Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------------------------
NGUYỄN THỊ HOA
PHÉP LẶP TỪ VỰNG VÀ LẶP NGỮ PHÁP
TRONG THƠ HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------------------------
NGUYỄN THỊ HOA
PHÉP LẶP TỪ VỰNG VÀ LẶP NGỮ PHÁP
TRONG THƠ HỮU THỈNH
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5149 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số : 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phạm Văn Tình
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ................................................ 7
6. Phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................................ 7
7. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 7
8. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
Chƣơng I ........................................................................................... 9
CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................... 9
1.1. Một vài nét về ngữ pháp văn bản (NPVB) ............................................... 9
1.1.1. Khái niệm về văn bản ......................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm li ên kết văn bản và một số khái niệm liên quan đến liên
kết văn bản ..................................................................................................... 9
1.2. Hệ thống các phép liên kết văn bản ........................................................ 11
1.2.1. Phép lặp ............................................................................................. 11
1.2.2. Phép đối ............................................................................................. 16
1.2.3. Phép liên tưởng ................................................................................. 19
1.2.4. Phép tuyến tính .................................................................................. 22
1.2.5. Phép thế ............................................................................................. 24
1.2.6. Phép tỉnh lược ................................................................................... 26
1.2.7. Phép nối ............................................................................................. 28
1.3. Vai trò của phép lặp trong liên kết văn bản thơ ..................................... 29
Chƣơng 2 ......................................................................................... 32
PHÉP LẶP TỪ VỰNG VÀ LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ HỮU
THỈNH ............................................................................................ 32
2.1. Lí thuyết về hiện tượng lặp...................................................................... 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2.1.1. Hiện tượng lặp ................................................................................... 32
2.1.2. Phép lặp từ vựng ............................................................................... 34
2.1.3. Phép lặp ngữ pháp ............................................................................. 39
2.2. Đôi nét về ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh ....................................................... 41
2.3. Kết quả khảo sát và thống kê phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong
thơ Hữu Thỉnh ................................................................................................. 44
2.3.1. Kết quả phép lặp từ vựng trong thơ Hữu Thỉnh .............................. 44
2.3.2. Kết quả phép lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh ........................... 57
2.4. Tiểu kết ..................................................................................................... 60
Chƣơng 3 ......................................................................................... 62
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA PHÉP LẶP TỪ VỰNG VÀ LẶP NGỮ
PHÁP TRONG THƠ HỮU THỈNH ................................................... 62
3.1. Giá trị nghệ thuật của phép lặp từ vựng trong thơ Hữu Thỉnh .............. 62
3.1.1. Lặp từ vựng góp phần tạo nên giá trị nhận thức ............................. 62
3.1.2. Lặp từ vựng góp phần tạo nên giá trị miêu tả ................................. 72
3.1.3. Lặp từ vựng tạo giá trị biểu cảm ...................................................... 74
3.1.4. Lặp từ vựng góp phần tạo nên nhạc điệu cho thơ ........................... 77
3.1.5. Lặp từ ngữ góp phần tạo nên giá trị liên kết.................................... 79
3.2. Giá trị nghệ thuật của phép lặp ngữ pháp ............................................... 86
3.2.1. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên tính nhạc cho thơ ......................... 86
3.2.2. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên giá trị nhận thức ........................... 90
3.2.3. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên giá trị miêu tả ............................... 97
3.2.4. Lặp ngữ pháp tạo giá trị biểu cảm.................................................. 100
3.2.5. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên giá trị liên kết ............................. 102
3.3. Tiểu kết ............................................................................................... 107
PHẦN KẾT LUẬN ................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ học trong suốt quá trình phát triển luôn quan niệm câu là đơn
vị cao nhất, hoàn chỉnh nhất. Nhà ngôn ngữ học Mĩ L. Bloomfield đã từng
đưa ra định nghĩa: “Câu là một kết cấu mà trong phát ngôn đang xét không
phải là bộ phận của một kết cấu lớn hơn nào” (Dẫn theo Trần Ngọc Thêm).
Hay một nhà ngôn ngữ học Nga A.A. Refrmatskij cũng nói: “Trong ngôn ngữ
không còn gì và không thể còn gì nữa ngoài các đơn vị: âm vị, hình vị, từ,
câu”. Nhưng trên thực tế các lí thuyết ngôn ngữ xây dựng trong phạm vi câu
ngày càng bộc lộ những hạn chế, không đáp ứng hết được nhu cầu của lí luận
và thực tiễn. Chính vì thế một bộ môn mới ra đời nghiên cứu những hiện
tượng ngôn ngữ ở lĩnh vực trên câu đó là ngôn ngữ học văn bản.
Ngôn ngữ học văn bản là một bộ môn khá mới mẻ trong khoa học ngôn
ngữ. Trong ngữ pháp văn bản thì tính liên kết được xem là đặc điểm cơ bản
nhất bởi các nhà ngôn ngữ học văn bản cho rằng văn bản không phải là một
phép cộng đơn thuần của các câu. Giữa các câu trong một văn bản có một mối
liên hệ chặt chẽ. Bất kì một văn bản nào cũng sử dụng một hoặc hơn một
phương thức liên kết và đôi khi còn lồng ghép, đan xen giữa các phép liên
kết: như sử dụng phép thế để tránh lặp từ vựng, hay như trong lặp ngữ pháp
thường có phép đối đi kèm….Ngoài ra người ta còn chú ý đến những hiện
tượng mang chức năng liên kết như: sử dụng từ nối, song hành cú pháp, các
hiện tượng tỉnh lược…Trong số những phương tiện liến kết câu đó chúng tôi
nhận thấy hiện tượng lặp là một hiện tượng khá phổ biến trong tiếng Việt. Nó
không chỉ được các nhà nghiên cứu quan tâm mà các nhà thơ, nhà văn cũng
sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để tạo nên những tác động tích cực tới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
cảm quan của người đọc.Trong các nhà thơ đã từng biết đến chúng tôi nhận
thấy Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ như thế. Ông đã sử dụng hiện
tượng lặp như một thủ pháp để liên kết văn bản.
Tác giả Hữu Thỉnh là tác giả được giảng dạy trong trường phổ thông nên
việc tìm hiểu về hiện tượng lặp trong các sáng tác của nhà thơ này này là một
việc hết sức cần thiết. Điều này sẽ giúp chúng ta nắm vững kiến thức cơ bản
về hiện tượng lặp để sử dụng một cách đúng đắn, hiệu quả.
Từ những lí do trên chúng tôi mạnh dạn tiến hành chọn đề tài nghiên
cứu:
“Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh”
2. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam mãi đến những năm 70 ngữ pháp văn bản và đặc biệt là hiện
tượng lặp đã được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu và thừa nhận
chúng như một hiện tượng phổ biến trong tiếng Việt. Trong khi đó trên thế
giới ngữ pháp văn bản được hình thành từ những năm 40-50 của thế kỉ XX
với các tên tuổi như: K. Boot, N. S. Pospelov, Z. S. Haris…
Những tác giả tiêu biểu đã đề cập đến hiện tượng này trong các công
trình nghiên cứu như:
Trần Ngọc Thêm, cuốn “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt”, NXB
GD, 1999.
Đinh Trọng Lạc, cuốn “99 phương tiện và biện pháp tu từ trong tiếng Việt”,
NXB GD, Hà Nội.
Nguyễn Minh Thuyết, cuốn ”Tiếng Việt thực hành”, NXB ĐH QG HN,
2001.
Diệp Quang Ban và Đỗ Hữu Châu cuốn “Tiếng Việt 10”, NXB GD 2000.
Đinh Trọng Lạc cuốn “Phong cách học tiếng Việt”, NXB GD 1999.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Diệp Quang Ban cuốn “Văn bản và liên kết trong văn bản”, NXB GD
2006.
Trong các tài liệu hiện có về ngôn ngữ học văn bản khái niệm lặp được
hiểu khá rộng và rất nhiều ý kiến khác nhau. Song tựu trung theo các nhà
ngôn ngữ học Việt Nam, hiện tượng lặp được hiểu thống nhất là: “phép lặp là
một phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn những yếu tố
đã có ở chủ ngôn” (Trần Ngọc Thêm).
Dưới cấp độ nghiên cứu khác nhau hiện tượng lặp được gọi tên, phân
loại, và có sự khu biệt ở từng tác giả.
Theo Diệp Quang Ban và Đỗ Hữu Châu trong Tiếng Việt 10, NXB GD
2000, cũng cho những cách gọi tên khác nhau về hiện tượng lặp, chẳng hạn
như lặp từ ngữ được gọi là điệp ngữ và cũng đưa ra những cách định nghĩa
như sau: “Điệp ngữ là cách lặp từ ngữ trong câu hoặc trong cụm từ nhằm tạo
ra sức biểu cảm hoặc làm tăng sức diễn đạt ý nghĩa của lời nói”. Các ông phân
chia lặp dựa trên mặt cấu tạo thành: lặp nối tiếp, lặp cách quãng, lặp đầu –
cuối, lặp cuối - đầu, lặp vòng tròn.
Còn Đinh Trọng Lạc khi xem xét hiện tượng lặp lại là một dạng của
phượng tiện tu từ cú pháp ông cũng gọi lặp là điệp ngữ. Từ đó ông định
nghĩa: “Điệp ngữ là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh
ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh, hoặc gợi xúc cảm trong lòng người đọc,
người nghe”.
Mặc dù có sự khác nhau trong nội hàm khái niệm, và cách gọi tên song
nhìn chung ba tác giả Đinh Trọng Lạc, Diệp Quang Ban, Đỗ Hữu Châu đều
đã chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của hiện tượng lặp.
Đến với Trần Ngọc Thêm, ta thấy tác giả đã bắt đầu hệ thống hoá các
phương tiện liên kết của văn bản tương đối chi tiết. Trong cuốn Hệ thống liên
kết văn bản tiếng Việt, tác giả coi hiện tượng lặp là một phương tiện liên kết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
văn bản.Vì từ quan niệm này, cho phép các nhà nghiên cứu mở rộng hướng
quan sát để chỉ ra các quy tắc liên kết các phát ngôn thông qua hiện tượng lặp.
Nó đã mở ra một hướng tiếp cận mới cho những người nghiên cứu ngôn ngữ
học nói chung và nghiên cứu văn bản nói riêng.
Còn trong cuốn Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Diệp Quang Ban đã
nghiên cứu hiện tượng lặp như một phương thức liên kết văn bản nhưng ông
đề cập nhiều về phương diện lí luận mà chưa thực sự đi sâu vào mặt biểu hiện
của chúng trên văn bản.
Tất cả những công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ kể trên xét về
phương diện lý luận đều là những thành tựu có giá trị trong công tác giảng
dạy, học tập, nghiên cứu tiếng Việt nói chung. Song, những công trình nghiên
cứu ấy còn nằm trên bình diện rộng. Nó chưa thể đi vào tìm hiểu hết ý nghĩa
và tác dụng của hiện tượng lặp ở từng tác giả và tác phẩm cụ thể.
Hưu Thỉnh đã góp mặt trên thi đàn văn học Việt Nam với rất nhiều tác
phẩm có giá trị, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Nhưng những
công trình khoa học nghiên cứu, phê bình đã có những đánh giá, phân tích về
mọi mặt như: nội dung, hình thức, đề tài, chủ đề, ngôn ngữ... Trong sáng tác
của Hữu Thỉnh, chưa có một công trình chuyên biệt nào đề cập đến hiện
tượng lặp được sử dụng như một phương thức liên kết văn bản.
Với tình hình đã trình bày ở trên, chúng tôi thấy việc nghiên cứu hiện
tượng lặp trong sáng tác của Hữu Thỉnh quả là một công việc khó khăn nhưng
rất bổ ích, lý thú.
Trong luận văn này trên cơ sở nghiên cứu của các nhà khoa học đã đạt
được ở mặt lý luận, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu trong những tác phẩm cụ
thể để làm rõ cách sử dụng và giá trị của hiện tượng lặp - một hiện tượng khá
phổ biến trong sáng tác của nhiều tác giả. Tư liệu mà chúng tôi khảo sát cụ
thể là nhà thơ Hữu Thỉnh với các tác phẩm thơ của ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
3. Mục đích nghiên cứu
- Chỉ ra các hiện tượng lặp từ vựng, lặp ngữ pháp trong các câu thơ của
Hữu Thỉnh.
- Nghiên cứu giá trị của hiện tượng lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong các câu
thơ của Hữu Thỉnh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng những kiến thức cơ bản của các nhà nghiên cứu đi trước để
tìm hiểu về hiện tượng lặp trong các sáng tác của Hữu Thỉnh.
- Miêu tả cơ chế biểu hiện của hiện tượng lặp từ vựng và lặp ngữ pháp
trong thơ Hữu Thỉnh.
- Miêu tả giá trị của hiện tượng lặp trong sáng tác của Hữu Thỉnh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lí luận: Qua việc xem xét hiện tượng lặp sử dụng trong sáng tác
của Hữu Thỉnh chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần vào việc nghiên cứu
phong cách tác giả qua việc miêu tả một thủ pháp liên kết văn bản.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn
các giá trị ngữ nghĩa của thơ Hữu Thỉnh. Giúp cho việc cảm thụ, giảng dạy
thơ trong nhà trường được tốt hơn, sinh động hơn.
6. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Với khuôn khổ của luận văn chúng tôi không có điều kiện nghiên cứu tất
cả các tập thơ của Hữu Thỉnh. Chúng tôi chỉ tập trung khảo sát, nghiên cứu
tập thơ “Từ chiến hào tới thành phố”.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
7.1. Phương pháp khảo sát thống kê ngôn ngữ học
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để khảo sát thống kê hiện tượng lặp
trong sáng tác của Hữu Thỉnh.
Trên cơ sở khảo sát, thống kê sẽ phân loại tư liệu thành các tiểu loại để
miêu tả.
7.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Từ kết quả thống kê phân loại được chúng tôi tiến hành so sánh đối
chiếu và đưa ra nhận xét về hiện tượng lặp được sử dụng như thế nào trong
sáng tác của Hữu Thỉnh.
7.3. Phương pháp phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn
Phương pháp này được chúng tôi vận dụng để phân tích, mô tả làm sáng
tỏ ý nghĩa, giá trị mà hiện tượng lặp mang lại trong văn bản thơ của Hữu
Thỉnh.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương.
- Chương I: Cơ sở lý luận.
- Chuơng II: Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh.
- Chương III: Giá trị nghệ thuật của phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp
trong thơ Hữu Thỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Chƣơng I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Một vài nét về ngƣ̃ pháp văn bản (NPVB)
1.1.1. Khái niệm về văn bản
* Quan niệm thƣ́ nhất
“Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ , nó là một
thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung , hoàn chỉnh về hình thức . [5,
tr.19].
* Quan niệm thƣ́ hai
“Văn bản là một hệ thống gồm một chuỗi câu được sắp xế p theo hình
tuyến tính và có tổ chức chặt chẽ , trong đó mỗi câu là một đơn vị liên kết của
văn bản . Mỗi đơn vị của văn bản tổ hợp gắn bó với nhau tạo thành một cấu
trúc hoàn chỉnh , nhằm thực hiện một ý đồ giao tiếp c hung”. [Lê A, Đình Cao,
Làm văn, Nxb GD, 1989].
1.1.2. Khái niệm liên kết văn bản và một số khái niệm liên quan đến
liên kết văn bản
1.1.2.1. Khái niệm liên kết văn bản
Liên kết văn bản là một mạng lưới các mối liên hệ và quan hệ giữa các
câu, các đoạn, các phần… trong mỗi văn bản .
1.1.2.2. Một số khái niệm liên quan đến liên kết văn bản
* Khái niệm chủ ngôn và kết ngôn
Trong hai câu liên kết với nhau , có một câu chứa đựng chỉ ra sự liên kết
của nó v ới câu còn lại - câu đó được gọi là kết ngôn . Câu còn lại có vai trò
độc lập hơn được gọi là chủ ngôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Như vậy chủ ngôn là phát ngôn tiền đề, phát ngôn đứng làm chủ. Còn kết
ngôn là phát ngôn liên kết với các phát ngôn khác. Đó là nói theo quan hệ
giữa hai câu đang xét. Trên thực tế, một kết ngôn này lại có thể là chủ ngôn
của phát ngôn khác.
Ví dụ:
(1)Đánh mắng lắm, nó mụ người đi đấy.(2) Mà mình bắt nó làm vừa vừa
chứ.
(Nam Cao)
Trong ví dụ trên, câu (1) liên kết với câu (2) – câu (1) là chủ ngôn (phát
ngôn đứng làm chủ), còn câu (2) chứa những dấu hiệu liên kết với câu (1) (từ
nối mà và từ nó)- đó là kết ngôn (phát ngôn liên kết).
* Khái niệm yếu tố liên kết , kết tố, chủ tố.
Những yếu tố trực tiếp tham gia thể hiện sự liên kết ở chủ ngôn và kết
ngôn được gọi là các yếu tố liên kết . Yếu tố liên kết ở kết ngôn được gọi là
kết tố, yếu tố liên kết ở chủ ngô n được gọi là chủ tố .
Ví dụ:
“Cứ quan sát kĩ thì rất nản. Nhưng tôi chƣa nản chỉ vì có lẽ tôi tin vào
ông cụ”.
(Nam Cao)
Ở ví dụ này yếu tố liên kết là từ “nản” và cụm từ “chƣa nản”. Từ “nản”
là chủ tố còn từ “chƣa nản” là kết tố.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
* Khái niệm câu tự nghĩa và câu hợp nghĩa
Trong hai câu liên kết với nhau nếu câu nào hoàn chỉnh về nội dung , ta
có thể hiểu được nó mà không cần sự hỗ trợ của câu còn lại hoặc ngữ cảnh ,
câu đó là câu tự nghĩa .
Câu hợp nghĩa là câu không độc lập về nghĩa , muốn hiểu được nó ta phải
dựa vào nghĩa của câu khác hoặc ngữ cảnh .
Ví dụ:
(1) Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. (2) Đó là một truyền thống
quý báu của ta”
(Hồ Chí Minh)
Xét ví dụ trên câu (1) là câu tự nghĩa, câu (2) là câu hợp nghĩa.
1.2. Hệ thống các phép liên kết văn bản
1.2.1. Phép lặp
1.2.1.1. Khái niệm phép lặp
Phép lặp là một phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn những yếu tố đã có ở chủ ngôn . [20, tr.87].
1.2.1.2. Phân loại phép lặp
Phép lặp có cả hai yếu tố liên kế t là chủ tố và kết tố được gọi là lặp tố .
Tùy thuộc và tính chất của lặp tố mà phép lặp có thể chia thành 3 dạng sau :
lặp ngữ âm, lặp từ ngữ và lặp ngữ pháp .
* Lặp ngữ âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Là một dạng thức của phương thức lặp thự c hiện ở việc sử dụng trong kết
ngôn những yếu tố ngữ âm (như âm tiết , số lượng ấm tiết , khuôn vần , phụ âm
đầu, thanh điệu… ) đã có ở chủ ngôn.
Ví dụ:
“Cái bống là cái bống bang
Khéo sảy khéo sàng cho mẹ nấu cơm”
(Ca dao)
Trong ví dụ trên , vần “ang” ở âm tiết “bang” được lặp lại ở âm tiết
“sàng”.
- Phân loại lặp ngữ âm
Trong lặp ngữ âm , các phương tiện ngữ âm được sử dụng để liên kết
thường ở hai kiểu sau : lặp số lượng âm tiết và vần .
- Lặp số lượng âm tiết: đây là một phương tiện liên kết được sử dụng
trong văn vần của mọi ngôn ngữ .
Ví dụ:
“Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật”
(Đồng dao)
Ở ví dụ trên ngoài lặp từ ngữ , lặp vần, lặp cấu trúc ngữ pháp , các câu còn
liên kết với nhau nhờ lặp số lượng âm tiết (4 âm tiết).
- Lặp vần:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Ví dụ:
“Mẹ bống đi chợ đƣờng trơn
Bống ra gánh đỡ chạy cơn mƣa ròng”
(Ca dao)
Ở ví dụ này câu dưới lặp lại vần “ơn” của câu trên (âm tiết trơn và cơn ).
* Lặp từ vựng
Là một dạng thức của phương thức lặp t hể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn những từ hoặc những cụm từ (ngữ) đã có ở chủ ngôn .
Ví dụ:
“Mái tây để lạnh hƣơng nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng ”
(Nguyễn Du)
- Phân loại lặp từ vựng:
Lặp từ ngữ có thể được xem xét , phân loại dưới nhiều góc độ khác nhau
Căn cƣ́ về mặt cấu trúc, cấu tạo lặp tƣ̀ ngƣ̃ đƣợc chia ra làm 4 loại.
+ Lặp nối tiếp : là dạng lặp trong đó từ ngữ được lặp lại trực tiếp đứng
bên nhau.
Ví dụ:
“Chuyện kể tƣ̀ nỗi nhớ sâu xa
Thương em, thương em, thương em biết mấy”
(Phạm Tiến Duật)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
+ Lặp cách quãng : là dạng lặp trong đó những từ ngữ được lặp lại đứng
cách xa nhau.
Ví dụ:
“Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”
(Chiều – Xuân Diệu)
+ Lặp vòng tròn (lặp cuối đầu ): là dạng lặp có giá trị tu từ lớn thể hiện ở
chỗ cuối của cấu trước được lặp lại ở chữ đầu của câu sau .
Ví dụ:
“Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh nhƣ̃ng mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp cứ sầu hơn ai”
(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm)
+ Lặp đầu – cuối: là dạng lặp mà yếu tố được đứng ở đầu câu còn yếu tố
lặp đứng ở cuối câu .
Ví dụ:
“Vui là vui gƣợng kẻo là
Ai tri ân đó mặn mà với ai”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Căn cƣ́ vào chủ tố và lặp tố , ta có thể phân chia phép lặp tƣ̀ ngƣ̃ thành
hai loại: lặp tƣ̀ và lặp cụm tƣ̀ (ngƣ̃).
Trong cụm từ có thể phân thành : lặp hoàn toàn và lặp bộ phận .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Ví dụ: lặp từ
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
(Đây Thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)
Ví dụ: lặp ngữ
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử)
* Lặp ngữ pháp
Là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lặp lại cả một số hư từ mà chủ ngôn đã
sử dụng.
Ví dụ:
“Ta say ngựa cũng la đà
Trời cao xuống thấp , núi xa lại gần
Ta say ngựa cũng tần ngần
Trên lưng ta quẩy một vùng giai nhân”
(Ta say – Lưu Trọng Lư)
- Phân loại lặp ngƣ̃ pháp
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn , có thể phân loại
lặp ngữ pháp thành bốn kiểu : lặp đủ, lặp thiếu, lặp thừa và lặp khác .
- Lặp đủ: là toàn bộ cấu trúc của chủ ngôn với đầy đủ các thành phần của
nó được lặp lại hoàn toàn ở kết ngôn .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Ví dụ:
“Không tiếng, không tăm, không thưa, không hỏi
Không hát, không cười, không than, không tủi ”
(Trên đường đời - Lưu Trọng Lư)
- Lặp thiếu: là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận trọng kết ngôn .
Ví dụ:
“Vẫn vui nhƣ lúc nãy, chồng đi trƣớc thổi sáo, vợ đằng sau hát theo”
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)
- Lặp thừa: là ngoài cấu trúc của chủ ngôn , trong kết ngôn còn chứa thêm
một bộ phận nào đó của chủ ngôn không có .
Ví dụ:
“Lắng nghe trăng giải bên thềm
Lắng nghe trăng giải bên thềm… ái ân!”
(Bao la sầu – Lưu Trọng Lư)
- Lặp khác: là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có bộ phận được lặp lại trong kết
ngôn.
Ví dụ:
“Chúng ta không cho những nhà tƣ bản ngóc đầu lê n. Chúng bóc lột
công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)
1.2.2. Phép đối
1.2.2.1. Khái niệm phép đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Là phương thức liên kết thể hiện ở việc sử dụng trong kết ngôn một ngữ
đoạn (từ hoặc cụm từ) có ý nghĩa đối lập với một ngữ đoạn nào đó có ở chủ
ngôn.
1.2.2.2. Phân loại phép đối
Căn cứ vào đặc điểm của các phương tiện dùng làm chủ tố và đối tố, có
thể phân loại phép đối thành bốn kiểu : đối trái nghĩa, đối phủ định, đối miêu
tả và đối lâm thời.
* Đối trái nghĩa
Đối trái nghĩa là kiểu đối sử dụng từ trái nghĩa, và từ trái nghĩa là những
từ cùng một trường nghĩa và có ít nhất một nét nghĩa đối lặp nhau, tất cả các
nét nghĩa khác đều đồng nhất.
Ví dụ:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Căn cứ vào hình thức của từ, ta có thể chia đối trái nghĩa thành hai kiểu:
- Đối sử dụng các cặp từ trái nghĩa trực tiếp.
- Đối sử dụng những cặp từ trái nghĩa gián tiếp.
Việc sử dụng kiểu liên kết đối trái nghĩa trong văn bản có tác dụng trọng
việc tích cực hóa vốn từ trái nghĩa của người viết.
* Đối phủ định
Đối phủ định là kiểu đối mà một trong hai yếu tố liên kết là dạng phủ
định của yếu tố liên kết kia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Ví dụ:
“Cứu quan sát kỹ thì rất nản. Nhƣng tôi chưa nản chỉ vì tin vào ông
cụ”
(Nam Cao)
Cũng có thể chia đối phủ định thành hai kiểu:
- Đối phủ định trực tiếp.
- Đối phủ định gián tiếp.
* Đối miêu tả
Đối miêu tả là kiểu đối mà ít nhất một trong hai yêu tố liên kết là một
cụm từ miêu tả những dấu hiệu của thuộc tính đối lập, yếu tố liên kết còn lại
có thể là một từ hoặc một cụm từ.
