa một vùng đầy bom đạn, khiến nhà thơ xúc động xót xa:
Mẹ ơi, mẹ làm sao đứng nổi
Giữa tháng ngày dài dằng dặc đạn bom?
Trên chiếc nong, mẹ mời tôi chén nước
Chén đau này tôi biết uống làm sao.
(Mẹ Bường)
Hình ảnh bà mẹ trong thơ Hoàng Trung Thông bình dị mà cao đẹp mang rất rõ những phẩm chất truyền thống của người mẹ Việt Nam.
Càng về cuối đời thơ Hoàng Trung Thông càng nghiêng về cảm hứng trữ tình. Thơ ông lúc này đậm đà tình yêu cuộc sống vất vả bộn bề đang chuyển biến đi lên, tình yêu những cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng. Bên cạnh đó cảm hứng về thế sự, tình người cũng thành một mạch thơ đáng chú ý. ở nhiều bài thuộc mảng thơ này của Hoàng Trung Thông thấy xuất hiện trạng thái “bâng khuâng”, “trầm ngâm”, “ngẫm nghĩ”. Dường như thơ ông lúc này chứa chất nhiều tâm trạng hơn, thích im lặng chứ không ưa đưa đẩy lắm lời. Trong tâm hồn nhà thơ giờ đây có cả nắng và mưa, có cả mùa hạ nóng và mùa đông lạnh. Đó cũng là qui luật tự nhiên của đời người. Càng sống nhiều càng đến gần tuổi già, càng hay chiêm nghiệm, ngậm ngùi và thấm thía buồn đau:
Không thể hết được đâu
Có thể em lãng quên như chiếc lá kia thu đến bỗng ngả màu
Nhưng đêm sâu nào ngăn được chùm hoa đỏ
Cứ cháy mãi khát khao ngày đó
Chẳng chịu khép cánh mềm trong tiếng ve ru…
(Không thể hết được đâu)
Quả là xã hội và lòng người trong những năm ấy có không ít cuộc đời dù nghiệt ngã đến đâu cũng “không thể hết được đâu” những khát vọng sáng tươi mà mình hằng ôm ấp.
Càng về cuối đời, thơ Hoàng Trung Thông càng nhận ra và chấp nhận “tình yêu và hy vọng. Dằn vặt và mơ ước. Hò hẹn và đợi chờ. Cuộc đời là thế đó” (Là thế). Thỉnh thoảng người đọc lại gặp ở ông trạng thái tỉnh tỉnh say say, “nhìn mặt trời tưởng là mặt trăng”, “sáng tối nào hay”. Những lúc ấy thơ ông như “chuếch choáng” mà biết bao tâm sự ruột gan (Ngày, Mắt tôi, Gió và sương, Mặt trời ).
Có người nhìn giọt mưa thành hạt ngọc nhưng riêng Hoàng Trung Thông lại thấy “từng giọt thánh thót, từng giọt lệ đời”. Và ông thốt lên:
Anh làm sao đếm xiết
Sự khổ đau, sung sướng của đời người.
(Mưa rơi)
Có lẽ, vì thấu hiểu cõi đời nên Hoàng TrungThông càng yêu thương con người. Vẫn là những con người nghèo túng, vất vả như người quét lá, người bơm xe. Vẫn là người vợ tần tảo biết yêu thương và chịu đựng. Những bài thơ Tặng vợ, Dặn vợ trong những tập thơ sau cùng của ông thật sâu nặng tình nghĩa và lắm lúc tự cảm, tự cười cợt đến xót xa. Cất chén rượu thưởng trăng, nhớ bạn mà thương người và tự thương mình. Có khi nhà thơ đã than thở:
Tôi muốn uống rượu trong
Lại phải uống rượu đục
Chao! sông cũng như người
Có khúc và có lúc.
(Tứ tuyệt)
Lòng biết ơn cuộc đời, yêu thương con người trong thơ Hoàng Trung Thông vì thế càng về cuối đời càng sâu sắc, thắm thiết hơn:
Và ta yêu cuộc đời
Dẫu còn bao đớn đau, xót xa, vất vả
(Dưới bóng hòe)
“Trong đau thương. Mắt vẫn sáng ngời” (Mắt tôi). Nhà thơ lòng vẫn sáng, tâm vẫn trong:
Nếu tôi chết
Đắp điếm ngôi mồ tôi
Và anh hay chị sẽ viết
Giữ lòng trong suốt đời.
(Nếu tôi chết)
Có thể nói, nhiều bài thơ cuối đời của Hoàng Trung Thông mang một mối sầu trong suốt, một niềm vui thanh thản và khát vọng “trăng thực trăng”. Đóa trăng rằm viên mãn mà một nhà thơ chân chính luôn tin yêu theo đuổi.
Nhận xét về thơ Hoàng Trung Thông, nhà nghiên cứu phê bình văn học Hà Minh Đức nhận xét: “Càng về cuối đời thơ anh càng có nhiều màu sắc, trên cái nền khoẻ khoắn của cuộc sống, thơ Hoàng Trung Thông như thăng hoa: Đọc thơ anh lúc này có những từ lạ, những liên tưởng bất ngờ và phần kết khó đoán định. Ngoài thơ về đời, thiên nhiên cảnh vật anh còn viết thơ tình”.[39,tr.7] Có thể nói, thơ tình không là cảm hứng của riêng ai. Nhà thơ nào cũng viết thơ tình, thậm chí là cảm hứng chủ đạo trong suốt cả cuộc đời sáng tác của thi sĩ như Xuân Diệu. Tuy vậy, ở mảng thơ này cũng “mỗi người mỗi vẻ” tạo nét dấu ấn bản sắc riêng.
Thơ tình là tiếng nói của tuổi trẻ, là những rung động đầu đời của những trái tim yêu. Chẳng riêng gì các thi nhân, những con người bình thường khi yêu, trước những rung cảm, tâm trạng lâng lâng bay bổng đầy lãng mạn cũng có thể chắp bút thành thơ. Cũng chính vì lẽ đó nhiều nhà thơ thường viết thơ tình từ lúc còn trẻ, sắp bước vào tuổi yêu đương như Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử. Những mối tình ở tuổi mười tám đôi mươi, kỳ ảo đắm say. Khác với các nhà thơ nói trên, Hoàng Trung Thông đến với thơ tình ở tuổi “ngũ thập” và cũng tạo được sự chú ý.
