Lời nói đầu
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có cơ sở lý luận đúng đắn, phù hợp thực tiễn trong việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế đó, Đảng và Nhà nước ta luôn "kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.70]. Thực tế nhữn
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến & vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g năm qua cho thấy, thực hiện nguyên tắc này nền kinh tế nước ta đã và đang từng bước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng.
Trong việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật trong Triết học Mác - Lênin.
Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế", để thực hiện bài tiểu luận này nhằm phân tích, tìm hiểu sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta .
Em xin chân thành cảm ơn Thầy TS. Phạm Văn Sinh, người đã giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận đầu tay này.
I. Đặt vấn đề
Đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong văn kiện Đại hội IX là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ... chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 xác định: "Gắn chặt xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" là một trong năm quan điểm phát triển.
Chủ trương này rất phù hợp với điều kiện đất nước ta, một đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh quốc tế diễn biến rất phức tạp, đầy biến động với những bất trắc khó lường. Đất nước ta đi lên từ một nền kinh tế bao cấp, tự cung, tự cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh thì việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ giúp chúng ta có được một nền kinh tế có thực lực đủ mạnh để tự đảm bảo phát triển ổn định theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đảm bảo được độc lập về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và còn là cơ sở đảm bảo cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, chủ trương này còn phù hợp với thực tế khách quan trong xu hướng toàn cầu hoá thế giới, đặc biệt xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Điều này Mác và ăngghen đã dự báo từ thế kỷ 19, khi phân tích sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến quốc tế hoá sản xuất và thương mại. Cho nên nó là xu thế khách quan do lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Hiện nay, dù gặp khó khăn đến đâu, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục vận động theo xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Các khu vực kinh tế khổng lồ tiếp tục ra đời và phát triển như EU, Bắc Mỹ, khu vực Đông - Bắc á, khu vực Đông Nam - á... Đặc biệt tổ chức thương mại thế giới WTO phát triển mạnh với khoảng 144 nước. Tuy nhiên, xu thế này dẫn đến sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng, do đó các nước trên thế giới đều rất coi trọng đến khả năng độc lập tự chủ về kinh tế, nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất định trên trường quốc tế. "Tổng kết của UNDP (Tổ chức hỗ trợ phát triển của Liên hợp quốc) cho rằng từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hoá đến nay, trên thế giới có 10 nước giàu lên, nhưng có 130 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP bình quân đầu người thấp hơn trước khi tham gia toàn cầu hoá. Tổng kết những nước vay nợ để phát triển cho thấy, chưa đến 10% số nước có khả năng trả được nợ, số còn lại trở thành con nợ lưu cữu" [Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.25]. Chính vì thế hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem lại cho nền kinh tế Việt Nam những lợi ích to lớn, nhưng cũng mang đến những hậu quả khôn lường không những cho nền kinh tế mà cho cả chế độ xã hội chủ nghĩa, nếu chúng ta không xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Như vậy, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Dựa vào nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta sẽ phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng phân tích mối liên hệ bên trong, bên ngoài của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Giải quyết vấn đề
1. Nội dung nguyên lý
1.1. Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật bao hàm nội dung hết sức phong phú, bởi vì đối tượng phản ánh của nó - thế giới vật chất là vô cùng vô tận. Trong đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển là có ý nghĩa khái quát nhất. Trong bài tiểu luận này, chúng ta chỉ đề cập đến nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Phép biện chứng duy vật khẳng định giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại bằng cách qui định, ràng buộc, tác động làm biến đổi. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. Đó là tính phổ biến của mối liên hệ.
Quan điểm biện chứng duy vật còn khẳng định tính khách quan và đa dạng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là khách quan, là cái vốn có của các sự vật, hiện tượng, cơ sở của nó là tính thống nhất vật chất của thế giới. Tính đa dạng của mối liên hệ thể hiện ở chỗ: có mối liên hệ bên trong và bên ngoài; mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp; có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó, có mối liên hệ bản chất và không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên... Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên quan điểm biện chứng duy vật về mối liên hệ cũng đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy con người, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu mối liên hệ phổ biến - mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, mà tính chất của nó thể hiện ở các mối liên hệ cụ thể. Vì thế, ăngghen viết: "Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến" [Ph.ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.5].
