Phép biện chứng về phủ định và phân tích việc kế thừa, phát huy và sáng tạo các giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay

Lời nói đầu Kế thừa, đổi mới và phát triển là đặc trưng mang tính quy luật của mọi quá trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển chính là sự vận động theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, ... Kết quả của quá trình vận động đó là sự ra đời sự vật mới, hoàn thiện hơn sự vật cũ. Trong quá trình này, những yếu tố tích cực của cái cũ được giữ lại, cải biến để tham gia vào cái mới với tư

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 9546 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phép biện chứng về phủ định và phân tích việc kế thừa, phát huy và sáng tạo các giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách là yếu tố cấu thành của nó. Có thể nói, không có một sự vật mới nào lại ra đời từ “hư vô”, mỗi sự vật mới ra đời luôn kế thừa những yếu tố, những mặt của cái cũ mà nó phủ định. Cứ như vậy, mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy luôn vận động, phát triển không ngừng. đó chính là quy luật chung của sự phát triển. Sự vận động của truyền thống và những giá trị truyền thống cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, giá trị văn hoá sinh thái có một vị thế đặc biệt, được thể hiện một cách độc đáo trong tư tưởng, đạo đức và lối sống của con người Việt Nam. Các giá trị văn hoá sinh thái truyền thống Việt Nam càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, khi mà vấn đề bảo vệ môi trường sống đang là một trong những vấn đề gay cấn nhất, bức xúc nhất, đồng thời cũng khó giải quyết nhất của thời đại. Phần lớn khi nói tới giá trị truyền thống, mọi người thường hay nghĩ tới giá trị đạo đức truyền thống mà không nghĩ tới giá trị sinh thái truyền thống. Do đó, đây là đề tài đầu tiên đề cập đến vấn đề sinh thái truyền thống ở Việt Nam. Đề tài này có một giá trị to lớn, đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa văn hoá và trí tuệ, tạo ra sức mạnh to lớn và đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới. Tuy nhiên, đề tài cũng còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của giảng viên TS. Dương Thị Liễu mà tôi có thể hoàn thành đề tài này. Vì vậy, em xin gửi đến cô lời cảm ơn chân thành nhất. Chương 1 Phép biện chứng về phủ định 1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng 1.1. Phủ định Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy, sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định, tức là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Trong lịch sử triết học, tuỳ theo thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và trường phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định. Triết học trước Mác có tồn tại quan điểm vận động vòng tròn: khi xã hội đạt tới một trình độ phát triển nào đó, xã hội sẽ trở lại điểm xuất phát, vòng phát triển mới lại bắt đầu; Pitago cho rằng một chu kỳ phát triển của xã hội hết 78 vạn năm; Phật giáo lại quan niệm kiếp người tuân theo vòng luân hồi “cát bụi lại trở về cát bụi”. Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một lực lượng siêu nhiên nào đó can thiệp làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện bằng từ “không”; phủ định có nghĩa nói “không”, bác bỏ một cái gì đó. Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mấu z thuẫn được giải quyết,từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. 1.2. Phủ định biện chứng Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. 2. Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản sau đây: thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; thứ hai, nó mang tính kế thừa, là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. 2.1.Tính khách quan Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển, vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật. Chẳng hạn, trong lịch sử triết học, sự phát triển của phép biện chứng duy vật là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát thời cổ đại qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện chứng duy vật. Sự phát triển của các học thuyết khoa học là kết quả của những sự phủ định liên tục những trí thức về sự vật, hiện tượng hay quá trình của thế giới. 2.2.Tính kế thừa Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo tồn những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực. Điều đó nói lên rằng, phủ định biện chứng mang tính kế thừa. Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Ví dụ, trong sinh vật các giống loài đều có tính di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ. Ông cha ta thường nói:”Con nhà lông chẳng giống lông cũng giống cánh” là ý nói vậy. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, xã hội mới ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trước, đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới. Trong lĩnh vực nhận thức các học thuyết khoa học ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những giá trị tư tưởng của các học thuyết khoa học ra đời trước,... Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do sự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biệc chứng ... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. Những điều phân tích trên cho thấy, phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện thực. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển. Quá khứ không bao giờ lại biến mất hoàn toàn.Trong dòng chảy vô tận của thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở hiện tại. Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiên tại, tạo nên sợi dây liên hệ sinh động giữa quá khứ và hiện tại. Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ. Chẳng hạn, trong khi phủ định chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ lỗi thời, chũ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Song, những yếu tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo, được biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của xã hội xã hội chủ nghĩa. 3. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát triển. Với tư cách là kết quả của “phủ định làn thứ nhất”, cái mới cũng chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo – phủ định của phủ định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Khuynh hướng chung như vậy của sự phát triển được khái quát thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định. Ph.ăngghen đã đưa ra một thí dụ để hiểu về quá trình phủ định này: “Hãy lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch giống nhau được xay ra, nấu chín và đem làm rượu, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch như thế gặp những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm, đối với nó sẽ diễn ra một sự biến hoá riêng, nó nảy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt đại mạch nữa, nó bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt đại mạch. Nhưng cuộc sống bình thường của cái cây này sẽ như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt đại mạch đó chín thì thân cây chết đi, bản thân nó bị phủ dịnh. Kết quả của sự phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch như ban đầu, nhưng không phải chỉ là một hạt thóc mà nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi lần”. Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua sự phủ định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai (những hạt thóc mới phủ định cây lúa), sự vật dường như quay trở lại sự khẳng định ban đầu (hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao hơn (số lượng hạt thóc nhiều hơn, chất lượng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó nhận thấy ngay). Sơ đồ cụ thể: Khẳng định (hạt thóc) – phủ định làn thứ nhất (cây lúa) – phủ định lần thứ hai (hạt thóc). Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ định đã được một số nhà biện chứng tự phát nêu ra từ lâu. Song, do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng của quá trình phát triển, một số nhà triết sau này đã tuyệt đối hoá tính lặp lại sau một chu kỳ phát triển, từ đó hình thành quan niệm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín. Phủ định của phủ định với tư cách là một quy luật cơ bản của phép biện chứng lần đầu tiên được trình bày trong triết học Hêghen. Nhưng quy luật đó được xây dựng trên cơ sở duy tâm khách quan và theo công thức “ba đoạn” một cách máy móc. Việc quan sát thấu đáo các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy đã chỉ ra rằng, sự vận động diễn ra theo rất nhiều xu hướng.Tính vô cùng tận của thế giới vật chất cũng biểu hiện cả trong tính vô cùng tận của các khuynh hướng vận động, trong đó, sự vận động theo vòng tròn khép kín chỉ là một trong những khuynh hướng có thể có, đó không phải là khuynh hướng duy nhất. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như trên đã nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng, sự vật sẽ ngày càng phát triển. Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Như vậy, về hình thức, sẽ trở lại cái xuất phát, song, thực chất, không phải giống nguyên như cũ, mà dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu, nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó được gọi là sự phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong những lần phủ định tiếp theo, những yếu tố tích cực được khôi phục, được duy trì và phát triển. Cái tổng hợp này là sự thống nhất biện chứng tất cả những cái tích cực ở giai đoạn trước và ở cái mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất. Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật – xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. Đề cập tới con đường đó của sự phát triển biện chứng, V.I.Lênin viết : “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”. Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy ốc” chính là hình thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng : tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao. Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ đinhj của phủ định, chúng ta không được hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật phải trải qua ba, bốn, năm lần phủ định,... mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào tính chất của một quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải hai lần.Chẳng hạn: Vòng đời của con tằm : trứng - tằm – nhộng – ngài – trứng. ở đây vòng đời của tằm phải trải qua bốn lần phủ định. Các nguyên tố hoá học trong bảng Hệ thống tuần hoàn do Menđêleep thể hiện rõ điều khái quát nêu trên. Các nguyên tố hoá học phải trải qua rất nhiều lần phủ định mới hoàn thành chu kỳ phát triển của chúng. Mặt khác, trong số rất nhiều lần phủ định của một chu kỳ phát triển biện chứng, tất cả các lần phủ định đó vẫn có thể khái quát lại là hai lần : phủ định biện chứng “lần thứ nhất” là loại phủ định chuyển cái xuất phát thành cái đối lập với mình, phủ định biện chứng “lần thứ hai” là loại phủ định chuyển cái trung gian thành cái đối lập của nó, và do đó làm xuất hiện sự vật dường như lặp lại cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau: Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn gĩư nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. 4.ý nghĩa phương pháp luận Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận sau đây : Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đẵn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của con người đều diễn ra theo chiều hướng đó. Xã hội loài người phát triển từ công xã nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản sẽ đến xã hội phủ định xã hội tư bản – chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội tư bản đã, đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó, đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai. ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó, chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho sự phát triển nhanh hoặc phát triển chậm. Điều này phụ thuộc vào tác dụng của sự vật đối với đời sống của con người. Chẳng hạn, nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy nhanh sự phát triển của nó, còn nếu nó có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó. Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó nó luôn luôn biểu hiện là một giai đoạn phát triển cao của sự vật vận dụng vào xem xét sự vật, điều này tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ. Trong giới tự nhiên, cái mới xuất hiện một cách tự phát; còn trong xã hội, cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế, trong công tác, chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới. Khi mới ra đời, cái mới luôn còn yếu ớt, ít ỏi; vì vậy, chúng ta phải ra sức bồi dưỡng, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó. Trong khi đấu tranh chống lại cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, bỏ thô lấy tinh, biết giữ lấy những gì là tích cực, là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới, phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá lại quá khứ. Chẳng hạn, trước tình trạng tạm thời khủng hoảng,thoái trào hiện nay của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu, không chỉ có những kẻ chống cộng, có cả một số người vốn là macxit cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn mà chủ nghĩa xã hội đã tạo dựng được ở những nước trước đó. Họ không thấy được rằng, trong hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã để lại những giá trị tích cực có ảnh hưởng lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới. Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, chúng ta cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại cả những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử. Khi đề cập lệnh lạc này trên lĩnh vực văn hoá, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII nhận định rằng, trong những năm gần đây, “Nhiều hủ tục cũ... lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội... “. Theo quan điểm biện chứng về sự phát triển, trong quá trình phủ định, chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử dụng chúng như là tiền đề của sự nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn, biết giữ hình thức và cải tạo nội dung cho phù hợp như ông cha ta đã nói : “bình cũ, rượu mới”. Hơn nữa chúng ta phải biết lựa chọn để tiếp thu cái mới cho phù hợp chống cả tư tưởng “cũ người, mới ta” trong đời sống xã hội và cuộc sống của con người. Chương 2 Giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay ở nước ta 1. Giá trị truyền thống “Truyền thống”, theo tiếng Latinh, là sự kế thừa di sản xã hội có giá trị, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo đó, có thể coi truyền thống là một bộ phận tương đối ổn định của ý thức xã hội, được lặp đi lặp lại trong suốt tiến trình hình thành và phát triển các nền văn hoá tinh thần và vật chất, là một giá