Ví dụ:
“Nó cười rúc rích, rồi trở mình một cái, ngáy khò khò luôn. Ông Sần
không ngủ, nằm cân nhắc một lúc nữa”
(Dẫn theo Trần Ngọc Trâm)
* Đối lâm thời
Đối lâm thời là kiểu đối trong đó các cụm từ làm chủ tố và đối tố vẫn
không phải là những từ trái nghĩa, nhưng nhờ tồn tại trong những điều kiện
nhất định mà chúng trở nên lâm thời đối lập nhau.
Ví dụ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
(Sóng – Xuân quỳnh)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
- Đối lâm thời suy luận trung gian.
- Đối lâm thời do áp lực của đối ổn định.
- Lâm thời do áp lực của lặp ngữ pháp.
1.2.3. Phép liên tƣởng
1.2.3.1. Khái niệm
Phép liên tưởng là một phương thức liên kết thể hiện ở việc sử dụng
trong chủ ngôn và kết ngôn những ngữ đoạn (từ hoặc nhóm từ) có liên quan
về nghĩa với nhau thông qua một số nét nghĩa chung và không chứa nét nghĩa
đối lập.
1.2.3.2. Phân loại theo phép liên tƣởng
Theo tính chất của mối quan hệ giữa chủ tố và liên tố, phép liên tưởng có
thể chia thành bảy kiểu:
- Liên tưởng bao hàm.
- Liên tưởng đồng loại.
- Liên tưởng định lượng.
- Liên tưởng định vị.
- Liên tưởng định chức.
- Liên tưởng đặc trựng.
- Liên tưởng nhân quả.
* Liên tưởng bao hàm
Liên tưởng bao hàm là kiểu liên tưởng mà chủ tố và liên tố chỉ những đối
tượng có quan hệ bao hàm với nhau. Quan hệ bao hàm ở đây là bao hàm giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
một cái chung, cái toàn thể với cái riêng, cái bộ phận chứ không bao hàm theo
kiểu giống, loại như ở thể đồng nghĩa lâm thời.
Ví dụ:
“Súc sắc súc sẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào!”
(Đồng dao)
Liên tưởng bao hàm có thể gặp ở hầu hết các loại yếu tố liên kết: loài
người, loài vật, hình tượng, khái niệm, hành động, sự viêc…
Liên tưởng bao hàm có độ liên kết rất mạnh. Nó dựa trên mối quan hệ
biện chứng chặt chẽ giữa cái riêng và cái chung.
* Liên tưởng đồng loại
Liên tưởng đồng loại là kiểu liên tưởng của những đối tượng đồng chất
ngang hàng nhau, không phân biệt được cái nào bao hàm cái nào. Chúng đều
là những cái riêng của cùng một cái chung, những giống của một loài.
Ví dụ:
“Những ngày xuân mới bắt đầu. Chim hót ơi ới đầu cành, ánh nắng lụa
nõn phủ trên trùm cây. Những vạt cỏ trở lại non tươi, xanh mơn mởn khắp
mặt đất cỏ xuân nhấp ngọt nhƣ đƣờng phèn”
(Dế Mèn phiêu lƣu kí – Tô Hoài)
Kiểu liên tưởng đồng loại có thể gặp ở hầu hết các loại yếu tố liên kết:
loài người, loài vật, hiện tượng, khái niệm…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Kiêu liên tưởng đồng loại khá gần kiểu đối lâm thời. Nó sẽ chuyển thành
đối lâm thời khi bị giới hạn trong hai đối tượng và ít nhất khi có từ nối liên
tưởng đi kèm.
* Liên tưởng định lượng
Liên tưởng định lượng là kiểu liên tưởng của những đối tượng đồng chất,
vì khi chúng thuộc cùng một loại ta có thể xem xét tính đếm về mặt số lượng.
Ví dụ:
“Hai đứa trẻ cũng có bộ mặt giống mẹ. Cả ba mẹ con không ai cƣời”
(Trần Mai Nam)
Kiểu liên tưởng định lượng có thể chia thành hai loại:
- Liên tưởng định lượng hợp – phân.
- Liên tưởng đối chiếu.
* Liên tưởng định vị
Liên tưởng định vị là kiểu liên tưởng giữa một đơn vị, một tĩnh vật hoặc
một hành động với vị trí tồn tại điển hình của nó trong không gian.
Ví dụ:
“Đồng nước tràn ngập tiếng sóng vỗ rì rào xao động. Gió vi vu thổi
ngang qua xuồng”
(Nước – Đinh Quang Nhã)
Chúng ta có thể liên tưởng định vị cho người, sự vật, đôi khi còn có thể
gặp định vị liên tưởng cho hiện tượng, cho hành động nhưng rất ít.
* Liên tưởng định chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Liên tưởng định chức là kiểu liên tưởng giữa đơn vị, tĩnh vật hoặc một
hoạt động với chức năng điển hình của nó.
Ví dụ:
“Bởi vậy, suốt một năm đầu , y là một ông thầy rất tận tâm. Y soạn bài,
giảng bài, chấm bài rất kĩ càng”
(Sống mòn - Nam Cao)
Liên tưởng định chức là kiểu liên tưởng phong phú nhất của phép liên
tưởng. Nó được dùng cho người, hiện tượng, hoạt động.
* Liên tưởng đặc trưng
Liên tưởng đặc trưng là sự liên tưởng giữa một tĩnh vật hoặc một hoạt
động với dấu hiệu điển hình đặc trưng cho nó.
Ví dụ:
“Con chim mày ở trên cây
Tao đứng dƣới gốc mày bay đƣờng nào”
(Đồng dao)
* Liên tưởng nhân._. quả
Liên tưởng nhân quả là kiểu liên tưởng giữa những từ ngữ chỉ nguyên
nhân (thường là sự vật, hành động, sự việc) và những từ ngữ chỉ kết quả.
Ví dụ:
“Trận lụt chƣa rút. Nƣớc mênh mông.”
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)
1.2.4. Phép tuyến tính
1.2.4.1. Khái niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Phép tuyến tính là phương thức liên kết thực hiện ở việc sử dụng trật tự
tuyến tính của các câu vào việc liên kết những câu có quan hệ chặt chẽ với
nhau về mặt nội dung.
Ví dụ:
“Hắn rút dao xông vào. Bá kiến ngồi nhổm dậy. Chí Phèo đã văng
dao tới rồi”
(Chí Phèo – Nam Cao)
Ở ba câu này đều có sự liên kết bằng phép tuyến tính vì khi thay đổi trật
tự của các câu thì nghĩa của chuỗi phát ngôn cũng thay đổi theo.
1.2.4.2. Phân loại phép tuyến tính
Xét mối quan hệ nội dung giữa các câu, phép tuyến tính có thể quy về hai
kiểu:
- Liên kết tuyến tính của những câu có quan hệ thời gian.
Ví dụ:
“Khi hoàng hôn buông xuống, mặt nước phương trời sáng lên
trong giây lát, đƣợm vẻ bao la, khêu gợi vô hạn lòng giang hồ.”
(Dế Mèn phiêu lƣu kí – Tô Hoài)
- Liên kết tuyến tính của những câu không có quan hệ thời gian.
Ví dụ:
“Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người
ta thổ. Dì thổ ra nước mắt”
(Dì Hảo – Nam Cao)
Ở ví dụ này sự liên kết diễn ra đồng thời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
1.2.5. Phép thế
Đây là phương pháp thay thế từ ngữ ở các câu đi trước bằng các từ ngữ
tương đương của các câu đi sau. Nhờ đó các câu này liên kết với nhau. Có thể
phân biệt thành một số loại nhỏ sau:
1.2.5.1. Phép thế đồng nghĩa
* Khái niệm
Phép thế đồng nghĩa là một phương thức liên kết thể hiện ở việc sử dụng
trong chủ ngôn và kết ngôn những ngữ đoạn (từ hoặc cụm từ) khác nhau có
cùng một nghĩa (chỉ cùng một đối tượng).
* Phân loại phép thế đồng nghĩa
Phép thế đồng nghĩa có cả hai yếu tố liên kết, kết tố ở phương thức liên
kết này được gọi là thế tố. Căn cứ vào các phương tiện dùng làm chủ tố và thế
tố, có thể phân loại phép thế đồng nghĩa thành bốn kiểu:
- Thế đồng nghĩa từ điển.
- Thế đồng nghĩa lâm thời.
- Thế đồng nghĩa phủ định.
- Thế đồng nghĩa miêu tả.
* Thế đồng nghĩa từ điển
Thế đồng nghĩa từ điển là kiểu thế đồng nghĩa ổn định mà cả hai yếu tố
liên kết là những từ đồng nghĩa (thường được cố định trong các từ điển đồng
nghĩa).
Ví dụ:
“Ăn ở với nhau đƣợc đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy
tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở lại một mình”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
(Mùa lạc – Nguyễn Khải)
Phép thế đồng nghĩa ngoài chức năng liên kết còn có thể sử dụng diễn đạt
những sắc thái ý nghĩa khác nhau.
* Thế đồng nghĩa phủ định
Thế đồng nghĩa phủ định là kiểu thế ổn định mà một trong hai yêu tố liên
kết là cụm từ cấu tạo từ từ trái nghĩa của yêu tố liên kết cộng với từ phủ định.
Ví dụ:
“Ngƣời Pháp đổ máu đã nhiều. Dân ta hi sinh cũng không ít”
(Hồ Chí Minh)
* Thế đồng nghĩa miêu tả
Thế đồng nghĩa miêu tả là kiểu thế không ổn định, có ít nhất một trong
hai yếu tố liên kết là cụm từ miêu tả một thuộc tính điển hình nào đó đủ để đại
diện cho đối tượng mà nó biểu thị.
Ví dụ:
“Bóng cá Chuối loáng cả dòng nƣớc, răng nhe trắng nhƣ lưỡi cưa, nó
lƣớt vào đến trƣớc mặt thì dòng nƣớc đang trong vắt bỗng đen sạm nhƣ nền
trời cơn mưa”
(Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài)
* Thế đồng nghĩa lâm thời.
Thế đồng nghĩa lâm thời là kiểu thế không ổn định mà chủ tố và thế tố là
những từ vốn không phải là từ đồng nghĩa sóng có quan hệ ngữ nghĩa bao
hàm (theo kiểu giống - loài). Trong đó có từ ngoại diên hẹp hơn (chỉ giống)
bao giờ cũng phải làm chủ tố, còn từ kia (có ngoại diên rộng hơn) bao giờ
cũng làm thế tố.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Ví dụ:
“Trâu đã già. Trông xa, con vật đẹp dáng”
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)
1.2.5.2. Phép thế đại từ
* Khái niệm
Phép thế đại từ là một phương thức liên kết thể hiện ở việc sử dụng trong
kết ngôn mà đại từ (hoặc đại từ hóa) để thay thế cho một ngữ đoạn nào đó ở
chủ ngôn.
- Phân loại phép thế đại từ
+ Phép thế đại từ khiếm diện dự báo.
Ví dụ:
“Trí thức là gì? Trí thức là hiểu biết”
(Dẫn theo Nguyễn Ngọc Thêm)
Ở ví dụ này đại từ “gì” là đại từ nghi vấn có liên kiết khiếm diện, dự báo
trước sự xuất hiện của câu sau.
+ Thế đại từ khiếm diện hồi quy
Ví dụ:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nƣớc. Đó là một truyền thống
quý báu của ta”
(Hồ Chí Minh)
1.2.6. Phép tỉnh lƣợc
1.2.6.1. Khái niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Phép tỉnh lượng là phương thức liên kết thực hiện ở việc tỉnh lược một số
yếu tố cần thiết ở kết ngôn. Muốn hiểu được hết nghĩa của kết ngôn thì cần
phải khôi phục yếu tố tỉnh lược và việc khôi phục các yếu tố tỉnh lược này
phải lựa vào một câu khác gần đó (vì yếu tố đó có mặt trong câu ấy).
1.2.6.2. Phân loại phép tỉnh lƣợc
Yếu tố tỉnh lược được gọi là lược tố. Câu chứa lược tố chính là kết ngôn,
còn câu làm cơ sở cho việc khôi phục yếu tố tỉnh lược là chủ ngôn. Tùy theo
chức năng của lược tố mà trong phép tỉnh lược liên kết có thể tách ra hai
trường hợp.
* Phép tỉnh lược yếu
Tỉnh lược yếu là việc rút bỏ trong câu kết những yếu tố tương ứng có mặt
trong câu chủ đề tạo liên kết, sự vắng mặt của những yếu tố lược bỏ này phá
vỡ tính hoàn chỉnh nội dung của câu kết nhưng vẫn không ảnh hưởng đến cấu
trúc nòng cốt của nó.
Ví dụ:
“Tôi khệ nệ bựng đặt lên đầu hè. Rồi đem đến một đôi guốc mộc, để
bên cạnh”
(Ông Ấm – Tô Hoài)
Ở ví dụ này, chủ ngữ đã được tỉnh lược ở kết ngôn.
Phép tỉnh lược yếu được chia thành các loại sau:
- Tỉnh lược bổ ngữ trực tiếp ở câu kết.
- Tỉnh lược bổ ngữ (trong cả bổ ngữ trực tiếp) ở câu kết.
