Lời giới thiệu
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước. Tạo nên truyền thống cao đẹp, truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và tạo nên nền văn hoá dân tộc đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc chiến tranh thần thánh, đánh duổi hai đế quốc lớn dành lại độc lập tự do cho dân tộc, tiến lên chủ
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phép biện chứng duy vật đối với sự nghiệp lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới, thời kỳ quá độ đi lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa xã hội. Mặc dù tình hình gặp nhiều khó khăn, trong nước phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề do chiến tranh, thời gian khôi phục không nhiều, cơ sở vật chất bị thiệt hại nặng nề, thiếu thốn, nền nông nghiệp lạc hậu lại thường xuyên chịu thên tai. Ngoài nước thì hệ thống xã hội chủ nghĩa xụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch luôn nhòm ngó, chờ thời cơ tiêu diệt và đặc biệt là sự can thiệp của đế quốc Mĩ cả về kinh tế lẫn chính trị vào các nước khác. Mặc dù vậy, tình hình tuy gặp nhiều khó khăn nhưng với lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, là kim chỉ nam cho hành động Đảng ta đã sáng suốt quyết định tiến tới xã hội chủ nghĩa mà không qua giai đoạn tích luỹ tư bản chủ nghĩa. Vì thời cơ đã đủ để chúng ta tiến chắc chắn tới chủ nghĩa xã hội. Một xã hội không có áp bức bóc lột, một xã hội do dân và vì dân. Tuy vậy, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ sự lạc hậu về nhận thức lý luận là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sai lầm và khuyết điểm trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm đó? Đó là phải biết trang bị không ngừng kiến thức lý luận, phải biết áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, không dập khuôn máy móc theo khuôn mẫu cũ đã lỗi thời hay không phù lợp với hoàn cảnh đất nước hiện nay, từ đó dẫn tới không còn thể hiện được bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là lý do vì sao tôi chọn đề tài này "Phép biện chứng duy vật đối với sự nghiệp lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới, thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội". Qua bài viết này tôi không đưa ra những thiếu sót của Đảng ta mà chỉ nêu lên những đánh giá của bản thân tôi về sự đánh giá sâu sắc và linh hoạt trong vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng trong chiến lược chỉ đạo toàn dân trên bước đường đổi mới.
Do kiến thức còn hạn chế, vì nguồn tài liệu và thời gian nghiên cứu không nhiều nên không tránh khỏi những thiết sót và hạn chế. Rất mong nhận được các góp ý xây dựng của các bạn và các thầy cô.
Trong quá trình nghiên cứu, viết đề tài tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của gia đình, bạn bè, nhà trường và đặc biệt là thầy Vũ Thiện Vương và thầy Lê Ngọc Thông.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
1. Giới thiệu đề tài:
Tình hình thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị xụp đổ, các thế lực thù địch dắp tâm xoá bỏ XHCN ở các nước còn lại. Sự can thiệp của đế quốc Mĩ về kinh tế, chính trị vào các quốc gia có chủ quyền khác. Sự phát triển cao và không ngừng của khoa học công nghệ đã làm thay đổi to lớn đến hoạt động sản xuất và nhận thức của con người. Trong nước, từ khi đưa cơ chế thị trường vào thì đời sống của người dân có thay đổi lớn lao, vật chất và tinh thần không ngừng được cải thiện. Nhưng song song với nó là những mặt trái không thể tránh khỏi, xã hội vẫn còn phân biệt giàu nghèo, giai cấp. Để hướng tới một xã hội công bằng văn minh thì việc áp dụng đúng, đầy đủ "phép biện chứng duy vật đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta" là một việc hết sức cấp thiết và quan trong và đây là một đề tài khó, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, cẩn thận vì các lý do sau:
- Việc nghiên cứu cẩn thận, kỹ lưỡng mối quan hệ giữa lý luận Triết học đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay có tác dụng gắn Triết học vào cuộc sống thực tiễn, để từ đó lấy Triết học để giải thích, mặt khác dùng tri thức Triết học để làm lý luận, làm vũ khí sắc bén chống lại các thế lực thù địch, đưa đất nước tiến chắc, tiến đúng trên bước đường CNXH đầy gian nan thử thách.
