mục lục
Lời mở đầu
Kinh nghiệm của những nước trên thế giới và từ thực tiễn nước ta từ trước đến nay cho thấy,sự tồn tại và phát triển của một quốc gia nói chung và một doanh nghiệp nói riêng đều phụ thuộc vào các chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia hay doanh nghiệp đó.
Từ nhiều năm nay, Đảng ta đã khẳng đinh nguồn lực quan trọng nhất để công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là con người do đó đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, con người luôn là mố
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phong cách của 1 nhà quản trị Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i quan tâm hàng đầu và đã được đầu tư phát triển khá mạnh mẽ nhất là những năm gần đây.
Bên cạnh đó, quản trị nhân lực còn là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của công tác quản trị kinh doanh.Nếu làm tốt công tác này không những mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp mà nó còn góp phần nâng cao năng suất lao động,đời sống vật chất tinh thần của người lao động và phúc lợi cho toàn xã hội cũng được cải thiện.
Qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu cùng với những lý thuyết đã được học tập tại trường, em lựa chọn đề tài “Phong cách của một nhà quản trị doanh nghiệp”.
Đề tài gồm hai chương:
Chương I: Khái quát chung về quản trị
Chương II: Nhà quản trị và hội đồng quản trị của Công ty bánh kẹo Hải Hà
Chương i: khái quát chung về quản trị
I. Khái quát về quản trị doanh nghiệp
1. Khái niệm ,mục đích và vai trò của quản trị doanh nghiệp
1.1. Khái niệm:
- Quản trị doanh nghiệp là quá trình làm việc với và thông qua người khác để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp trong điều kiện môi trường kinh doanh luôn biến động và các nguồn lực hạn chế.
- Đặc trưng:
+ Một dạng hoạt động chuyên nghiệp của một số người
+ Hoạt động quản tri doanh nghiệp bao gồm chủ thể qiản trị la các Nhà quản trị và đối tượng quản trị đó là người lao động và các yếu tố vật chất khác của doanh nghiệp.
+ Hoạt động quản trị doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu chung của doanh nghiệp trong điều kiện môi trường luôn thay đổi và các nguồn lực hạn chế.
1.2. Mục đích:
Tạo ra sự phối hợp các yếu tố sản xuất-kinh doanh; thống nhất hoạt động của các cá nhân, bộ phận trong doanh nghiệp theo các mục tiêu chung một cách có hiệu quả nhất.
1.3. Vai trò của quản trị doanh nghiệp
+Có vai trò quyết định tới hiệu quả các hoạt động.
+Có vai trò cơ sở đối với quản lý vĩ mô nền kinh tế.
2. Chức năng của quản trị doang nghiệp
2.1. ý nghĩa phân loại hoạt động quản trị doanh nghiệp theo chức năng
- Sự phân loại theo chức năng đảm bảo quán triệt các yêu cầu của khoa học quản trị, nó đảm bảo cho bất kì hạt động quản trị nào cũng đều được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ.
- Đó là cơ sở để phân tích, đánh giá tinh hình quản trị tại doanh nghiệp để từ đo tìm ra cách tháo gỡ.
2.2 Các chức năng quản trị doanh nghiệp
2.2.1 Chức năng hoạch định
- Khái niệm: Là việc đưa ra các dự kiến về mục tiêu của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định và phương thức tốt nhất để đạt mục tiêu đó.
- Vai trò:
+ Là kim chỉ nam cho hoạt động của các nhà quản trị và doanh nghiệp
+ Là công cụ để nhà quản trị triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách chủ động và có hiệu quả nhất
+ Giảm bớt rủi ro cho doanh nghiệp
2.2.2 Chức năng tổ chức
- Khái niệm: Là một chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp, bao gồm việc thành lập các bộ phận cấu thành doanh nghiệp và xác định các mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hành và trách nhiệm giữa các bộ phận trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Vai trò:
+ Trật tự xắp xếp, nề nếp, thuận lợi trong công tác quản trị doanh nghiệp
+ Tạo tiền đề cho phối hợp có hiệu quả trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2.2.3 Chức năng lãnh đạo và điều hành
- Là một quá trình tác động đến con người nhằm định hướng, điều khiển việc thực hiện và phối hợp tập thể lao động trong phấn đấu hoàn thành những mục tiêu của doanh nghiệp.
- Vai trò: Đây là một chức năng quan trọng, đặc trưng của quản trị doanh nghiệp.
2.2.4 chức năng kiểm tra
- Khái niệm:
+ Kiểm tra là quá trình xem xét, đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả hơn những mục tiêu đã đặt ra của doanh nghiệp.
