_*
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ VỚI RỦI RO QUỐC GIA ...................... 3
1.1 Trái phiếu quốc tế ................................................................................................ 3
1.1.2 Khái niệm .................................................................................................. .... 3
1.1.2 Phân loại .......................
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phát trình trái phiếu quốc tế. Hướng đi mới nhằm huy động vốn và khẳng định uy tín trong lĩnh vực tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................................................................. 3
1.2.3 Ưu, nhược điểm của trái phiếu quốc tế ........................................................... 4
1.2 Thị trường trái phiếu quốc tế - một hướng đi mới .......................................... 6
1.2.1 Lịch sử thị trường trái phiếu quốc tế .............................................................. 6
1.2.2 Những công cụ chủ yếu trên thị trường trái phiếu quốc tế .............................. 7
1.2.3 Lựa chọn đồng tiền phát hành ........................................................................ 9
1.2.4 Cách thức phát hành trái phiếu quốc tế ra thị trường .....................................10
1.3 Rủi ro quốc gia .............................................................................................11
1.3.1 Khái niệm .....................................................................................................11
1.3.2 Các thành phần của rủi ro quốc gia ..............................................................11
1.3.2.1 Theo Standard and Poor’s(S&P).......................................................11
1.3.2.2 Theo International Country Rish Guide(ICRG) ................................12
1.3.3 Các mô hình đánh giá rủi ro quốc gia ...........................................................13
1.3.3.1 Theo Standard and Poor’s(S&P) .......................................................13
1.3.3.2 Theo International Country Rish Guide(ICRG) ...............................14
1.3.4 Mối liên hệ giữa rủi ro quốc gia và phát hành trái phiếu quốc tế ..................15
1.4 Kinh nghiệm của Trung Quốc .....................................................................16
CHƯƠNG II: VIỆT NAM PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ -
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
2.1 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam và rủi ro quốc gia thời gian qua .................19
2.1.1 Xuất nhập khẩu .............................................................................................19
2.1.2 Thu hút vốn đầu tư ........................................................................................21
2.1.3 Những hạn chế trong nền kinh tế ....................................................................21
2.1.3.1 Chính sách tài khóa .........................................................................21
2.1.3.2 Chính sách tiền tệ ............................................................................23
2.1.4 Đánh giá của Standard & Poor’s .....................................................................24
2.2 Nhu cầu vốn đầu tư & thực lực của nguồn tài chính chủ yếu của
Việt Nam hiện nay ..........................................................................................25
2.2.1 Các nguồn tài chính tại Việt Nam hiện nay .....................................................25
2.2.1.1 Nguồn lực tài chính trong nước ........................................................25
2.2.1.2 Nguồn lực tài chính bên ngoài ..........................................................26
2.2.2 Nhu cầu phát hành trái phiếu quốc tế ..............................................................29
2.2.2.1 Hạn chế của nguồn vốn trong nước ..................................................29
2.2.2.2 Hạn chế của nguồn vốn nước ngoài ..................................................30
2.3 Thực trạng hoạt động vốn thông qua phát hành trái phiếu quốc tế của
Việt Nam trong thời gian qua ........................................................................32
2.3.1 Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên 2005 ..............................32
2.3.2 Thấy gì qua đợt phát hành trái phiếu quốc tế năm 2005? ................................34
2.3.3 Việt Nam quản lý và sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế như thế nào?.......34
2.3.4 Tại sao Tồng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam Vinashin lại
được ưu tiên vay vốn trái phiếu quốc tế? ........................................................34
2.3.5 Giới thiệu khái quát vế Tồng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy
ViệtNam(Vinashin)......................................................................................... 35
2.3.6 Vinashin đã sử dụng vốn vay như thế nào? ................................................... 36
2.4 Lịch sử nợ quốc gia và khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam.........40
2.4.5 Nợ nước ngoài ...............................................................................................40
2.4.6 Nợ trong nước ...............................................................................................43
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO VẦN ĐỀ
3.1 Xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm riêng của Việt Nam
theo tiêu chuẩn quốc tế .........................................................................................44
3.2 Lựa chọn những tổ chức tư vấn, hỗ trợ phát hành trái phiếu chuyên nghiệp ........45
3.3 Lựa chọn thị trường phát hành phù hợp ..............................................................45
3.4 Lựa chọn đồng tiền hiệu quả ...............................................................................47
3.5 Lựa chọn kỳ hạn khối lượng trái phiếu phát hành ...............................................47
3.6 Sử dụng vốn vay hiệu quả ...................................................................................48
3.7 Tạo sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam ...........................................................49
KẾT LUẬN .............................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC CÁC BẢNG CHỈ SỐ, BIỂU ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thị trường cổ phiếu quốc tế thời gian qua đang chao đảo trước sự sụt giảm liên tục
của hàng loạt các chỉ số lớn và việc giảm điểm liên tục trong các phiên giao dịch tại
các trung tâm giao dịch lớn như New York, Tokyo, Hồng Kông
Các thông tin (Phụ lục chỉ số Dự báo chỉ số NASDAQ , Dự đoán chỉ số Nikkei
225 của Nhật Bản) giúp chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng các chuyên gia tài
chính tỏ ra không mấy lạc quan về một tương lai tốt đẹp của các thị trường chứng
khoán lớn trên thế giới. Rõ ràng sự trì trệ kinh tế của các quốc gia lớn, đặc biệt là
Mỹ đã kéo theo sự suy giảm trong các chỉ số. Mặc dù Cục Dự Trữ liên bang Mỹ
(FED) đã mạnh tay cắt giảm lãi suất từ tháng 5 năm 2008 xuống còn 2% nhằm
mục đích vực dậy nền kinh tế Mỹ nhưng xem ra công cụ này chưa tỏ rõ sức mạnh
mà Mỹ mong muốn. Đồng đôla Mỹ không còn giữ vị trí thống trị như những năm
vừa qua khiến việc nắm giữ các cổ phiếu của các công ty Mỹ cũng giảm sức hút đi
một phần.