1.2. ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, đòi hỏi trong quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn chúng ta cần thực hiện nguyên tắc toàn diện và lịch sử cụ thể. Như vậy tức là khi xem xét sự vật, hiện tượng hay nhận thức và giải quyết một vấn đề gì thì cũng phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng khác, xem xét tất cả các mặt, các yếu tố của nó. Đồng thời cũng phải phân biệt được vị trí, vai trò của các mối liên hệ, không đánh đồng vị trí các mối quan hệ, các mặt như nhau trong một điều kiện xác định.
2. Phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Khái niệm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
Tư tưởng "giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại" đã được Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VIII) và Văn kiện Đại hội VIII xác định như là một trong những quan điểm chỉ đạo quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cũng như quan điểm "... Kiên trì đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở..." đã được Đảng ta xác định ngay từ Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khoá VIII, nhưng đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng, Đảng ta đưa ra chủ trương về "xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ" trong quá trình đổi mới, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Vậy thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ?
"Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào các nước khác, người khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường, trước sự khủng hoảng của nền kinh tế tài chính bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn" [Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.109].
Trong thời đại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế không còn được hiểu đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia. Điều này có nghĩa là độc lập tự chủ về kinh tế cũng đồng thời hội nhập được vào nền kinh tế quốc tế.
Vậy thế nào là hội nhập kinh tế quốc tế?
"Cùng với sự xuất hiện của thuật ngữ toàn cầu hoá kinh tế thì khái niệm hội nhập cũng bắt đầu được sử dụng. Có thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và phân công quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng tăng. Gắn liền với toàn cầu hoá kinh tế là hội nhập kinh tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế" [Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Thuý Anh, Tạp chí cộng sản, số 12 (tháng 6-2001), tr.19].
Như vậy, khái niệm về độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế là rõ ràng và đã mang trong nó mối liên hệ biện chứng.
2.2. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế có thể xem như là mối liên hệ bên trong, bên ngoài, mối liên hệ bên trong là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, còn mối liên hệ bên ngoài là hội nhập kinh tế quốc tế. Nói như vậy có nghĩa là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là điều kiện đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, còn hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trong quá trình Đảng đề ra chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đã có ý kiến cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ?
Quan điểm này về hình thức thì có vẻ hợp lý, nhưng xét về phương diện đường lối thì thực chất đây là một quan điểm nguy hiểm, sai trái.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm đảm bảo độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, tất cả các nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đều xuất phát từ mục tiêu bên trong, phục vụ cho yêu cầu, lợi ích quốc gia. Toàn cầu hoá, tự do hoá làm cho nền kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau, tuy nhiên sự ràng buộc đó không mang tính thuần tuý, vô điều kiện mà chính là vì phải biết chia sẻ lợi ích một cách hợp lý, nhằm mục đích thu được nhiều hơn lợi ích cho dân tộc mình, đất nước mình, giữ được tính độc lập của nền kinh tế qua mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau - một sự ràng buộc đa phương về lợi ích. Những lợi ích có được do hội nhập kinh tế thế giới cũng không phải tự nhiên mà có, nó chỉ ở dạng tiềm năng và tiềm năng có trở thành hiện thực hay không, đến mức nào lại phụ thuộc vào những yếu tố, trong đó cơ bản nhất là nội lực của nền kinh tế.