+ Đối tượng kiểm tra: Tất cả các yếu tố,cá nhân, bộ phận, các hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Vai trò:
+ Giám sát, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời sai lệch trong các hoạt động của doanh nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động để đạt được mục tiêu đã đề ra
3. Các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp
3.1 ý nghĩa của phân loại hoạt động quản trị doanh nghiệp theo lĩnh vực
- Chỉ ra tất cả các lĩnh vực cần phải tổ chức thực hiện quản trị trong một doanh nghiệp, đây là một căn cứ quan trọng để thiết lập bộ máy quản tri của doanh nghiệp.
- Phân loại theo lĩnh vực là sự tiếp cận đúng đắn vào hoàn cảnh kinh doanh thực tiễn của một doanh nghiệp.
3.2 Các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp
- Lĩnh vực sản xuất, gồm có các nhiệm vụ:
- Lĩnh vực vật tư, gồm có các nhiệm vụ:
- Lĩnh vực nhân sự, gồm có các nhiệm vụ:
-Lĩnh vực tổ chức, thông tin, gồm có các nhiệm vụ:
- Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, gồm có các nhiệm vụ:
- Lĩnh vực tài chính và kế toán, gồm có các nhiệm vụ:
- Lĩnh vực marketinh, gồm có các nhiệm vụ:
- Lĩnh vực hành chính pháp chế và các dịch vụ, gồm có các nhiệm vụ:
4. Mối quan hệ giữa quản trị theo chức năng và theo lĩnh vực
Hai cách phân loại trên không gạt bỏ nhau mà ngược lại nó có mối quan hệ trực tiếp, hữu cơ với nhau.
Có thế thể hiện mối quan hệ giữa hai cách phân loại theo ma trận quản trị theo bảng sau:
Chức năng
Lĩnh vực
Hoạch định
(HĐ)
Tổ chức
(TC)
Lãnh đạo-điều hành (LĐ-ĐH)
Kiểm tra
(KT)
Vật tư
Sản xuất
Marketing…….
Hành chính, pháp chế
HĐ vật tư
…………..
HĐ………
TC vật tư
……….
TC……….
LĐ-ĐH vật tư
………..
LĐ-ĐH……
KT vật tư
………..
KT…………
II. Khái quát về quản trị nhân lực
1. Khái niệm và mục tiêu của Quản trị nhân lực trong doanh nghiệp
1.1. Khái niệm:
Quản trị nhân lực trong doanh nghiệp là quá trình tổ chức, khiai thác, bảo vệ và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
1.2. Mục tiêu:
Phát huy tối đa khả năng, tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể lao động, giúp họ đạt năng suất, chất lượng cao trong công việc.
1.3. Các nguyên tắc quản trị trong quản trị nhân lực
- Cung cấp đầy đủ, chất lượng lao động theo cơ cấu hợp lý.
- Chuyên môn hóa kết hợp với trang thiết bị tổng hợp.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phân công lao động và hợp tác lao động.
- Sử dụng lao động rộng rãi trên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
- Sử dụng lao động kết hợp với thù lao hợp lý.
- Kết hợp thưởng phạt với tăng cường kỉ luật lao động.
2. Những nhân tố ảnh hưởng tới quản trị nhân lực
2.1. Những đặc trưng chủ yếu của yếu tố lao động
- Người lao động và ý thức.
- Hệ thống nhu cầu ở mỗi người lao động và động cơ lao động của họ.
- Năng lực lao động của mỗi người lao động.
2.1. Thị trường sức lao động
- Quan hệ cung-cầu lao động
- Yêu cầu về trình độ, hàm lượng chất xám, chất lượng lao động.
- Mức độ cạnh tranh trong thị trường lao động.
2.2. Xu thế toàn cầu hóa
- Sự toàn cầu hóa làm thu hẹp không gian và gắn kết chặt chẽ những con người với nhau.
- Sự toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho người lao động.
2.3. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ
Đòi hỏi trình dộ tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động ngày càng cao.
2.4. Cơ chế chính sách quản lý lvà hệ thống pháp luật về lao động
Luật lao động hiện hành với các chính sách, chế độ cụ thể làm việc, nghỉ ngơi…
2.5. Vai trò của tổ chức công đoàn
Tổ chức này với quyền hạn và khả năng bảo vệ lợi ích của người lao động.
2.6. Tư duy quản trị nói chung, quản trị nhân lực nói riêng
- Có nhiều mô hình cho nhà quản trị nhân lực lựa chọn.
- Mỗi trường phái, quan niệm về vấn đề này, đều có những ưu nhược điểm nhất định
- Việc lựa chọn và áp dụng quan điểm được lựa chọn có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng nhân lực trong mỗi doanh nghiệp.