Bên cạnh đó, cơn bão khủng hoảng tài chính do các biến động trong thị trường tài
chính thứ cấp bắt đầu từ Mỹ đã lan ra một số nền kinh tế khác kéo theo chỉ số niềm
tin vào thị trường chứng khoán thế giới nói chung sụt giảm nghiêm trọng. Thị
trường chứng khoán xuống dốc là một khó khăn cực kỳ to lớn đối với những công
ty, những tổ chức tài chính muốn thông qua thị trường này để huy động vốn cho các
dự án đầu tư của mình. Phát hành cổ phiếu lúc này trở nên một quyết định nhiều rủi
ro khiến các công ty đau đầu.
Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ lạm phát gia tăng quá mức cùng với sự khủng hoảng về
tiền mặt tại các ngân hàng làm cho việc vay vốn đầu tư kinh doanh của khu vực các
doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Chính lúc này thì thị trường trái phiếu tỏ ra là một lựa chọn thích hợp, đặc biệt là
thị trường trái phiếu quốc tế do những ưu điểm của thị trường này đem lại cho nhà
đầu tư và những tồ chức muốn huy động vốn.
Tuy Chính phủ Việt Nam đã phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên năm 2005
nhưng nhìn chung thì loại hình huy động vốn này vẫn còn khá mới mẻ đối với nhiều
người. Thông qua đề tài này, tác giả mong muốn giúp mọi người có được những
khái niệm cơ bản và có cái nhìn cận cảnh hơn về việc phát hành trái phiếu quốc tế
trong bối cảnh Việt Nam. Đây thực sự là một kênh huy động vốn hiệu quả mà
Chính phủ và các doanh nghiệp nên tìm hiểu và tận dụng để phục vụ cho nhu cầu
phát triển.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các loại hình trái phiếu trên thị trường tài chính thế giới( các
khái niệm, cách thức phát hành…), ưu điểm , nhược điểm của phát hành trái phiếu
quốc tế, thực tế phát hành trái phiếu quốc tế ở Việt Nam: Nghiên cứu cuộc phát
hành trái phiếu ra quốc tế của Vinashin, các giải pháp đẩy mạnh việc phát hành
trái phiếu quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai…
3. Phạm vi nghiên cứu:
Vì những hạn chế nhất định về mặt thời gian, những khó khăn trong quá trình tìm
kiếm tài liệu nên đề tài không đi vào phân tích tình hình trái phiếu quốc tế trên thế
giới mà chủ yếu xoáy vào việc nghiên cứu những khái niệm cơ bản cần phải nắm
vững về trái phiếu quốc tế, các vấn đề của Việt Nam khi thực hiện, đặc biệt xem
xét kỹ cuộc phát hành trái phiếu quốc tế của Vinashin, từ đó tìm hiểu các ưu điểm,
các hạn chế nhằm làm rõ mục tiêu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tìm hiểu thông qua các giáo trình chuẩn của các bộ môn kinh tế liên quan đến trái
phiếu, thông tin từ các tạp chí kinh tế, từ các trang web chính thức có uy tín về tài
chính, trang web chính thức của công ty nghiên cứu, các báo cáo, phân tích của các
tổ chức như World Bank, IMF…Phân tích các biểu đồ, biểu mẩu, các công thức
tính toán tài chính có liên quan…
5. Kết cấu đề tài:
Đề tài gồm ba phần:
Chương 1: Trái phiếu quốc tế với rủi ro quốc gia.
Chương 2:Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế- Những vấn đề cần quan tâm.
Chương 3: Giải pháp cho vấn đề.
CHƯƠNG I: TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ
VỚI RỦI RO QUỐC GIA
1.1 TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ
1.1.1 Khái niệm
Để dễ hiểu trái phiếu quốc tế là gì thì trước hết chúng ta cần tìm hiểu xem trái phiếu là
gì: “Trái phiếu (bond) là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của một tổ chức phát
hành đối với người sở hữu (trái chủ) trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm theo tiền lãi
trong một thời hạn nhất định.”
Trái phiếu quốc tế (international bond) cũng là trái phiếu nhưng có đặc điểm là được
bán ra bởi chính phủ, các tổ chức kinh tế của một nước hay các tổ chức tài chính quốc
tế trên thị trường vốn quốc tế (không phải trên thị trường nội địa của tổ chức phát
hành).
1.1.2 Phân loại trái phiếu quốc tế
Thị trường trái phiếu quốc tế bao gồm hai bộ phận: trái phiếu nước ngoài (foreign
bonds) và trái phiếu châu Âu (Eurobonds).
Trái phiếu nước ngoài: là trái phiếu do một tổ chức nước ngoài phát hành trên thị
trường vốn của một quốc gia và mệnh giá trái phiếu được ghi bằng đơn vị tiền tệ của
quốc gia mà trái phiếu được phát hành. Ví dụ: Công ty Việt Nam phát hành trái phiếu
tại Mỹ thì trái phiếu sẽ có mệnh giá bằng USD hay ngược lại một công ty Mỹ phát
hành trái phiếu tại Việt Nam thì trái phiếu đó phải có mệnh giá ghi bằng VND. Trái
phiếu nước ngoài thường được điều chỉnh cho phù hợp với thị trường vốn nội địa mà
chúng được phát hành, được đặt tên gọi thông dụng theo thị trường mà chúng được
cung cấp.
Bởi vì những nhà đầu tư mua trái phiếu nước ngoài thường là những cư dân của những
quốc gia tại đó trái phiếu được phát hành, họ thấy trái phiếu nước ngoài hấp dẫn vì họ
có thể đưa chúng vào danh mục đầu tư của mình mà không cần phải thêm vào chi phí
hoán đổi chúng thành đồng nội tệ.
