Mục lục
Lời nói đầu 2
Phần I: Nội dung
I. Phép biện chứng về sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta 3
1- Khái niệm lực lượng sản xuất 3
2- Kết cấu lực lượng sản xuất 3
3- Vai trò của lực lượng sản xuất trong sự vận động, phát triển xã hội 4
4- Biện chứng về sự phát triển lực lượng sản xuất 5
4.1- Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng 5
4.2- Vai trò quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất 5
4.3- Vai trò kiế
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phép biện chứng về sự phát triển Lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trúc thượng tầng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất 6
II. Biện chứng phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta 7
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội 7
2- Đặc điểm của nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội và vấn đề xây dựng lực lượng sản xuất 8
2.1- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa 8
2.2- Phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay 8
3- Con đường xây dựng lực lượng sản xuất ỏ nước ta 9
3.1- Phát triển khoa học – công nghệ 9
3.2- Phát triển con người 10
3.3- Phân công lao động xã hội 11
3.4- Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa 12
3.5- Các chính sách của nhà nước trong phát triển lực lượng sản xuất 13
Phần II: Kết luận 14
Tài liệu tham khảo 15
Lời nói đầu
Thời kỳ quá độ là một quá trình lịch sử, là thời kỳ diễn ra những chuyển biến cách mạng sâu sắc và toàn diện, cần phải qua những bước đi trung gian quá độ khác nhau. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) nên sự phấn đấu còn trải qua không ít khó khăn, đi lên chủ nghĩa xã hội phải làm dần dần và “ Không thể làm mau được ” như quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh. ở Việt Nam hiện nay đã có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta quá độ lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp cho nên ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phải là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu, từ đó mới tạo được tiền đề kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Sau gần 20 năm đổi mới, nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là sự phát triển kinh tế, từng bước thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều đó đã củng cố và khẳng định đường lối của Đảng và Nhà nước ta đề ra là hoàn toàn đúng đắn.
Mặc dù vậy trong những năm vừa qua, đối với chúng ta lý luận về CNXH chưa được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn, đặc biệt tầm quan trọng nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH- phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhiều khi vẫn bị xem nhẹ, còn thiếu những công trình nghiên cứu có tính chuyên sâu.
Nhận thức được rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất trong giai đoạn mới cũng là một việc làm cần thiết và mang tính cấp bách. Chính bởi vậy, sau một năm học tập và nghiên cứu, được sự hướng dẫn của thầy giáo bộ môn cùng với sự giúp đỡ của Trung tâm thư viện trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, em đã chọn đề tài: “Phép biện chứng về sự phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Do điều kiện và trình độ có hạn nên bài viết của em có thể còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong sự giúp đỡ của thầy giáo để em hoàn thiện bài tiểu luận này.
Phần I: Nội dung
I. Phép biện chứng về sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1- Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất (LLSX) biểu hiện quan hệ giữa người với giới tự. Trình độ của LLSX thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
2- Kết cấu lực lượng sản xuất
Lực luợng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức và phương pháp sản xuất, kỹ năng kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (TLLĐ)
- Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con ngưòi tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người. Đối tượng lao động có thể chia làm 2 loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên như , con người chỉ cần tách chúng ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên là dùng được.
+ Loại đã trải qua lao động, được cải biến ít nhiều gọi là nguyên liệu.
- Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con nguời lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động được chia thành 3 loại:
+ Công cụ lao động hay công cụ sản xuất giữ vị trí là hệ thống “ Xương cốt và bắp thịt” của sản xuất. Trình độ phát triển của chúng là những dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất nhất định. C. Mác viết: “ Những thời đại kinh tế khác nhau không phải là ở chỗ sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”.
+ Tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao động gọi chung là “ hệ thống bình chứa của sản xuất”.
+ Tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như đường xá, bến cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, điện, nước.. là điều kiện cần thiết đối với quá trình sản xuất.
Trong các yếu tố của LLSX, “ Lực lượng sản xuất hàng đầu của của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”1. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của, sử dụng TLLĐ, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng được phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.