Chương ii: nhà quản trị
I. Nhà quản trị
1. Thế nào là nhà quản trị
Nhà quản trị là những người làm việc trong các tổ chức, công việc của họ là phối hợp, định hướng, lựa chọn, quyết định và kết dính các công việc không phải là quản trị trong một tổ chức lại với nhau để đạt mục tiêu chung của chính tổ chức đó.
Các nhà quản trị làm việc trong các tổ chức nhưng không phải ai trong tổ chức cũng là nhà quản trị. Các thành viên trong tổ chức có thể chia làm hai loại: người thừa hành và nhà quản trị.
Người thừa hành là người trực tiếp thực hiện một công tác và không có trách nhiệm hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và giám sát hoạt động của những người khác. Trái lại các nhà quản trị có trách nhiệm chỉ huy điều khiển, giám sát hoạt động của những người khác. Ví dụ trong một xí nghiệp, công nhân trực tiếp sản xuất là những người thừa hành, còn tổ trưởng, quản đốc, giám đốc là những nhà quản trị.
2. Các cấp quản trị
Hoạt động quản trị cũng là một dạng hoạt động xã hội của con người, và chính vì vậy nó cũng cần được chuyên môn hoá. Trong mỗi tổ chức các công việc về quản trị không chỉ có tính chuyên môn hoá cao mà nó còn mang tính thứ bậc rõ nét. Tuỳ theo cấp bậc có thể chia các nhà quản trị thành 3 loại: các nhà quản trị cao cấp, các nhà quản trị cấp giữa và các nhà quản trị cấp cơ sở. Thứ bậc của 3 cấp quản trị này được mô tả trong mô hình sau:
Cấp cao Các quyết định chiến lược
Cấp giữa Các quyết định chiến thuật
Cấp cơ sở Các quyết định tác nghiệp
Những người thực hiện Thực hiện quyết định
2.1. Quản trị viên cao cấp
Đó là các nhà quản trị hoạt động ở cấp bậc tối cao trong một tổ chức. Họ chịu trách nhiệm về những thành quả cuối cùng của tổ chức. Nhiệm vụ của các nhà quản trị cấp cao là đưa ra các quyết định chiến lược, tổ chức thực hiện chiến lược, duy trì và phát triển tổ chức. Các chức danh chính của quản trị viên cao cấp trong sản xuất kinh doanh thường là: Chủ tịch hội đồng quản trị, các uỷ viên hội đồng quản trị, các tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc, giám đốc, các phó giám đốc.
2.2. Quản trị viên cấp giữa hay cấp trung gian
Đó là các nhà quản trị hoạt động ở dưới các quản trị viên cao cấp, nhưng ở trên các quản trị viên cấp cơ sở. Nhiệm vụ của họ là đưa ra các quyết định chiến thuật thực hiện các kế hoạch và chính sách của doanh nghiệp, phối hợp các hoạt động các công việc để hoàn thành mục tiêu chung.
Các quản trị viên cấp giữa thường là các trưởng phòng, ban, các phó phòng, phó quản đốc...
2.3. Các quản trị viên cấp cơ sở
Đây là các quản trị viên ở cấp bậc cuối cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng một tổ chức. Nhiệm vụ của họ là đưa ra các quyết định tác nghiệp nhằm đốc thúc, hướng dẫn điều khiển các nhân viên trong các công việc sản xuất kinh doanh, công việc cụ thể hàng ngày, nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Các quản trị viên cấp cơ sở thường là đốc công, trưởng ca, tổ trưởng sản xuất, tổ trưởng các tổ bán hàng.
3. Vai trò và kỹ năng của các nhà quản trị
3.1. Vai trò của nhà quản trị
Trong tác phẩm “Tính chất công việc của giám đốc”, Henry Minzberg cho rằng công việc của một nhà quản trị đặc biệt là của nhà quản trị cấp cao khác với công việc của một công nhân cơ khí, một kỹ sư, một tổng biên tập, một nhân viên bán hàng bởi tính chất gấp gáp,đa dạng và lặt vặt của nó, khối lượng công việc của họ rất lớn, chính vì vậy họ có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức. Sau khi nghiên cứu một cách cẩn thận, ông đã đưa ra kết luận rằng nhà quản trị thực hiện 10 vai trò khác nhau trong 3 nhóm và rất liên quan đến nhau.