- Việc nghiên cứu mối quan hệ giưa Triết học đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta còn có tác dụng tránh cho chúng ta dao động, khủng hoảng lý luận trước thay đổi về cục diện chính trị, những phát minh khoa học. Ví dụ cụ thể: Triết học Mác-Lênin đã khẳng định "việc phát hiện ra điện tử, các hạt không mang điện và mang điện cấu tạo nên vật chất không dẫn chủ nghĩa duy vật tới sụp đổ như chủ nghĩa duy tâm nói mà sự kiện đó chỉ chứng tỏ vật không bị tiêu tan mà chỉ có sự hiểu biết của con người là có giới hạn". Qua một ví dụ điển hình này ta thấy được tầm quan trọng của Triết học Mác-Lênin trong việc giải thích thế giới, giải thích các hiện tượng của cuộc sống từ đó tìm ra định hướng, lý tưởng đúng đắn và vững vàng trước vô vàn khó khăn thử thách.
Từ việc tìm hiểu được vai trò của Triết học là giải thích thế giới và cải tạo cuộc sống. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vũ khí và kim chỉ nam cho hành động. Để chúng ta tìm ra con đường đúng đắn, tìm thấy ánh sáng của chân lý, tìm ra CNXH. Nhờ Triết học mà chúng ta nhận thức được tình hình cũng như dự đoán được tình hình để có những chính sách thích hợp, quyết sách đúng đắn kịp thời. Tránh được những việc làm đáng tiếc khi vận dụng sai đường lối chính sách.
Qua sự phân tích trên ta có thể rút ra kết luận việc nghiên cứu Triết học cụ thể là việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Triết học và cuộc sống hay "phép biện chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta" là một đề tài hết sức cấp thiết, nóng bỏng và hết sức phức tạp. Đề tài này không những chứng minh sự cần thiết của Triết học thông qua những lý luận của chủ nghĩa duy vật mà nó còn cho ta thấy và bắt buộc chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc Triết học Mác-Lênin mà chúng ta phải biết khôn khéo, sáng tạo trong áp dụng vào sơ sở thực tế nước ta. Có như vậy thì công cuộc đi lên XHCN ở Việt Nam mới không đi phải những sai lầm như người anh cả Liên Xô và các người anh Đông Âu khác, và sớm đạt được kết quả cao. Việc nghiên cứu đề tài "phép việc chứng duy vật đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta" còm cho phép ta dự đoán được các xu hướng của thời đại, các xu hướng chính trị, các xu hướng kinh tế. Để từ đó không bị ngỡ ngàng trước mọi tình hình mới mà biết cách đón nhân, đưa ra những quyết sách phù hợp với tình hình mới đó.
2. Nội Dung:
2.1. Cơ sở của đề tài:
2.1.1. Cơ sở lý luận:
Phép biện chứng duy vật do Mác -Ănghen sáng lập ra giữa thế kỷ XIX và được Lênin bổ xung thêm vào những năm đầu thế kỷ XX. Lần đầu tiên giai cấp vô sản và tầng lớp nhân dân lao đông đã có một vũ khí tinh thần để đấu tranh gải phóng giai cấp mình và cả xã hội ra khỏi áp bức bóc lột. Đối với nước ta "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động..."(1), "làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tình thần xã hội"(2). Triết học mác không những giải thích mà còn cải tạo thế giới mà thực chất là đề cao vai trò của thực tiễn, coi thực tiễn là trung tâm của hệ thống lý luận(3). Phép biện chứng duy vật mà hạt nhân của nó là các quy luật, các phạm trù... để làm sáng tỏ chúng ta sẽ dần tìm hiểu sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản của nó.