- Tỉnh lược động từ đi sau trong chuỗi điện thoại ở câu kết.
- Tỉnh lược chủ ngữ ở câu kết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
- Tỉnh lược định ngữ của danh từ.
* Phép tỉnh lược mạnh
Phép tỉnh lược mạnh là phương thức liên kết của ngữ trực thuộc thực
hiện ở sự lược bỏ trong kết ngôn những yếu tố làm thành phần nòng cốt, dựa
vào sự có mặt của chúng trong chủ ngôn.
Ví dụ:
“Hai ngƣời đi qua đƣờng đuổi theo nó. Rồi ba bốn ngƣời, sáu bảy
ngƣời”
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)
Với từ nối “rồi” ở kết ngôn nên kết ngôn có thể tỉnh lược được vị ngữ và
thành phần phụ đã có ở chủ ngôn.
Căn cứ vào chức vụ cú pháp của yếu tố bị tỉnh lược có thể phân biệt tỉnh
lược mạnh thành các kiểu sau:
- Tỉnh lược trạng ngữ.
- Tỉnh lược chủ ngữ.
- Tỉnh lược đại từ ở vị ngữ.
- Tỉnh lược vị ngữ.
- Tỉnh lược đại từ ở vị ngữ.
1.2.7. Phép nối
1.2.7.1. Khái niệm
Khi hai hay nhiều câu nhờ quan hệ từ hay cụm từ có tác dụng chuyển tiếp
mà liên kết được với nhau, ta gọi cách liên kết đó là phép nối.
1.2.7.2. Phân loại phép nối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Căn cứ vào tính chất của các phương tiện nối mà phép nối được chia
thành hai loại.
* Phéo nối chặt
Phép nối chặt là phương thức liên kết của ngữ trực tiếp thuộc thể hiện
bằng sự có mặt của từ nối (liên từ, giới từ) ở chỗ bắt đầu (liên kết hồi quy)
hoặc chỗ kết thúc (liên kết dự báo) của nó, tạo thành một quan hệ ngữ nghĩa
hai ngôi giữa ngữ trực thuộc với chủ ngôn.
Ví dụ:
“Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh để tự giải phóng cả loài
ngƣời khỏi áp bức, bóc lột, cho nên lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích
của nhân dân là nhất trí”
(Hồ Chí Minh)
* Phép nối lỏng
Phép nối lỏng là phương thức liên kết thể hiện ở sự có mặt trong kết ngôn
những phương tiện từ vựng (từ, cụm từ) không làm biến đổi cấu trúc của nó
và diễn đạt một quan hệ ngữ nghĩa hai ngôi mà “ngôi” còn lại là chủ ngôn.
Ví dụ:
“Hai mụ Bọ Muỗm cứ vừa đánh vừa kêu, làm cho họ nhà Bọ Muỗm
ở gần đấy nghe tiếng. Thế là, cả một bọn Bọ Muỗm lốc nhốc chạy ra”.
(Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)
1.3. Vai trò của phép lặp trong liên kết văn bản thơ
Lặp là một hiện tượng thường thấy nhất trong các phát ngôn của mọi văn
bản. Về mặt sử dụng có thể thấy lặp có khả năng truyền cho văn bản tính
chính xác, rõ ràng, chặt chẽ. Chính vì vậy nó được dùng phổ biến để lặp các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
thuật ngữ trong văn bản hành chính, văn bản khoa học… Nhưng sự xuất hiện
của một từ nào đó sẽ gây ức chế với người đọc và chứng tỏ sự nghèo nàn về
vốn từ của người viết.
Tuy nhiên, trong các văn bản nghệ thuật phép lặp lại được sử dụng như
một thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca.
Bàn về thơ Sóng Hồng viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý,
tinh vi. Ngƣời làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong
lòng. Nhƣng thơ là một tình cảm và lí trí ấy đƣợc diễn đạt bằng những hình
tƣợng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên những nhạc điệu khác
thƣờng”. Chính vì điều này mà ngôn ngữ thơ có những đặc điểm riêng biệt để
phân biệt nó với ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ kịch. Điểm riêng biệt đó là
thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa từ ngữ trên
những trang giấy mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ. Tính nhạc
là nét đặc thù cơ bản của tác phẩm thơ. Có rất nhiều yếu tố tạo lên tính nhạc
cho thơ: cách hợp vần, ngắt nhịp, phối thanh, các biện pháp điệp ngữ, điệp
âm… Tuy có ý kiến cho rằng không có vần thì không thể gọi là thơ. Sức
mạnh của vần được nhà thơ Xuân Diệu nhận định “Vần, nhịp là gì? Nếu
không phải là những cái ngăn cản vờ để tâm hồn trú ngụ. Con ngựa chỉ bất
kham khi ngƣời cƣỡi ngựa yếu bóng vía, khi con ngựa lồng lộn đã chịu cƣơng
rồi, nó đi nhanh hơn ngựa thƣờng”.
Một văn bản liên kết tất yếu phải có lặp ngữ âm, lặp từ vựng, lặp ngữ
pháp. Vì các đối tượng của hiện thực luôn nằm trong những mối quan hệ đa
dạng khác nhau và được xem xét dưới nhiều góc độ. Để thực hiện những mối
quan hệ và những góc độ xem xét ấy, trong một văn bản hình tuyến tất yếu
phải sử dụng một trong ba tiểu loại của phép lặp. Chính điều này sẽ tạo ra tính
liên kết cho văn bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Có thể nói phép lặp là một biện pháp tu từ được sử dụng trong các văn
bản văn học. Giá trị nhấn mạnh và biểu cảm của phép lặp được hình thành
trong mối quan hệ ngữ cảnh với những từ khác trong chuỗi lời nói. Việc sử
dụng phép lặp bao giờ cũng gắn liền với sự tăng tiến hoặc vận động của ý
nghĩa cảm xúc. Một điều cần chú ý khi phân tích hiện tượng lặp đó là: về mặt
hình thức nó là sự lặp lại , nhưng về nội dung thì hiện tượng đó lại muốn nhấn
mạnh một giá trị nào đó mà tác giả muốn gửi gắm.
Phép lặp nghệ thuật trong thơ là một sự nhắc lại theo ý đồ của tác giả.
Thơ liên kết với nhau theo các dòng thơ, thể hiện một nội dung ngữ nghĩa,
một chủ đề, một “tứ” thơ nào đó. Trong giao tiếp ngôn ngữ, nhiều khi có
nhiều yếu tố tưởng như “thiếu” (tỉnh lược) và tưởng như “thừa” (lặp). Nhưng
sự thiếu và sự thừa đó vẫn đem lại một hiệu ứng ngữ nghĩa riêng. Chúng tôi
muốn qua các tác phẩm thơ của Hữu Thỉnh – một nhà thơ nổi tiếng trong thời
kì chống Mĩ để khảo sát hiện tượng lặp dưới góc độ phân tích liên kết văn
bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Chƣơng 2
PHÉP LẶP TỪ VỰNG
VÀ LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ HỮU THỈNH
2.1. Lí thuyết về hiện tƣợng lặp
2.1.1. Hiện tƣợng lặp
2.1.1.1. Khái niệm lặp
“Lặp là nhắc lại giống y như cái đã có trước” [16, tr. 547].
Hiện tượng lặp được sử dụng một cách có dụng ý trong các văn bản nghệ
thuật tạo nên giá trị liên kết và giá trị tu từ. Đó là một dụng ý nghệ thuật, một
tín hiệu thẩm mĩ mà chúng ta cần đi sâu khai thác.
2.1.1.2. Các phƣơng thức lặp trong tiếng Việt.
“Phương thức lặp là phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn nhưng yếu tố đã có ở chủ ngôn” [20, tr. 87].
Căn cứ vào tính chất của lặp tố phương thức lặp chia thành 3 dạng thức:
lặp ngữ âm, lặp từ vựng, lặp ngữ pháp.
- Lặp ngữ âm:
Là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn những yếu tố ngữ âm (như âm tiết, số lượng âm tiết, khuôn vần…) đã có
ở chủ ngôn.
Ví dụ:
“Long lanh đáy nƣớc in trời
Thành xây khói biếc non xây bóng vàng”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Lặp từ ngữ
Là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn những yếu tố từ vựng (từ, cụm từ) đã có ở chủ ngôn.
Vídụ:
“Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xƣa
Nghe trăng thở động tàu dừa
Rào rào nghe chuyển cơn mƣa giữa trời”
(Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa)
- Lặp ngữ pháp:
Là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại trong kết
ngôn những cấu trúc ngữ pháp đã có ở chủ ngôn.
Ví dụ:
“Của ong bƣớm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đông nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ lơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Như vậy phương thức lặp được chia thành ba dạng thức chủ yếu trong đó
lặp từ vựng và lặp ngữ pháp là một bộ phận của phương thức lặp. Trong phạm
vi luận văn chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu về 2 dạng thức: lặp từ vựng và lặp
ngữ pháp để có cái nhìn cụ thể, rõ ràng về hiện tượng này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
2.1.2. Phép lặp từ vựng
2.1.2.1. Khái niệm.
Lặp từ vựng đựợc sử dụng như một biện pháp tu từ bằng cách lặp lại một
từ hay một cụm từ trong câu hoặc những câu nằm liền nhau nhằm tạo nên một
màu sắc tu từ.
Lặp vựng là một phương thức liên kết các câu trong văn bản, là một dạng
thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn những từ, cụm
từ đã có ở chủ ngôn nhằm liên kết và làm nổi bật chủ đề văn bản.
2.1.2.2. Đặc điểm của lặp từ ngữ
Việc sử dụng hiện tượng lặp một cách có ý thức trong văn bản đều thực
hiện được các chức năng cơ bản của phép lặp nói chung. Đó là chức năng liên
kết và chức năng tu từ.
Hiện tượng lặp lại có ý thức, có tính chủ động nhằm tạo nên những ấn
tượng mới mẻ, nhấn mạnh một sắc thái ý nghĩa, một sắc thái biểu cảm nào
đó…khi đó phép lặp đã thực hiện được mục đích tu từ.
Phép lặp thực hiện được mục đích liên kết khi nó được dùng để tạo nên
tính liên kết trong văn bản, tức là giữa các câu có sự liên kết logic một cách
chặt chẽ, gắn bó với nhau cả về nội dung và hình thức. Như vậy lặp từ ngữ là
một dạng thức liên kết dùng để thực hiện liên kết chủ đề của văn bản.
Các nhà nhiên cứu có sự phân loại khác nhau về hiện tượng lặp từ ngữ,
chúng tôi sẽ tổng hợp các ý kiến đó để có thể làm nổi bật đặc điểm phân loại
của hiện tượng này.
- Về mặt cấu trúc, cấu tạo lặp từ ngữ được chia làm 4 loại sau:
+ Lặp nối tiếp: là dạng lặp trong đó từ ngữ được lặp lại đứng liền nhau,
nốitiếp nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Ví dụ:
“Ngày mai ra trận rồi
Ngày mai, ngày mai, nếu chúng mình không trở về
Cậu có nhớ lối rẽ vào nhà mình không cậu?”
(Trần Đăng Khoa)
+ Lặp vòng tròn (lặp cuối - đầu): là dạng lặp trong đó từ ngữ ở cuối câu
trước được lặp lại ở chữ đầu của câu sau.
Ví dụ:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm)
+ Lặp đầu - cuối: là dạng lặp trong đó yếu tố được lặp đứng đầu câu còn
yếu tố lặp đứng cuối câu.
Ví dụ:
“Ăn thì ăn những miếng ngon
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm”
(Ca dao)
- Cũng căn cứ về mặt cấu trúc có thể chia hiện tượng lặp từ vựng thành
hai loại: lặp đầu và lặp cuối.
+ Lặp đầu: là việc lặp lại một vài yếu tố ở đầu câu trong một số câu tiếp
theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Ví dụ:
“Đội ơn Thầy, đội ơn Má sinh con.
Cảm ơn Thầy vƣợt đèo Ngang bất kể!
Cảm ơn Má biết yêu ngƣời xứ Nghệ,
Nên máu con chung hòa hai miền”.
(Cha đằng ngoài, mẹ đằng trong – Xuân Diệu)
+ Lặp cuối: là việc lặp lại một vài yếu tố ở cuối câu trong một số câu tiếp
theo.
Ví dụ:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”
(Đất nƣớc – Nguyễn Đình Thi)
- Căn cứ vào kích thước của chủ tố và lặp tố ta có thể chia thành lặp từ và
lặp cụm từ. Trong cụm từ ta có thể phân ra lặp hoàn toàn và lặp bộ phận.
+ Lặp từ:
Ví dụ:
“Thề xuân dù chẳng vuông tròn,
Khóa buồng xuân lại vẫn còn sầu xuân.”
(Sầu xuân - Hàn Mạc Tử)
+ Lặp ngữ:
Lặp hoàn toàn
Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử)
Lặp bộ phận:
Ví dụ:
“Trƣớc hết phải có phương pháp học tập đúng đắn. Phương pháp có
đúng thì kết quả mới cao”
- Căn cứ vào bản chất từ loại của chủ tố và lặp tố có thể chia lặp từ ngữ
thành lặp cùng từ loại và lặp chuyển từ loại.