Thơ tình thường có nguyên mẫu. Người đọc thấy thấp thoáng bóng dáng của Hoàng Cúc trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, hay nguyên mẫu trong Tình ca ban mai của Chế Lan Viên chính là người bạn đời của ông. Thơ tình cũng thường xác định thời gian và không gian cụ thể:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn.
(Cô hàng xóm - Nguyễn Bính)
Nhưng với Hoàng Trung Thông, thơ tình của ông không như vậy. Hãy thử đọc một bài thơ của ông:
Không chỉ có tiếng chim
Không chỉ có bài ca em hát
Không chỉ có màu xanh bát ngát
Và dịu êm của mỗi buổi chiều
Em nói rằng: Tất cả em yêu
Nhưng trong anh làm sao em thấy
Tiếng sóng sục sôi cồn cào biết mấy
Hơn cả cái gay gắt của mùa hạ chói chang
Em có yêu thật không? Giữa một khoảng mênh mang
Cả mưa nắng, hai mùa đi lại
Trong hồn anh, bỗng thấy buồn tê tái
Ngay niềm vui cũng lặng lẽ trầm sâu
Hãy yêu anh, như buổi ban đầu
Em vẫn thường yêu tiếng chim và màu xanh bình dị
Để anh được là phần hồn em nghĩ
Và bài ca của em mãi mãi ngân vang
(Hãy yêu anh)
Không có nguyên mẫu, mơ hồ về không gian và thời gian, ít tình huống đắm say, không có bóng dáng cụ thể của lứa đôi, nhưng thơ tình của Hoàng Trung Thông có những nét lạ. Tứ thơ như bảng lảng, như chơi vơi, ý thơ nghiêm chỉnh mà đong đưa tình tứ.
Một nét riêng khác lạ nữa trong thơ tình của Hoàng Trung Thông là ông đưa thơ vào cõi say trong khi các nhà thơ khác thường đưa tình vào cõi buồn, cõi mộng. Câu thơ tình của ông như ngấm men say và có dáng vẻ rất riêng, rất lạ. Các nhà thơ thường so sánh “em” với vầng trăng, ngôi sao, bông hoa. Hoàng Trung Thông so sánh em với rượu (Em như rượu) và tâm sự “Anh yêu em như rượu và thơ”. Phải chăng có lúc “thơ” và “rượu” đã góp phần tạo nên “em”? Có thể nhà th._.gây ấn tượng dàn trải, nặng nề bởi thiếu đi tính hàm xúc, kiệm lời.
Trong thơ Hoàng Trung Thông, người đọc không thấy lối cấu trúc câu thơ gối sóng như trên nhưng lại bắt gặp một cấu trúc câu thơ gối sóng kiểu khác. Hoàng Trung Thông lại lộn ngược lối sắp xếp thành phần ngữ pháp khi chủ từ được đưa lên trước cấu trúc câu với các vị ngữ và tuôn chảy theo dòng thơ là một loạt các bổ ngữ. Chẳng hạn trong bài “Anh chủ nhiệm” ta bắt gặp cấu trúc này lặp lại nhiều lần:
Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh
Vẽ cả ngày mai thành bức tranh;
Kìa dòng mương chảy cầu đương bắc
Lò gạch xây cao, đường thẳng tắp
Nơi đây kho thóc, nhà chăn nuôi
Tiền đã lo xong, đất cắm rồi.
Và:
Anh làm chủ nhiệm đã ba năm
Ba năm vật lộn cùng khó khăn.
(Anh chủ nhiệm)
Cấu trúc câu thơ gối sóng, tràn biên như thế chúng ta còn gặp ở nhiều bài thơ khác của Hoàng Trung Thông như: Đêm vằn chải, Tưởng nhớ, Cửa Tùng, Nhưng cuối cùng…Và đây là một đoạn thơ như thế:
Điệu dân ca chị Hoà cao giọng hát
Những tiếng buông gần bắt tiếng rơi xa
Những tiếng trầm trầm hoà tiếng ngân nga
Những tiếng nghẹn ngào như lệ rỏ
Những tiếng mơ màng như thoảng gió
Thấp thoáng hình cô gái cuốc trên nương
Bà Mẹ địu con lên dốc mờ sương.
(Đêm Vằn Chải)
Như vậy mỗi câu thơ (ngữ pháp) của Hoàng Trung Thông không dồn tụ ngữ nghĩa vào một câu thơ như trong thơ truyền thống mà tạo nên bằng cả một đoạn thơ chứa đựng không gian, thời gian hiện thực diễn tả. Hơn nữa, chúng lại được gắn kết bởi các thành phần ngữ pháp cùng những yếu tố liên đới khác. Có lẽ vì thế mà nó tạo ra giọng điệu trữ tình – minh chiết trong thơ ông.
Lại một dạng tràn biên khác trong những câu thơ với lối diễn đạt vừa khúc chiết vừa rành mạch vừa trữ tình theo một điệu riêng. Một cách gối sóng “tâm tình”, khiến cho lời thơ Hoàng Trung Thông chảy liền mạch, tạo nên nét duyên dáng, tình tứ riêng của nhà thơ. Người đọc có thể thấy trong thơ Hoàng Trung Thông nhiều cách diễn đạt và giọng điệu ngôn ngữ kiểu này:
- Phải chăng anh, người lái phà năm trước
Chở suốt đêm dài xe nối xe…
(Chiều đến Bình Ca)
Tôi vẫn nghĩ đi làm cách mạng
Đâu cũng là nhà đâu cũng quê hương.
(Về thăm quê)
Tôi hỏi gió hỏi mây hỏi cây hỏi nước
Quê hương ta một nửa đâu rồi.
(Sương mù bên kia sông Bến Hải)
Mẹ ơi, mẹ làm sao đứng nổi
Giữa tháng năm dài dằng dặc đạn bom
(Mẹ Bường)
Ôi những chiều thứ bảy những chiều
Người thân yêu tìm đến người thân yêu.