Hiện nay, không thể phủ nhận rằng toàn cầu hoá kinh tế như nó đang diễn ra có tính chủ quan, bị chủ nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển chi phối, lợi dụng, thúc đẩy, định hướng nó theo mục đích, chủ ý của mình. "Đối với Mỹ, toàn cầu hoá chỉ được chấp nhận và có thể chấp nhận được khi nó phục vụ sức mạnh của Mỹ. Toàn cầu hoá sẽ không được chấp nhận nữa khi nó có ý áp đặt lên trật tự pháp lý Mỹ một trật tự khác cao hơn" [Toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.20]. "Mỹ muốn mở rộng tự do hoá thương mại trên thế giới và làm cho xu thế này trở nên không thể đảo ngược, nhưng họ lại đòi hỏi cho mình rất nhiều ngoại tệ" [Vòng đàm phán thiên niên kỷ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.124].
Chính vì thế, Đảng ta nhận thấy không thể ngồi yên chờ đợi, thụ động chịu sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế mà đã đưa ra chiến lược, các chính sách phát triển nhằm nâng cao năng lực nội sinh, vừa tham gia toàn cầu hoá, vừa để chiếm giữ vị trí, lợi thế, tự bảo vệ nền kinh tế của mình, khuếch trương ưu thế và những giá trị của mình đến mức cao nhất.
Để bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế, Đảng đã chỉ rõ hai điều kiện là phải có đường lối, chính sách độc lập tự chủ và phải có thực lực kinh tế đủ mạnh.
Xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì trước hết chúng ta đã giữ được độc lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế. Tức là chúng ta tự mình lựa chọn định hướng phát triển, tự mình xác định chủ trương, chính sách và mô hình kinh tế, không bị động và lệ thuộc bên ngoài, không chịu sức ép của bất cứ ai vì mục đích không lành mạnh của họ.
Xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ là xây dựng được nền kinh tế có thực lực đủ mạnh. Tức là có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường...
Như vậy, xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ là đảm bảo tăng trưởng kinh tế, phát triển ổn định; có được năng lực cạnh tranh; có được nền kinh tế có khả năng ứng phó trước những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội từ bên ngoài.
Một trong những bài học kinh nghiệm sâu sắc mà một số nước châu á rút ra sau khi bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề năm 1997 - 1998, là sự phụ thuộc của nền kinh tế về vốn, công nghệ, thị trường nước ngoài và sự đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường chứng khoán và các luồng vốn ngắn hạn. Các nền kinh tế này vượt qua được giai đoạn khó khăn, nhanh chóng phục hồi một phần rất quan trọng, theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế nước ngoài, là do nền kinh tế Mỹ mấy năm qua có sự tăng trưởng khá. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế Mỹ đang ngập trong khó khăn, nhất là sau sự kiện 11 - 9 - 2001 vừa qua người ta lại dự đoán rằng nền kinh tế một số nước châu á khó bề vươn dậy vì đã dựa quá nhiều vào xuất khẩu, không tranh thủ thời cơ tiến hành những cải cách trong nước nhằm bảo đảm sự ổn định trong nền kinh tế của mình. Rồi nữa, nợ nần và những hậu quả nghiêm trọng: bất ổn chính trị, lật đổ, đảo chính, chiến tranh giữa các phe phái, đặc biệt nạn đói luôn đe doạ mạng sống hàng triệu người... là minh chứng cho thấy chỉ biết sống dựa vào bên ngoài, phụ thuộc hẳn vào bên ngoài thì sẽ chẳng bao giờ phát triển được nền kinh tế của đất nước.
Thực tế cũng cho thấy, trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực vừa qua, những nền kinh tế có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước, quốc tế đều có sức chịu đựng tốt hơn và hạn chế tối đa được tác động tiêu cực của khủng hoảng. Và, không nhất thiết phải là một nền kinh tế lớn mới đạt được trình độ cạnh tranh cao, mà một nền kinh tế nhỏ nếu biết khai thác, vận dụng, phát huy tốt các lợi thế so sánh, đặc biệt là yếu tố con người - nguồn nhân lực, sự tiến bộ khoa học - công nghệ và năng lực quản lý thì vẫn có thể đạt được sức cạnh tranh cao.