Trái phiếu nước ngoài còn bao gồm trái phiếu bulldog, trái phiếu matilda và trái phiếu
samurai.
Trái phiếu châu Âu: là trái phiếu được bán ở những nước khác với nước có đồng tiền
định danh trái phiếu đó.
Thông thường trái phiếu châu Âu được phát hành bởi những nghiệp đoàn quốc tế và
được xếp loại phụ thuộc vào đồng tiền ghi trên mệnh giá. Một trái phiếu châu-Âu-đôla
có nghĩa là nó có mệnh giá ghi bằng đôla Mỹ và được phát hành tại Nhật bởi một công
ty Úc có thể là một ví dụ điển hình cho trái phiếu châu Âu. Công ty Úc trong ví dụ này
có thể phát hành trái phiếu châu-Âu-đôla tại bất kỳ quốc gia nào ngoại trừ nước Mỹ.
Trái phiếu châu Âu là một công cụ tài chính hấp dẫn đối với các nhà phát hành bởi vì
chúng đem lại cho các nhà phát hành sự linh hoạt trong việc lựa chọn quốc gia phát
hành trái phiếu tùy thuộc vào sự ép buộc điều tiết của quốc gia đó. Họ thường định
danh trái phiếu châu Âu của mình theo đồng tiền mà họ yêu thích. Trái phiếu châu Âu
hấp dẫn các nhà đầu tư vì chúng có giá trị danh nghĩa nhỏ và có thanh khoản cao.
1.2.3 Ưu và nhược điểm của trái phiếu quốc tế
Ưu điểm: Lợi thế lớn nhất mà ta có thể nhận thấy được từ trái phiếu quốc tế là tổ chức
phát hành trái phiếu có toàn quyền trong việc sử dụng vốn vay và không chịu sự ràng
buộc nào từ phía các nhà đầu tư. Đây là một ưu điểm vượt trội hơn so với việc phát
hành cổ phiếu. Nếu như các cổ đông có quyền tham gia vào các quyết định định đầu tư
cũng như cách thức sử dụng vốn, và đôi khi vì mâu thuẫn trong lợi ích nhận được từ
các quyết định đầu tư mà các cổ đông sẽ ngăn cản, thậm chí bác bỏ các dự án đầu tư
mặc dù chúng sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty; thì ngược lại, các trái chủ hoàn toàn
đứng ngoài các quyết định này.
Bên cạnh đó, khối lượng vốn huy động và thời hạn của trái phiếu đều do tổ chức phát
hành quyết định. Điều này tỏ ra có hiệu quả tốt, nhất là trong các trường hợp phát hành
trái phiếu trung và dài hạn.
So với việc đi vay ngân hàng thì phát hành trái phiếu có chi phí thấp hơn nếu xét về lâu
dài, khi đã có được sự tin tưởng của thị trường thì càng về sau lãi suất huy động có thể
giảm. Một ưu điểm nữa so với việc vay vốn ngân hàng là phát hành trái phiếu không
đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm hay thế chấp. Điều đó giúp các công ty chủ động hơn
trong việc sử dụng tài sản của mình trong kinh doanh.
Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ là một phương thức huy động vốn đơn thuần mà
nó còn là một cách khẳng định uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường vốn quốc tế.
Quan trọng hơn nữa, nếu như các khoản nợ và lãi vay được thanh toán đúng hạn, cũng
như vốn vay được sử dụng hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao cho công ty thì sẽ làm gia
tăng uy tín và kéo theo việc nâng bậc hệ số tín nhiệm, một chỉ số rất quan trọng mà các
nhà đầu tư thường tham khảo khi muốn đầu tư vào một công ty. Một khi công ty được
đánh giá cao thì lãi suất vay cho những lần phát hành sau sẽ giảm hơn lần trước.
Về phía các nhà đầu tư, khi mua các trái phiếu quốc tế họ cũng thường tham khảo thêm
chỉ số tín nhiệm của tổ chức phát hành do các tổ chức có uy tín lâu năm xếp hạng. Để
có thể đưa ra các chỉ số này thì các tổ chức xếp hạng đã phải căn cứ vào rất nhiều yếu
tố quan trọng như tình hình tài chính, doanh số, các dự án… của công ty. Điều đó có
nghĩa là các tổ chức xếp hạng đã đảm bảo một phần cho sự an toàn khi đầu tư vào trái
phiếu của các tổ chức đó.
Riêng tại Mỹ, chính phủ Mỹ đánh thuế thu nhập lãi suất đối với nhà đầu tư nước ngoài
khi mua trái phiếu nội địa của Mỹ. Do vậy, các nhà đầu tư nước ngoài thích nắm giữ
trái phiếu châu Âu hơn vì nó không thuộc đối tượng bị đánh thuế.
Nhược điểm: Phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế hoàn toàn không phải là
chuyện đơn giản chút nào. Các tổ chức phát hành phải tuân thủ chặt chẽ các thông lệ
quốc tế về trình tự, thủ tục phát hành và cách thức thanh toán trái phiếu. Những thủ tục
này tương đối phức tạp, đòi hỏi phải được chuẩn bị chu đáo về cơ sở pháp lý, kinh tế,
các kỹ thuật nghiệp vụ phức tạp như lựa chọn thị trường, loại tiền tệ, hình thức phát
hành, lựa chọn người bảo lãnh, đại lý thanh toán, tư vấn pháp lý. Tất cả các nghiệp vụ
này đều yêu cầu phải được tiến hành thận trọng bởi những chuyên gia có kinh nghiệm.