3.1.1. Vai trò quan hệ với con người
Sống và làm việc trong một tổ chức mọi cá nhân thường có quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau, nhưng với tư cách là nhà quản trị họ thường có những vai trò cơ bản sau:
- Vai trò đại diện cho tổ chức: Với quyền uy chính thức của mình, nhà quản trị là người tượng trưng cho tổ chức và phải thực hiện nhiều chức trách thuộc tính chất này.Trong những chức trách này có một số mang tính hành chính, một số mang tính cổ vũ lòng người, nhưng đều là những việc có liên quan đến quan hệ giữa người với người, không liên quan đến việc xử lý thông tin quan trọng và ra quyết định quản lý. Trong một số tình huống, sự tham gia của nhà quản trị là điều mà pháp luật đòi hỏi như ký kết một văn bản. Trong một số trường hợp khác sự tham gia của nhà quản trị được coi như một nhu cầu xã hội, như chủ trì một số cuộc họp hoặc một số nghi lễ để tăng thêm ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng.
- Vai trò người lãnh đạo: Nhà quản trị là người chịu trách nhiệm động viên và dẫn dắt cấp dưới, bao gồm việc thuê, dùng, huấn luyện, đánh giá, đãi ngộ, đề bạt, biểu dương, can thiệp và cho thôi việc. Sự thành công của tổ chức là do tâm sức và khả năng nhìn xa trông rộng của các nhà quản trị quyết định. Nếu nhà quản trị bất tài thì tổ chức sẽ rơi vào tình trạng đình đốn. Vai trò lãnh đạo của các nhà quản trị là ở chỗ kết hợp các nhu cầu cá nhân của các thành viên trong tổ chức với mục tiêu của tổ chức đó, do đó mà thúc đẩy quá trình tác nghiệp một cách hữu hiệu.
- Vai trò người liên lạc: Vai trò này liên quan đến mối quan hệ giữa nhà quản trị với vô số những cá nhân và đoàn thể ở bên ngoài tổ chức. Nhà quản trị thông qua các kênh chính thức, thiết lập và duy trì mối quan hệ của tổ chức với những cá nhân và đoàn thể ở bên ngoài tổ chức. Vai trò liên lạc là một bộ phận then chốt trong các chức năng của giám đốc. Thông qua vai trò này, nhà quản trị liên lạc với thế giới bên ngoài sau đó lại thông qua vai trò người phát ngôn, người truyền bá thông tin và người đàm phán để phát triển hơn nữa mối quan hệ ấy và nhận thức được những điều bổ ích, những thông tin mà mối quan hệ ấy tạo ra.
3.1.2. Vai trò thông tin
Thời đại ngày nay là thời đại bùng nổ thông tin, thông tin được xem là nguồn lực thứ tư ở mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp. Các hoạt động về quản trị chỉ thực sự có cơ sở khoa học và có hiệu quả khi nó được xử lý, được thực thi trên cơ sở các thông tin chính xác đầy đủ và kịp thời. Thông tin không chỉ cần cho các nhà quản trị mà chính bản thân họ cũng giữ những vai trò cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực này. Nghiên cứu về vai trò thông tin của các nhà quản trị chúng ta thấy:
- Trước hết nhà quản trị có vai trò thu thập và tiếp nhận các thông tin liên quan đến tổ chức và hoạt động của đơn vị mình.
Nhà quản trị đảm nhận vai trò thu thập thông tin bằng cách thường xuyên xem xét, phân tích bối cảnh xung quanh tổ chức để nhận ra những tin tức, những hoạt động, những sự kiện có thể đem lại cơ hội tốt hay sự đe doạ đối với hoạt động của tổ chức. Công việc này được thực hiện qua việc đọc báo chí, văn bản và qua trao đổi tiếp xúc với mọi người...
- Vai trò thông tin thứ hai của nhà quản trị là vai trò người truyền bá thông tin, nghĩa là nhà quản trị phổ biến những thông tin liên hệ đến người có liên quan. Người có liên quan có thể là thuộc cấp, đồng cấp hay thượng cấp. Thông tin có thể là về những sự thật đang diễn ra hoặc những thông tin có liên quan đến việc lựa chọn quyết định quản lý và những việc phải làm. Chẳng hạn, khi công ty làm ăn thua lỗ, giám đốc có thể sẽ phải trình báo cáo lên chủ tịch hội đồng quản trị công ty về việc sẽ xa thải một số nhân viên, sau đó ông ta thông báo quyết định này cho trưởng phòng nhân sự.
-Vai trò thông tin thứ ba của nhà quản trị là vai trò người phát ngôn. Có thể nói vai trò người truyền bá thông tin là vai trò trong nội bộ tổ chức, còn vai trò người phát ngôn là vai trò đối ngoại. Đó là việc truyền bá những thông tin của tổ chức cho những cơ quan và cá nhân bên ngoài tổ chức. Mục tiêu của sự phát ngôn có thể là để giải thích, bảo vệ hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho tổ chức.