trị nhất định đối với từng nhóm người, từng giai cấp, cộng đồng và xã hội nói chung. Truyền thống có chuẩn mực riêng, thể hiện một giá trị nào đó được các chủ thể lựa chọn nó làm cơ sở cho phương thức hoạt động của họ. Bất cứ một dân tộc nào trên thế giới cũng đều có truyền thống của mình. Có thể coi truyền thống là phức hợp những tư tưởng, tình cảm, phong tục, tập quán, thói quen, lối ssống, ý chí,... của chính dân tộc đó được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, đã trở nên ổn định, mang đặc trưng dân tộc và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống là một bộ phận của ý thức xã hội mà ý thức xã hội lại luôn chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Bởi vậy, truyền thống của một dân tộc không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do con người tự lựa chọn cho mình; nó được hình thành, được quy định bởi chính những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội mà dân tộc đó đã trải qua. Chức năng của truyền thống là chuyển tải các chuẩn mực định hướng giá trị của hành vi và hoạt động nhằm bảo tồn “cốt cách” của một nền văn hoá và lối sống nhất định. Trong điều kiện giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc và rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi các chủ thể xã hội phải có định hướng hoạt động đúng đắn, nói cách khác là đề ra các chương trình hoạt động văn hoá thích hợp để sao cho “hoà nhập mà không bị hoà tan”, tức là không đánh mất các giá trị truyền thống của mình trong tiếp biến văn hoá. Hình thức tồn tại của truyền thống phụ thuộc vào khả năng chuyển tải các chuẩn mực định hướng giá trị, với tư cách là những mẫu tượng bền vững, lặp đi lặp lại. Trong lễ nghi, tập quán, các giá trị truyền thống mang ý nghĩa biểu tượng, dẫn dắt chủ thể vào môi trường văn hoá và đến lượt mình, các giá trị truyền thống ấy thông qua đó mà được bảo tồn, bổ sung thêm những cái mới, có giá trị đã được thẩm định theo không gian, thời gian và chuyển tải cho các thế hệ tiếp theo. Phương thức tác động vừa mang tính tự nhiên, vừa thông qua sự sàng lọc của chủ thể hoạt động văn hoá. Mặc dù cả hai phương thức tác động đều dựa trên uy tín của truyền thống – cái uy tín đã được chủ thể hoạt động thừa nhận thông qua sự suy ngẫm, tiếp cận giá trị một cách có ý thức và trở thành yếu tố quan trọng trong chương trình hoạt động của nó. Nếu chủ thể hoạt động tiếp thu truyền thống một cách vô thức hoặc có thể là mù quáng, thì truyền thống đó tác động tới các yếu tố khác trong đời sống xã hội thường chỉ đạt được ý nghĩa nhất định nào đó chứ chưa phải là giá trị, có khi lại trở thành phản giá trị. 2. Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc cho đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, các giá trị truyền thống Việt Nam đã có một nội dung và vị thế ổn định. Sự ổn định đó được quy định trực tiếp bởi tinh thần dân tộc với nòng cốt là tinh thần yêu nước đặc trưng của Việt Nam, nhưng sâu xa hơn và căn bản hơn, nó được quy định bởi cơ sở kinh tế – xã hội đặc thù của dân tộc Việt Nam. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, hệ giá trị truyền thống lần đầu tiên vấp phải thách thức của một hệ giá trị mới, hoàn toàn xa lạ - các giá trị của nền văn minh kĩ thuật phương Tây. Đó không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà là chung cho cả khu vực Đông và Nam á khi đó. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc nào dung hoà được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, hay nói cách khác, tìm được phương thức biểu hiện mới của giá trị truyền thống trong thời hiện đại, thì sẽ phát triển. Các giá trị truyền thống phải được biến đổi phù hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trình biến đổi đó, các giá trị truyền thống được gạn lọc, được kết hợp với các giá trị mới để tạo nên một hệ giá trị mang tinh thần của thời đại nhưng lại có đặc điểm của dân tộc. Nói cách khác, tinh thần dân tộc đã được phát triển lên một dạng thức mới vừa bảo tồn đặc tính riêng của dân tộc, vừa phản ánh được tinh thần của thời đại, hay giá trị truyền thống tìm được vị thế của nó trong giá trị nhân loại. Với cuộc đụng đầu giữa hai nền văn hoá Đông – Tây hồi đầu thế kỷ XX, các giá trị truyền thống của Việt Nam đã phải trải qua những biến động sâu sắc và căn bản. Nói đến giá trị truyền thống của Việt Nam là nói đến một hệ giá trị đa dạng, tổng hợp và hỗn dung các giá trị văn hoá bản địa, Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo. Trong đó, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, sâu nối và liên kết các giá trị này thành một chỉnh thể đa diện là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Nho giáo, theo thời gian, như một chiếc áo khoác mỗi ngày mỗi rộng trùm lên các giá trị khác, khiến cho mọi giá trị truyền thống được cố định, được trình bày theo hình thức của Nho giáo cho đến khi bị nhà cầm quyền Pháp cáo chung. Vì thế, nhiều sự lầm tưởng, đồng nhất các giá trị khác với