Chi phí cho đợt phát hành trái phiếu đầu tiên là khá cao do phải thanh toán các chi phí
phí đại lý, phí dịch vụ pháp lý, phí cho lễ ký kết, phí giao dịch, in ấn tài liệu, chi phí
quảng cáo…
Việc thanh toán nợ gốc và lãi vay bắt buộc phải đúng hẹn vì nó ảnh hưởng trực tiếp
đến uy tín của công ty. Nếu đợt phát hành trước trái phiếu bị thanh toán chậm hoặc
thiếu hụt thì sẽ gây ra tâm lý nghi ngại cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư thêm
lần nữa vào trái phiếu của công ty đó. Do vậy, nếu muốn huy động được số vốn mong
muốn buộc công ty phải trả một lãi suất cao hơn hoặc phải đưa ra nhiều điều kiện ưu
đãi hơn.
Đối với những trái phiếu càng dài hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào các
trái phiếu này các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt với các rủi ro về khủng
hoảng kinh tế, thay đổi lãi suất, tỷ giá hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành.
Điều đó buộc các tổ chức phát hành phải có những cam kết vay chặt chẽ với những
điều khoản khắt khe hơn để tạo lòng tin nơi các nhà đầu tư.
1.2 THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ - MỘT HƯỚNG ĐI MỚI
1.2.1 Lịch sử thị trường trái phiếu quốc tế
Từ những năm 1820, các nhà phát hành trái phiếu người nước ngoài, thường là các
chính phủ hay các công ty đường sắt, đã bắt đầu xuất hiện tại thị trường tài chính châu
Âu. Từ nửa sau thế kỷ 19 đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất thì Paris và London
đã trở thành hai trung tâm tài chính với các thị trường trái phiếu lớn bắt đầu xuất hiện.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, New York trở thành một thị trường trái phiếu
quốc tế hùng mạnh và vị trị này cũng phù hợp với nền tài chính của nước Mỹ lúc bấy
giờ. Theo một ước tính, có khoảng 14 tỷ trái phiếu nước ngoài bằng đôla đã được phát
hành vào thị trường từ năm 1946 đến 1963.
Trong suốt những năm 1980, thị trường trái phiếu nước ngoài bằng yên Nhật và frăng
Thụy Sỹ cũng mở rộng nhanh chóng.
Riêng thị trường trái phiếu châu Âu, vào những năm 1900 đã ghi nhận có đến ¾ thị
trường là trái phiếu quốc tế. Mặc dù đến nay vẫn còn một số quan điểm bất đồng nhưng
hầu hết mọi người đều công nhận là nguồn gốc của thị trường trái phiếu châu Âu là từ
những năm 1960.
1.2.2 Những công cụ chủ yếu của thị trường trái phiếu quốc tế
Phát hành trái phiếu có lãi suất cố định đường thẳng (Straight fixed-rate bond): là
trái phiếu có ngày đáo hạn cố định mà vốn gốc của trái phiếu được cam kết sẽ được chi
trả. Trong suốt vòng đời của trái phiếu, việc thanh toán lãi suất cố định sẽ là số phần
trăm của mệnh giá được ghi trên trái phiếu và được thanh toán cho trái chủ. Đây chính
là loại trái phiếu chủ yếu. Trái phiếu châu Âu có lãi suất cố định chủ yếu là trái phiếu
vô danh và trả lãi hàng năm.
Phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating-rate notes – FRNs): là loại trái
phiếu trung hạn chủ yếu với lãi suất phụ thuộc vào một vài lãi suất tham chiếu nhất
định. Lãi suất thông thường được sử dụng là lãi suất LIBOR 3 hoặc 6 tháng của đôla
Mỹ. Việc thanh toán lãi suất của FRNs thường là hàng quý hoặc nửa năm một lần, và
căn cứ theo lãi suất tham chiếu.
Phát hành trái phiếu khả hoán ( Convertible bond): cho phép nhà đầu tư hoán đổi trái
phiếu lấy một con số xác định trước vốn cổ phần của người phát hành. Giá sàn của trái
phiếu khả hoán chính là giá trị của trái phiếu có lãi suất cố định. Trái phiếu khả hoán
thường được bán tại mức chênh lệch giá giữa phần lớn hơn của nợ có lãi suất cố định
và giá trị chuyển đổi của chúng. Thêm vào đó, các nhà đầu tư thường sẵn sàng chấp
nhận một lãi suất thấp hơn lãi suất cố định bởi vì họ nhận thấy có những đặc tính hấp
dẫn. Trái phiếu có bảo đảm về vốn có thể được xem như trái phiếu có lãi suất cố định
kẻm theo một quyền chọn mua (hoặc một sự bảo đảm). Sự bảo đảm cho phép các trái
chủ đổi trái phiếu khả hoán lấy một số lượng cụ thể vốn cổ phần tại giá chưa xác định
trước thời hạn hoán đổi.
Trái phiếu lãi suất bằng không ( Zero coupond bonds) được bán ở một mức giá thấp
hơn mệnh giá và không được thanh toán bất kỳ một lãi suất nào trong suốt dòng đời
của nó. Đến ngày đáo hạn nhà đầu tư sẽ nhận được toàn bộ mệnh giá của trái phiếu.
Một dạng khác của trái phiếu lãi suất bằng không là trái phiếu tách rời. Trái phiếu tách
rời là một trái phiếu có lãi suất bằng không, là kết quả của việc tách rời lãi suất và vốn
gốc của một trái phiếu lãi suất thông thường. Kết quả là hàng lọat trái phiếu lãi suất
bằng không được đại diện bởi việc thanh toán riêng lẽ tiền lãi và vốn gốc.
