LỜI MỞ ĐẦU
Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và phép biện chứng duy vật khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thu
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành...
Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn qúa độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường (KTTT). Một trong những luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của Đảng ta thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI là: Chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Từ đã, Đảng ta từng bước khẳng định chủ trương xây dựng ở nước ta một nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trải qua thực tiễn đổi mới, chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả, gióp phần to lớn vào thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó tạo nên những thành tựu to lớn đưa nước ta vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.. Tuy nhiên, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ với điểm xuất phát và bản chất của chế độ cũ nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Những mâu thẫn đó luôn chứa đựng những mặt tiêu cựu mang tính nội tại và kìm hãm, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Đòi hỏi phải được giải quyết những vấn đề ấy nếu được giải quyết chính là tạo điều kiện cho sự phát triển một cách vững chắc và ổn định theo đúng định hướng đã đặt ra.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về phép biện chứng về mẫu thuẫn và những mâu thuẫn thực tế đang xảy ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay cũng như những vướng mắc trong các vấn đề chính trị xã hội có liên quan đến quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, em đã chọn đề tài : ''Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta" để từ đó có được cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới và hoàn thiện vốn kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Đoàn Quang Thọ, giảng viên chính, đã giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm nguồn tư liệu để hoàn thiện để tài, em mong muốn có được sự giúp đỡ của thầy nhiều hơn.
NéI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ M©U THUẪN
Phép biện chứng ra đời từ thời cổ đại. Trong lịch sử triết học có ba hình thức cơ bản của phép biện chứng: phép biện chứng chất phác (thơ ngây), phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Điển hình phép biện chứng chất phác là phép biện chứng cổ đại Hy Lạp. Thời kỳ này khoa học chưa phát triển nên khi phác họa về bức tranh chung của thế giới, các nhà triết hoc chỉ dựa trên những quan sát có tính chất trực quan cảm tính.. Vì vậy phép biện chứng duy vật chất phác có ý nghĩa vô thuần, chống lại các quan niệm tôn giáo thế giới, song còn thiếu căn cứ khoa học. Phép biện chứng chất phác đã bị phép siêu hình sau này phủ định. Tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm là phép biện chứng duy tâm khách quan của Hê-ghen, một đại biểu suất xắc của nền triết học cổ điển Đức thế kỷ XIX. Chống lại phương pháp siêu hình, Hê-ghen là người đầu tiên có công xây dựng tương đối hoàn chỉnh phép biện chứng với một hệ thống các khái niệm, phạm trù và những quy luật cơ bản. Song, do thế giới quan là duy tâm cho rằng "Ý niệm tuyệt đối" là cái có trước thế giới, giới tự nhiên và xã hội chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài của "Ý niệm tuyệt đối" nên Hê-ghen mắc sai lầm có tính nguyên tắc là cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Do đó, phép biện chứng của Hê-ghen là phép biện chứng duy tâm khách quan, phép biện chứng của ý niệm, thần bí, thiếu triệt để, thiếu khoa học. Mác và Ăng-ghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng vào giữa thế kỷ XIX và đã được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX đã đem lại cho phép biện chứng một hình thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nhờ đó đã khắc phục được những hạn chế trước đây của phép biện chứng chất phác và phép biện chứng duy tâm và thực sự trở thành khoa học.
Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động qua lại đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối lập và các đối lập ấy cũng luôn vận động. Nhà triêt học Hy Lạp cổ đại Hê-ra-clít- người được Lênin coi là ông tổ của phép biện chứng cho rằng sự trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có khuynh hướng chuyển sang các mặt đối lập ... Tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện chứng trước Mácxít là trong học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là G.V.Hê-ghen- nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển :" Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống. Chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động".
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết từ thực tể lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) - hạt nhân của phép biện chứng.
Muốn tiến hành bất cứ một nghiên cứu khoa học nào ta cũng phải nắm vững cơ sở lý luận về những vấn đề cần nghiên cứu. Như Prikhoto đã từng nói : "Những ý nghĩ và tư tưởng của ta không xuất hiện một cách bất ngờ từ một điểm vô căn cứ". Nếu không có lý luận soi đường chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bác Hồ đã từng nói : "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi sự việc trong xã hội... để chủ trương cho đúng, làm cho đúng".