3.1.3. Vai trò quyết định
Loại vai trò cuối cùng của nhà quản trị bao gồm 4 vai trò: Vai trò nhà doanh nghiệp, vai trò người khắc phục khó khăn, vai trò người phân phối nguồn lực và vai trò người đàm phán (hay nhà thương thuyết).
- Vai trò nhà doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ nhà quản trị là người khởi xướng và thiết kế nhiều cải cách của tổ chức trong phạm vi quyền hạn của mình. Mục đích của vai trò này là tạo ra những chuyển biến tốt hơn trong đơn vị. Việc này có thể được thực hiện bằng cách áp dụng một kỹ thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.
- Trong vai trò người khắc phục khó khăn, nhà quản trị phải xử lý những tình huống ngoài ý muốn và những biến đổi hàm chứa những nhân tố không thể điều khiển được. Chẳng hạn như khi một cỗ máy chủ yếu bị hỏng, khi nguồn điện bị cúp, khi khách hàng chủ yếu đột ngột không mua hàng nữa, khi mặt hàng kinh doanh đột nhiên bán khá chạy... Khi đó vai trò của nhà quản trị trong các tình huống này là phải nhanh chóng, kịp thời và quyết đoán để đưa tổ chức trở lại hoạt động bình thường và hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể có hoặc là tận dụng tối đa các cơ hội mới, những yếu tố mới để phát triển.
- Khi nhà quản trị ở trong tình huống phải quyết định nên phân phối nguồn lực cho ai và với số lượng như thế nào, thì đó là lúc nhà quản trị đóng vai trò là người phân phối nguồn lực. Vai trò này gồm có 3 phần:
* Sắp xếp thời gian của bản thân: Thời gian của nhà quản trị là một trong những nguồn lực quý báu nhất của tổ chức. Điều quan trọng hơn nữa là việc sắp xếp thời gian của nhà quản trị có ý nghĩa quyết định đối với lợi ích của tổ chức và được thực hiện theo thứ tự ưu tiên của tổ chức.
* Sắp xếp công việc: Chức trách của nhà quản trị là thiết lập một chế độ làm việc của tổ chức mình, làm việc gì, ai làm, thông qua tổ chức nào để làm..Vấn đề này liên quan đến việc phân phối những nguồn lực cơ bản và nói chung, liên quan đến những phương án làm việc mang tính chất cải tiến. Thực chất của vấn đề này là sắp xếp công việc cho cấp dưới. Đó là một vấn đề quan trọng trong phân phối nguồn lực.
* Những quyết định quan trọng phải được nhà quản trị phê chuẩn trước khi thực hiện: Điều này sẽ giúp nhà quản trị có thể duy trì sự điều khiển liên tục đối với việc phân phối nguồn lực. Nhà quản trị phải là người giữ quyền phê chuẩn mọi quyết định quan trọng để đảm bảo cho việc phối hợp các quyết định đó, khiến cho các quyết định đó bổ sung cho nhau, không trái ngược nhau và lựa chọn được phương án tốt nhất trong tình hình nguồn lực có hạn. Nếu quyền lực này bị phân tán thì có thể dẫn đến những quyết định quản lý không ăn khớp và sự không nhất trí trong chiến lược.
* Cuối cùng nhà quản trị còn đóng vai trò là nhà thương thuyết, đàm phán, thay mặt cho tổ chức trong quá trình hoạt động. Sở dĩ nhà quản trị phải thay mặt cho tổ chức tham gia những cuộc đàm phán quan trọng vì họ là người tượng trưng cho tổ chức. Sự tham gia của họ có thể làm tăng thêm sự tin cậy cho đối phương. Với tư cách là người phát ngôn của tổ chức, ông ta là người đại diện về mặt đối ngoại của những thông tin và tiêu chuẩn giá trị của tổ chức. Điều quan trọng hơn nữa là, với tư cách là người phân phối nguồn lực, ông ta có quyền chi phối nguồn lực của tổ chức. Đàm phán là trao đổi nguồn lực, nó đòi hỏi người tham gia đàm phán phải có đủ nguồn lực chi phối và nhanh chóng quyết định vấn đề.
Tóm lại với chức năng và vai trò của mình, nhà quản trị giữ vai trò quan trọng trong sự thành công hay thất bại của tổ chức và đó cũng là lý do chính của nhu cầu cấp bách phải đào tạo các nhà quản trị, vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả nước.