Môt. Khi nghiên cứu cặp phạm trù cái chung, cái riêng, và cái đơn nhất ta thấy rằng cái chung "dùng để chỉ những mặt những thuộc tính , những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vât, hiện tượng hay quá trình đơn lẻ "(4), cái riêng "dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định"(5) và cái đơn nhất "dùng để chỉ những mặt , những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà không lắp lại ở các kết cấu khác "(6). Ta rút ra nhận xét:
- Cái chung và các riêng thống nhất với nhau nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện cái chung, cái cá biệt hoá cái chung, khi áp dụng vào cái riêng tức là muốn tìm cái chung phải tìm từ nhiều cái riêng, muốn tìm quy luật thì phải tìm từ rất nhiều sự vật hiện tượng. Từ đó áp dụng ra thực tiễn: muốn xây dựng một đường lối chính sách hay lớn hơn là một chế độ thì phải xuất phát từ nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều nguyện vọng của nhân dân...
- Giữa cái chung và cái đơn nhất có sự chuyển hoá lẫn nhau. Cần tạo điều kiện cho sự chuyển hoá cái đơn nhất tiến bộ thành cái chung, và biến cái chụng lạc hậu thành cái đơn nhất. Tức là: muốn xây dựng một cơ cấy kinh tế mới thì chúng ta thí điểm xây dựng ở một địa phương, cho nó thành cái đơn nhất của địa phương đó, nếu có hiệu quả thì ta nhân rộng ra toàn quốc, biến cái đơn nhất thành cái chung...
Hai. Khi nghiên cứu cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả ta thấy rằng "nguyên nhân là sự tác động giữa các sự vật hiện tượng để gây nên những biến đổi nhất định" còn "kết quả là những biến đổi xuất hiện khi có nguyên nhân phát sinh và phát huy tác dụng". Khi nghiên cứu cặp phạm trù nguyên nhân kết quả này cần chú ý phân biệt các phạm trù nguyên cớ (là cái sảy ra trước và tạo ra kết quả nhưng không sinh ra kết quả) và phạm trù điều kiện (là tổng hợp những điều kiện tạo ra kết quả nhưng không sinh ra kết quả) và phạm trù điều kiện (là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc và nguyên nhân nhưng có tác dụng đối với sự nảy sinh ra kết quả. Ví dụ: điều kiện nhiệt độ, ánh sáng, áp suất, chất xúc tác trong phản ứng hoá học chẳng hạn). Cũng như cần phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp của thời gian (Ví dụ: ngày sang đêm nhưng ngày không tạo ra đêm).
Từ đó rút ra ý nghĩa: khi nghiên cứu đối tượng phải tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nó. Cũng như dự kiến kết quả của đối tượng thông qua nguyên nhân đã biết. Cần có sự phân loại để đánh giá vị trí và vai trò của từng nguyên nhân. cần có biện pháp tác động tới nguyên nhân để đạt được kết quả tốt. Ví dụ: trong thực tế như có một trào lưu lười học trong giới sinh viên chẳng hạn thì chúng ta phải đi tìm nguyên nhân để khắc phục tình tạng đó. Giả sử lúc đó có một giả bóng đá lớn chẳng hạn thì giải bóng đá đó không phải là nguyên nhân mà chỉ là nguyên cớ, mà nguyên nhân chính là lòng say mê xem bóng đã của sinh viên... cũng như các quan hệ nhân quả khác trong kinh tế, chính trị chính vì vậy chúng ta cần nắm chắc cặp phạm trù này để khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục sự phát triển của xã hội.