1. Kháí quát chung về quy luật mâu thuẫn .
a. Các khái niệm chung.
* Mâu thuẫn: từ trước đến nay đã có nhiều hình thức định nghĩa khác nhau về mâu thuẫn, nhưng ta chỉ xét trên cơ sở khái niệm của phép biện chứng duy vật: Mâu thuẫn là mối liên hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
* Mặt đối lập: là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng ...trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật và hiện tượng, chúng luôn có xu hướng loại trừ nhau nhưng lại là điều kiện tồn tại của nhau.
* Thống nhất của các mặt đối lập :Nghĩa là các mặt đối lập nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại.
* Đấu tranh của các mặt đối lập :là sự bài trừ gạt bỏ phủ định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
b. Vị trí và vai trò của quy luật:
* Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
* Quy luật chỉ ra nguồn gốc bên trong, động lực của mọi sự vận động và phát triển của thế giới khách quan.
2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn:
a. Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
Những người theo quan điểm siêu hình đều phủ nhận mâu thuẫn bên trong của các sự vật và hiện tượng. Theo họ, sự vật là một cái gì đồng nhất thuần túy, không có mâu thuẫn trong bản thân nó. Tư duy của người ta về sự vật có thể có mâu thuẫn, song như vậy thì tưy duy đó là sai lầm, không đáng tin cậy. Những người theo quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận có những sự đối kháng, sự xung đột giữa các sự vật và hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là có tính quy luật.
Đối lập với các quan điểm triết học cũ, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật và hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại liên hệ ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy định.
Mâu thuẫn trong mỗi sự vật- hiện tượng và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau và trong bản thân mỗi sự vật- hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động lẫn nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
Sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan bao giờ cũng có kết cấu, tổ chức nhất định nghĩa là sự vật được tạo thành từ nhiều yếu tố, bộ phận khác nhau. Và theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thì chúng thường xuyên liên hệ tác động lẫn nhau tạo thành những xu hướng phát triển trái ngược nhau và được gọi là các mặt đối lập. Các mặt đối lập đó hợp lại thành mâu thuẫn của sự vật do đó mâu thuẫn là sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Điều này nằm ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Khi một mâu thuẫn nào đó được giải quyết sự vật lại nảy sinh mâu thuẫn khác vì thế bất kỳ ở đâu, lúc nào sự vật cũng tồn tại mâu thuẫn do đó mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của sự vật.
Tính phổ biến của nó thể hiện ở chỗ nó là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đặc biệt là trong xã hội loài người, mâu thuẫn trở nên phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng. Như vậy, các hoạt động kinh tế của con người chắc chắn không thể tránh khỏi những mâu thuẫn , điều quan trọng là trong thực tiễn cần phải biết phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động và phát triển mà giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể và đúng đắn.
Để chứng minh tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn , Ăng- ghen chỉ ra rằng, ngay hình thức vận động đơn giản nhất của vật chất- vận động cơ học, đã là một mâu thuẫn . Sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể thực hiện được chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa là ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở trong cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự tồn tại của vật chất ở hình thức vận động cao hơn lại càng bao hàm mâu thuẫn . Ăng- ghen viết :"Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa dựng mâu thuẫn , thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn , như vậy sự sống trước hết chính là ở chỗ một sự vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là một cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, tự đề ra và tự giải quyết không ngừng, và khi mâu thuẫn đã hết thì sự sống cũng không còn nữa vì cái chết xảy đến, cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy cũng vậy, chúng ta không thể thóat khỏi mâu thuẫn, chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng khiếu nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồng tai thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng khiếu nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta thực tế cũng là vô tận và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận".