+ Lặp cùng từ loại:
Ví dụ:
“Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trƣớc, kiến già theo sau
Cầm hƣơng, kiến Đất bạc màu áo tang
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang”
(Trần Đăng Khoa)
+ Lặp chuyển từ loại
Ví dụ:
“Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
- Căn cứ vào chức năng làm thành phần phát ngôn của chủ tố và lặp tố có
thể chia ra lặp cùng chức năng và lặp chuyển chức năng.
+ Lặp cùng chức năng:
Ví dụ:
“Tôi yêu trời nguyệt bạch,
Tôi say màu thanh thiên,
Tôi ƣng cả thuyền quyên
Ở trong pho tình sử”
(Cao hứng – Hàn Mạc Tử)
+ Lặp chuyển chức năng
Ví dụ:
“Tôi sắp phải đi công tác xa. Nhƣng sức khỏe của tôi quá yếu”
Trong các văn bản nghệ thuật, lặp từ vựng chính là một biện pháp nghệ
thuật. Giá trị nhấn mạnh và giá trị biểu cảm của lặp từ vựng được hình thành
trong mối quan hệ ngữ cảnh với những từ khác trong chuỗi lời nói. Ngoài ra
trong các văn bản nghệ thuật lặp từ vựng tự thân nó đã chứa sự lặp ngữ âm
nên nó tạo cho văn bản tính nhịp điệu, tính nhạc. Mặt khác khi lặp từ vựng
được đẩy tới mức cực đoan nó có tác dụng nhấn mạnh vào hiện tượng được
nói tới đồng thời làm nổi rõ sự khác biệt.
Một đặc điểm nữa của phép lặp từ vựng trong các văn bản nghệ thuật là
nó có thể có dạng liên kết bắc cầu trên khoảng cách tương đối lớn có khi từ
đầu đến cuối văn bản. Chính sự liên kết bắc cầu ấy là chìa khóa để chúng ta
hiểu thêm văn bản. Đồng thời chỉ trong văn bản nghệ thuật lặp từ vựng mới
phát huy được đầy đủ khả năng tu từ học của mình đặc biệt là với thơ ca.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Một văn bản liên kết tất yếu phải có lặp từ vựng. Đây chính là hệ quả do
mâu thuẫn giữa tính hình tuyến của văn bản và tính nhiều chiều của hiện thực
đưa ra. Sở dĩ có điều này là do các đối tượng của hiện thực luôn nằm trong
các mối quan hệ đa dạng khác nhau và được xem xét dưới nhiều góc độ. Để
thực hiện những mối quan hệ và những góc độ xem xét ấy, trong một văn bản
tính hình tuyến bắt buộc đối tượng phải xuất hiện nhiều lần tức là tên gọi của
đối tượng phải lặp lại. Vì thế ở bất kì một chuỗi phát ngôn nào thì lặp từ vựng
xuất hiện cũng có tính liên kết văn bản.
Khi sử dụng lặp từ vựng cũng như khi phân tích lặp từ vựng cần luôn
luôn ý thức rằng về hình thức nó là sự lặp lại, nhưng về nội dung thì nó là sự
nhấn mạnh và mở rộng ý.
2.1.3. Phép lặp ngữ pháp
2.1.3.1. Khái niệm lặp ngữ pháp
Lặp ngữ pháp là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp
lai trong kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lặp lại cả một số hư từ mà
chủ ngôn đã sử dụng.
2.1.3.2. Đặc điểm của lặp ngữ pháp
Sự tương ứng về cấu trúc cú pháp đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho
văn bản. Chính nhờ các phát ngôn trong văn bản lặp ngữ pháp nên đã tạo ra
sự liên két nội dung, mà rõ nhất là liên kết chủ đề.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn, có thể phân loại
phép lặp ngữ pháp thành bốn tiểu loại: lặp đủ, lặp thiếu, lặp thừa, lặp khác.
- Lặp đủ: là toàn bộ cấu trúc của chủ ngôn với đầy đủ các thành ph ần của
nó được lặp lại hoàn toàn ở kết ngôn .
Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
“Hoa thơm thì nín lặng
Hƣơng thơm thì bay lan”
(Sáng trăng – Hàn Mạc Tử)
- Lặp thiếu: là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận trọng kết ngôn .
Ví dụ:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
(Từ ấy – Tố Hữu)
- Lặp thừa: là ngoài cấu trúc của chủ ngôn , trong kết ngôn còn chứa thêm
một bộ phận nào đó của chủ ngôn không có .
Ví dụ:
“Lắng nghe trăng giải bên thềm
Lắng nghe trăng giải bên thềm… ái ân!”
(Bao la sầu – Lưu Trọng Lư)
- Lặp khác : là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có bộn phận đượ c lặp lại trong
kết ngôn.
Ví dụ:
“Những manh buồn xơ xác phủ vai gầy
Những chân run bấm ngót trên đƣờng lầy”
(Xuân đến – Tố Hữu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
2.2. Đôi nét về ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại làng Phú Vinh, xã Duy
Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc trong một gia đình nông dân có
truyền thống Nho học.
Ông tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu, hội viên Hội nhà
văn Việt Nam từ năm 1976. Hữu Thỉnh là học viên đầu tiên của trường viết
văn Nguyễn Du, từng đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng ban thơ, Phó Tổng
biên tập tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Phó Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam,
Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ…Tác phẩm
chính đã xuất bản: Âm vang chiến hào (thơ, in chung, 1976); Đường tới thành
phố (trường ca, 1979); Từ chiến hào tới thành phố (thơ ngắn, trường ca,
1985); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung, 1985); Thư mùa Đông (thơ,
1994); Trường ca biển (trường ca, 1994); Thơ Hữu Thỉnh (thơ tuyển, 1998);
Sức bền của đất (trường ca, 2004); Thương lượng vói thời gian (thơ 2005)….
Có lẽ bạn đọc đến với thơ Hữu Thỉnh trước nhất qua những vần thơ về
chiến tranh. Là người trực tiếp cầm súng nên ông có điều kiện thấm thía hơn
ai hết chân giá trị của dân tộc và của mỗi người được đem ra thử thách với
cuộc chiến tranh tàn khốc nhưng cũng vô cùng oanh liệt. Khi viết “Đường tới
thành phố”, bút lực của Hữu Thỉnh vô cùng dồi dào. Cấu trúc từng chương,
từng khúc vừa có hình tượng thơ độc lập, lại có những liên kết với nhau, tạo
thành một chỉnh thể thống nhất. Hữu Thỉnh đã phơi bày trước mắt bạn đọc
một trận mạc không mấy tô hồng:
“Gạo chỉ mang đủ mƣời ngày còn dành mang súng
Còn mang thuốc
Còn mang nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Mang bao nhiêu tai biến dọc đƣờng”
Đôi khi có những vần thơ đọc lên mà ta thấy người làm thơ không nhờ
cậy chút nào vào sức mạnh của liên tưởng. Chỉ nhìn, nghe và nghi lại những
gì hiện ra trước mắt mình vậy mà vẫn rất thơ:
“Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trƣờng Sơn
Ngƣời sốt rét hát cho ngƣời sốt rét
Đƣờng ngổn ngang đƣờng đất còn cháy khét
Cây mát cho ngƣời ngƣời mát cho nhau”
Nhịp thơ ngắt làm đôi, đều đặn mà không phân cách. Ý thơ được nối liền
nhân đôi, nhân ba lên tạo cho câu thơ ngân nga, vang sâu.
Bên cạnh những câu thơ hết sức chân thực về cuộc chiến tranh oanh liệt
của dân tộc đó, Hữu Thỉnh vẫn sáng tạo nên những câu thơ rất giàu mỹ cảm.
Đó là những câu thơ mô tả những người lính đảo trên bãi cát mép đảo:
“Ngồi ghép nhau bao nỗi nhớ nhà
Chiều áo rộng vài vạt mây hờ hững
Họ cứ ngồi nhƣ chum vại hứng mƣa”
Hoặc những câu thơ trữ tình về cuộc đời người mẹ trong quá khứ buồn
khổ:
“Mẹ đành gọi bán lúa non
Liềm hái buồn quang gánh cũng buồn
Rơm rạ sang làm khói bếp nhà ngƣời”
Cũng như bao trí thức và văn nghệ sĩ chân chính, khi cuộc sống bước
sang thời kì đổi mới Hữu Thỉnh cũng có những thay đổi trong ngôn ngữ thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
của mình. Nhà thơ mặc dù hướng tới cái cổ điển nhưng ngôn ngữ thơ vẫn đạt
được độ liên tưởng, sinh động:
“Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn
Gió đi tìm khói chon von mấy đồi”
Ngoài ngôn ngữ thơ chân thực, giàu liên tưởng Hữu Thỉnh còn có những
vần thơ rất súc tích nhưng vẫn đạt được ý tứ sâu và sức liên tưởng thật rộng:
“Chƣa viết giấy đã cũ
Chƣa viết sông đã đầy
Đám cƣới đi qua có ngƣời đứng khóc”
Ngay cả những bài thơ tình yêu, đáng lẽ ra thường viết dài để giãi bày
được nhiều song Hữu Thỉnh cũng sử dụng ngôn từ rất ngắn gọn:
“Chúng ta buồn cũng vì nhau
Trời thấy vậy cho mùa xuân trở lại”
Nói đến ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh không thể không nhắc đến những vần
thơ tình chan chứa cảm xúc nhưng lại chất chứa chuyện nhân tình thế thái:
“Trái đất chẳng rộng đâu
Ta hoang dại, dƣới mặt trời
Lấy tình yêu làm mái nhà che chở”
Hay:
“Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồn một chút đã cô đơn”
Hữu Thỉnh vẫn tiếp tục con đường thơ của mình bằng một bản lĩnh sống
và một bản lĩnh sáng tạo. Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
nghệ thuật tạo hình, sử dụng ngôn ngữ, và tài cấu trúc bài thơ của tác giả. Con
đường thơ của Hữu Thỉnh chắc chắn sẽ vẫn còn tiếp tục, bởi khi suy nghĩ về
thơ tác giả có bộc bạch: “Tôi rất tin: Thơ là kinh nghiệm sống”.
2.3. Kết quả khảo sát và thống kê phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp
trong thơ Hữu Thỉnh
2.3.1. Kết quả khảo sát phép lặp từ vựng trong thơ Hữu Thỉnh
2.3.1.1. Lặp từ
Như đã trình bày ở cơ sở lí luận hiện tượng lặp từ vựng được các tác giả
phân loại khác nhau bởi họ nhìn nó ở các góc độ khác nhau. Trong đề tài này
để hướng tới tính liên kết của văn bản chúng tôi tiến hành khảo sát theo tiêu
chí của Trần Ngọc Thêm:
- Tiêu chí cấu tạo ngữ pháp
- Tiêu chí về vị trí của yếu tố lặp
Căn cứ vào cấu tạo ngữ pháp của yếu tố lặp, chúng tôi phân loại, thống
kê hiện tượng lặp trong thơ Hữu Thỉnh thành 2 loại: lặp từ và lặp ngữ. Số liệu
cụ thể được thống kê qua bảng dưới đây:
Phân loại Lặp từ Lặp ngữ Tổng
Số phiếu 225 152 377
Tỉ lệ % 59,7% 40,3% 100%
Lặp từ
Căn cứ vào đặc điểm ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ chúng tôi tiếp
tục phân chia hiện tượng lặp từ thành các tiểu loại sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
- Lặp danh từ
Danh từ là những từ gọi tên sự vật, sự việc. Sự vật có thể là người hoặc
các sự vật hiện tượng trong tự nhiên.
Chúng tôi nhận thấy lặp danh từ là một hiện tượng phổ biến trong thơ
Hữu Thỉnh. Số lượng chứa lặp danh từ là 107/225 lần chiếm 47,6%
Ví dụ:
“Anh giở bức hình chụp những năm còn trẻ
Anh ngó ngơ nhƣ một kẻ xa lạ”
(Một lần lỡ hẹn)
Ví dụ:
“Ƣớc gì gửi cát cho em nhỉ
Để cát mang về những dấu chân
Những đêm xô cát đi tuần đảo
Gió cát lùa ngang trắng áo quần”
(Gửi từ đảo nhỏ)
- Lặp động từ.
Động từ là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, trạng thái của
người, của vật hay sự việc.
Trong thơ Hữu Thỉnh sau danh từ thì lặp động từ được sử dụng với số
lượng lớn thứ hai: 35/225 lần chiếm 15,5%
Ví dụ:
“anh tôi mất sau loạt bom tọa độ
mất chỉ còn cách nƣớc một vài gang”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
(Phan Thiết có anh tôi)
Ví dụ:
“các chiến sĩ quen nghĩ bằng trận đánh
quen hi sinh, quen đột biến từng giờ
họ làm nên những chiến trƣờng giông bão”
(Xuân 1975)
- Lặp tính từ
Tính từ là những thực từ chỉ đặc điểm, tính chất của người, vật, sự việc.
Theo thống kê số phiếu thu được của hiện tượng lặp tính từ khiêm tốn chỉ
có 6/225 lần chiếm 2,6%.