Ba. Khi ngiên cứu bản chất và hiện tượng ta thấy rằng "bản chất là tổng hợp tất cả những thuộc tính chung nhất nhất, tất yếu quy định cho sự tồn tại vận động của sự vật"(1) còn "bản chất là biểu hiện ra biên ngoài của bản chất". Từ đó rút ra ý nghĩa: Muốn tìm hiều bản chất thì phải đi tìm hiều từ hiện tượng, phải phân loại đánh giá vị trí vai trò của từng hiện tượng, đánh giá mức độ trung thực của các hiện tượng đối với bản chất, tìm ra độ lệch giữa hiện tượng đến bản chất. Trong hoạt động thực tiễn không thể dựa trên tri thức về bản chất của sự vật. Qua đó để nhận thức được bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa phải bản nguyên từ các hoạt động thực tiễn như nâng cao dân chủ, thăng cường quyền làm chủ của nhân dân... ở Việt Nam, điều này được quy định tại hiến pháp năm 1992, văn bản pháp luật cao nhất của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là "Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trì thức".
Bốn. Khi nghiên cứu cặp phạm trù tất yếu và ngẫu nhiên ta thấy rằng tất nhiên là do "những nhuyên nhân cơ bản bên trong của sự vật quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải sảy ra như thế, chứ không phải sảy ra thế khác" còn "ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bên trong mà do các nguyên nhân bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện hoăc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác". Từ đó rút ra nhân xét:
- Nếu cái tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật nội tại của nó, còn ngẫu nhiên có thể xuất hiện và cũng có thể không xuất hện, thì trong nhận thức phải đạt đến cái tất nhiên và trong hiọat động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên.
- Khi nhất mạnh cái tất nhiên, chúng ta không thể quyên cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu nhiên. Phải xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên phải chú ý đến những cái ngẫu nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá qua lại, nên phải tạo ra điểu kiện để cản trở hay chuyển hoá giữa chúng do yêu cầu cụ thể của thực tiễn.
Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần nắm rõ cặp phạm trù này cũng như các cặp phạm trù khác để có thể có xác định rõ kết quả hoạt động của mình thành hay bại là do đâu. Có thể do ngẫu nhiên mà thắng lợi hay sự thắng lợi mang tính tất nhiên, tất yếu của sự chăm chỉ, tích cực học tập... Từ đó ta có thể đề những phương hướng phấn đấu, kế hoạch thực hiện cho ngày mai phù hợp với sự phát triển nhận thức của ta hiện nay. Có như thế thì định hướng, kế hoạch đó mới sát thực tế phù hợp với điều hiện, góp phần to lớn cho sự phấn đấu của chúng ta đạt kết quả tốt.
Năm. Khi nghiên cứu cặp phạm trù khả năng và hiện thực ta thấy rằng "khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới nhưng sẽ tới nó sẽ xuất hiện khi đã có đủ các điều kiện thích hợp", còn "hiện thực là tất cả những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự". Khi nghiên cứu cặp phạm trù này cần chú ý phân biệt khả năng thực tế (là những khả năng do mối hiên hệ và quan dệ tất nhiên quyết định, xuất hiện từ bản chất bên trong của sự vật khi có đầy đủ điều kiện sữ trở thành hiện thực)(1) với khả năng hiện thực (là những khả năng do những mối liên hệ và quan hệ ngẫu nhiên, do sự kết hợp từ những hoàn cảnh bên ngoài quyết định chưa có đủ điều kiện cần thiết để chuyển thành hiện thực). Khả năng gần vời khả năng xa, khả năng chủ quan và khả năng khách quan v.v... Từ đó chúng ta rút ra ý nghĩa:
- Trong thực tế phải căn cứ vào hiện thực, chứ không căn cứ vào khả năng để đánh gía tình hình.
- Phải phán đoán đúng tính chất và xu hướng của khả năng có thể sảy ra để có sự ứng sử đúng đắn trong hoạt động thực tiễn.
- Phải phát huy tối đa tính năng dộng chủ quan để biến khả năng thành hiện thực khi cần thiết, tránh tư tưởng chờ đợi, thụ động.