Còn trong bài luận văn "Bàn về mâu thuẫn'' [ NXB ST, HN, 1962, tr 11], Mao Trạch Đông có nói về tính phổ biến của mâu thuẫn : ''Vấn đề tính phổ biến hoặc tính tuyệt đối của mâu thuẫn có ý nghĩa về hai mặt, một là mâu thuẫn tồn tại trong quá trình phát triển của tất cả mọi sự vật, hai là, trong quá trình phát triển của mỗi sự vật đều có sự vân động của mâu thuẫn từ đầu đến cuối".
b. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Để hiểu được nội dung quy luật, trước hết cần nắm đươc khái niệm ''mặt đối lập''. Không nên hiểu khái niệm này một cách thô sơ, đơn giản theo khiểu khống có sống thì không có chết, chẳng có trên thì cũng chẳng có dưới, có thuận lợi mới có khó khăn… Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng… phát triển trái ngược nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau. Trong đó thống nhất là tương đối, tạm thời còn đấu tranh là vĩnh viễn tuyệt đối. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân biệt rằng mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập nhưng không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn . Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong hai mặt đối lập mà trong cùng một thời điểm mỗi sự vật có thể cùng tồng tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ như điện tích âm và điện tích dương trong nguyên tử, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học …Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
* Sự thống nhất nhất của các mặt đối lập.
Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Sự ''thống nhất'' trong quy lật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ, trong sự vật, hai mặt đối lập đồng hóa và dị hóa thống nhất với nhau, nếu chỉ là một qúa trình thì sự vật sẽ chết. Trong xã hội tư bản, giai cấp vố sản và giai cấp tư sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhâu, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhà tư bản thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, ''đồng nhất'' với nhau. Vì vầy ''đồng nhất'' và ''thống nhất" trong trường hợp này là đồng nghĩa với nhau. Lênin viết :''Sự đồng nhất của các mặt đối lập, đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập, trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên.
Song khái niệm ''đồng nhất'' còn có một nghĩa khác đó là sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các măt đối lập. Trong trường hợp này, ''đồng nhất'' không đồng nghĩa với khái niệm ''thống nhất'' nói trên. Lênin viết : "phép biện chứng là học thuyết vạch ra những mặt đối lập làm thể nào mà có thể và thường là trở thành đồng nhất, trong những điều kiện nào thì chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau, tại sao lý trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là linh động, có điều kiện, năng động , chuyển hóa lẫn nhau''.
Như vậy, theo quan điểm của phép biện chứng, sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó, vừa là một cái khác với bản thân nó. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, sự đối lập, Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình..
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập diễn ra có giới hạn, có khởi đầu, có kết thúc. Giới hạn đó chính là sự tồn tại của vật. Vì thế nó chỉ là hiện tượng tương đối tạm thời nhưng sự vật thông nhất giữa các mặt đối lập đã tạo ra mâu thuẫn, tạo ra địa bàn cho sự đấu tranh giữa chúng và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu khống có sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, tích lũy và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội … thì khó có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Nghiên cứu về tính thống nhất giữa các mặt đối lập giúp chúng ta có một thế giới quan đúng đắn trong việc nhận thức thực tiễn và áp dung trong viêc xây dựng nền kinh tế đất nước.
* Sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Tính thống nhất của các mặt đối lập mà ta xem xét ở trên chỉ là đặc tính tạm thời, còn sự đấu tranh giữa chúng mới là cái thương xuyên diễn ra. Lênin viết : ''sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối''... Khái niệm "đấu tranh" giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ phủ định nhau. Sự bài trừ, phủ định nhau trong thế giới vật chất được thể hiện dưới những dạng khác nhau, cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên ngoài nhau mà điều chỉnh chuyển hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật.
Ví dụ :Sự đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về nhiều mặt rất gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thể thông qua cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết được mâu thuẫn này một cách căn bản. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đồng hóa và dị hóa, súc hút và sức đẩy....thì lại diễn ra dưới tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đọan lại có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt, mà được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt đối lập-giai đoạn hình thành mâu thuẫn. Song không phải bất cứ sự khác nhau nào của các mặt cũng là mâu thuẫn. Chỉ có hai mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể và có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn.