Ví dụ:
“Đƣờng ngổn ngang đƣờng đất còn cháy khét
Cây mát cho ngƣời , ngƣời mát cho nhau”
(Tiếng hát trong rừng)
- Lặp phó từ
Phó từ là hư từ, hầu như không có ý nghĩa từ vựng cụ thể. Chúng thường
diễn đạt các ý nghĩa phạm trù, ý nghĩa thời thể, ý nghĩa mức độ, ý nghĩa số
lượng…
Chúng tôi thống kê có 19/225 lần lặp chiếm 8,4%.
Ví dụ:
“suối cứ âm thầm nuôi lớn biển
cứ âm thầm chảy xiết với thời gian”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
(Khúc một: Bàn đạp)
Ví dụ:
“đời vật vờ trôi nổi
những nén nhang, những mâm bông mâm trái
nƣớc lã đổ đi, nƣớc lã lại đem thờ”
(Chương 5: Tự do)
- Lặp kết từ
Kết từ là những hư từ cú pháp chuyên dùng để nối kết các từ, các câu và
biểu hiện mối quan hệ ngữ pháp giữa các thành phần được nối kết ấy.
Trong thơ Hữu Thỉnh chúng tôi thống kê có 15/225 lần lặp, chiếm 6,6%.
Ví dụ:
“Tôi với chiến sĩ xe tăng cầu Chaki tắm mát
Một số anh thì đuổi nhau trên cát
Một số anh thì đổ dế hái hoa”
(Sau trận đánh)
Ví dụ:
“cánh lính trẻ lại tha hồ đƣợc dịp
tƣởng tƣợng bằng cái vốn mang theo
tất cả bắt đầu bằng nhịp chèo cắt nƣớc
đồng chí quê mạn ngƣợc
quả quyết ngƣời lái đò có vạt áo chàm tƣơi”
(Chuyến đò đêm giáp ranh)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
- Lặp trợ từ
Trợ từ là những từ có mặt trong câu để nhấn mạnh hay biểu lộ tình cảm,
cảm xúc cho người nói.
Qua quá trình khảo sát chúng tôi thống kê có 9/225 hiện tượng lặp sử
dụng kết từ chiếm 4,0%.
Ví dụ:
“những chiếc xe tăng đòi anh nguyên vẹn
những vết thƣơng đòi anh lành lặn”
(Một lần lỡ hẹn)
Ví dụ:
“mang thơm nức những triền sông cây quả
đến những đảo xa
những quả trứng giập giờn giữa sóng
những nhớ thƣơng không ở ngoài tầm”
(Hồi âm)
- Lặp số từ
Số từ là những từ biểu thị ý nghĩa số. Xét theo đối tượng phản ánh trong
nhận thức và tư duy, ý nghĩa số vừa có tính chất thực (khái niệm số thường
gắn với khái niệm thực), vừa có tính chất hư (không tồn tai như những._. ở thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
đại đó cũng cảm nhận được ngọn lửa của lòng quyết tâm, của một ý chí và
nghị lực sẽ tin tưởng và một ngày mai chiến thắng. Mỗi cấu trúc câu được lặp
lại như một lời thúc giục các chiến sỹ hãy tiến lên về phía trước bằng tất cả
sức lực và lòng quyết tâm dành độc lập.
Ví dụ:
“Anh đi hái rau và đôi khi lại vấp
Anh còn lại sau những lần thay quân
Sau những lần hổ vồ
Sau những lần voi đuổi
Sau bữa canh nấm độc cào gan
Giặc đổ quân vào hậu cứ sƣ đoàn
Hất anh qua biên giới
Thêm một chỗ ngồi thƣ thả bóc măng”
(Những người mới đến)
Lời thơ vang lên có lúc thấy như thể hiện một nỗi niềm suy tư, một lời
tâm sự nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, lúc lại thấy xót xa cho
chính số phận của mình. Chính cách lặp ngữ pháp (phép lặp thiếu) như muốn
khắc sâu sự sống còn giữa còn và mất chỉ trong gang tấc. Chiến tranh là khắc
nghiệt vậy đó, nhưng mỗi người lĩnh vẫn luôn phải vượt lên trên tất cả: “sau
lần hổ vồ”, “lần voi đuổi”, “canh nấm độc cào gan” để sống và chiến đấu. Lời
thơ lúc quyện chặt lúc nhấn mạnh, lúc dồn dập dứt khoát, cất lên như những
nét nhạc trầm bằng giai điệu ngôn từ. Nó đã để lại một khoảng lặng trong
lòng người đọc về một cuộc chiến tranh ác liệt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
3.2.2. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên giá trị nhận thức
Theo từ điển tiếng Việt thì nhận thức là: “quá trình hoặc kết quả phản
ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, quá trình con người nhận biết, hiểu
biết thế giới khách quan, vậy giá trị nhận thức là những giá trị đem lại cho con
người sự hiểu biết”.
Đọc những trang thơ của Hữu Thỉnh ta nhận thấy nó mạng lại cho người
đọc những giá trị nhận thức mới. Đó là những dấu ấn khó quên của tác giả
trong những năm đánh giặc gian khổ và anh hùng của đất nước. Mỗi bài thơ
phần nào đó hé mở cho người đọc rất nhiều hiểu biết về cuộc chiến tranh thần
thánh của dân tộc, những bên cạnh đó vẫn có những cảm xúc lãng mạn, hiện
thực đan xen.
Ví dụ:
“Thần tốc, thần tốc hơn nữa
Táo bạo, táo bạo hơn nữa
Hành khúc các binh đoàn hất kẻ thù ra biển”
(Khúc 3: Thần tốc)
Ở ví dụ trên cấu trúc câu được lặp lại hoàn toàn. Ngoài ra trong từng câu
từ ngữ được lặp lại “thần tốc” “táo bạo” và đứng nối tiếp nhau. Điều này giúp
chúng ta cảm nhận một khí thế chiến trận qua từng chữ, từng câu trong đoạn
thơ. Tác giả đã rất khéo léo sử dụng phép lặp ngữ pháp để không mất công
miêu tả nhưng vẫn mang lại giá trị ngữ nghĩa mà mình muốn truyền đạt tới
người đọc.
- Lặp ngữ pháp có tác dụng khẳng định rõ ràng, dứt khoát một việc cụ
thể.
Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
“Thêm một ngƣời bị cắm cọc bêu đầu
Thêm một ngƣời bị lôi đi mất tích
Thêm một ngƣời bị chụp ảnh lăn tay
Thêm một làng bị quăng bom hủy diệt”
(Khúc 1: Bàn đạp)
Ở ví dụ trên cấu trúc câu lặp lại thuộc nhóm lặp thiếu theo mô hình: A-B-
C. A-B-D. Cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận được lặp lại trong kết
ngôn. Mỗi phát ngôn được nhắc lại có một phần khác nhau: “cắm cọc bêu
đầu” “lôi đi mất tích” “chụp ảnh lăn tay” “quăng bom hủy diệt”. Chính điều
này đã cho phép thoát khỏi sự gò bó chặt chẽ của lặp đủ, cho phép sử dụng
cấu trúc phát ngôn một cách uyển chuyển tuy nhiên vẫn giữ được tính cân đối
của nó. Với cách làm này Hữu Thỉnh như muốn khắc sâu những tội ác mà bọn
chúng đã gây ra. Hành động như xảy ra một cách liên tục, không ngừng: cuộc
càn sẽ không bao giờ dứt cho đến khi nhổ cộng sản sạch trơn
Ví dụ:
“còn ao ước nào hơn
tự do và đoàn tụ
vào rừng lấy mật và đẵn gỗ
thương mẹ và yêu con
còn hạnh phúc nào hơn
Tổ quốc”
(Những người mới đến)
Trong ví dụ trên cấu trúc câu được lặp lại nhưng có sự tham gia của lặp
từ vựng (hư từ). Các cấu trúc câu không hoàn toàn cân đối về mặt hình thức:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
lặp nhưng có chêm xen ở câu thứ 3. Không câu nệ sự sai biệt đôi chút về một
thành phần nào đó nhưng chính cách lặp này vẫn mang lại sự khẳng định về
những ao ước rất giản dị nhưng cũng rất thiêng liêng của người lính. Ngoài ra
trong đoạn thơ trên còn có sự tham gia của lặp bắc cầu nhờ vào sự hỗ trợ của
của các cặp lặp ngữ pháp xen kẽ nhau. Chính sự tương đồng về mặt vị trí này
đã giúp cho đoạn thơ có sự liên kết chặt chẽ hơn. Sự khẳng định bằng cách
lặp lại cấu trúc đó có sức thuyết phục hơn về những ao ước, hạnh phúc của
những người lính trong kháng chiến.
Ví dụ:
“Sau bản Đông giải phóng vài ngày
Tôi với chiến sỹ xe tăng cầu Chaki tắm mát
Một số anh thì đuổi nhau trên cát
Một số anh thì đổ dế, hái hoa
Các anh không nói nhiều về chiến thắng những ngày qua
Chỉ mong mƣa cho đồng bào gieo lúa”
(Sau trận đánh)
Trong ví dụ trên cấu trúc câu được lặp lại cũng thuộc nhóm lặp khác.
Nhờ việc sử dụng phép lặp ngữ pháp (lặp khác) tác giả đã sử dụng cấu trúc
phát ngôn một cách uyển chuyển khắc họa được việc làm của những chiến sĩ
sau những trận đánh: “đuổi nhau trên cát”, “đổ dế, hái hoa” mới thật sự hồn
nhiên biết bao. Sau những căng thẳng, nguy hiểm của cuộc chiến họ lại trở về
hòa mình vào thiên nhiên, đắm mình trong những giây phút tinh nghịch của
tuổi thơ.
Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
“khi anh lên ôm bộc phá lao lên
khi anh xuống dìu đồng đội ngã
khoảng cách giữa hai chớp lửa
không kịp cho anh khoét một căn hầm”
(Khúc 2: Mở cửa)
Trong ví dụ trên cặp từ đối chọi nhau về nghĩa lên/xuống được sử dụng
trong cấu trúc câu lặp lại đã giúp việc biểu đạt được sự đối lập giữa hai hành
động thêm rõ ràng. Chủ thể hành động là “anh” nhưng tham gia hai hành
động trong vị trí đối chọi nhau. Hữu Thỉnh đã rất khéo léo sử dụng cách lặp
ngữ pháp để nhấn mạnh vào hành động của đối tượng nhưng không gây ra
cảm giác đơn điệu mà vẫn xây dựng lên hình tượng của một người lính dũng
cảm, kiên cường trong chiến đấu.
- Lặp ngữ pháp để phủ định một điều gì đó.
Ví dụ:
“Con đƣờng chỉ một con đƣờng thôi
Anh không ngại phong thư có những dòng dang dở
Anh không ngại đỉnh đèo những thân cây gục đổ
Anh không ngại nghìn hôm chẳng được thấy em
Trong cuộc chiến tranh này
Đừng để ngƣợng với nhau khi gặp mặt
Lại trận bom tụt đằng sau tháp pháo của ta rồi”
(Ý nghĩ không vần)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Bài thơ chính là những “ý nghĩ không vần” của người chiến sĩ trên con
đường chiến dịch. Cả ba câu trên đều có kiểu cấu tạo chủ ngữ - vị ngữ. Tuy
nhiên thành phần vị ngữ ở mỗi phát ngôn vẫn có một phần khác nhau riêng:
C-không ngại V. Mặc dù có sự khác nhau này nhưng chúng thuộc nhóm lặp
cân vì thế vẫn tạo ra sự liên kết giữa các câu. Đoạn thơ hướng về nội dung đó
là sự phủ định của người chiến sĩ trước những khó khăn trong cuộc hành quân
vì dân tộc này. Anh dường như đã bỏ lại sau những trăn trở trong cuộc sống
để hướng về mục tiêu chung đó là Tổ quốc.
Ví dụ:
“Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu
Nếu không đƣa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em”
(Thơ viết ở biển)
Cấu trúc câu thơ được lặp lại hoàn toàn nhưng thuộc nhóm lặp khác. Tuy
nhiên vẫn giữ được sự cân đối của các phát ngôn liên kết. Ta thấy phần giao
(bộ phận lặp lại) chính là bộ phận chủ yếu để tạo nên sự liên kết. Ở hai câu
thơ trên chủ thể là hai đối tượng khác nhau nhưng đều có một hành động
chung đó là sự phủ định “không phải là” sau đó đến sự lặp lại của hư từ “mà”
và đến bộ phận được lặp lại nhưng khác nhau về ngữ nghĩa. Tuy nhiên sự
khác nhau đó không ảnh hưởng gì đến cấu trúc của đoan thơ mà trái lại còn
làm cho lời thơ uyển chuyển, nhịp nhàng hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
- Lặp ngữ pháp có tác dụng kích thích, thúc dục.
Ví dụ:
“Thần tốc, thần tốc hơn nữa
Táo bạo, táo bạo hơn nữa
hành khúc các bình đoàn hất kẻ thù ra biển
ta nghe
nhật lệnh – lửa mặt trời”
(Khúc 3: Thần tốc)
Cấu trúc thơ được lặp lại tạo ra một khí thế chiến đấu: nhanh chóng,
bừng bừng. Lời thơ như thúc dục, khích lệ những người lính phải cố lên dù
con đường phía trước là gian khổ, hiểm nguy.