(Những chiều thứ bảy)
Cách gối sóng giữa các câu thơ gây ấn tượng rành rẽ về ngữ pháp, văn phạm đồng thời lại tạo mối quan hệ nối kết thiết tha thật lạ. Trước Hoàng Trung Thông cũng có một số cây bút có sử dụng câu thơ gối sóng kiểu này nhưng khác Hoàng Trung Thông ở chỗ cách gối sóng giữa các câu thơ của họ nhờ vào những từ nối ở câu trên và chảy tràn xuống những câu thơ sau đó.
Tôi muốn sống cuộc đời thi sĩ để
Uống say nồng nhưng chỉ thấy chua cay.
(Lựa tiếng đàn - Thế Lữ)
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
( Mùa xuân xanh - Nguyễn Bính)
3.2.1.2. Cách ngắt câu thành câu thơ bậc thang
Cách ngắt câu thơ, dòng thơ thành các câu thơ bậc thang không phải là sáng tạo riêng của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Trước và sau ông đều có những tác giả viết theo lối này. ở nước ngoài nhà thơ Maia côpxky thường sáng tác thơ theo hình thức này. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ Tre Việt Nam cũng ngắt câu cuối thành:
Mai sau
Mai sau
Mai sau
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
(Tre Việt Nam- Nguyễn Duy)
Cách ngắt câu như thế trước và sau Hoàng Trung Thông đều có người sử dụng. Vậy cách ngắt câu thơ thành những dòng thơ bậc thang ở Hoàng Trung Thông có gì đặc biệt? Đọc thơ ông, người đọc thấy cách ngắt câu này xuất hiện ngay từ đầu và tồn tại rải rác đến tập thơ cuối. Không phải ở bài nào ông cũng vận dụng cách ngắt câu đó mà chỉ ở những bài, những câu, những ý cần nhấn mạnh, cần tách bạch đến khúc chiết rõ ràng nhà thơ mới vận dụng. Cách ngắt câu này có tác dụng nhấn mạnh, khắc sâu sự chú ý của người đọc vào các sự kiện, hành động, trạng thái. Cách ngắt câu như thế có phần nào giống với biện pháp tách biệt trong thơ. Đây cũng là một nét độc đáo trong thơ Hoàng Trung Thông. Chúng ta gặp khá nhiều câu thơ dạng này trong thơ ông:
Một dòng sông, một chiếc cầu
Như dòng lệ như hàm răng nghiến chặt
Sương sương rơi trên miền Nam dày đặc
Nhưng sau kia
lửa lửa
cháy lên rồi.
(Sương mù bên kia sông Bến Hải)
… Rừng muôn tay xanh biếc chập chùng
Vây lấy con tàu
nằm lâu
không nhả khói
Con tàu nằm
mệt mỏi
Dặm đường xa còn xa…
(Đêm tây Bá Lợi á)
Tôi đã thấy trong những vườn táo trắng
Hoa nở đầy
mái tóc đuổi theo nhau.
(…)
Tôi đã thấy bên góc tường mới dựng
Tuyết rơi đầy
tay vuốt tóc trong gương.
(Những mái tóc)
….Đôi lúc lại quá thừa
Thừa gió,
thừa mây
thừa nắng
thừa mưa
Thừa giấy mực
cũng thừa sách vở.
(Tâm sự)
3.3. Hình ảnh, mô típ
3.3.1. Hình ảnh
3.3.1.1 Hình ảnh những con đường, những bước đi
Thơ Hoàng Trung Thông hay nói tới những con đường, những bước đi. Hình ảnh này thường thấy trong Đường chúng ta đi và Những cánh buồm. Đây là một khía cạnh của không gian nghệ thuật trong thơ ông. Đó không chỉ là những con đường, bước đi của một cá nhân mà còn là con đường, bước đi của mọi người, không chỉ là đường sang nước bạn mà còn là con đường ra thế giới. Trong các bài: Chiều đến Bình ca, Bên bờ Ban tích, Gửi Việt Bắc, Mỗi lần đi, Về thăm quê… nhà thơ đã dựng lên hình ảnh những con đường, những bước đi. Hình ảnh này được biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Có khi nhà thơ gọi thẳng Đường chúng ta đi, có khi được biểu hiện qua những chuyến đi (mỗi lần đi), hoặc trái với chuyến đi là sự trở về chốn cũ (Về thăm quê)… Thơ Hoàng Trung Thông thường gắn với những sự kiện, phong trào nổi bật, gắn với những chuyến đi thực tế. Sau mỗi chuyến đi công tác ông lại “như cây khô” được “tiếp nhựa đâm chồi”, Nhà thơ đã tâm sự như thế trong bài Mỗi lần đi:
Mỗi lần đi vai nặng ba lô
Mang nặng mồ hôi, nặng ước mơ
Ôi tổ quốc ngày đi ngàn dặm
Mỗi đoạn đườngrung một tứ thơ.
Hoàng Trung Thông chủ trương phải đi nhiều, thâm nhập vào thực tế đời sống để trang thơ tươi màu cuộc sống. Ông đã từng tự kiểm điểm mình, cảm thấy ân hận vì đã từng có lúc xa rời hơi thở ấm nồng của cuộc sống thực tại.
Bấy lâu bụi phủ trong phòng nhỏ
Lấy cánh quạt trần làm cánh gió
Bây giờ biển thổi gió bao la
Lảo đảo thuyền tim chừng muốn vỡ.
(Gió biển)
Có lẽ vì thế mà nhà thơ muốn “đi trong vạn dặm trời xuân” để “nghe quê xa hoà điệu với quê gần”. Hoàng Trung Thông luôn ấp ủ một ý nguyện và mải mê thực hiện:
Chân bước đi không kể gì năm tháng
Dù tối nặng mưa rơi, dù ngày tràn ánh sáng
Tôi ươm hồn trên những nẻo đường đi
Như đồng quê ươm hạt giống thần kỳ.