Khi xung đột trở nên gay gắt, có điều kiện chín muồi, thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật mới là một thể thống nhất mới của hai mặt đối lập và quá trình đấu tranh lại diễn ra, sự chuyển hóa cuối cùng lại được thực hiện và một sự vật mới hơn lại hình thành làm cho sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có tính tam thời, tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của các sự vật và hiện tượng. Còn sự đấu tranh của mối quan hệ có tính tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hóa về vật chất của các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiên tượng trong thế giới vật chất.
c. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
Sự chuyển hóa cuối cùng giữa hai mặt đối lập là sự kiện quan trọng nhất trong quá trình vận động giải quyết mâu thuẫn của sự vật. Nếu như đấu tranh giữa các mặt đối lập không dẫn đến sự chuyển hóa cuối cùng thì mâu thuẫn chưa được giải quyết, sự vật vẫn là nó. Chuyển hóa của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là qúa trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách đơn giản là sự đổi chỗ cơ giới mà cần phải hiểu được cả hai mặt đối lập đều cùng vận động, phát triển lên một tính chất và trình độ mới, mâu thuẫn của sự cũng có tính chất mới vì thế đòi hỏi phải có những biện pháp mới để giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển.
Thông thường các mặt đối lập chuyển hóa theo hai phương thức:
Một là :Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét phương diện chất của sự vật. Ví dụ :Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội Phong Kiến đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất TBCN và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
Hai là :Cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập hoàn toàn. Ví dụ :Ta xét quan hệ cung cầu trong nền kinh tế nước ta. Trong nền kinh tế bao cấp, Nhà nước bao tiêu mọi sản phẩm do các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất ra và phân phối cho nhân dân, đó chính là cung Nhà nước và cầu nhân dân. Nhân dân chỉ có nguồn cung đó là chủ yếu. Khi đó, hầu như không có khái niệm giá cả, nhân dân phần lớn ỷ lại vào Nhà nước dẫn đến nền kinh tế bị khủng hoảng, sự đấu tranh giữa cung- cầu gắt sẽ xảy ra. Nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền KTTT thì quan hệ cung cầu cũng chuyển đổi lên một dạng mới cao hơn, khi đó Nhà nước không còn độc quyền phân phối sản phẩm nữa mà còn do nhiều thành phần kinh tế khác, còn cung không phải chỉ là của nhân dân mà còn xuất khẩu. Vậy cung đã đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau phát triển lên một trình độ cao hơn. Đó là động lực thuc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Như vậy, từ những phân tích trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực bất kỳ một sự vật- hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau. Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa, phủ định lẫn nhau để trở thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển, Lênin từng nói :"Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập".
3. Một số loại mâu thuẫn.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới với những hình thức rất đa dạng. Tính đa dạng của mâu thuẫn do tính đa dạng của các mối liên hệ trong sự vận động và phát triển của thế giới vật chất quy định. Mỗi loại mâu thuẫn đều có những đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự phát triển của sự vật.
a. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân của sự vật và hiện tượng. Mâu thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế vận động của chính bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức giai cấp.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật- hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn bên ngoài là phổ biến nhưng mâu thuẫn bên trong lại quyết định mâu thuẫn bên ngoài, vì không thông qua mâu thuẫn bên trong thì mâu thuẫn bên ngoài tự nó không thể phát huy được vai trò của mình.
Sự phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ có ý nghĩa tương đối. Tùy theo những mối quan hệ cụ thể mà một mâu thuẫn nào đó được coi là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài, trong mối quan hệ này nó là mâu thuẫn bên trong nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là mâu thuẫn bên ngoài. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp là mâu thuẫn bên trong của xã hội tư bản nhưng lại là mâu thuẫn bên ngoài đối với mỗi giai cấp... Sự phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài là rất cần thiết, bởi mỗi loại mâu thuẫn có vị trí và ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự vật. Nhận thức rõ vai trò của từng loại mâu thuẫn, Đảng ta trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, một mặt đã tập trung mọi khả năng nhằm khai thác tốt tiềm lực hiện có trong nước. Mặt khác, có chính sách đối ngoại năng động, thu hút vô đầu tư và kỹ thuật nước ngoài hỗ trợ tích cực cho sự phát triển kinh tế trong nước.
b. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật và hiện tượng, nó quyết định quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng từ khi hình thành cho đến khi kết thúc. Nó là cơ sở hình thành và chi phối tất cả các mâu thuẫn bên trong sự vật, trong đó có mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quyết định trực tiếp bản chất và khuynh hướng phát triển của sự vật nhưng có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
Trong lĩnh vực đời sống xã hội, việc phân tích mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng. Trong công tác cách mạng, xây dựng được mâu thuẫn cơ bản mới định được chiến lược đúng đắn cho phong trào cách mạng. Khi nghiên cứu kết cấu kinh tế của xã hội TBCN ta thấy mâu thuẫn cơ bản của xã hội ấy là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Từ mâu thuẫn này nảy sinh ra một số mâu thuẫn không cơ bản :mâu thuẫn giữa tính chất có tổ chức của sản xuất trong từng xí nghiệp riêng rẽ với tính chất vô tổ chức của sản xuất trong toàn xã hội, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ Tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải tiến hành cải biến căn bản tình trạng kinh tế- xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hêt là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chông CNXH.
c. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển của sự vật.
Ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu là tương đối. Trong từng điều kiện hoàn cảnh, mâu thuẫn chủ yếu có thể trở thành mâu thuẫn thứ yếu và ngược lại. Ta xem xét lại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói chung thì lực lượng sản xuất có vai trò quyết định . Song trong những điều kiện nhất định, quan hệ sản xuất lại có tác dụng chủ yếu và quyết định. Nếu không thay đổi quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất không thể phát triển, lúc đó sự thay đổi quan hệ sản xuất lại có tác dụng chủ yếu và quyết định.
Trong cách mạng, việc tìm ra mâu thuẫn chủ yếu của xã hội trong từng thời kỳ là rất quan trọng để xác định kẻ thù trước mắt, đề ra nhiệm vụ trung tâm cần giải quyết, có sách lược thích hợp đưa cách mạng tiến lên.
Trong hoạt động thực tiễn, mỗi người, mỗi ngành cũng cần tìm ra mâu thuẫn chủ yếu của bản thân, của ngành mình để có hướng tập trung trong công việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : "bất cứ địa phương nào, cơ quan nào, thường trong một lúc có nhiều công việc trọng yếu. Trong thời gian đó lại có một việc trọng yếu nhất và vài ba việc trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong địa phương hoặc cơ quan đó phải xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng, việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn không ngăn nắp".
d. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau, không thể điều hòa được. Ví dụ như mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô, nông dân và địa chủ, vô sản và tư sản. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị boc lột, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị... và chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất thì trái ngược nhau. Ví dụ :mâu thuẫn giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân, giữa KTTT XHCN và KTTT TBCN...
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng là mâu thuẫn đặc thù, chỉ tồn tại trong những xã hội có đối kháng giai cấp.
Việc phân tích mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có quan hệ chặt chẽ với việc sử dụng những phương pháp, những biện pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn. Theo quy luật chung, mâu thuẫn đối kháng đòi hỏi phải được giải quyết bằng bạo lực cách mạng, còn mâu thuẫn không đối kháng được giải quyết bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, phê bình và tự phê bình. Điều cần chú ý là cả hai loại mâu thuẫn trên đều phải được giải quyết bằng đấu tranh chứ không phải bằng cách dung hòa, điều hòa giữa hai mặt đối lập.
Nhưng hai loại mâu thuẫn trên có thể chuyển hóa cho nhau, ta xem xét điều đó qua mâu thuẫn giữa kinh tế thành thị và nông thôn. Trong xã hội TBCN, ở đó thành thị do giai cấp tư sản thống trị, bóc lột tàn khốc nông thôn- đó là mâu thuẫn hết sức đối kháng. Nhưng ở XHCN, mâu thuẫn đối kháng đó biến thành không đối kháng mà đến xã hội cộng sản thì mâu thuẫn đó sẽ hết.