Ví dụ:
“anh đang ở bên này thành phố
cách một mệnh lệnh
cách một trận đánh
cách một cây cầu, cách một đêm nay
đèn thành phố hắt lên áo anh
soi rất rõ từng chiếc khuy sứt mẻ
thành phố càng gần
càng không dám nghĩ nhiều đến mẹ”
(Tờ lịch cuối cùng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
Khoảng cách giữa chiến tranh và tự do không xa. Điều này được diễn tả
bằng một loạt cấu trúc được lặp lại. Nhưng ở đây đã có sự đan xen giữa phép
tỉnh lược và phép lặp. Tuy nhiên điều này không hề chứa đựng sự mâu thuẫn
mà là một trong những biện pháp tránh lặp từ vựng mà vẫn tạo ra sự liên kết
giữa các câu về mặt ngũ pháp. Còn về mặt ngữ nghĩa có tác dụng thúc dục,
kích thích tinh thần của các chiến sĩ trong những ngày cuối cùng sắp tiến vào
thành phố.
- Lặp ngữ pháp để miêu tả sự việc
Ví dụ:
“Giặc đổ quân sau rừng
ủi và đốt
cây thở dài trên đất
tàn tung bay
“cán gáo” thõng đôi càng
Man rợ xoáy
Đóng đinh vào chân tóc
Bởi rừng lên”
(Một lần lỗi hẹn)
Đọc những câu thơ trên chúng ta như cảm nhận rõ hơn, sâu sắc hơn về sự
ác liệt của chiến tranh. Cấu trúc câu được lặp lại như muốn khắc sâu vào tâm
trí bạn đọc những hành động dã man, điên cuồng của quân thù. Bên cạnh sự
lặp lại về ngữ pháp còn kéo theo sự lặp lại về số lượng âm tiết nhưng không
đứng liền kề nhau mà cách quãng nhau: câu trên 5 âm tiết thì câu dưới 3 âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
tiết. Cứ thế tạo thành từng cặp một miêu tả một cách chân thực sự tàn khốc
của chiến tranh.
- Lặp ngữ pháp có tác dụng biểu thị sự tồn tại
Ví dụ:
“hai mƣơi năm anh em khó nhận ra mình
ngƣời trong ảnh bây giờ là tƣ lệnh
khoảng cách cách giữa anh và bức ảnh
có bao quãng đường những bà mẹ tiễn con đi
có lầy lội quãng đường sau rút Huế
có băn khoăn trước hứa hẹn chưa thành”
(Một lần lỡ hẹn)
Bài thơ là sự hồi tưởng của một người chiến binh đã từng tham gia cuôc
chiến tranh thần kì của dân tộc. Giờ đây trong anh tràn đầy những kỉ niệm
khi nhìn lại bức ảnh xưa, kí ức lại dội về: hình ảnh người mẹ tiễn con ra trận,
là quãng đường sau khi rút, là những băn khoăn trăn trở chưa thực hiện được.
Cấu trúc câu lặp lại càng làm cho những hồi tưởng hiện ra rõ ràng, cảm xúc
tràn ngập về một quãng đời của tuổi trẻ gian khổ nhưng đầy ý nghĩa.
3.2.3. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên giá trị miêu tả
Miêu tả là “Dùng ngôn từ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm
cho người khác có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc, hoặc thế giới nội
tâm của con người” (Từ điển tiếng Việt – trang 628).
Thơ là biểu hiện của cái đẹp (giá trị thẩm mĩ). Thơ là tiếng hát đẹp nhất
để ca ngợi cái đẹp: ngôn từ đẹp, hình tượng con người và hình tượng thiên
nhiên đẹp, cấu trúc bài thơ đẹp…Thơ Hữu Thỉnh đã tạo nên ấn tượng khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
phai trong lòng độc giả. Bởi đó là sự trải nghiệm của ông với cuộc sống nên
nó xúc cảm trần đời hơn.
Ví dụ:
Chúng tôi tuốt phồng tay
Chúng tôi còn tuốt nữa
Hạt thóc nhằn ấm cả đêm suông
đất rừng mênh mông
đất núi mênh mông
đất nhiều thế mà hiếm hoi hạt thóc”
(Thứ hoa đẹp nhất)
Xét ví dụ trên ta thấy câu lặp thuộc nhóm lặp đủ: A-B-C. A-B-C. Toàn
bộ cấu trúc của chủ ngôn với đầy đủ các thành phần của nó được lặp lại hoàn
toàn ở kết ngôn lại càng làm cho không gian của núi rừng thêm “mênh mông”.
Chính sự lặp đủ này đã kéo theo sự cân đối về ngữ âm mà trước hết là về số
lượng âm tiết (4 âm tiết) và sự lặp lại của từ vựng “đất”, “mênh mông”.
Chính điều này đã tạo ra hiệu quả cao cho việc miêu tả được thành công.
Người đọc cảm nhận được khoảng không mênh mông không có giới hạn đang
hiện ra trước mắt như muốn thách thức lòng người.
Ví dụ:
“- ngã tƣ, đƣờng tự do, rẽ trái
Chiến sĩ nhẩm trong đêm
Có lẽ sao rất dày và sáng
Có lẽ gió rất rộng và thơm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
ừ có thể
và còn nhiều thứ nữa
tất cả đáng yêu và đáng quan tâm
nhƣng chúng tôi không hề có thời gian
(Tờ lịch cuối cùng)
Cả hai câu trong ví dụ trên đều có chung một kiểu cấu tạo cú pháp. Chính
điều này đã kéo theo sự cân đối về số lượng âm tiết (7 âm tiết) và từ vựng “có
lẽ” “rất” “và”. Giữa những câu thơ không cân đối nhau về mặt hình thức tác
giả đã xen vào giữa hai câu thơ cân đối nhau về mặt cấu trúc cú pháp có tác
dụng nhấn mạnh vào vấn đề mà mình muốn nói tới gây ra sự chú ý đối với
người đọc và tăng giá trị biểu cảm cho đoạn thơ: thiên nhiên không chỉ được
miêu tả bằng những tính từ chỉ mức độ mà còn được cảm nhận bằng khứu
giác.
Ví dụ:
“Con cá chày bắt mồi tẩm ngẩm
Con cá bống bộp chộp háu ăn
Cả đám mây trắng ngần
Cũng bắt mồi nhấp nháy”
(Câu cá trên bờ sông SêPôn)
Hai câu thơ lặp cú pháp trên đều có kiểu cấu tạo C - B - V. Cấu trúc câu
được lặp lại càng khiến người đọc nhận ra bút pháp miêu tả rất tinh tế của tác
giả. Mặc dù sự lặp lại cân đối nhưng không hề tạo nên sự đơn điệu trong miêu
tả. Thực sự phải có một khả năng quan sát rất nhạy bén tác giả mới phát hiện
ra được những đặc tính của từng loài cá một cách chính xác đến vậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
3.2.4. Lặp ngữ pháp tạo giá trị biểu cảm
Thơ luôn bộc lộ mình bằng chính ngôn ngữ của đời sống một cách trực
tiếp mà không có sự hỗ trợ nào của cốt truyện, tình huống…Từ tiếng nói quen
thuộc của đời sống, ngôn ngữ thơ đã mang lại rất nhiều những sắc thái biểu
cảm bất ngờ.
Ví dụ:
“Chi bộ họp những cánh tay xóc nảy
Đất nƣớc mình dài rộng của mình đây
Bao nhiêu thành phố đã đi qua
Bao nhiêu cánh đồng, bao nhiêu khuôn mặt
Bao nhiêu cuộc đời gọi ta về kịp
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy”
(Khúc ba: Thần tốc)
Xét ví dụ trên ta thấy cấu trúc câu được lặp lại vừa là lặp đủ, vừa lặp
thiếu. Ta thấy câu đầu tiên có có liên kết lặp thiếu với câu hai và câu ba,
nhưng lại có liên kết lặp đủ với câu thứ tư. Thực ra những câu thơ trên có
nguồn gốc là lặp đủ nhưng ở đây kết ngôn thứ hai và thứ ba đã tách thành hai
phát ngôn nhằm mục đích nhấn mạnh và biểu cảm. Về mặt ngữ nghĩa thì
chính điều này đã giúp cho người đọc cảm nhận được nhịp hối hả, khẩn
trương trên con đường tiến về thành phố của những người lính. Nó đã tạo ra
một khí thế hừng hực, thần tốc trong những giờ phút quan trọng của đất nước.
Có thể thấy con đường chiến dịch thật dài nhưng trái tim của mỗi ngừời vẫn
luôn thao thức đập, nhịp đập của khát khao của hi vọng.
Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
“Ta nhìn lên trời, trời dậy ta khát khao
Ta đi trong rừng, rừng nuôi ta dài rộng
Mẹ dõi theo ta thức khuya dậy sớm
Nắm cơm chiến hào xúc động quá sao Mai
Một đoạn thơ ngắn nhưng Hữu Thỉnh đã có dụng ý tạo ra những cấu trúc
cú pháp được lặp lại với số lượng khá nhiều. Ở phát ngôn thứ nhất cấu trúc
câu lặp đủ và thuộc nhóm lặp cân. Sự lặp đủ này kéo theo sự cân đối về số
lượng âm tiết (9 âm tiết) và lặp từ vựng “ta” “trời” “rừng” đứng ở vị trí nối
tiếp nhau. Còn ở phát ngôn thứ hai thuộc nhóm lặp thiếu. Phần không lặp ở
đây là chủ ngữ, tuy nhiên vẫn có liên kết lặp ngữ pháp với những phát ngôn
phía sau. Xét về mặt ngữ nghĩa thì chính cách lặp này đã mang đến cho tâm
hồn người đọc ấn tượng sâu sắc về chiều sâu của cảm xúc, những cung bậc
của tâm trạng: đó là những phấp phỏng, trăn trở, băn khoăn của người lính
trước giờ ra trận. Trong cái căn hầm chật hẹp đó những ý nghĩ miên man cứ
xâm chiếm trong tâm hồn mỗi chiến sĩ. Nhưng có một điều chắc chắn luôn
thường trực là chỉ ngày mai thôi họ sẽ tiến về thành phố dành lại tự do.
Ví dụ:
“các anh về
làm một cơn giông lớn
làm sáng lên gƣơng mặt phố phƣờng
theo các anh rừng núi trở về
các anh về nhƣ núi
những người yêu của những người yêu
niềm trông đợi của những niềm trông đợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
những nụ cƣời dƣới vành mũ sáng trƣng
thành phố hả hê đung đƣa bồng bột”
(Tự do)
Trong ví dụ trên xét về mặt liên kết những câu thơ lặp cấu trúc kia thuộc
nhóm lặp đủ và kéo theo sự lặp lại của những ngữ danh từ “những ngƣời yêu”
“những niềm trông đợi” và kết từ “của”. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau và
làm tăng hiệu quả liên kết của hai phát ngôn. Còn xét về mặt ngữ nghĩa cấu
trúc câu thơ lặp lại giúp người đọc nhận ra sự tăng tiến trong cảm xúc của
nhân dân khi các chiến sĩ của ta tiến vào thành phố và tăng tính biểu cảm cho
lời thơ.
3.2.5. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên giá trị liên kết
Liên kết là một nội dung quan trọng, chủ yếu của văn bản. Liên kết của
văn bản có hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội dung. Trong liên kết nối
dung tách ra làm hai hình thức: liên kết chủ đề và liên kết logic. Giữa hai mặt
liên kết nội dung và hình thứccó mối quan hệ biện chứng chặt chẽ: liên kết
nôi dung được thể hiện bằng một hệ thống các phuơng thức liên kết hình thức
và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung.
Trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ lặp ngữ âm và lặp từ ngữ mới có tác
dụng liên kết mà lặp ngữ pháp cũng có tác dụng liên kết. Có thể nói lặp ngữ
pháp là một một dạng thức liên kết phổ biến và không thể thiếu trong thơ Hữu
Thỉnh. Chính hiện tượng lặp ngữ pháp đã làm cho các câu, các đoạn được liên
kết hướng nội, liên kết hướng ngoại tạo cho tác phẩm trở thành một văn bản
hoàn chỉnh thống nhất về mặt nội dung lẫn hình thức.
- Liên kết hướng nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
Được chia làm hai cấp độ, đó là liên kết hướng nội ở cấp độ câu và liên
kết hướng nội ở cấp độ đoạn thơ.
+ Liên kết hƣớng nội ở cấp độ câu
Liên kết hướng nội ở cấp độ đoạn thơ là sự tổ hợp các yếu tố trong cấu
trúc nội bộ của câu thơ để xác lập nên một câu. Ở cấp độ này cấu trúc câu
được lặp lại được nằm trong cấu trúc của một câu. Thành phần ấy có thể là
thành phần chính hoặc thành phần phụ của câu. Giữa yếu tố lặp lại và các yếu
tố khác của câu phải có mối quan hệ với nhau về mặt ngữ nghĩa và nội dung.