Nho giáo đã xảy ra. Đứng trước thách thức của các giá trị mới của xã hội công nghiệp theo bước chân thực dân Pháp tràn vào đất nước ta hồi đầu thế kỷ XX, các giá trị truyền thống đã có sự biến đổi như thế nào về nội dung và vị thế của nó trong thời kỳ lịch sử mới này của dân tộc ra sao. Sức công phá của nền văn minh kỹ thuật công nghiệp, sự trợ giúp của nhà nước bảo hộ Pháp với việc chấm dứt nền giáo dục khoa cử của Việt nam vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX và sức chinh phục mới mẻ, mạnh mẽ của các học thuyết Tây phương tràn vào Việt nam ... đã tạo ra xu hướng Tây hoá ngày càng rộng rãi trong đời sống dân tộc. Do vậy, tình hình tư tưởng khi đó là hết sức phức tạp, và trên thực tế, đã có một cuộc đấu tranh tư tưởng xung quanh vấn đề giá trị. Các trí thức khi đó đồng nhất Nho giáo với giá trị truyền thống của dân tộc. Thực chất của cuộc đấu tranh này là nhằm xác định vị thế của hệ giá trị truyền thống mà Nho giáo là tiêu biểu trong đời sống tinh thần hiện đại của dân tộc khi đó – với sự hiện diện của các triết thuyết phương Tây và số phận nô lệ của Việt Nam. Qui mô của cuộc đấu tranh này dù chỉ giới hạn trong lĩnh vực học thuật, nhưng ý nghĩa của nó đã mở rộng ra nhiều phương diện khác như chính trị, văn hoá, xã hội... Ngoài các ý kiến yếu ớt, kém sức thuyết phục của các nhà Nho thủ cựu mong muốn duy trì nền cổ học, thời kỳ này đã có ba xu hướng mới trong việc nhận định, đánh giá về Nho giáo. Xu hướng thứ nhất chịu ảnh hưởng của khoa học, kỹ thuật và các triết thuyết phương Tây, người ta đã phủ nhận hoàn toàn vị trí và vai trò của Nho giáo trong đời sống hiện thời của dân tộc, coi Nho giáo là lỗi thời, thủ cựu, không đủ năng lực chấn hưng dân tộc theo kịp với các dân tộc văn minh khác. Đại diện cho xu hướng này là Phan Khôi – một nhà nho theo Tây học. Ông cho rằng do ảnh hưởng của thuyết Trung dung mà xã hội nước ta “hoá ra một cái xã hội ương ương dở dở, trắng không ra trăng, đen không ra đen”, “ở đời thì giữ cách không khôn không dại, xử sự thì chuộng cái lối không mềm không cứng”, vì thế nên bỏ cái thuyết Trung dung này đi. Với lập luận như vậy, theo ông, các giá trị truyền thống đã không còn chỗ đứng trong đời sống dân tộc khi đó và cách thức tốt nhất để phát triển dân tộc là triệt đẻ trừ bỏ các giá trị truyền thống và tiếp thu hết khả năng các giá trị mới của thời đại dựa trên thực nghiệm chủ nghĩa, nền dân chủ và khoa học phương Tây. Xu hướng thứ hai , khi thấy nguy cơ các giá trị truyền thống có thế bị mai một do sự sùng bái các giá trị mới ngoại nhập, muốn cứu vãn tình thế bị nô dịch về văn hoá, người ta chủ trương giữ gìn “quốc hồn, quốc tuý” bằng cách dung hoà Nho giáo với các học thuyết phương Tây mới du nhập. đại diện cho xu hướng này là Trần Trọng Kim, Phan Bội Châu. Cố gắng khai thác những điểm mạnh trong kinh điển Nho giáo, so sánh chúng với những điểm tương tự trong các học thuyết triết học phương Tây khác để chứng minh rằng nền cổ học của dân tộc là hết sức uyên bác toàn diện, và về thực chất đã bao chứa hầu hết các giá trị được truyền tải trong các triết thuyết phương Tây, Trần Trọng Kim cho là sai lầm khi mà vào lúc dân tộc chưa có cái mới (hệ giá trị mới), chúng ta đã vội vàng xoá bỏ cái cũ (giá trị truyền thống) – cái mà dân tộc đã từng sùng thượng và duy trì xã hội hàng nghìn năm nay. Theo ông, nếu ta biết “cố gây lấy cái sở trường của mình, và lại học thêm lấy cái sở trường của người, thì chắc có thể dần dần gây nên cái tinh thần tốt đẹp mạnh mẽ, đủ làm cho ta cũng cường thịnh được”. Xu hướng thứ ba, giải quyết mối quan hệ truyền thống – hiện đại trên một phương diện hoàn toàn mới là phê phán các giá trị Nho giáo theo quan điểm biện chứng duy vật. Đại diện cho xu hướng này là nhà lý luận macxit Đào Duy Anh. Khi sử dụng phương pháp biện chứng duy vật để phê phán Khổng giáo, ông khẳng định rằng mặc dù, xu hướng theo Tây học đã chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội Việt nam khi đó, nhưng những giá trị cũ không phải đã mất hết giá trị, mà trái lại, chúng vẫn thường xuyên gây ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống xã hội, tạo nên những xung đột không tránh khỏi trong gia đình, ngoài xã hội. Vì thế, theo ông, Khổng giáo vẫn là một vấn đề quan trọng, thết yếu. Việc giải quyết mối quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại không phải dựa trên ý chí của nhà lý luận, mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn, dựa vào nền tảng kinh tế – xã hội mà trên đó, các giá trị cũ hoặc mới được thừa nhận hay phế bỏ. Theo ông, cả Nho giáo và các triết thuyết xưa của phương Tây đều đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của chúng và do vậy, việc nghiên cứu Nho giáo chỉ có ý nghĩa để hiểu lịch sử và hiện tình tư tưởng Việt Nam, chứ không phải để đề cao hay phủ nhận Nho giáo. Đào Duy Anh đã mở ra một cánh cửa mới cho trí thức._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35442.doc
Tài liệu liên quan