3.2. Các kỹ năng quản trị
Robert Katz trình bày 3 loại kỹ năng mà mỗi quản trị viên cần có, đó là kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng nhân sự, kỹ năng nhận thức hay tư duy. Tầm quan trọng của 3 loại kỹ năng trên là tuỳ thuộc vào các cấp quản trị khác nhau trong tổ chức. Điều này đựơc thể hiện trong sơ đồ sau:
Quản trị viên cấp cao Quản trị viên cấp giữaQuản trị viên cấp thấp
Kỹ năng kỹ thuật
Kỹ năng nhân sự
Kỹ năng tư duy
3.2.1. Kỹ năng kỹ thuật
Đây là kỹ năng rất cần cho quản trị viên cấp cơ sở hơn là cho các quản trị viên cấp trung gian hoặc cao cấp. Ví dụ soạn thảo hợp đồng, lập trình, thiết kế sản phẩm...
3.1.2. Kỹ năng nhân sự
Liên quan đến khả năng cùng làm việc, động viên và điều khiển nhân sự. Một vài kỹ năng nhân sự cần thiết cho bất cứ quản trị viên nào là biết cách diễn đạt một cách hiệu quả suy nghĩ của mình, có thái độ quan tâm tích cực đến người khác, xây dựng không khí hợp tác trong lao động, biết cách tác động và hướng dẫn nhân sự trong tổ chức để hoàn thành các kết quả kỳ vọng. Kỹ năng nhân sự đối với mọi cấp quản trị viên đều cần thiết như nhau trong bất kỳ tổ chức nào, dù kinh doanh hay phi kinh doanh.
3.1.3. Kỹ năng nhận thức hay tư duy
Là cái khó hình thành nhất và khó nhất nhưng lại có vai trò đặc biệt quan trọng nhất là đối với các nhà quản trị cao cấp. Họ cần có tư duy chiến lược tốt để đề ra đúng đường lối chính sách đối phó hiệu quả với những bất trắc, đe doạ, kìm hãm sự phát triển đối với tổ chức. Nhà quản trị cần phải có phương pháp tổng hợp tư duy hệ thống, biết phân tích mối liên hệ giữa các bộ phận, các vấn đề, biết làm giảm những sự phức tạp rắc rối xuống một mức độ có thể chấp nhận được trong một tổ chức.
Như vậy nhìn vào sơ đồ ta thấy ngay rằng ở những cấp quản trị càng cao thì càng cần nhiều những kỹ năng về tư duy. Ngược lại ở những cấp quản trị càng thấp thì càng cần nhiều những chuyên môn về kỹ thuật. Kỹ năng nhân sự thì ở đâu, ở cấp nào cũng cần và cũng đều là quan trọng. Mặc dù vậy trên thực tế những đòi hỏi cụ thể về mức độ kỹ năng nhân sự có thể có sự khác nhau tuỳ từng loại cán bộ quản trị, nhưng xét theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế thì nó thì nó lại đóng vai trò quan trọng nhất, góp phần làm cho các nhà quản trị thực hiện thành công các loại kỹ năng khác của mình vì theo họ “ quản trị là đạt được mục tiêu thông qua người khác”
II. Các phẩm chất cần thiết của một nhà quản trị giỏi
Nhà quản trị giỏi là người luôn hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của mình, với kết quả và hiệu quả cao, bất kể trong môi trường thuận lợi hay khó khăn. Chính vì vậy họ là người mà mọi xã hội đều cần đến bất kể trong một chế độ xã hội nào. Sự thành công của một tổ chức thường gắn liền với quá trình hoạt động của nhà quản trị, chính vì vậy có một nhà quản trị giỏi trong tổ chức như có một kho báu tiềm tàng. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể trở thành nhà quản trị giỏi, họ phải có những phẩm chất cần thiết cho quá trình quản trị của mình. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về các phẩm chất của một nhà quản trị giỏi, nhưng tựu chung lại nhà quản trị cần có những phẩm chất sau:
1. Khả năng nhận thức và tư duy
Khả năng tư duy là khả năng tuyệt vời nhất của con người mà nhờ đó loài người mới là chúa tể của muôn loài. Mặc dù quý giá như vậy nhưng không phải ai cũng có khả năng tư duy như nhau. Điều hiển nhiên là các nhà quản trị cần phải có khả năng tư duy tốt. Chức vụ càng cao đòi hỏi khả năng tư duy càng lớn.
Một trong những phẩm chất quan trọng về khả năng tư duy ở mỗi nhà quản trị là khả năng xét đoán. Xét đoán là khả năng đánh giá và dự đoán các sự kiện, sự việc tin tức một cách khôn ngoan. Muốn có khả năng xét đoán tốt, các nhà quản trị phải có lương tri, sự chín chắn, am hiểu lý luận sâu sắc và kinh nghiệm thực tế phong phú. Người ta thường thấy rằng năng lực xét đoán thường tăng lên cùng với tuổi tác, trình độ học vấn và kinh nghiệm. Điều này giải thích tại sao khi tuyển người vào các vị trí quản trị các doanh nghiệp thường yêu cầu các ứng viên phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực tuyển dụng. Tuy nhiên không phải ai học nhiều, tuổi cao hoặc có nhiều kinh nghiệm là có khả năng xét đoán tốt.