(Đường chúng ta đi)
Nhờ những bước đi trên khắp mọi nẻo đường như thế, thơ Hoàng Trung Thông luôn ấm nồng chất hiện thực. Đọc thơ ông người đọc thấy được đời sống lao động nông nghiệp còn nhiều khó khăn vất vả nhưng đã, đang và sẽ hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. ở lĩnh vực đó nổi lên những người làm chủ tập thể, có trách nhiệm cao với công việc (Anh chủ nhiệm); có phong trào hợp tác hoá nông nghiệp; có công việc khai hoang vỡ hoá..v.v.. Người đọc còn thấy được cuộc chiến đấu của dân tộc ta theo sát với từng thời điểm lịch sử trong thơ ông ..v.v. nhà thơ không chỉ phản ánh hiện thực của đất nước mà còn phản ánh được cả hiện thực của nước bạn. (Bên bờ Ban tích, Đêm tây Bá lợi á, Bàn tay Sô panh, Bên bờ Bắc Hải, Trước tượng Ghếttô….)
3.3.1.2. Những hình ảnh gắn bó với nông thôn và miền núi
Mỗi nhà thơ thường chọn một vùng đất để thâm canh. Hoàng Trung Thông rất ít viết về thành thị, về nhà máy, công trường. Mảnh đất của ông là nông thôn và miền núi. ở những nơi này, thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, con người mộc mạc sâu đậm nghĩa tình. Phải chăng tạng tâm hồn Hoàng Trung Thông phù hợp, dễ rung cảm cùng những đối tượng ấy. Bài thơ đầu tiên của ông trình làng khiến người đọc bắt đầu chú ý đến là Bài ca vỡ đất (1948), bài ca về những người áo vải, “Cấy xanh núi đèo”. Trước sau Hoàng Trung Thông vẫn chung thuỷ với những con người như vậy.
Thơ Hoàng Trung Thông hay nói về việc “đào mương mở suối”, về cấy cày, về cánh đồng, làng quê. Đây là những hình ảnh gắn bó với đất, với nông thôn. Bám vào đất mà trăn trở, tìm tòi, Hoàng Trung Thông đã có nhiều bài thơ hay và có những sáng tạo trong hình thức biểu hiện. Nhà thơ “viết về đất đai đồng ruộng” với bao nhiêu tình nghĩa chan hoà với đất, gửi vào đất những yêu thương, hy vọng. Đất dầu dãi nắng mưa, lưng hằn vết đạn mà thủy chung với người từ cuộc kháng chiến trước (Bài ca vỡ đất,Ttrên mảnh đất này…). Đất mở chiến hào che chở. Đất hoá thân thành anh hùng, thành đồng chí của người trong chiến tranh chống Mĩ:
Đất ơi đất ơi
Đất bùn đất sỏi
Mưa dầm nắng phơi
Đất dù không nói
Mà mang hồn người
Cùng ta chống chọi
Với quân cướp trời.
(Đào chiến hào)
Gắn bó với đất là hình ảnh người nông dân tập thể đấu tranh với thiên nhiên, cải tạo đồng ruộng giành sự sống. Thơ Hoàng Trung Thông hay nói về việc đào mương, mở suối, về cấy cày, đây chính là công việc cải tạo đồng ruộng, vỡ hoá khai hoang:
Đường xa ta tới đây
Trên đồi cây khát nắng,
Giữa hai dòng suối vắng
Đoàn ta vui cấy cày.
(...)
Suối chảy quanh ta
Tiếng suối ngân nga
Hoà theo gió núi.
Ta đào mương mở suối
Tuổi ta là những tuổi đấu tranh.
Cho dù bạc áo nông binh
Vẫn còn vỡ đất cấy xanh núi đèo.
(Bài ca vỡ đất)
Hình ảnh cánh đồng, làng quê trong thơ Hoàng Trung Thông là hình ảnh của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp trên miền Bắc. Tác giả nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang đâm chồi nảy lộc trong nông thôn hợp tác hoá:
Anh trỏ: Đây cánh đồng hợp tác
Lúa tươi vàng như ráng như mây
Tôi nói: Lúa làm chung phải khác
Hạt mẩy bông dài cây sát cây…
(Thăm lúa)
Hoàng Trung Thông cũng hay viết về những thác, những hồ, những đèo, những phiên chợ của người miền núi. Đây là những hình ảnh đáng chú ý ở một mảng thơ mà ông viết về những thay đổi và nhịp sống lao động dựng xây ở miền núi: Trên hồ Ba Bể, Chợ Cô Sầu, Thác Bản Giốc, Tiếng đàn, Ngựa thồ, Đêm vằn chải.
Hình ảnh thác nước, hồ nước trong thơ Hoàng Trung Thông nằm trong dụng công nghệ thuật và tâm tình của ông. Thác nước, hồ nước đem lại mặt không gian yên ả thanh sạch, mọi cảm giác vẩn đục từ bụi trần được thanh lọc, chỉ còn sự thanh sạch trong trẻo lan toả trong không gian:
Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba Bể
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.
(Trên hồ Ba Bể)
Song hình ảnh thác nước, hồ nước không chỉ là cảnh quan với vẻ đẹp tuyệt vời thiên nhiên ban tặng mà còn là tiếng nói ngợi ca quê hương giàu đẹp đang hàng ngày hàng giờ chuyển mình thay da đổi thịt dưới bàn tay lao động cần cù của dân nơi đây:
Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể
Đỏ ối vười cam thắm bãi ngô
Nhộn nhịp trâu về vang tiếng trẻ
Đâu còn giông bão hung thần xưa.
(Trên hồ Ba Bể)
Đền tạ đế vương đã sụp đổ
Pháo đài kia cũng đứng im hơi
Chỉ còn tiếng người reo bên thác đổ
Chỉ có vang xa tiếng thác cười.
(Thác Bản Giốc)
Hình ảnh ngựa thồ, đèo cao, phiên chợ của người miền núi trong thơ Hoàng Trung Thông cũng tập trung phản ánh cuộc sống đang lên của người dân miền núi (Chợ Cô - sầu). Có khi là sự phản ánh cuộc chiến đấu của đồng bào miền núi hoà chung với cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của toàn dân tộc:
Ngựa thồ ơi ngựa thồ
Cùng người đi chiến đấu
Ngựa quản gì đói no
Xông pha trong lửa máu.