Khi đó câu văn sẽ trở thành đoạn văn có nội dung hoàn chỉnh điều đó cũng có
nghĩa là câu văn đã có liên kết hướng nội khi nó chứa hiện tượng lặp ngữ
pháp.
Ví dụ:
“Nắng chẳng giữ cho ta, mây chẳng giữ cho ta”
(Tự do)
Trong câu thơ trên được chia làm hai vế rõ ràng ngăn cách nhau bởi dấu
phẩy. Mỗi vế là một cụm C – V có thể tồn tại độc lập nếu tác giả tách ra. Tuy
nhiên cách làm này của tác giả đã tạo ra sự liên kết bền chặt hơn giữa chính
các vế trong cùng một câu thơ. Không những thế giữa các vế câu còn có sự
lặp lại của cụm từ “chẳng giữ cho ta” và đó chính là phần giao nhau của hai
phát ngôn. Chính điều này đã tạo nên cấu trúc nội tại gắn kết hai vế của câu
thơ, làm cho câu thơ không hề rời rạc mà gắn kết chặt chẽ có tác động qua lại
với nhau, không tách rời nhau, nhấn mạnh bổ sung ý nghĩa cho nhau.
+ Liên kết hƣớng nội ở cấp độ đoạn thơ ở cấp độ này.
Liên kết hướng nội ở cấp độ đoạn thơ là cấu trúc nội bộ của đoạn liên kết
hướng ngoại của câu thơ là liên kết hướng nội của đoạn thơ. Đó là các cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
trúc câu xuất hiện trong những câu liền kề nhau (lặp đủ, lặp thừa, lặp thiếu,
lặp khác) tạo ra sự liên kết chủ đề trong đoạn thơ.
Ví dụ:
“năm năm trời anh nhìn chị trong đêm
chị gặp anh mà không hay anh ốm mập
gặp anh mà không hay anh đen trắng ra sao
chỉ nghe giọng anh mỗi ngày nặng xuống”
(Khúc 1: Bàn đạp)
Trong đoạn thơ trên cấu trúc câu đựợc lặp lại thể hiện sự liên kết hướng
nội ngay trong nội bộ một đoạn thơ. Tuy nhiên cấu trúc câu lặp lại thuộc
nhóm lặp thiếu: thiếu chủ ngữ nhưng ta vẫn thấy phần thiếu này được xem
như dùng chung cho cả phát ngôn và có liên kết lặp ngữ pháp với nó ở phía
sau. Mỗi câu thơ vang lên là một lần người đọc thấy xót xa cho số phận của
những con người trong chiến tranh.
- Liên kết hướng ngoại
Cũng được thể hiện ở hai cấp độ đó là liên kết hướng ngoại ở cấp đọ câu
và liên kết hướng ngoại ở cấp đọ đoạn thơ.
+ Liên kết hƣớng ngoại ở cấp độ câu.
Được hiểu là mối quan hệ gắn bó giữa câu đó với các câu xung quanh.
Liên kết hướng ngoại ở cấp độ câu chính là liên kết ở cấp độ đoạn thơ nhờ
hiện tượng lặp mang lại.
Ví dụ:
“nếu sáng ra anh nhìn thấy cỏ
tức là anh nhìn thấy mẹ và em
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
tức là anh được đến với người yêu
anh chỉ thở mà không cần phải nói”
(Tờ lịch cuối cùng)
Việc lặp lại cấu trúc câu đã tạo ra sự liên kết hướng ngoại ở cấp độ đoạn
thơ. Mỗi câu thơ được lặp lại là một sự khẳng định con đường đi tới tự do
đang đến gần với người chiến sĩ.
+ Liên kết hƣớng ngoại ở cấp độ đoạn thơ
Được thể hiện ở mối quan hệ giữa các đoạn thơ với nhau hay giữ đoạn
thơ đang xét với các đoạn xung quanh. Trong thơ Hữu Thỉnh để thể hiện sự
liên kết hướng ngoại ở cấp độ đoạn thơ thì lặp ngữ pháp được tác giả sử dụng
là một trong những phương thức liên kết chủ đạo. Mối liên kết giữa các đoạn
thơ có thể ở dạng bắc cầu trên một khoảng cách lớn từ câu đầu của đoạn này
tới câu đầu của đoạn kia, hoặc câu cuối của đoạn này tới câu cuối của đoạn
kia.
Ví dụ:
“Ngày mai chúng mình tiến vào thành phố
Đêm nay mẹ lại nhắc chúng mình đây
Mẹ cả nghĩ và bố thƣờng ít nói
Lúa đồng mình mỏi mắt vẫn chƣa hoe
Năm thì ngắn mà tháng ba dài thế
Nhìn trong nhà rộng rãi đến là lo
Ngày mai chúng mình tiến vào thành phố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
Chẳng có cách chi báo tin cho mẹ
mẹ đỡ lo, đỡ thấp thỏm đôi bề
ba đứa con có mặt trong này
mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc”
(Tờ lịch cuối cùng)
Xét ví dụ trên ta thấy, câu thơ “ngày mai chúng mình tiến vào thành phố”
được lặp lại ở đầu của đoạn thơ kế tiếp. Điều này khiến cho chủ đề của đoạn
thơ thống nhất với nhau: đó là nỗi trăn trở của những đứa con khi bước vào
những giai đoạn quyết định thì điều đầu tiên họ nghĩ đến là gia đình: thương
mẹ, thương bố còn nhiều lo toan, vất vả dồn xuống hai vai mà không có ai
gánh vác.
Ví dụ:
“Em cứ tô đậm nữa đi em
tô thật đậm để hiện ra đất nước
sớm mai em bổ con lợn đất
bao nhiêu niềm vui sẽ tỏa dƣới chân
em sẽ hiểu đất nƣớc mình dành dụm.
……………………………………
Em cứ tô thật đậm nữa đi em
tô thật đậm để hiện ra đất nước
hiện ra ngày chúng ta hằng mong ƣớc
đất nƣớc theo em ra ngõ một mình”.
(Tờ lịch cuối cùng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Trong ví dụ trên hai câu đầu của khổ thơ thứ nhất được lặp lại ở đầu của
đoạn thứ hai. Cấu trúc câu được lặp lại ở đây thuộc nhóm lặp thiếu: thiếu chủ
ngữ. Nhưng điều đó không hề làm cho hai đoạn thơ rời rạc, thiếu sự liên kết
mà nhờ vào sự liên kết hướng ngoại đã làm cho hai đoạn vừa có sự liên kết
nội dung vừa có sự liên kết hình thức.
3.3. Tiểu kết
Qua việc tìm hiểu phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu
Thỉnh, chúng tôi nhận thấy đây là một nét riêng rất độc đáo góp phần tạo nên
phong cách của nhà thơ. Và sự giải thích phong cách của một nhà thơ chính là
sự phân tích những cấu trúc làm thành và xác định hệ thống cụ thể:
- Hiện tượng lặp từ vựng trong thơ Hữu thỉnh đã góp phần tạo tính nhạc
và tạo nhịp điệu hài hòa cho câu thơ. Lặp từ vựng góp phần tạo nên giá trị
miêu tả cho tác phẩm, đồng thời còn nhấn mạnh, trình bày để duy trì chủ đề
cho văn bản, tô đậm hình ảnh, hình tượng và còn tạo ra giá trị biểu cảm gây
nên những xúc cảm trong lòng độc giả và diễn đạt chính xác tư tưởng tác giả.
Lặp từ vựng còn tạo nên mối liên kết vững chắc cho tác phẩm.
- Hiện tượng lặp ngữ pháp tạo nên một nhịp điệu thơ rất riêng, ngoài ra
còn có tác dụng biểu thị sự tồn tại, miêu tả sự việc, kích thích thúc dục hành
động…Lặp ngữ pháp tạo sự liên kết vững chắc trong cấu trúc bài thơ và
những nét đẹp riêng ở tính nghệ thuật đã gây hứng thú đối với người đọc,
người nghe.
Nói chung phong cách nghệ thuật của một nhà thơ là quy luật thống nhất
các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật. Và trong thơ Hữu Thỉnh nét riêng ấy
được chúng ta phát hiện ra qua sự lặp đi, lặp lại của từ vựng và cấu trúc ngữ
pháp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
KẾT LUẬN
Vận dụng lí thuyết ngôn ngữ về phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp vào
việc nghiên cứu hai hiện tượng này trong tập thơ “Từ chiến hào tới thành
phố” trong thơ Hữu Thỉnh, công trình của chúng tôi tập trung vào việc khảo
sát, thống kê, miêu tả và phát hiện các giá trị, các đặc điểm cách sử dụng mà
tác giả đã dùng. Sau một quá trình nghiên cứu chúng tôi rút ra được một số
kết luận sau:
1. Hữu Thỉnh là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, sáng tạo trong sáng tác nghệ
thuật. Bên cạnh những hình thức nghệ thuật mà tác giả lựa chọn trong sáng
tác như đối, liên tưởng, tuyến tính,….để tạo tính liên kết cho văn bản thì hiện
tượng lặp từ vựng và lặp ngữ pháp được ông sử dụng một cách có ý thức và
xem nó như một thủ pháp nghệ thuật để sáng tác.
2. Quá trình tiến hành khảo sát, thống kê tần số sử dụng, cũng như đặc
điểm cơ bản của hai hiện tượng này trong thơ Hữu Thỉnh cúng tôi nhận thấy:
sự xuất hiện của hai hiện tượng này trong thơ Hữu Thỉnh khá nhiều. Ta bắt
gặp hầu hết hiện tượng này xảy ra trong các câu, các khổ thơ của một bài.
Trong đó, chủ yếu xuất hiện kiểu lặp đầu, lặp cuối, lặp cách quãng và lặp từ.
Những kiểu lặp này đã tạọ nên nét đắc sắc nghệ thuật và sự liên kết trong văn
bản.
3. Lặp từ vựng và lặp ngữ pháp góp phần không nhỏ vào việc tạo giá trị
nghệ thuật cho thơ Hữu Thỉnh:
Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp đã góp phần tạo nên nhạc điệu cho thơ,
đây là một dấu hiệu hình thức quan trọng để khu biệt giữa thơ và văn xuôi.
Lặp từ vựng vừa góp phần tạo nên giá trị nhận thức, giá trị miêu tả cho tác
phẩm để nhấn mạnh về hành động, đối tượng, thời gian,….và giá trị biểu cảm
để khắc sâu vào tâm trí người đọc, người nghe những cung bậc khác nhau của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
tình cảm, đồng thời diễn đạt chính xác tư tưởng của tác giả. Lặp từ vựng và
lặp ngữ pháp còn góp phần tạo nên sự liên kết hướng nội và liên kết hướng
ngoại của câu, của đoạn trong bài thơ, đồng thời thắt chặt chủ đề giữa câu này
với câu kia, đoạn này với đoạn kia của tác phẩm.
4. Giá trị nghệ thuật của phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp chắc chắn còn
nhiều vấn đề chưa được đề cập đến trong luận văn. Chúng tôi mong muốn có
dịp mở rộng phạm vi nghiên cứu cả phép lặp ngữ âm để có cái nhìn tổng thể
về phép lặp mà Hữu Thỉnh đã sử dụng một cách có ý thức trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật.
Luận văn đã cố gắng giải quyết những vấn đề đặt ra, nhưng trong quá
trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để hoàn thiện luận văn tốt
hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt (II), NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
3. Đỗ Hữu Châu (2000), Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, NXB ĐHSP, Hà
Nội
4. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, NXB Đại học & THCN, Hà Nội.
5. Lê Cận, Nguyễn Quang Ninh (1996), tiếng Việt 9, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), NXB Đại học &
THCN, Hà Nội.
7. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2003), Dẫn
luận ngôn ngữ học, NXB GD, Hà Nội.
9. Nguyễn Chí Hoà (2000), “Một vài đặc điểm của phát ngôn có phần dư
được hình thành bằng phương thức lặp”, Ngữ học Trẻ „99, Hội Ngôn ngữ học
VN, NXB Nghệ An, tr. 43 - 47.
10. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt : Mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ
nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ
Văn học,NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Trần Đăng Khoa (2004), Thơ Trần Đăng Khoa, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
13. Đinh Trọng Lạc, Bùi Minh Toán (2001), tiếng Việt (tập 2), NXB GD, Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Nội.
14. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 Phƣơng tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Đinh Trong Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2004), Phong cách học tiếng Việt,
NXB GD, Hà Nội.
16. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
17. Vũ Ngọc Phan (2004), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học,
Hà Nội.
18. Hữu Quỳnh (1996), Tiếng Việt hiện đại, Trung tâm biên soạn Từ điển
Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
19. Hữu Quỳnh (1979), Cơ sở ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Trần Ngọc Thêm (1999, tái bản), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
22. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.
23. Đoàn Thiện Thuật (2003), Ngữ âm Tiếng Việt, NXB ĐHQG, Hà Nội.
24. Hữu Thỉnh (1985), Từ chiến hào tới thành phố, NXB Văn học, Hà Nội.
25. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lƣợc và ngữ trực thuộc tỉnh lƣợc trong
tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9444.pdf