Trái phiếu gồm hai loại tiền tệ là trái phiếu lãi suất cố định thẳng hàng được phát
hành bằng một đồng tiền và trả lãi cũng bằng loại tiền tệ ấy. Đến ngày đáo hạn, vốn
gốc sẽ được hoàn trả bằng loại tiền thứ hai. Lãi suất của loại trái phiếu này thường cao
hơn lãi suất của trái phiếu lãi suất cố định. Việc thanh toán số lượng đôla vốn gốc vào
ngày đáo hạn được tiến hành như quy định ban đầu, thông thường, số lượng đó cho
phép một số khả năng nâng giá trị chúng thông qua các tỷ giá của một đồng tiền mạnh
hơn. Theo viễn cảnh mà các nhà đầu tư mong muốn, một trái phiếu gồm hai loại tiền tệ
bao gồm một hợp đồng kỳ hạn dài hạn.
Trái phiếu kếp hợp các loại tiền tệ: là loại trái phiếu định danh bằng một rổ tiền tệ,
như là SDRs hay ECUs, thay vì chỉ duy nhất một loại tiền tệ. Chúng thường xuyên
được gọi là trái phiếu hỗn hợp tiền tệ. Chúng chính là những loại trái phiếu lãi suất cố
định điển hình. Sự kết hợp nhiều loại tiền tệ chính là một danh mục các loại tiền tệ: khi
mà một số đồng tiền bị mất giá trong khi một số khác lại tăng giá, do đó lợi ích thu
được thấp hơn giá trị biến đổi xét về tổng thể.
Tình huống giả định: Nếu bạn là một ngân hàng đầu tư và bạn đang tư vấn cho một
ngân hàng châu Âu về một dự định phát hành trái phiếu quốc tế mới mà họ đang cân
nhắc. Phần tiền thu được sẽ được dùng tài trợ cho các khoản nợ cho các khoản nợ
bằng đôla châu Âu của các ngân hàng khách hàng. Vậy bạn sẽ đề nghị ngân hàng đó
sử dụng công cụ trái phiếu nào cho việc phát hành?
Giải pháp: Vì ngân hàng châu Âu mong muốn sử dụng phần tiền thu được từ trái phiếu
để điểu tiết các khoản nợ bằng đôla châu Âu, là những khoản nợ với lãi suất thả nổi,
ngân hàng đầu tư nên đề nghị ngân hàng đó phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi
(FRNs), là loại trái phiếu có lãi suất thay đổi. Bởi vì sẽ có mối quan hệ tương tác giữa
lãi suất ngân hàng trả cho các ngân quỹ và lãi suất mà nó nhận được từ các khoản cho
vay của mình. Ví dụ, nếu một ngân hàng thường xuyên cho vay các khoản căn cứ theo
lãi suất LIBOR 3 tháng, nó có thể muốn phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi, và
thường là dựa vào LIBOR 3 tháng.
1.2.3 Lựa chọn đồng tiền phát hành
Một điều dễ nhận thấy rằng các đợt phát hành trái phiếu bằng đồng tiền mạnh luôn
chiếm một con số áp đảo hơn so với những đợt phát hành bằng những đồng tiền yếu.
Việc pha trộn các loại tiền tệ thường hiểu là do ảnh hưởng của các mức lãi suất khác
nhau, với những đợt phát hành bằng đồng tiền đem lại lợi ích cao hơn luôn nhiều hơn
và còn do ảnh hưởng của số lượng trái phiếu phát hành.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn đồng tiền cho đợt phát hành trái phiếu là
phương thức quản lý rủi ro có liên quan và chi phí đi vay.
Liên quan đến việc quản lý rủi ro, người đi vay muốn đồng tiền mà họ dùng để thanh
toán lãi vay và nợ gốc phải tuơng đương với đồng tiền của dòng tiền vào ròng mà họ
mong muốn nhận được trong suốt dòng đời của trái phiếu, trong khi nhà đầu tư muốn
có được một khoản lợi nhuận trên số tài sản ở hiện tại phải tương đương với chi phí bỏ
ra trong tương lai.
Riêng trái phiếu gồm hai loại tiền tệ là loại trái phiếu có lãi suất cố định được phát
hành bằng một đồng tiền và trả lãi cũng bằng đồng tiền đó. Đến ngày đáo hạn, vốn gốc
sẽ được hoàn trả bằng lọai tiền thứ hai. Lãi suất của loại trái phiếu này thường cao hơn
lãi suất của trái phiếu lãi suất cố định. Việc thanh toán số lượng đôla vốn gốc vào ngày
đáo hạn được tiến hành như quy định ban đầu, thông thường, số lượng đó cho phép
một số khả năng nâng giá trị chúng thông qua các tỷ giá của một đồng tiền mạnh hơn.
Theo viễn cảnh mà các nhà đầu tư mong muốn, một trái phiếu gồm hai loại tiền tệ bao
gồm một hợp đồng kỳ hạn dài hạn. Nếu đồng tiền thứ hai tăng giá trong suốt dòng đời
của trái phiếu, thì sự thanh toán vốn gốc sẽ là tiêu tốn nhiều hơn việc thanh toán vốn
gốc bằng đồng tiền phát hành (đồng tiền thứ nhất). Tuy nhiên, nếu đồng tiền thanh toán
giảm giá, nhà đầu tư sẽ phải gánh chịu một khoản lỗ do thay đổi tỷ giá. Trái phiếu gồm
hai loại tiền tệ có sức hấp dẫn đối với các Công ty đa quốc gia (MNC) đang tìm kiếm
nguồn tài chính để hình thành hoặc mở rộng hoạt động tại quốc gia có đơn vị tiền tệ là
đồng tiền thanh toán trên trái phiếu (đồng tiền thứ hai). Trong suốt những năm đầu tiên,
việc thanh toán lãi suất sẽ được tiến hành bởi công ty mẹ ở quốc gia phát hành trái
phiếu (đồng tiền thứ nhất). Đến ngày đáo hạn, các MNC đã tính toán trước số vốn gốc
sẽ được hoàn trả từ nguồn lợi nhuận kiếm được từ các công ty con. MNC có thể phải
chịu đựng một khoản lỗ do tỷ giá gây ra nếu các công ty con không thể thanh toán nợ
gốc và đồng tiền thanh toán tăng giá so với đồng tiền phát hành. Do vậy, cả nhà phát
hành và nhà đầu tư phải chịu rủi ro về tổn thất do thay đổi tỷ giá hối đoái gây ra từ trái
phiếu bao gồm hai loại tiền tệ.