(Ngựa thồ)
3.3.1.3. Hình ảnh rượu và em
Thơ Hoàng Trung Thông do bám sát đời sống hiện thực để phản ánh nên nhiều khi tỉnh táo quá, thiếu chất men say của ngòi bút thơ. Nhưng càng về cuối đời thơ ông càng phong phú, đa dạng. Thơ ông cũng bay, cũng say chứ không còn tỉnh khô như trước. Bắt đầu từ tập Hương mùa thơ đến Tiếng thơ không dứt rồi Mời trăng thơ ông trở nên suy tư hơn, nhiều chiêm nghiệm của người từng trải. Ông viết thơ tình và cũng gây được sự chú ý và có bản sắc riêng. Đáng nói hơn cả là thơ ông thời kỳ này đầy những hình ảnh rượu và em. Rượu thấm đẫm trong thơ ông và hình ảnh em luôn chập chờn ẩn hiện giữa các dòng thơ, trong từng câu chữ.
Hình ảnh rượu trong thơ đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Người đọc vẫn còn nhớ mãi những câu thơ Đường nói tới rượu:
Cử bôi tiêu sầu, sầu cách sầu
Trìu đao đoạn thuỷ, thuỷ cách lưu.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Dữ ngã đồng tiêu vạn cổ sầu.
Cũng ít ai quên những câu thơ thấm đẫm rượu trong thơ ca Việt Nam:
Sống không dốc chén cạn bình
Sau này ai tưới mộ mình rượu cho.
(Tản Đà - bản dịch)
Trăm năm thơ túi rượu bầu
Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai.
(Tản Đà)
Thơ Hoàng Trung Thông cũng thấm đẫm rượu. Ông cũng như Tản Đà hay các nhà thơ khác là một trong những đệ tử tài ba của Lưu Linh, Đế Thích. Ông đã từng tự hào: “tửu lượng ta nào có kém ai”. Nhưng điều ta quan tâm hơn là hình ảnh rượu trong thơ Hoàng Trung Thông có gì đặc sắc? Trước hết rượu trong thơ ông đơn thuần chỉ nói tới một nhu cầu, một thú vui của con người trần thế. Cho nên khi phải chừa rượu thì tâm trạng con người trần thế này đây dằn vặt, đấu tranh:
Ngày xuân ta chừa rượu
Uống rượu có ích gì
Thà sáng mai tản bộ
Không rượu có cần chi.
(Chừa rượu)
Nói là “Không rượu có cần chi” nhưng thực ra là rất cần, chẳng khác nào tâm trạng của Phạm Thái trước đây:
Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
(Phạm Thái)
Hình ảnh rượu trong thơ Hoàng Trung Thông còn chứa đựng một nội dung thế sự. Ông mượn hình ảnh rượu để tâm sự về tình đời, tình người. Trong cuộc đời mỗi con người không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Không phải dự định nào cũng thực hiện được, ước muốn, kế hoạch nào cũng thành công.
Tôi muốn uống rượu trong
Lại phải uống rượu đục
Chao! Sông cũng như người
Có khúc và có lúc.
(Tứ tuyệt)
Hình ảnh rượu trong thơ Hoàng Trung Thông có khi lại là sự thể hiện tình bạn luôn gắn bó keo sơn giữa những con người tri kỷ.
Thế rồi ta cất chén cùng tri âm
Không phải chén quỳnh đâu đừng trầm ngâm
Một mình ta mời trăng mời bạn
Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm.
(Mời trăng)
Hoàng Trung Thông học tập Lý Bạch, Lý Bạch mời trăng và quay sang mời bóng còn Hoàng Trung Thông thì mời trăng và tưởng nhớ một hồn bè bạn đã đi xa:
Bạn uống rượu lòng ta không thể chán
Ta thương ta, thương người xa thương thầm.
(Mời trăng)
Rượu trong thơ Hoàng Trung Thông còn có một ý nghĩa độc đáo: Đôi khi nhà thơ đánh đồng rượu với em. Hình ảnh rượu và em hoà quyện khiến người đọc có cảm tưởng thơ với rượu đã góp phần tạo nên em. Nhà thơ so sánh “em như rượu” và tâm sự:
Anh yêu em như rượu và thơ
(Em như rượu)
Hoàng Trung Thông viết thơ tình ở tuổi năm mươi và cũng có những độc đáo riêng. Thơ ông càng về sau càng lặp đi lặp lại hình ảnh em. Phải chăng đây chính là hình ảnh người bạn đời chịu khổ chịu thương đã cùng ông đi gần suốt chặng đường đời. Thơ Hoàng Trung Thông càng về sau càng tỏ ra có nhiều chiêm nghiệm, nghĩ suy và ông cũng có nhiều vần thơ viết về người bạn đời thuỷ chung son sắt (Tặng vợ, Sao?, Hai tính cách, Sao em nói quá nhiều, Em thích gì, Em như rượu, Chiều nhớ, Chờ…). Hình ảnh em trong thơ Hoàng Trung Thông có khi thể hiện tình cảm sự cảm thông với nỗi nhọc nhằn, vất vả của vợ (Tặng vợ), có khi là sự chiêm nghiệm, nghĩ suy về cả hai người (hai tính cách) cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng đáng yêu (Sao em nói quá nhiều) và còn là cảm giác trống vắng, đợi chờ mong mỏi (Chiều nhớ, Chờ)…
Tóm lại: Rượu và thơ là hình ảnh độc đáo lặp đi lặp lại trong thơ Hoàng Trung Thông, nhất là ở chặng cuối (gồm cả thơ di cảo). Hình ảnh này cũng là một dụng ý nghệ thuật của tác giả và nó đã góp phần tạo nên bản sắc riêng cho thơ Hoàng Trung Thông.
3.3.2. Mô típ
ở những nhà thơ phong cách đã định hình, nhất là các nhà thơ lớn thì sự lặp lại mô típ, hình ảnh là tất yếu bởi chính sự lặp lại ấy làm nên phong cách nhà thơ. Mô típ được hiểu là những “khuôn” “dạng”, “kiểu” nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định, bền vững và được sử dụng nhiều lần trong các sáng tác văn học, nghệ thuật.