Trên đây là những nội dung và phân tích những nội dung cơ bản của quy luật mâu thuẫn, đó chính là cơ sở lý luận cho việc vận dụng quy luật này vào việc xây dựng những nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế.
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn .
* Xuất phát từ mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến nên muốn hiểu đúng bản chất của sự vật đòi hỏi chúng ta phải phân tích các mặt đối lập, tìm được những mâu thuẫn bên trong của nó.
* Xuất phát từ vai trò của đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động phát triển nên về nguyên tắc muốn thúc đẩy sự vật phát triển phải đấu tranh giải quyết cho được mâu thuẫn của nó. Khi đấu tranh giải quyết mâu thuẫn của sự vật cần có những quan điểm lịch sử cụ thể.
II. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG N._.ỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA.
1. Khái quát chung về KTTT.
Trong mô hình cũ của CNXH, sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh, kế hoạch của Nhà nước và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh được sự phân cực xã hội, nhưng lại bộc lộ nhiều nhiều nhược điểm cơ bản. Chẳng những các quy luật kinh tế khách quan bị coi thường, mà tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một cách đầy đủ. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền KTTT định hướng XHCN.
Trước hết ta tìm hiểu một số khái niệm :Khái niệm kinh tế hàng hóa, thị trường, cơ chế thị trường.
* Kinh tế hàng hóa :Là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường".
* Thị trường :Trong nền sản xuất, mọi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường là một tập hợp tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hành hóa. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trên đó diễn ra những quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa.
- Sản xuất hàng hóa phát triển, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm vật môi giới.
- Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau khái niệm về thị trường như sau :Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.
* Cơ chế thi trường :là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hóa dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế.
Từ đó ta có khái niệm:" Nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định, vận động theo cơ chế thị trường gọi là "nền kinh tế thị trường"".
Trong hội thảo "Phấn đấu đưa nghị quyết của đảng vào cuộc sống" có hai loại ý kiến khác nhau.
Một là, xem KTTT là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu, lấy lợi ích vật chất, cung cầu, thị trường mua và bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là một phương thức tổ chức vận hành kinh tế- xã hội. Tự nó không mang tính kinh tế-xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này, KTTT là vật "trung tính", là "công nghệ sản xuất" ai sử dụng cũng được.
Hai là, xem KTTT là một loại quan hệ kinh tế-chính trị-xã hội, nó in đậm dấu của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong KTTT không phải chỉ là cái riêng lẻ đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự hoạt động qua lại của các chủ thể hành động đó có thể có lợi cho người này tầng lớp hay giai cấp này, có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác cho nên KTTT có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó.
Hiện nay không có một nước nào trên thế giới có nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường "hoàn hảo", hoàn toàn do sự chi phối của "bàn tay vô hình" theo cách nói của Adam Smith, nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh ở thế kỉ XVIII mà trái lại chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Và ở nước ta KTTT mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kì quá độ lên CNXH, là ''nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước''.
* Đặc điểm của nền KTTT.
Có thể nói, KTTT là kinh tế hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao. KTTT là một loại hình mà trong đó, các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua- bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong KTTT, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, KTTT phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ...
KTTT trước hết là kinh tế hàng hóa, với đặc trưng phổ biến của nó là người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán, để trao đổi chứ không phải để tự tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước.
KTTT là nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về hình thức phân phối.
KTTT được sử dụng như một công cụ, một phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kih tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
KTTT là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển kể cả trong điều kiện vốn, ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp.
KTTT luôn vận động, phát triển tái sinh, do đó để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, các chính sách kinh tế vĩ mô phải thường xuyên được bổ xung hoàn thiện.
KTTT gắn liền với Nhà nước pháp quyền và Nhà nước sẽ quản lý chủ yếu bằng pháp luật.
2.Kinh tế thi trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
a. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền KTTT đinh hướng XHCN ở nước ta.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hóa mà giai đoan cao của nó được gọi là KTTT.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp tự cung- tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong XHTB cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung- tự cấp gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế XHCN tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật, nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất- kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực- sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không thực hiện được.
Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử của mình, vì thế của kinh tế hàng hóa cũng dần được đổi thay :từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội không phổ biến, không hợp thơi trong xã hội Chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nhân dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội Phong kiến, và đến CNTB thì kinh tế hàng hóa giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là KTTT.
KTTT là giai đọan phát triển cao của kinh tế hàng hóa, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang KTTT. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển KTTT tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đọan thứ ba, là giai đoạn KTTT hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào KTTT và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. KTTT có những đặc trưng cơ bản như :phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô" của Nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nó.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa tự phát sẽ "hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB" và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của CNTB, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là chế độ kinh tế- xã hội. KTTT là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Quá trình hình thành và phát triển KTTT là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học- công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học- kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung- tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền KTTT, cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả sự thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội). Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới Chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là CNXH. CNXH không đối lập với phát triển, với KTTT, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội, là một sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động đem lại cuộc sống hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hộ, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính XHCN, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
b.Một số đặc điểm chung của nền KTTT ở Việt Nam.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung- hành chính, quan liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện nay và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc của ĐCS Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 đã nêu lên những đặc trưng bản chất của nền KTTT và phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN.
Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, KTTT, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn KTTT hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn KTTT tự do mà đi thẳng vào phát triển KTTT hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền KTTT phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền KTTT mà chúng ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "Bàn tay hữu hình" của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền KTTT. Việc xây dựng kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó. Kinh tế nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới- chế độ XHCN.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền KTTT hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước "của dân, do dân và vì dân", nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền KTTT hiện đại ở nước ta.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật nội tại của nền KTTT nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Việc quản lý Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những "thất bại của thị trường", thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu- nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế sao cho tương hợp với thị trường.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển của KTTT là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của KTTT hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với những khu vực hóa và toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của KTTT hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung- tự cấp mà phải mở của, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trương kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền KTTT ở nước ta. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào quá trình phát triển va được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển KTTT nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.
Tóm lại, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta phải là "Quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc".
Từ những đặc trưng và sự phát triển đúng hướng của nền KTTT ở nước ta chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
* Nền kinh tế Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa toàn diện, khép kín sang một nền KTTT mới, theo định hướng XHCN. Công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội được mở đầu từ Đại hội VI của ĐCS Việt Nam ( 1986)
- Năm 1991 Đại hội VII của Đảng nhận định "Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng nhưng nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội".
- Năm 1996 Đại hội đảng VIII nhận định "Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc". Nền kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao :tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 1986- 1990 là 3,6%; 1991-1995 là 8,2%; 1996-2000 là 7%.
* Lạm phát được đẩy lùi từ 67,4% năm 1990 xuống 12,7% năm 1995, 0,1% năm 1999 và 0% năm 2000. Phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
* Điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa không ngừng tiến bộ. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
* Quốc phòng và an ninh được đảm bảo, ổn định chính trị được giữ vững, các mối quan hệ kinh tế được mở rộng với nhiều nước trên thế giới, bộ mặt đất nước đã có những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực.