Trong thời đại ngày nay, lợi thế và sức cạnh tranh kinh tế cũng như sự phát triển của một quốc gia phần lớn tuỳ thuộc vào khả năng nắm bắt, vận dụng, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là những công nghệ hiện đại. Công nghệ hiện đại là một trong những yếu tố mang tính quyết định giúp cho việc giành ngôi thứ và vị trí trong nền kinh tế toàn cầu. Vì thế đã xuất hiện tình trạng phụ thuộc, yếu thế do thiếu công nghệ hiện đại của riêng mình. Để thực sự chuyển giao công nghệ, một mặt các nước nhận công nghệ phải đạt được một trình độ nhất định mới tiếp thu được công nghệ hiện đại. Mặt khác, quan trọng hơn là phải phá được rào cản do các công ty đa quốc gia nắm trong tay công nghệ hiện đại, lại chỉ muốn chuyển giao công nghệ cho các nước trong phạm vi rất hạn chế để luôn bảo đảm vị trí độc quyền của nó. Công nghệ hiện đại còn được sử dụng như một thứ công cụ, làm tăng thêm và tập trung quyền lực cho họ, tạo thêm ưu thế mặc cả, một lợi thế cạnh tranh cho các siêu cường.
Như vậy, chỉ có thể xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mới bảo đảm nền kinh tế phát triền ổn định, bền vững, tạo cho nền kinh tế nước ta thế và lực trên trường quốc tế, để có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ tình hình thế giới và thực tiễn của đất nước, ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã đưa ra quan niệm sáng suốt: vừa phát triển mạnh mẽ nội lực, vừa đẩy mạnh quan hệ hợp tác với bên ngoài, tham gia qua trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Đến Đại hội IX, Đảng ta lại một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh hơn là phải chủ động hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế không phải là mục tiêu mà là phương tiện để chúng ta lợi dụng các nguồn lực bên ngoài, nuôi dưỡng, phát huy nguồn lực trong nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng được yêu cầu của bản thân nước ta trong quá trình phát triển theo định hướng đã lựa chọn, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong sự hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ và qui mô chưa từng có, lợi ích mà nó đem lại cho nền kinh tế mỗi quốc gia tham gia đã được khẳng định trên thực tế.
Quá trình hội nhập kinh tế với nền kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại thời gian qua đã mang lại cho chúng ta những kết quả quan trọng:
Chúng ta đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập nước ta của các thế lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới.
Không những chúng ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã gây nên, mà còn mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu. Trong quá trình hội nhập, chúng ta đã nhanh chóng mở rộng xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15,1 tỷ USD.
Thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), bổ sung cho nguồn vốn trong nước, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo được những thành tựu kinh tế to lớn, quan trọng. Chúng ta đã thu hút trên 42 tỷ USD vốn đầu tư, với trên 3000 dự án, đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD trong số đó. Nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta: gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp.
Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Cho đến nay, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD.
Chúng ta đã tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo, từng bước đưa hoạt động của các doanh ngiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tuy đây mới chỉ là kết quả bước đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng cũng đủ phản ánh cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Nhưng không vì thấy kết quả như vậy mà Đảng ta chủ quan hội nhập kinh tế thật nhanh, thật nhiều bằng mọi giá, không e dè mà phải tích cực mở ra bên ngoài, sớm thực hiện tự do hoá về thương mại, đầu tư, trong việc tiếp nhận nguồn vốn bên ngoài cũng không nên có giới hạn, miễn là vay và trả được nợ... Trong chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, Đại hội IX đã nhấn mạnh: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh; đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế trong hội nhập; đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Và Đảng cũng chỉ rõ nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta cần và có thể tham gia từng bước là mở cửa thị trường về thương mại, đầu tư và dịch vụ.