Trong thơ Hoàng Trung Thông, mảng thơ viết về cuộc chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm của nhân dân ta, mô típ: Kẻ thù tàn bạo, dã man, hèn hạ và tư thế hiên ngang của người dân yêu nước được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Mô típ này hoàn toàn phù hợp với cảm hứng viết về đời sống chiến đấu của nhân dân ta. Mô típ này được Hoàng Trung Thông sử dụng phổ biến trong tập thơ đầu Quê hương chiến đấu. Trong nhiều bài thơ đều có hình ảnh “Kẻ thù đi đến đâu có tàn phá, giam cầm, bắn giết đến đấy và vượt lên trên bộ mặt dã man hèn hạ của kẻ thù là tư thế hiên ngang của người dân yêu nước”. [61,tr.286].
Trong Đồng bằng, quê hương chiến đấu nhà thơ Hoàng Trung Thông đã vạch trần bộ mặt dã man, tàn bạo của kẻ thù bằng những câu thơ chắc thật như hiện thực vốn có:
Đêm đêm từng tràng đại bác
Từ trong bốt giặc,
Dội về xóm thôn
Những bà mẹ bế con
Chạy Tây càn cực nhọc
Những bé em gào khóc
Trong quán lạnh bên đường
Mỗi tấc ruộng bờ nương
Mỗi gốc cây hòn đá
Đều nói lên tất cả
Tội ác của quân thù
Nói mãi đến nghìn thu
Vẫn còn chưa hả.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Kẻ thù dù có dã man tàn bạo đến đâu cũng không khuất phục nổi tình yêu quê hương đất nước sâu nặng thiết tha và tinh thần chiến đấu anh dũng hiên ngang của nhân dân ta:
Ơi đồng bằng!
Quê hương anh dũng.
Ngày đêm không ngớt súng
Bộ đội ta công đồn.
Vút tiếng mìn vút lại tiếng bom
Nổ trên đường cái.
Những con đường nát mình phá hoại
Những chiếc cầu mặt gục xuống lòng sông
Những hầm ngầm, những chiến luỹ giao thông
Như hang chuột chạy dài dưới đất.
Mỗi mảnh ruộng
Mỗi góc hầm bí mật,
Những bóng người du kích hiện lên
Người dân cày địch hậu ngày đêm
Cầm giáo mác
Giữ gìn xóm mạc.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Trước sự tàn phá, bắn giết dã man của quân thù, người dân yêu nước có những thời điểm phải tạm thời rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng. Tuy vậy, tinh thần chiến đấu của họ cũng vẫn rất anh dũng kiên cường mặc dù “cuộc sống ở hầm, gian khổ không nói hết”:
Đồng chí ta ngày đêm
Sống trong hầm bí mật
Bám làng, bám đất
Bám chặt lấy lòng dân.
(Sống trong hầm bí mật)
Mô típ này cũng được thể hiện rất rõ ràng trong bài thơ Sông Hồng Hà. Bài thơ vẫn xoay quanh lối lập ý: tội ác của giặc, tư thế hiên ngang, anh dũng của nhân dân ta. Đây là những tội ác mà kẻ thù đi đến đâu gieo rắc đến đấy:
Sông Hồng Hà
Máu thắm quê ta.
Dòng sông rộng nối hai vùng địch hậu.
Đồng bằng đấy,
Tháng năm dài chiến đấu.
Xóm làng ta xơ xác luỹ tre xanh
Từng gốc đa bãi nhãn tan tành,
Từng ruộng mạ, mái nhà gianh bốc cháy.
(Sông Hồng Hà)
Và đây là tinh thần chiến đấu anh dũng, quật cường của cả dân tộc ta từ những em bé đến cụ già tóc bạc ở khắp mọi nơi:
Thù đang trả từng giờ,
Ai có thấy?
Trên bãi mìn
Trên mỗi hố chông?
Những đàn em bé nhỏ cũng anh hùng
Những bà cụ cũng thành du kích.
(Sông Hồng Hà)
Trong nhiều bài thơ khác trong tập quê hương chiến đấu đều đi theo mô típ nói trên. Cách lặp lại mô típ thế cũng là một đặc điểm độc đáo góp phần thể hiện đời sống chiến đấu và làm nên phong cách riêng cho thơ Hoàng Trung Thông.
Hoàng Trung Thông thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Ông vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng của thơ luật Đường và nhờ thế thơ ông nhiều bài chứa chan phong vị cổ điển. Tuy nhiên thơ Hoàng Trung Thông chủ yếu là thể tự do, ông ít khi viết theo một thể thơ mà đan xen nhiều thể trong một bài. Nhà thơ sử dụng nhiều hình ảnh, mô típ mang tính lặp lại. Đó là mô típ: Kẻ thù dã man tàn bạo và tư thế hiên ngang của người dân yêu nước. Hình ảnh ông hay dùng là hình ảnh những con đường; những bước đi; những hình ảnh gắn bó với nông thôn, miền núi; hình ảnh rượu và em thấm đẫm trong thơ Hoàng Trung Thông.
Phần kết luận
1. Ngay từ những năm 60 vấn đề phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông đã được giới nghiên cứu phê bình văn học quan tâm đến. Thời điểm này thơ Hoàng Trung Thông mới chỉ được đánh giá bước đầu mang dáng dấp của một phong cách nghệ thuật. Càng về sau phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông càng ổn định và định hình mang bản sắc riêng. Bản sắc riêng ấy được nhà thơ thể hiện ở cả phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật.
2. Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông là một khía cạnh quan trọng trong phương diện nội dung. Hoàng Trung Thông là nhà thơ gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn. Nhờ gắn bó sâu sắc với đời sống nông nghiệp và mỗi chặng đường thơ, ông đều có những sáng tác xung quanh lĩnh vực này mà người đọc cảm nhận rất rõ: Đời sống nông nghiệp là một trong những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Cảm hứng này đã thể hiện khá phong phú các sắc độ, phương diện của đời sống lao động nông nghiệp.
Hoàng Trung Thông thuộc lớp nhà thơ sinh ra, lớn lên trưởng thành cùng cách mạng. Không khí cách mạng, hiên thực kháng chiến vĩ đại của đất nước, dân tộc hàng ngày thấm đẫm, ăn sâu vào trong máu thịt của người cầm bút. Có lẽ vì thế không có nhà thơ nào lại không viết về công cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc. Hoà vào xu hướng chung đó Hoàng Trung Thông đã thể hiện rõ nét trong các tập thơ của mình hiện thực kháng chiến của đất nước, của đồng bằng chiến đấu. Đây cũng chính là một trong những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông.