3- Vai trò của lực lượng sản xuất trong sự vận động, phát triển xã hội
Các xã hội cụ thể được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái kinh tế- xã hội. Hình thái kinh tế- xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất- kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế- xã hội . Hình thái kinh tế xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế- xã hội.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của LLSX. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, QHSX thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1974, t.1, tr.159
tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra theo một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
4- Biện chứng về sự phát triển lực lượng sản xuất
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất- cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là công cụ lao động.
4.1- Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng
Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết, kinh nghiệm của con người. Đồng thời bản thân những phẩm chất của con người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nao. Không có nền đại công nghiệp cơ khí thì không thể có người công nhân hiện đại. Sự phụ thuộc về trình độ, kinh nghiệm, thói quen của người sản xuất vào kỹ thuật sản xuất là một trong những biểu hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố khách quan, nhân tố con người sản xuất vào nhân tố vật chất của sản xuất. Hơn nữa, con người không chỉ sử dụng những công cụ hiện có, mà còn sáng chế ra những tư liệu lao động mới. Những tư liệu lao động này là lực lượng vật chất của tri thức con người. Những tri thức khoa học để, để hoàn thiện kỹ thuật, phương pháp sản xuất. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân con người, với sự phát triển văn hoá, khoa học,kỹ thuật của họ.
4.2- Vai trò quan hệ sản xuất đối với sự phát triển lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xã hội). Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: quy luật về sự phù hợp của QHSX vời tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao dộng sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ… và do đó tác động đến sự phát triển của LLSX. Quan hệ sản xuất phù hợp đến với tính chất và trình độ của LLSX là động lực thúc đẩy LLSX phát triển. Ngược lại, QHSX lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến “ hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi đó theo quy luật chung, QHSX cũ sẽ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX phát triển. Trong xã hội có giai cấp thì mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX chỉ được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
4.3- Vai trò kiến trúc thượng tầng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan niệm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội... được hình thành trên cơ sở hạ tầng quyết định.
Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát của lực lượng sản xuất, nhưng LLSX không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp làm thay đổi QHSX- tức trực tiếp làm thay đổi cơ sỏ hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Ngược lại, kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với cơ sợ hạ tầng, từ đó cơ sở hạ tầng- gồm toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội sẽ tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Kiến trúc thượng tầng tác động đối với cơ sở hạ tầng theo hai chiều: nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển xã hội.
II. Biện chứng phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là điều kiện vật chất cho việc thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Chỉ khi nào tạo lập được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hoá cao với năng suất lao động cao thì mới xoá bỏ được chế độ tư hữu, thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội phát triển ở trình độ cao, cao hơn nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Lực lượng sản xuất đó dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Đó là nền sản xuất với quy mô lớn và được tiến hành phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhảy vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong xã hội chủ nghĩa thì khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra nhũng ngành sản xuất mới, kết hợp khoa học kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao trong sản xuất: phát triển và đề ra hàng loạt những phương pháp khai thác các nguồn năng lượng mới, chế tạo những vật liệu mới, xây dựng kết cấu hạ tầng vững chắc và hiện đại…
Con người là lực lượng sản xuất cơ bản, bởi lẽ : “ muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình chế tạo ra TLSX và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay mà còn bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và những cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.
2- Đặc điểm của nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội và vấn đề xây dựng lực lượng sản xuất
2.1- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta chỉ rõ: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”1. Đặc điểm này, xét về tính chất và trình độ, biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản: một là lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế- xã hội của xã hội ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó; hai là tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng, tâm lý do chế độ thực dân, phong kiến cũ để lại. Đó là những khó khăn, trở ngại trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Ngày nay trong điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi trên con đường phát triển “ rút ngắn” lên chủ nghĩa xã hội. Điều đặc biệt chú ý là phải nhận thức đúng nội dung của quá độ hay rút ngắn này, đó là : Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư bản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua sự thống trị của QHSX tư bản chủ nghĩa, nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
2.2- Phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Do đó, để tạo được tiền đề vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất XHCN thì phát triển lực lượng sản xuất phải là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu.
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật , Hà Nội, 1991, tr.8.
Phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ, đòi hỏi chúng ta phải có quan niệm mới về công nghiệp hoá, không phải là ưu tiên xây dựng cơ sở vật chất với những ngành công nghiệp truyền thống theo kiểu công nghiệp hoá cổ điển mà là lựa chọn những ngành công nghệ thích hợp, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin, tạo tiềm năng nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới. Giải phóng và khai thác nhanh mọi khả năng của LLSX, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phong phú và đa dạng, tạo ra nguồn sản phẩm và nguồn tích luỹ, đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay.