1.2.4 Cách thức phát hành trái phiếu quốc tế ra thị trường
Một tổ chức dự định tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu châu Âu vào thị trường
vốn sẽ liên hệ với các ngân hàng đầu tư và sẽ yêu cầu họ làm nhà quản lý chính của
một nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ phát hành trái phiếu vào thị trường. Nhà quản lý chính
thường sẽ mời thêm các ngân hàng khác kết hợp tạo thành một nhóm quản lý để giúp
thương thảo với tổ chức muốn phát hành trái phiếu, xác định các điều kiện thị trường
quản lý việc phát hành. Hầu hết các nhà bao tiêu, cùng với các ngân hàng khác, sẽ là
một phần của một nhóm chuyên bán trái phiếu vào thị trường đầu tư công chúng. Rất
nhiều thành viên của nhóm bao tiêu sẽ nhận được một phần chia của phí bao tiêu
(thường là từ 2% đến 2.5% của lượng phát hành), dựa trên số lượng và loại trái phiếu.
Nhà quản lý chính sẽ nhận được đầy đủ phí bao tiêu, và ngân hàng hoạt động chỉ như
là thành viên của một nhóm bán trái phiếu thì nhận được phần nhỏ hơn.
1.3 RỦI RO QUỐC GIA
1.3.1 Khái niệm rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội sẽ
ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia cũng bao gồm
là khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước ngoài của chính
phủ, việckiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ.
1.3.2 Các thành phần của rủi ro quốc gia
1.3.2.1 Theo STANDARD & POOR’S (S & P)
Hiện nay trên thế giới có nhiều tổ chức có uy tín trong việc xếp hạng tín nhiệm nhằm
đánh giá rủi ro quốc gia khi quốc gia đó phát hành trái phiếu quốc tế. Trong đó phải kể
đến Standard & Poop’s (S&P), Flitch, Moody, International Country Risk Guide
(ICRG)…. Ờ đây chúng ta đề cập đến hai phương thức đánh giá rủi ro khá quen thuộc
là S&P và ICRG.
Khi xếp hạng tín nhiệm nhằm đánh giá rủi ro của một quốc gia, S&P tập trung phân
tích vào mức độ rủi ro về chính trị và kinh tế.
Đối với rủi ro về chính trị, S&P tập trung vào các thành phần chủ yếu như tính ổn định
hệ thống chính trị (hình thức của chính phủ, sự kế thừa trong lãnh đạo cũng như khả
năng thích nghi của tổ chức này); các vấn đề về lao động, mức sống và phân phối thu
nhập được xếp vào môi trường xã hội và cuối cùng là mối quan hệ với các quốc gia
khác.
S&P đã xếp rủi ro kinh tế và rủi ro về tài chính vào cùng một nhóm rủi ro chung gọi là
rủi ro về kinh tế. Trong rủi ro kinh tế, S&P đánh giá trạng thái nợ nước ngoài (bao gồm
quy mô, cơ cấu, nghĩa vụ trả nợ hàng năm và dự trữ quốc tế), cán cân thanh toán quốc
tế, tăng trưởng kinh tế, quản lý và triển vọng tăng trưởng kinh tế.
1.3.2.2 Theo INTERNATIONAL COUNTRY RISK GUIDE (ICRG)
Theo ICRG thì rủi ro quốc gia đuợc phân loại gồm 22 biến số và chia thành 3 loại:
Rủi ro chính trị: đây là loại rủi ro được đánh giá dựa trên 100 điểm được chia
thành 12 loại xếp từ A đến L bao gồm cả chính trị và xã hội.
Rủi ro kinh tế: là rủi ro được đánh giá dựa trên 50 điểm bao gồm GDP trên đầu
người, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực, tỷ lệ lạm phát hàng năm, phần trăm cán cân
ngân sách trên GDP, phần trăm tài khoản vãng lai trên GDP.
Rủi ro tài chính: là rủi ro được đánh giá dựa trên 50 điểm. Mục đích của việc
phân loại rủi ro này là để đánh giá khả năng thanh toán của một quốc gia. Thực
chất đây là hệ thống đo lường khả năng tài chính của một nước, về nghĩa vụ của
nước đó đối với thương mại, mua bán nợ, nợ nước ngoài.
Bảng 1: Các thành phần trong Rủi Ro Chính Trị
Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)
A Sự ổn định của chính quyền 12
B Điều kiện kinh tế xã hội 12
C Tiểu sử đầu tư 12
D Xung đột bên trong 12
E Xung đột bên ngoài 12
F Sự tham nhũng 6
G Sự tinh nhuệ của quân đội 6
H Tình trạng tôn giáo 6
I Luật pháp 6
J Sự căng thẳng dân tộc 6
K Tính dân chủ 6
L Nạn quan liêu 4
Tổng cộng 100
(Nguồn: ICRD Methodology)
Bảng 2: Các thành phần trong Rủi Ro Kinh Tế
Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)
1 GDP bình quân đầu người 5
2 Tỷ lệ tăng trưởng thực 10
3 Tỷ lệ lạm phát hàng năm 10
4 Cân bằng ngân sách 10
5 Cán cân vãng lai % của GDP 15
Tổng cộng 50
(Nguồn: ICRD Methodology)
Bảng 3: Các thành phần trong Rủi Ro Tài Chính
Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)
1 Nợ nước ngoài % của GDP 10
2 Dịch vụ nợ % trên xuất khẩu 10
3 Tài khoản vãng lai % trên xuất khẩu 15
4 Dự trữ chính thức tính theo tháng nhập khẩu 5
5 Sự ổ định của tỷ giá hối đoái 10
Tổng cộng 50
(Nguồn: ICRD Methodology)
1.3.3 Các mô hình đánh giá rủi ro quốc gia
1.3.3.1 Theo STANDARD & POOR’S
Bảng 4: Thứ hạng trái phiếu quốc tế
HẠNG NỘI DUNG
AAA
- Là thứ hạng được đánh giá cao nhất.