Bên cạnh hai nguồn cảm hứng lớn nói trên thơ Hoàng Trung Thông còn có nguồn cảm hứng chủ đạo khác: Đời sống tình cảm. Nguồn cảm hứng này đã bổ sung cho sự thiếu hụt của thơ ông trước đó. Những tập thơ đầu không ít ý kiến cho rằng thơ ông ít chất say mê nồng ấm, cứng quá, khô quá, càng về sau thơ ông càng phong phú đa dạng hơn và cũng không thiếu chất men say cần có của thơ.
3. Những xu hướng chính trong thơ Hoàng Trung Thông là một khía cạnh quan trọng thứ hai trong phương diện nội dung của phong cách nghệ thuật thơ ông. Nhà thơ luôn bám chắc vào đời sống thực tế nên thơ vừa nặng chất sống vừa thắm thiết lung linh. Vẫn bám chắc vào hiện thực đời sống đang vận động trên đất nước nhưng càng về sau Hoàng Trung Thông càng có ý thức suy ngẫm để gia tăng tính khái quát cho thơ. Đó cũng là xu hướng phát triển chung của thơ thế hệ ông và rộng ra là cả nền thơ ca cách mạng qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Truyền thống thơ nước ta nói chung mang tinh thần duy cảm. Thơ trước hết nhằm tác động vào trái tim người. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng hát của con tim. Thơ Hoàng Trung Thông cũng vậy. Nhưng thơ cũng là một hoạt động nhận thức. Tuy không phải lá cờ đầu nhưng Hoàng Trung Thông cũng có ý thức tăng cường sức mạnh nhận thức, khám phá cho thơ. Thơ Hoàng Trung Thông ban đầu là phản ánh biểu hiện nhưng càng về sau càng gia tăng sự khái quát về các phương diện, các nội dung. Chính sức khái quát, sự tổng hợp trong thơ ông là tiền đề, là bệ phóng để nâng cánh cất cao lên tầm chính luận.
4. Phong cách thơ Hoàng Trung Thông không chỉ được thể hiện ở phương diện nội dung mà còn được thể hiện ở phương diện nghệ thuật. Hai phương diện này bổ sung cho nhau và tôn nhau lên, hoà thành một thể thống nhất.
Trước hết phải kể tới giọng điệu ngôn ngữ. Nhịp thơ, hơi thơ của Hoàng Trung Thông không phải không có lúc uyển chuyển nhưng nói chung nổi trội là giọng rắn rỏi, chắc khoẻ. Ông thường dùng ngôn ngữ được rút ra từ cách nói dung dị chắc thật của quần chúng.
Về thể thơ, Hoàng Trung Thông có sử dụng thể thơ thuần nhất, truyền thống: 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ tạo màu sắc cổ điển và nhiều bài chứa chan phong vị Đường thi, nhưng nhìn chung nhà thơ sáng tác theo thể thơ tự do là chính hoặc phối hợp nhiều thể thơ trong một bài. Thể thơ này giúp ông đi sát cuộc sống, phản ánh được những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng, thể hiện được cách nhìn nghệ thuật mới của nhà thơ. Thể thơ tự do đã được Hoàng Trung Thông vận dụng và tạo hiệu quả nghệ thuật độc đáo. Thể thơ đó giúp ông thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, tạo ra những câu thơ có cấu trúc ngữ pháp tràn biên, các câu thơ gối sóng lên nhau, câu thơ không trùng khít với câu ngữ pháp. Hoàng Trung Thông còn có cách ngắt câu thơ thành câu bậc thang khá đặc biệt có tác dụng nhấn mạnh những sự kiện, hành động, trạng thái… nằm trong ý đồ của tác giả.
Trong thơ của thi sĩ họ Hoàng có nhiều hình ảnh mô típ lặp lại trong nhiều bài thơ. Đây là một sự lặp lại mang dụng ý nghệ thuật. Thơ ông thường đi theo mô típ: Kẻ thù tàn ác, dã mãn, hèn hạ và tư thế hiên ngang của người dân yếu nước. Hoàng Trung Thông thường nói nhiều tới những con đường, những bước đi, nhất là trong Đường chúng ta đi và Những cánh buồm. Thơ ông cũng hay nói về việc đào mương mở suối, về cây, về cánh đồng, làng quê, về những thác những hồ, những đèo những phiên chợ của người miền núi. Nói chung là những hình ảnh gắn bó với nông thôn và miền núi. Những hình ảnh này góp phần làm cho thơ ông ấm nồng chất hiện thực của đời sống. Và sẽ là thiếu sót nếu không nói tới hình ảnh rượu và em. Rượu luôn thấm đẫm trong thơ ông và bóng hình em luôn chập chờn ẩn hiện trên từng câu chữ. Đây là những hình ảnh góp phần tạo nên chất men say, chất bay bay cần có của thơ ông.
Thời gian và công luận luôn là sự thách đố với văn chương nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng. Song thơ Hoàng Trung Thông như vẫn vẹn nguyên giá trị – một thông điệp nghệ thuật đặc sắc mà nhà thơ để lại cho đời.
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Tuấn Anh (1996): Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca - Tạp chí văn học.
2. Arnauđốp (1964): Tâm lý học sáng tạo văn học - Nhà xuất bản văn học.
3. Lại Nguyên Ân: 150 thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG.
4. Baudelaire (1995): Thơ, Vũ Đình Liên dịch - NXB Hà Nội.
5. Nguyễn Bao (1994): Có một Hoàng Trung Thông - Thi sĩ - Báo văn nghệ số 20 (14.5.1994).
6. Nguyễn Phan Cảnh: Ngôn ngữ thơ - NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội.
7. Hoàng Cát (1995): Đọc tuyển tập thơ Hoàng Trung Thông - Báo nhân dân cuối tuần số 10 (5.3.1995).
8. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ biên), (1993): Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca - NXB Giáo dục Hà Nội.