Đối với những người quản lý đất nước, những người hoạch định chính sách cho tổ quốc thì việc nắm rõ cặp phạm trù khả năng _hiện thực là hết sức quan trọng. Từ việc nẵm rõ cặp phạm trù này cùng với việc nắm rõ hiện thực, thực trạng đất nước, tình hình thế giới để có những quyết sách đưa nền kinh tế đất nước thoát khỏi lạc hậu trì trệ, phát triển nguồn lực, phát triển cao hơn nữa đời sống vật chất tinh thần. Dần dần đưa nước ta hội nhập với khu vực và thế giới.
Sáu. Khi nghiên cứu cặp phạm trù nội dung và hình thức ta nhận thấy rằng "nội dung là phạm trù chỉ yêú tố, những mặt và những quá trình tạo nên sự vật"(3), còn "hình thức là chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của nó"(4). Từ đây ta rút ra ý nghĩa:
- Nội dung và hình thức luôn luôn gắn bó hữu cơ với nhau, do đó trong hoạt động thực tiễn cần tránh sự tách rời hoặc tuyệt đối hoá một trong hai mặt đó.
- Vì nội dung quyết định hình thức nên khi xét đoán sự vật, trước hết cần phải căn cứ vào nội dung đồng thời thấy được sự tác động của hình tức đối với nội dung. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần nắm vững mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để có sự điều chỉnh, áp dụng một cách linh hoạt trong sản xuất.
Vận dụng điều này hết sức đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Khi sản xuất một mặt hàng nào đó thì chúng ta cần nghiên cứu thì trường đẻ quyết định nội dung của sản phẩm, nội dung ở đây có thể được hiểu là công dụng và chất lượng của mặt hàng. Nội dung, giá cả của sản phẩm là quan trọng những chú trọng đến hình thức là một điều hết sức quan trọng, hình thức ở đây có thể coi là những nét bên ngoài của sản phẩm. Quan tâm đến hình thức tức là đem lại cho sản phảm một nét độc đáo, mới lạ, có thể hợp thời trang, model...hợp thị hiếu của khách hàng. Có như vậy thì hàng hoá mới có thể tiêu thụ được.
Bảy. Khi nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong ba quy lật cơ bản của phép biện chứng thì quy luật này được Lênin coi là "hạt nhân của phép biện chứng", bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật, và là "chìa khoá" giúp người ta nắm vững thực chất của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Khi nghiên cứ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ta rút ra nhận xét sau:
- Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nắm được bản chất của sự vật cần phải thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của chúng.
- Mâu thuẫn là phổ biến, da dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt dối lập và với những điều kiện chín muồi.
Tức là với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ta thấy rằng mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và chuyển hoá giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Tuy nhiên để phát triển thì không chỉ kích thích sự đối lập, nếu sự đối lập là gay gắt sẽ dẫn đến sự đấu tranh và bài trừ, xung đột giữa các mặt là gay gắt khi đó ta sẽ không thể kiểm soát được chúng và rất có thể đem laị những hậu quả nguy hại.
Khi nghiên cứu quy lật này thì chúng ta cần lưu ý các phạm trù sau:
a. Mâu thuẫn bên trong (là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập trên cùng một sự vật) với mây thuẫn bên ngoài (là sự tác động qua lại giưa những mặt đối lập thuộc các sự vật thuộc các sự vật khác nhau) để rút ra kết luận:
Nếu mâu thuẫn bên trong quyết định sự vận dộng phát triển của sự vật thì trong thực tiễn muốn tác động làm cho sự vận động phát triển, trước hết cần phát hiện, tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn bên ngoài, vì giải quyết mâu thuẫn bên ngoài cũng có tác dụng rất quan trong đối với sự phát triển của sự vật.
Trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước để hội nhập cùng khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phát huy nội lục, phát huy đoàn kết tàn dân: "Phải động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng tâm nhất trí nỗ lực vượt vậc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực nỗ lực vượt bậc, nếu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, mở rộng lợp tác quốc tế thực hành cần kiệm liêm chính, ra sức khai thác thuận lợi, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ vượt qua thử thách thúc đẩy nhanh hơn những mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, phấn đấu vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" (Mục tiêu khái quá mà Đại hội VII đề ra). Không những thế chúng ta còn kịch liệt phê phán những tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào bên ngoài "có ý kiến cho rằng sức ta đang yếu nên phỉa dựa vàonguồng lực bên ngoài là chính mới có thể phát triển nhanh. Cách suy nghĩ đó chưa thoát khỏi thói quen dựa dẫm vào viện trợ vên ngoài. Cần thấy rằng quan hệ kinh tế với bên ngoài phải trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi; do đó, chỉ có thể mở rộng và đem lại hiệu quả tốt khi dựa trên cơ sở và hướng vào khai thác tối đa nguồn lực và lợi thế bên trong. ý trí tự lực tự cường không mâu thuẫn mà ngược lại điều kiện cơ bản thu hút các nguồn lực bên ngoài". (Báo cáo của Ban chấp hành Trung Ương Đảng Khoá VI).
b. Mâu thuẫn cơ bản (là mâu thuẫn xuất phát từ bản chất của sự vật, nó quy định quá trình và phát triển của sự vật và là cơ sở sự phát sinh các mâu thuẫn khác) với mâu thuẫn không cơ bản (là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, ccó ảnh hưởng đến quá trình vận động và phát triển của sự vật), để từ đó rút ra nhận xét:
- Trong nhận thức phải xác định đúng mâu thuẫn cơ bản, thì mới hiểu đúng bản chất của sự vật. Trong thực tế xã hội,có xác định đúng mâu thuẫn cơ bản thì mới xác định được đường lối chiến lược của cách mạng khoa học.
c. Mâu thuẫn củ yếu (là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định đối với mâu thuẫn khác của quá trình phát triển của sự vật) với mâu thuẫn không chủ yếu (là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định) để thấy được ý nghĩa:
- Trong cách mạng, việc xác định mâu thuẫn chủ yếu là rất quan trọng. Nó giúp cho cách mạng xác định được kể thù trước mắt, để đề ra nhiệm vụ trung tâm cần giải quyết và có sách lược phù hợp để đưa cách mạng tiến lên.
- Trong hoạt động thực tiễn, mỗi người, mỗi nhành cũng cần tìm ra mâu thuẫn chủ yếu của bản thân, của ngành mình để có hướng tập trung vào công việc chính, trước mắt để giải quyết kịp thời.
d. Mâu thuẫn đối kháng (là mâu thuẫn giữa những giai cấp tập đoàn người có khuynh hướng đối lập nhau về lợi ích cơ bản) với mâu thuẫn không đối kháng (là mâu thuẫn giữa lực lượng có khuynh hướng đối lập nhau về lợi ích không cơ bản) từ đó ta rút ra ý nghĩa: Trong thực tiễn cách mạng không được lẫn lộn hại loại mâu thuẫn để tránh phạm phải những sai lầm nghiêm trọng. Nếu mâu thuẫn đối kháng mà xã định nhầm thành mâu thuẫn không đối khánh thì dẫn đến "hữu khuynh" -ngược lại, mâu thuẫn không đối kháng thành mâu thuũn đối kháng thì sẽ dẫn đến "tả khuynh" trong việc gải quyết mâu thuẫn. Do đó, cần phân tích và giải quyết khoa học hai loại mâu trhuẫn này. Song, dù tiến hành giải quyết bằng phương pháp nào thì cả hai loại mâu thuẫn này để giải quyết bằng đấu tranh, chứ không thể dung hoà điều hoà giữa các mặt đối lập.