Tư tưởng chủ động hội nhập mà Đảng nêu ra hàm chứa không chỉ phương châm của hội nhập kinh tế quốc tế mà còn bao hàm cả những nội dung công việc cần làm để có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chiều sâu. Tinh thần chủ động ở đây thể hiện sự tự tin, có đường đi nước bước phù hợp, không vội vàng hấp tấp để dễ bị vấp ngã, nhưng cũng không chậm chạp, chần chừ để lỡ thời cơ. Chủ động mang tính tích cực nhưng có bản lĩnh, thân trọng và quyết đoán. Có như vậy là vì Đảng ta đã thấy rõ được những hậu quả mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
Toàn cầu hoá đang đưa tới và đặt nhân loại trước những vấn đề mang tính toàn cầu như: nghèo đói, thất nghiệp, bất bình đẳng, tội phạm, tệ nạn xã hội..., đặt các quốc gia, các nhóm nước, khu vực trước những thách thức gay gắt, những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích... Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, nhưng đang bị chi phối bởi các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, chủ nghĩa thực dân kinh tế, thuyết "can thiệp nhân đạo", "nhân quyền cao hơn chủ quyền"..., chính sách "can dự"... là một nguy cơ đối với các nước đang phát triển. Đặc biệt là nước Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học - công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng những biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhân dân các nước Mỹ, Canada, Séc, Anh, Thái Lan lại rầm rộ biểu tình chống lại toàn cầu hoá khi tại nước họ có Hội nghị quốc tế bàn về toàn cầu hoá. Thế giới đang chứng kiến một thực tế là các cuộc biểu tình, các phong trào, diễn đàn với các quy mô khác nhau phản đối toàn cầu hoá kinh tế đang có xu hướng ngày càng lan rộng.
Như vậy, chỉ có thể hội nhập kinh tế quốc tế khi xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế là mối quan hệ tương hỗ có tính biện chứng; hội nhập càng chất lượng thì độc lập tự chủ càng cao. Độc lập tự chủ càng cao thì càng có điều kiện chủ động, tích cực hội nhập. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ hiện nay không hề mâu thuẫn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá kinh tế.
III. Kết luận
Quan điểm biện chứng duy vật không chỉ khẳng định bản chất vật chất, tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn khẳng định các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại trong sự liên hệ, trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên lý cơ bản, nền tảng của phép biện chứng duy vật. Nội dung của nó khẳng định bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là tổng thể của các mối liên hệ; sự vật, hiện tượng là một hệ thống cơ cấu mở, từ đó rút ra nguyên tắc toàn diện và lịch sử cụ thể trong quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Do đó, việc vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích chủ trương, đường lối của Đảng về kinh tế là việc làm hết sức đúng đắn, giúp chúng ta không những hiểu rõ chủ trương, đường lối kinh tế đó mà còn giúp chúng ta có sự tự tin, ý chí quyết tâm thực hiện chủ trương, đường lối đó. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong việc phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế thông qua phân tích mối liên hệ bên trong, bên ngoài làm sáng tỏ quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc lãnh đạo xây dựng kinh tế đất nước.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã đưa ra một nhận định quan trọng là: "Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước tư bản phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh".
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ và từ đó đảm bảo được quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích quốc gia, đồng thời thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, thiết bị, vật tư, thành tựu khoa học công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi, làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững hơn.
Phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có thể khẳng định một lần nữa: giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ biện chứng. Chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và có hiệu quả; và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững hơn nền độc lập dân tộc. Tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Tài liệu tham khảo
1. Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971.
2. Tạp chí cộng sản, số 10 (5 - 2001), số 12 (6 - 2001), số 16 (8 - 2001), số 22 (11 - 2001), số 23 - 24 (12 - 2001).
3. Tạp chí cộng sản, số 9 (3 - 2002), số 17 (6 - 2002), số 24 (8 - 2002), số 32 - 33 (11 - 2002).
4. Tập bài giảng triết học Mác - Lênin, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
5. Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội VII-VIII-IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-VII-VII-IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lời nói đầu 1
I. Đặt vấn đề 2
II. Giải quyết vấn đề 3
1. Nội dung nguyên lý 3
1.1. Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến 3
1.2. ý nghĩa phương pháp luận 4
2. Phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 5
2.1. Khái niệm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế 5
2.2. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 6
III. Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 15
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0271.doc