- Khả năng trả nợ gốc và lãi là mạnh nhất
AA
- Chỉ xếp sau AAA
- Khả năng trả nợ gốc và lãi rất cao
A
- Là thứ hạng được đánh giá là có khả năng thanh toán gốc
và lãi vay mặc dù nó cũng có phần chịu ảnh hưởng bởi
những thay đổi bất lợi trong những điều kiệ._.n kinh tế,
BBB
- Là thứ hạng được đánh giá là có khả năng thanh toán gốc
và lãi vay.
- Nhưng ở một khía cạnh nào đó, khi môi trường hoặc kinh
tế thay đổi theo chiều hướng xấu thì khả năng trả nợ của
nó trở nên yếu đi so với các thứ hạng trên.
BB, B
CCC, C
- Là các thứ hạng được đánh giá có tính chất đầu cơ.
- BB là thứ hạng đầu cơ thấp nhất
- CC là thứ hạng đầu cơ thấp nhất
- Tuy những khoản nợ này có những nét đặc trưng phù hợp
vế chất lượng và khả năng được bảo vệ nhưng các thứ
hạng này có mức độ không chắc chắn và rủi ro cao khi
hoàn cảnh thay đổi trở nên bất lợi.
C
- Là thứ hạng bị đánh giá là không trả lãi đuợc
D
- Là thứ hạng chỉ mức độ vỡ nợ.
Dấu (+) hoặc (-): dấu cộng hoặc trừ dành cho các thứ hạng từ AA đến BB để chỉ vi
thế trong tứng thứ hạng.
(Nguồn: Security Analysis and Portfolio Management, trang 327)
1.3.2.2 Theo INTERNATIONAL COUNTRY RISK GIUDE (ICRG)
Phương pháp để tính toán cho việc phân loại và sắp xếp các rủi ro về chính trị, kinh tế
và tài chính đến nay vẫn không thay đổi. Rủi ro về chính trị quyết định 50% của việc
phân loại này trong khi rủi ro về kinh tế, tài chính mỗi loại chỉ quyết định 25%
Công thức được dùng để tính tổng thể cho việc kết hợp của ba rủi ro này:
CR (country X) = 0.5 (PR+FR+ER)
CR (Composite Risk) : Tổng hạng mức rủi ro tổng hợp
PR (Political Risk) : Tổng hạng mức rủi ro chính trị
FR (Financial Risk) : Tổng hạng mức rủi ro tài chính
ER (Economic Risk) : Tổng hạng mức rủi ro kinh tế
Với tổng số điểm đạt được nếu là 100 điểm thì rủi ro được đánh giá là đang ở mức thấp
nhất, ngược lại rủi ro bị đánh giá là cao nhất khi số điểm bằng 0.
Rủi ro cao nhất 00.0 đến 49.5 điểm
Rủi ro cao 50.0 đến 59.5 điểm
Rủi ro vừa phải 60. đến 69.5 điểm
Rủi ro thấp 70.0 đến 79.5 điểm
Rủi ro rất thấp 80.0 đến 100 điểm
(Nguồn: ICRD Methodology)
1.3.4 Mối liên hệ giữa phát hành trái phiếu quốc tế với rủi ro quốc gia
Khi nói đến vay nợ dù ở một mức độ thấp nhất là giữa hai cá thể thì người cho vay
luôn cân nhắc giữa hai lựa chọn là cho vay hay không cho vay thông qua uy tín, khả
năng trả nợ của người đi vay kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, lãi suất đi vay
và đặc biệt là sự đánh đổi giữa rủi ro và lãi suất. Một khi muốn phát hành trái phiếu
quốc tế thành công thì việc đầu tiên phải kể đến là hệ số tín nhiệm vì hệ số tín nhiệm
tạo nên sự hấp dẫn của trái phiếu. Nếu hệ số ấy càng cao thì càng tạo được sự tin tưởng
của nhà đầu tư, cũng như dựa trên sự đánh giá này mà các nhà đầu tư mới hình thành
nên giá thị trường, lãi suất thực của trái phiếu, hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi suất
càng thấp và ngược lại. Ngoài ra, hệ số tín nhiệm còn được dùng để đánh giá về khả
năng thanh toán nợ (cả gốc và lãi) hiện thời của người phát hành. Các nhà đầu tư dựa
vào hệ số tín nhiệm mà biết được mức độ rủi ro của các khoản cho vay của mình. Tuy
nhiên, muốn hình thành nên các hệ số tín nhiệm cần phải dưa trên các yếu tố của môi
trường chính trị, kinh tế, tài chính của một quốc gia. Các yếu tố này kết hợp lại đã trở
nên các thành phần của rủi ro quốc gia. Các thành phần trong rủi ro quốc gia có sự liên
kết với nhau và không thể tách rời, vì khi đi vay nợ sẽ đẩy tổng nợ của nước đó tăng
lên và làm nảy sinh các vấn đề khác như cơ cấu và quy mô nợ sẽ thay đổi, việc kiểm
soát nợ, việc sử dụng các nguồn vốn từ các khoản vay này như thế nào để đạt được
mục tiêu đề ra trước khi đi vay, khả năng thanh toán nợ. Nếu nguốn vay nợ này được
sử dụng có hiệu quả thì dù vay nợ nhiều để phát triển thì đó vẫn là những khoản nợ tốt.