Con đường xây dựng lực lượng sản xuất ỏ nước ta
3.1- Phát triển khoa học – công nghệ
Phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần chú ý tới những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học- công nghệ. Phương pháp chung cho sự phát triển khoa học- công nghệ ở nước ta: Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ trong thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến nhiều hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học- công nghệ. Những điều kiện đó là: đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có số lượng đủ lớn, chất lượng cao; đầu tư ở mức cần thiết các chính sách kinh tế- xã hội phù hợp…
Thứ ba, thực hiện ngay một số nội dung để đảm bảo đẩy nhanh phát triển khoa học- công nghệ. Cụ thể:
- Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sáng tạo của khoa học và công nghệ. Cần thiết phải xây dựng quy chế dân chủ trong mọi sinh hoạt của khoa học, khuyến khích tìm tòi và tranh luận để làm sáng tỏ chân lý khách quan, đồng thời tăng cường sự hợp tác giữa các nhà khoa học, ngăn ngừa các biểu hiện cục bộ, bè phái và khắc phục các hiện tượng độc đoán, độc quyền, độc tôn trông khoa học.
- Xây dựng chính sách sử dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Một số biện pháp như :
+ Thực hiện chế độ thi tuyển đánh giá định kỳ, sàng lọc chất lượng cán bộ, bồi dưỡng sử dụng cán bộ khoa học trẻ, đặc biệt những người có tài năng.
+ Ban hành thang lương khoa học mới theo chất lượng và hiệu quả công việc.
+ Có chính sách khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ về làm việc tại cơ sở, nhất là về nông thôn và miền núi.
- Chính sách tăng mức đầu tư cho khoa học từ nhiều nguồn vốn (ngân sách nhà nước, các quỹ phát triển khoa học- công nghệ ngành và địa phương…)
- Hoàn thiện tổ chức mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
3.2- Phát triển con người
3.2.1- Những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, cơ cấu lao động bất hợp lý và lạc hậu về nhiều mặt. Sụ mất cân đối giữa các ngành còn lớn, phân bố giữa các vùng không đều. Thị trường lao động diễn biến phức tạp, luôn mất cân đối giữa cung và cầu. Có sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường sức lao động.
Thứ hai, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn còn thấp
Thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa hợp lý. Những chính sách xã hội trong thời chiến tranh, thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn được sử dụng trong thời kỳ đổi mới; chậm khắc phục, có mặt còn kéo dài, gây trở ngại nhiều đến nền kinh tế, nhiều khi triệt tiêu mất những động lực, lợi ích riêng của người lao động.
Thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục phải giải quyết. Bên cạnh những thành tựu đạt trong phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên nhiều lĩnh vực thì vẫn còn nhiều yếu kém, tiêu cực : mất dân chủ, kỷ cương xã hội bị buông lỏng, tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, các vụ việc trầm trọng càng nhiều, gây bất trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Bên cạnh đó còn phải kể đến sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên có chức có quyền…
3.2.2- Phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng con người
Thứ nhất, trong lĩnh vực xây dựng con người phải coi “ Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng XHCN”. Đây là quan điểm có tính chủ đạo.
Thứ hai, xây dựng con người, đầu tư con người phải chiếm vị trí ưu tiên, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân.
Thứ ba, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Một số giải pháp chủ yếu, đó là:
- Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo: tăng ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, thực hiện xã hội hoá giáo dục, tăng cường quản lý về giáo dục..
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
- Xây dựng con nguời Việt Nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế và công bằng xã hội
- Nâng cao vai trò lãng đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng con người.