Đại hội IX khẳng định :"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"
Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội IX Đảng ta một lần nữa khẳng định "Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội VII của Đảng đồng thời giúp đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định :Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH định hướng cho mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay và trong những thập kỉ tới .Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Tuy vậy đi đôi với thành tựu là rất nhiều khó khăn đòi hỏi phải có phương hướng giải quyết đúng đắn, đặc biệt, lao động và việc làm đang là vấn đề gay gắt nổi cộm nhất hiện nay với tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 74% và tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 30% tỉ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kĩ thuật còn thấp trong tổng số lao động :theo kết quả điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ chiếm 30,3%; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 36,8%; trình độ Cao đẳng và Đại học chiếm 31,6%; trên Đại học chiếm 1,3%.[ Kinh tế và phát triển số 42, tháng12/2000, tr19]. Từ năm 2001, khi Việt Nam áp dụng chuẩn hóa đói nghèo mới thì tỷ lệ đói nghèo sẽ còn khá hơn, khoảng 17% so với 11% chuẩn cũ. Hiện tại, mức tiêu dùng của dân cư thấp, tích lũy nội bộ của nền kinh tế mới đạt khoảng 25-27%GDP, còn tích lũy ròng chỉ đạt dưới 20% GDP. Trong khi đó kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản lượng điện bình quân đầu người mới chỉ đạt trên 340kwh, mật độ đường giao thông tính trên 1000 dân còn tháp xa so với các nước xung quanh. [Thời báo kinh tế Việt Nam, số 151, 18/12/2000]
Nguyên nhân phát sinh ra những khó khăn trên là trong nội bộ nền kinh tế của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng KTTT.
3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang KTTT ở Việt Nam.
a. Mâu thuẫn giữa phát triển KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lựu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu đi lên CNXH, chúng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát. Một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Nhưng nhu cầu về vật chất và tinh thần phong phú của con người chỉ có thể được thỏa mãn trong một nền kinh tế vững vàng, ổn định, phát triển cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh. Việc tiến hành sự nghiệp trồng người hôm nay gắn bó một cách chặt chẽ với quá trình mở rộng, hoàn thiện KTTT kết hợp với mở cửa giao lưu quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định : "Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục- đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cở bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững".
KTTT là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua- bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong KTTT, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, KTTT phản ánh trình đọ văn minh, và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất , tăng trưởng kinh tế , thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên , KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ, ô nhiễm môi trường…
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đối với nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ cế thị trường có sự quản lý cả Nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng phát triển con ngời cho tế kỷ XXI.
Trong những năm vừa qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sôi động hơn, các hoạt động sản xuất , kinh doanh, dịch vụ phát triển hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi. Đây là những két quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát triển và vận độn đúng đắng các quy luật xã hội . Quá trình biện chứng đi lên CNXN từ khách quan đáng trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội .
Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến :KTTT ở nước ta hiện nay không chỉ tạo ra điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, mà còn tạo ra môi trường xã hội thích hợp cho con người phát triển hài hòa, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. KTTT tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người, góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu từ ngàn đời ở con ngời Viêt Nam. KTTT tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới theo tiêu chí thị trường như chữ tín trong chất lượng, chữ tín trong giao dịch,…
Tuy nhiên, cấn phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người, có những lúc, những nơi, KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà nược lại, còn làm tha hóa bản chất con người, biến con người thành nô lệ sung bài đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi tích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hóa, đạo đức, luân lý… Bên cạnh những tác động tích cực , KTTT cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Việc quá đề cao lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích tập thể và lợi tíc xã hội là một nguy cơ lớn. Lợi nhuận kích thích sản xuất, nhưng mặt khác, lợi nhuận cũng tự phát đẩy con ngời tới những hành vi phá hoại môi trưòng sống và làm tha hóa đạo đức, nhân phẩm. Sự cạnh tranh trên thương trường làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn nhưng nhiều khi cũng làm mất đi lòng nhân ái, vị tha, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết tính toán môt cách sòng phẳng, lạnh lùng, thiếu nhân tính. Quân hệ hàng hóa - tiền tệ làm sống động thị trường nhưng cũng làm xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá của con người. Ngoài ra đi kèm với KTTT là hàng loạt tệ nạn xã hội để đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân , tế bào của xã hội . Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng… là những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong KTTT. Thật không sai khi hình dung KTTT là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn thận rất dễ bị đứt tay.
Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những diều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố đầu độc, hủy hoại con người.
Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định :"Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thnàh tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần htiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng ''. Như vậy, Đảng ta vạch ra sự thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người mới XHCN ''Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này không phát huy được tác động tích cực, to lơn cũng như ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của KTTT. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vu công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thưòng các giá trị nhân văn . Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức , thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là công cụ, phưong tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu''. Và Đại hội Đảng IX cũng xác định : ''Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết can bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35693.doc