Tám. Khi xét nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại, đây là một trọng ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ cách thức của sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Trước hết, lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút (giới hạn của sự thống nhất giữa chất là lượng) sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất; chất mới ra đời tạo nên sự thống nhất mới giữa lượng và chất. Từ đó rút ra ý nghĩa:
- Quy luật lượng _chất có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do sự vận động và phát triển của sự vật, trước hết, là sự tích luỹ về lượng và khi sự tích luy về lượng vượt quá giới hạn cho phép, thì tất yếu có bước nhảy về chất, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần thống nhất cả hai khuynh hướng: Thứ nhất, "tả khuynh"-Tư tưởng nôn nóng, chủ quan duy ý chí, thể hiện ở chỗ khi chưa có sự tích luỹ về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Thứ hai, "hưu khuynh"-tư tưởng bảo thủ, chờ đợi, không thực hiện bước nhảy về chất, khi đã có sự tích luỹ đầy đủ về lượng hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng.
- Cần có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy có các điều kiện đầy đủ.
Chín. Khi xét nội dung quy luật phủ định của phủ định ta thấy rằng đây là quy luật thứ ba cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó chỉ rõ khuynh hướng của sự vận động, phát triển của sự vật và sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ. Để hiểu được bản chất của sự vật và sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ. Để hiểu được bản chất của quy luật, trước hết cần nắm được khái niệm phủ định và phủ định viện chứng:
- Khái niệm phủ đinh: Trong thế giới vật chất, các sựvật đều có quá trình sinh ra, tồn tại và mất đi và được thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là sự phủ định. Như vậy, phủ định là thuộc tính khách quan của thứ giới vật chất.
- Khái niêm phủ định biện chứng: Theo Mác -Lênin coi phủ định là sự phủ định biện chứng- sự phủ định có tính kế thừa, tạo điều kiện cho sự phát triển.
Qua quy luật này ta rút ra được ý nghĩa:
- Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển và khuynh hướng chung, là tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong trế giới khách quan. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn phiến diện giản đơn trong việc nhận thức sự vật, hiện tương, đặc biệt là các hiện tượng xã hội.
- Quy luật phủ định của phủ định tính tất thắng của cái mới vì cái mới, là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn cần có ý thức phát hiện ra cái mới tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
- Trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ "hư vô chủ nghĩa", "phủ định sạch trơn".
Trong cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật trong sự ngiệp đổi mới hiện nay ở nước ta" còn nhiều yếu tố, nhiều điểm cần đề cập tới như: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, hình thái kinh tế xã hội, đấu tranh gai cấp, bản chất của nhà nước, vĩ nhân- quần chúng... Do khuôn khổ bài viết có giới hạn nên những điểm này có thể có được đề cập đến ở những phần sau.
2.1.2. Cơ sở thực tế:
Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thì chúng ta sẽ long trọng tổ chức kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cổng sản Việt Nam 3/2/1930-3/2/2000. Bảy mươi năm sắp trôi qua kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, so với lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc, đây chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi. Nhưng chính trong thời gian này trải qua một quá trình đấu tranh liên tục sôi động và vô cùng oanh liệt chống lại nhiều kẻ thù xâm lược khác nhau và để là những tên đế quốc hùng mạnh nhất thể giới, trong đó có tên đầu sỏ là đế quốc Mĩ. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã dành được những thắng lợi vĩ đại làm cho bộ mặt của đất nước của dân tộc hoàn toàn thay đổi (1). Cũng thời gian đó "phép biện chứng duy vật" cũng được Chủ Tịch Hồ Chí Minh đưa vào nước ta và liên tục được hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước, nó đã trở thành vũ khí lí luận sắc bén và là trợ thủ đắc lực trong công cuộc chiến bảo vệ hoà bình, độc lập tự do cho dân tộc. Không những thế "phép biện chứng duy vật" còn là mặt trời soi sáng cho bóng đêm của cuộc đời lô nệ, nghèo đói. Không hề lỗi thời "Chủ nghĩa Mác -LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh" vẫn luôn được hoàn thiện hơn bởi lớp lớp các thế hệ Việt Nam sau này, giúp Đảng ta luôn vượt qua mọi thử thách, đưa đất nước ta bước trên con đường đổi mới hiện nay. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hành đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đứng ở vị trí trung tâm của các sự kiện lịch sử vĩ đại, của các biến đổi sâu sắc đã diễn ra trên đất nước ta trong vòng gần ba phần tư thế kỷ và là người tổ chức và lãnh đạo duy nhất mọi thắng lợi của Việt Nam. Sở dĩ Đảng có được vinh quang đó là bởi vì:
2.1.2.1. Đảng là đại biểu trung thành và đầy đủ lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả đân tộc Việt Nam. Ngoài việc phục vụ tổ quốc phục vụ nhân dân Đảng không còn lợi ích nào khác.