3.3- Phân công lao động xã hội
Phân công lao động là sự tồn tại của các hình thức lao động khác nhau. Nói cách khác: “Phân công lao động, với tư cách là toàn bộ các loại hình thức hoạt động sản xuất đặc thù, là cái trạng thái chung của lao động xã hội, xét về mặt vật chất của nó với tư cách là lao động sáng tạo ra giá trị sử dụng”
Trình độ phát triển LLSX của một xã hội biểu hiện rõ nhất ở trình độ phân công lao động xã hội. Sản xuất dựa trên cơ sở máy móc thiết bị hiện đại đã tạo ra các hinh thức hợp tác và phân công lao động mới, đòi hỏi nhiều loại công nhân lành nghề khác nhau, nhiều loại cán bộ kỹ thuật, kỹ sư theo các chuyên môn khác nhau, để điều khiển quá trình sản xuất. Do đó, đòi hỏi sự phân công lao động tỷ mỉ, chặt chẽ, chính xác, có tính toán đến các tỷ lệ khác nhau, đến việc đào tạo các loại lao động cho phù hợp với các nhu cầu và biến động về lao động trong doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
3.4- Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX mới. Nhưng việc xây dựng QHSX mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX mới. Vì vậy, việc xây dựng QHSX mới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng XHCN.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước như nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, trong cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho LLSX hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có những hình thức phân phối và nhiều hinh thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.
3.5- Các chính sách của nhà nước trong phát triển lực lượng sản xuất
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay thì nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng. Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng kế hoạch, bằng chính sách, bằng những đòn bẩy kinh tế và các công cụ điều tiết khác.
Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi nỗ lực của Đảng cộng sản và Nhà nước XHCN trước tiên phải vì mục tiêu con người, cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu con người. Đặc biệt đổi mới chính sách giáo dục đào tạo (đảm bảo đào tạo đúng địa chỉ, đúng yêu cầu cả về quy mô và chất lượng, đổi mới nội dung phương pháp đào tạo…). Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế cũng là một yếu tố cơ bản trong việc xây dựng con người… Tất cả phải nhằm đảm bảo tạo điều kiện cho con người được phát triển toàn diện, kích thích lao động, sáng tạo..v..v.
Nhà nước cần tạo dựng môi trường xã hội thuận lợi, có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, nguồn nguyên vật liệu và máy móc thiết bị mới vào sản xuất…Ưu tiên ngân sách cho các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo phục vụ cho nhu cầu trước mắt và mục tiêu lâu dài của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Đồng thời cũng không thể không nhắc đên vai trò của nhà nước với các biện pháp nhằm hạn chế thất thoát, sử dụng lãng phí những đối tượng lao động có nguy cơ cạn kiệt; các biện pháp bảo vệ cảnh quan môi sinh, môi trường…
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đây là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, trong đó nhà nước với những công cụ điều tiết của mình có vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế.
Phần II: Kết luận
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà : “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa… tiến dần lên lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến”. Quan điểm này của Bác luôn được Đảng và Nhà nước ta xây dựng và củng cố trong suốt quá trình xây dựng đất nước. Như vậy một lần nữa ta có thể khẳng định được tầm quan trọng của việc nghiên cứu biện chứng về sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khái quát lại, hình thái kinh tế- xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là một hệ thống quan hệ xã hội theo yêu cầu phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất hiện đại. Cả ba bộ phận hợp thành là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng không hề tách rời mà liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Thực tiễn cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải nắm vững, nhận thức sâu sắc về mặt lý luận và thực tiễn tất cả các yếu tố bản chất tham gia vào trong sự tác động biện chứng đó.
Cải tạo xã hội mới, xây dựng thành công xã hội mới là sự nghiệp vĩ đại nhất, khó khăn phức tạp nhất. Tuy nhiên Việt Nam hoàn toàn có đủ những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học Mác - Lênin ( NXB Chính trị quốc gia)
Triết học Mác- Lênin ( tập I, II - NXB Giáo dục - 1996)
3. Giáo trình Kinh tế - chính trị Mác - Lênin ( NXB Chính trị quốc gia)
4. Triết học (Sách dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1999)
5. Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vấn dề nguồn gốc và động lực- Lê Hữu Tầng ( NXB Khoa học xã hội, Hà Nội- 1991)
6. Triết học Mác- Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá - TS. Vũ Thiện Vương (NXB Chính trị quốc gia)
7. Giáo trình kinh tế lao động – Trường ĐH. Kinh tế quốc dân- PGS, PTS. Nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành và PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên ( NXB giáo dục – 1998)
8. Kinh tế học về tổ chức phát triển nền kinh tế quốc dân Việt Nam- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ( NXB Chính trị quốc gia)
9.Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước- PGS, PTS. Nguyễn Trọng Phúc ( NXB Chính trị quốc gia)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0108.doc