Người có trí xét đoán tốt có thể suy xét vấn đề một cách khách quan, nhanh chóng tìm ra lời giải đáp thông minh, dự báo được các sự việc với độ chính xác cao và ra được những quyết định sáng suốt ngay cả trong những tình huống xấu, hiểm nghèo mà người bình thường không làm nổi.
Khả năng tư duy của nhà quản trị thường được đánh giá qua các khía cạnh cơ bản là: trực giác nhạy cảm, nhạy bén, năng động quyết đoán.
Có một tấm gương sáng về khả năng tư duy nhạy bén, óc xét đoán tốt, một trực giác nhạy cảm hơn người đó là Bao Ngọc Cương- vua thuyền của thế giới
.
Bao Ngọc Cương bắt đầu từ một con tàu đốt than cũ kỹ chở không đến một vạn tấn, kinh doanh ở mức không đầy 100 vạn đô la Mỹ, trong thời gian 10 năm ngắn ngủi đã xây dựng được 1 đội thương thuyền có tên tuổi với mức chở 18 triệu tấn, đạt đến mức của những nhà tư bản vận chuyển hàng hải nổi tiếng có đội thuyền đã xây dựng trước ông 10 năm. Đội thuyền của tập đoàn vận tải hàng hải Hương Cảng mang nhãn W của ông có mặt trên khắp các đại dương của thế giới. Chiếc mũ “vua thuyền của thế giới” không thể không thuộc về ông.
Có thể nói rằng, để trở thành nhà quản trị giỏi dứt khoát phải có một tư duy sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng, một sự nhạy bén với thời cuộc, có như vậy mới có thể vượt lên trên đối thủ cạnh tranh của mình, giành được những thắng lợi vẻ vang, không những cho bản thân, gia đình, mà còn cho tổ quốc.
2. ý chí, nghị lực, lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm
Kinh doanh là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp, là lĩnh vực hoạt động gắn liền với rủi ro và bất trắc, nên trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đạt được thành công như mong muốn, thậm chí đứng bên bờ vực của sự phá sản, khi đó nhà quản trị cần có ý chí, nghị lực, lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm mới có thể lèo lái con thuyền kinh doanh ra khỏi cơn sóng gió và đi tới sự thành công.
Nhà quản trị có những đức tính này, khi gặp sự cố thường hết sức bình tĩnh và sáng suốt. Còn đối với những nhà quản trị không có các đức tính này, ngay khi găp thử thách đã hoang mang lo sợ, hành động rối loạn, kết quả là đưa tổ chức đến chỗ đổ vỡ. Trong thực tế để có ý chí và nghị lực sắt đá, có lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm cao, nhà quản trị phải không ngừng rèn luyện, đặc biệt từ lúc còn trẻ. Phải rèn luyện được tinh thần không được lùi bước trước bất cứ khó khăn thử thách nào, nếu thất bại thì không được nản lòng, không được từ bỏ con đường mình đã chọn chỉ vì có khó khăn ngáng đường.
Có biết bao tấm gương sáng cho chúng ta noi theo về những người nhờ có ý chí, nghị lực, lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm mà đã vươn tới đỉnh cao của sự thành công, để lại danh tiếng lẫy lừng trên thế giới. Ví dụ như Trịnh Chu Vĩnh- “Nhà doanh nghiệp giàu nhất châu á”.Tập đoàn của ông hoạt động và nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực như đóng tàu, kiến trúc, ô tô. Tuy nhiên có một điều đáng lưu ý là ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khó và đông con, sau biết bao gian nan khổ cực tìm đường thoát ra khỏi nơi “rừng thiêng nước độc”, ông đã tìm ra được con đường đi của mình. Câu chuyện về nghị lực ý chí của ông mãi là một bài học đáng quý cho chúng ta noi theo.
Trên thực tế, cho dù chúng ta làm việc gì, không chỉ quyết định dứt khoát sau khi đã suy nghĩ kỹ, mà còn phải có một tinh thần không biết hối hận, không biết mệt mỏi để thực hiện quyết định của mình, không có tinh thần này làm sao chúng ta có thể làm nên đại sự?