Chỉ có một Đảng tuyệt đối trung thành vì lợi ích của tổ quốc, của nhân dân, luôn luôn vì tổ quốc, vì nhân dân mà chiến đấu, bất chấp mọi kẻ thù hung bạo, bất chấp mọi gian khổ hi sinh mới được nhân dân tin yêu, một lòng, một dạ đi theo đến cùng và do đó Đảng mới có đủ sức mạnh làm nên sự nghiệp lớn.
2.1.2.2. Đảng luôn luôn quán triệt mọi hoạt động của mình, quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân và vì nhân dân, phải "lấy dân làm gốc".Nhấn mạnh đến vai trò to lớn của quần chúng trong công cuộc xây dựng CNXH, V.I. Lênin nói: "Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không phải là việc riêng của Đảng Cộng sản -Đảng chỉ là một giọt nước trong đại dương -mà là tất cả quàn chúng nhân dân lao động" (1).
Thấm nhuần ý thức đó, một phần nhận thức được "vai trò của quần chúng và vĩ nhân lãnh tụ đối với sự nghiệp phát triển xã hội" mà trong đường lối đổi mới của Đảng, một trong những điều quan trọng là phải "lấy dân làm gốc", phải luôn luôn tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng Nhà nước với nhân dân và nguyện vọng chân chính của mình Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Phải coi việc thực hiện XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Chủ trương của Đảng về kiện toàn hệ thống chính trị chính là nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phải quán triệt đầy đủ tinh thần đại hội VI và đại hội VII của Đảng đề ra: xây dựng CNXH do dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.1.2.3. Đảng biết nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra dường lối chủ trương độc lập, tự chủ, đúng đắn.
Cách Mạng là sáng tao, chân lý là cụ thể. quán triệt quan điểm đó, Đảng luôn luôn có ý thức vận dụng một cách độc lập và sáng tạo chủ nghĩa Lênin và hoàn cảnh cụ thể nước ta, có ý thức kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, sản phẩm trí tuệ của việc kết hợp nhuần nhuyễn gữa chủ nghĩa Lênin với thực tiễn đất nước và tinh hoa truyền thống dân tộc, chú trọng kết hợp hài hoà lợi ích cách mạng nước ta với lợi ích cách mạng thế giới, học tập có phê phán kinh ngiệm của phong trào cộng sản quốc tế. Nhờ đó mà Đảng ta đề ra được nhiều đường lối chủ trương và chính sách sát hợp, cho phép giải quyết đúng đắn do thực tiễn cách mạng nước ta đề ra.
Trên thực tế thì sự lãnh đạo của hiện nay là hoàn toàn phù hợp với lợi ích của dân tộc và lợi ích Quốc gia. Rõ ràng nhất được thể hiện ở hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hệ thống chính trị của nước ta hiện nay là kết quả của một quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa trên nửa thế kỷ qua. Sự ra đời tồn tại và phát triển của nó được quy định một cách khách quan bởi các điều kiện chính trị, xã hội phù hợp với quy luật vận động của xã hội nước ta.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ ngiã Việt Nam, mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam v.v...Hệ thống chính trị đó hoạt động theo cơ cấu bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân thông qua công tác quản lý của Nhà nước và các hoạt động của các đoàn thể quần chúng dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng vì mục đích xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Không những chỉ ở hệ thống chính trị mà hệ thống kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Đã và đang thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35198.doc