9. Cohen.J (1998): Thơ và nghiên cứu thơ - Đỗ Lai Thúy dịch - Tạp chí văn học nước ngoài.
10. Phan Cự Đệ (1997): Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 - NXB Giáo dục.
11. Hà Minh Đức (1974): Thơ và mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại - NXB KHXH - Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (1998): Đi tìm chân lý nghệ thuật - NXB văn học - Hà Nội.
13. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (1997): Thơ ca Việt Nam Hình thức và thể loại - NXB KHXH - Hà Nội.
14. Hà Minh Đức (2000): Nguyễn Đình Thi về tác giả và tác phẩm - NXB Giáo dục.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992): Từ điển thuật ngữ văn học - NXB văn học Giáo dục Hà Nội.
16. Nguyễn Thái Hoà (1997): Dòng thơ thứ nhất - Tạp chí văn học (04).
17. Đỗ Đức Hiểu (1998): Đổi mới đọc và bình văn - NXB Hội nhà văn.
18. Hoàng Ngọc Hiến (1997): Văn học và học văn - NXB văn học.
19. Phạm Hổ (1969): Đầu sóng thơ của Hoàng Trung Thông - Tạp chí tác phẩm mới - Số 4 (tháng 10, 11, 12).
20. Nguyễn Bá Thành (1999): Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng - NXB Giáo dục.
21. Bùi Công Hùng (1986): Vài nét về ngôn ngữ thơ - Tạp chí văn học (02).
22. Mai Hương (1999): Văn học một cách nhìn - Tiểu luận phê bình - NXB KHXH.
23. Mai Hương (1993): Hoàng Trung Thông, đời cách mạng, đời thơ.
24. Khrapchenkô: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - NXB tác phẩm mới.
25. Trần Nhâm Khang: Cấu tứ trong thơ trữ tình. Vũ Ngọc Quỳnh - Lê Sơn Hinh dịch - NXB Văn học Hà Nội.
26. Thụy Khuê (1996): Cấu trúc thơ - Văn nghệ xuất bản California - Hoa Kỳ.
27. Nguyễn Lai (1991): Ngôn ngữ và sáng tạo văn học - NXB KHXH - Hà Nội.
28. Phong Lan (1972): Nhân đọc Trong gió lửa - Báo văn nghệ số 470 (13.10.72).
29. Phong Lan (1998): Hoàng Trung Thông - Một đời thơ văn - NXB Hội nhà văn.
30. Thiếu Mai (1995): Hoàng Trung Thông - Nhà thơ - Báo văn nghệ số 43, 44; (02/11/95).
31. Mã Giang Lân (2000): Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam - NXB Giáo dục - Hà Nội.
32. Mã Giang Lân: Suy nghĩ về tứ thơ - Tạp chí văn học (06).
33. Mã Giang Lân (2000): Tìm hiểu thơ - NXB văn hóa thông tin - Hà Nội.
34. Phong Lê (1984): Trần Hữu Thung – (Trong Nhà thơ Việt Nam hiện đại) - NXB KHXH.
35. Nguyễn Đăng Mạnh: Nhà văn tư tưởng và phong cách - NXB Văn học Hà Nội.
36. Nguyễn Đăng Mạnh: Con đường đi vào thế giới nghệ thuật - NXB Giáo dục Hà Nội (2000).
37. Viên Mai (1999): Tùy viên thi thoại - NXB Giáo dục Hà Nội.
38. Hồ Tuấn Niêm: Hoàng Trung Thông và Những cánh buồm - Tạp chí văn học số 8.1964.
39. Hồ Tuấn Niêm: Hai mươi năm ấy. (Nhân đọc tập thơ Đầu sóng của Hoàng Trung Thông) - Tạp chí văn học số 01- 1969.
40. Phan Ngọc (1995): Hoàng Trung Thông, một cốt cách thơ - Báo văn nghệ số 24 (17.6.1995).
41. Lê Lưu Oanh (2002): Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm - NXB Giáo dục.
42. Vũ Ngọc Phan: Nhà văn Việt Nam hiện đại(In lại trong Tổng tập văn học Việt Nam) - tập 24 A - NXB KHXH.
43. Vũ Quần Phương (1999): Thơ với lời bình - NXB Giáo dục.
44. Vũ Quần Phương (1998): Thơ tình Xuân Diệu nồng và trẻ - Tạp chí văn học (12).
45. Trần Đình Sử (1995): Những thế giới nghệ thuật thơ - NXB Giáo dục.
46. Trần Đình Sử (1996): Lý luận và phê bình văn học - NXB Hội nhà văn - Hà Nội.
47. Văn Tâm: Giảng văn văn học Việt Nam 1930 - 1945 – NXB Giáo dục.
48. Hoài Thanh - Hoài Chân (1941): Thi nhân Việt Nam - NXB Văn học, tái bản 1996.
49. Đỗ Lai Thúy (1992): Con mắt thơ - NXB lao động - Hà Nội.
50. Trần Quốc Thực (1993): Mời trăng - Báo văn nghệ số 5 (30.1.1993).
51. Timôphiep (1962): Nguyên lý lý luận văn học - NXB Văn hoá - Hà Nội.
52. Đặng Tiến (1972): Vũ trụ thơ - Giao điểm, xuất bản Sài Gòn.
53. Lê Ngọc Trà (1990 ): Lý luận văn học – NXB Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
54. Nguyễn Văn Trung (1968 ): Lược khảo văn học - Nam Sơn xuất bản Sài Gòn.
55. Thơ mới 1932 - 1935: Tác giả và tác phẩm - NXB Hội nhà văn - 1999.
56. Jacobsơn.R (1998): Thơ là gì? Trịnh Bá Đĩnh - dịch Tạp chí văn học (12).
57. Jacobsơn.R (2000): Ngôn ngữ văn học và thi pháp học - VHNN (01).
58. Cơ sở lý luận văn học (1988) tập II, III - NXB Giáo dục.
59. Từ điển văn học (1984), tập 1, 2 - NXB KHXH.
60. Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975. NXB ĐH và THCH - 1983 .
61. Nhà thơ Việt Nam hiện đại - NXB KHXH - 1984.
62. Lịch sử văn học Việt Nam - tập III - NXB ĐHSP 2002.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThSA09.doc