Tục ngữ có câu “Trời xanh không phụ lòng người có chí”. Đương nhiên không có “trời xanh”, câu tục ngữ này có ý nghĩa là: chỉ cần có cố gắng không ngừng, thì có thể tìm được cơ hội thành công, nhưng nếu không cố gắng thì cơ hội sẽ không tự nhiên đến với bạn. Làm nhà quản trị cần ý thức rõ điều này và phải không ngừng rèn luyện ý chí và nghị lực của mình, vì trong thực tế không phải lúc nào mọi công việc đều suôn sẻ, lúc đó họ cần bình tĩnh, sáng suốt để có thể ra được quyết định đúng đắn, đưa tổ chức hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của mình.
3. Đạo đức và ý thức trách nhiệm
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, nó bao gồm các quan điểm, nguyên tắc, giá trị xã hội được con người thừa nhận để tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, nhu cầu, mong muốn của người khác và xã hội trong quá trình đạt đến mục tiêu tồn tại và phát triển của bản thân.
Nền tảng cơ bản của đạo đức trong kinh doanh thể hiện thông qua mục tiêu đề ra, các biện pháp thực hiện mục tiêu và hậu quả đem lại do việc lựa chọn và thực hiện các mục tiêu đó. Mục tiêu không thể phi nghĩa và phản khoa học, mục tiêu cũng không thể thoát ly thực tế theo ý muốn chủ quan của người lãnh đạo. Các biện pháp thực hiện mục tiêu cũng vậy, nó không thể vì lợi mình mà hại người khác, nó không thể trà đạp lên đạo lý và luật pháp. Còn hậu quả của mỗi mục tiêu phải trả lời rõ với mỗi mục tiêu cụ thể đặt ra cho hệ thống, hậu quả gây hại về sau là gì? ai phải gánh chịu nó và mức độ thiệt hại là bao nhiêu?
Tiếc rằng trong thực tế, những người vi phạm đạo đức kinh doanh, thậm chí không có đạo đức kinh doanh ngày càng nhiều và mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng. Với mục tiêu kiếm được thật nhiều lợi nhuận, có không ít doanh nghiệp đã không từ bất cứ thủ đoạn nào, công cụ nào để có thể có đựơc lợi nhuận một cách nhanh nhất, vì vậy người ta đã cho cả phoocmon vào trong phở, mua bán các loại đường hoá học có mức độ độc hại rất cao và rất nguy hại cho sức khoẻ của con người, và có cả ngàn lẻ cách người ta gây ra thiệt hại cho xã hội dưới sức ép của lợi nhuận của cơ chế thị trường. Tất cả những điều đó đều xuất phát từ các nhà quản trị, những người lãnh đạo doanh nghiệp, những ông chủ sở hữu có thừa tiền nhưng lại thiếu lương tâm.
ý thức trách nhiệm trong quản trị, đó là việc đền đáp phải làm của con người đối với xã hội mà trong đó con người đã tồn tại và đạt được các nhu cầu, các mong muốn, các mục tiêu của mình. Nhờ có xã hội mà con người đạt được các nhu cầu, mục tiêu mong muốn thì con người phải có trách nhiệm hoàn trả cái mà con người đã lấy đi,đã chiếm dụng của xã hội. Trách nhiệm xã hội là nội dung quan trọng của đạo đức quản lý, đó là nghĩa vụ đối với cộng đồng trong cuộc sống thể hiện thông qua việc tự giác không thực hiện các mục tiêu, giải pháp quản lý đem lại hậu quả xấu cho xã hội và cộng đồng.
Muốn làm một nhà quản trị giỏi, một người có đầy tinh thần trách nhiệm thì trước hết phải nghĩ đến việc quản lý bản thân mình sau đó mới có thể nghĩ đến việc quản lý những người khác, từ đó mới có thể hình thành một sức mạnh đạo đức to lớn, là một tấm gương sáng, kích thích nhiệt tình làm việc của cấp dưới.
Các nhà quản trị cần phải ý thức được rằng các quyết định của họ liên quan đến rất nhiều người, vì vậy mỗi khi ra quyết định đòi hỏi họ phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng, trên cơ sở những thiệt hại và lợi ích thu được, tránh tình trạng cục bộ, ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều người. Có như vậy mới có thể làm ăn kinh doanh lâu dài, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh và thịnh vượng.
4. Sức khỏe
Sản phẩm của các nhà quản trị chính là quyết định, mà quyết định chính là sản phẩm của trí tuệ, nhưng trí tuệ của một người lại phụ thuộc phần lớn vào tình trạng sức khoẻ của người đó. Chính vì vậy chúng ta thấy rằng một cơ thể ốm yếu bệnh hoạn thì khó có thể ra được quyết định kinh doanh đúng đắn.
Ngày nay, sức khỏe tốt còn tươ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22249.doc