Chúng không làm gia tăng rủi ro quốc gia mà trái lại còn làm cho nền kinh tế nước đó
tăng thêm sức mạnh. Nhưng ở chiều ngược lại, những sai lầm trong việc vay nợ tràn
lan, việc phân bổ không đúng các khoản vay trong đầu tư phát triển, sẽ đưa đến sự lỗi
hẹn trong thanh toán và có thể là mất khả năng trả nợ khi đến hạn. Lúc đó tình trạng vỡ
nợ sẽ xảy ra làm gia tăng rủi ro tài chính. Nếu rủi ro này là nghiêm trọng sẽ có thể làm
ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc gia đó (rủi ro kinh tế). Khi nền kinh tế bị khủng
hoảng thường đưa đến sự bất ổn về chính trị và việc gia tăng tổng thể của rủi ro quốc
gia là không tránh khỏi. Hơn nữa, việc khủng hoảng nợ hay tình hình bất ổn của một
nước sẽ ảnh hưởng đến tình trạng phát triển kinh tế của các nước liên quan và ảnh
hưởng này sẽ lây lan sang nền kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới. Như
vậy, trái phiếu quốc tế, hệ số tín nhiệm và rủi ro quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Chúng ta cần phải cân nhắc trong việc sử dụng nợ khi phát hành trái phiếu ra thị
trường vốn quốc tế để không phải trả giá bằng việc làm gia tăng rủi ro quốc gia.
1.4 KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ CỦA TRUNG
QUỐC
Trong thời kỳ đầu thực hiện cải cách mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc đã thực hiện
chính sách vay nợ nước ngoài để nhập khẩu thiết bị tiên tiến, cải tạo cơ sở hạ tầng của
mình. Sau thập niên 80, Trung Quốc bắt đầu vay của các tổ chức quốc tế như Ngân
hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Phát triển
Châu Phi, các khoản vay này được đầu tư vào các công trình quan trọng trong các
ngành công nghiệp năng lượng và nguyên liệu đầu vào hoặc đầu tư vào các đề án phát
triển nông nghiệp, khoa học, giao thông vận tải và giáo dục.
Tháng 10 năm 1987, Trung Quốc đã phát hành lần đầu tiên trái phiếu quốc tế với tổng
trị giá 0.3 tỷ mark Đức. Đây là một thành công lớn của họ khi giới tài chính quốc tế
đánh giá Trung Quốc là một thị trường có sức hấp dẫn cao.
Tuy nhiên, trong 10 năm đầu cải cách, Trung Quốc đã vấp phải những sai lầm trong
việc sử dụng các khoản vay nước ngoài như: Nhà nước Trung Quốc gặp khó khăn
trong việc kiểm soát quy mô nợ nước ngoài do có quá nhiều đầu mối vay nợ, vấn đề trả
nợ gặp khó khăn khi không có sự liên kết có hiệu quả giữa các cơ quan đi vay, rủi ro tỷ
giá trở nên nghiêm trọng được thể hiện qua việc điều chỉnh tỷ giá liên tục giữa đồng
nhân dân tệ và USD gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc vay và trả nợ vay của Trung
Quốc, việc sử dụng các khoản vay kém hiệu quả cộng với việc vay nợ tràn lan đã đẩy
các khoản lãi vay phải thanh toán hàng năm lên quá cao đưa đến tình trạng phải vay nợ
mới để trả nợ cũ. Đứng trước tình hình đó, vào đầu những năm 90, Trung Quốc đã có
những điều chỉnh trong chính sách vay nợ theo hướng vừa phát triển đất nước vừa
không quá phụ thuộc vào nước ngoài. Các điều chỉnh đó như sau:
- Nếu trước kia họ đặt trọng tâm vấn đề vay trực tiếp từ các tổ chức như Ngân
hàng thế giới hay các quốc gia khác thì nay Trung Quốc chuyển hướng vay nợ
sang hình thức phát hành trái phiếu quốc tế với thời hạn của các khoản vay
thường là trung và dài hạn.
- Trung Quốc chú trọng tới hình thức vay theo dự án, không vay để bù đắp nợ cũ,
các khoản vay chủ yếu tập trung vào những ngành cơ sở hạ tầng như năng
lượng, giao thông hoặc đầu tư vào các dự án then chốt của ngành công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng, các dự án phát triển khoa học kỹ thuật.
- Chú trọng đến quy mô các khoản vay, tỷ lệ hoàn trả nợ từ 15-20%/năm, các
khoản nợ vay được quy về cho đối tượng tự thanh toán, nhà nước không can
thiệp vào.
- Nếu nguồn vốn vay trong giai đoạn trước được đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng
ở các thành phố mới thành lập hoặc các đặc khu kinh tế thì nay được tập trung
đầu tư vào miền Tây hoặc miền Trung.
Nhờ những điều chỉnh kịp thời đó mà Trung Quốc đã tránh được rủi ro nợ khi xảy ra
cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, các chỉ tiêu về nợ nước ngoài của họ luôn
thấp hơn mức độ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, đã có những lỗ hổng trong sự quản lý nợ nước ngoài của Trung Quốc vào
cuối thập niên 90 do sự vỡ nợ của các doanh nghiệp, các công ty tài chính khi họ vay
vượt ngoài tầm kiểm soát đã làm cho Trung Quốc ngày càng có sự thận trọng hơn
trong khi đi vay nợ nước ngoài. Nói chung, với chính sách vay nợ hợp lý cùng với
những điều chỉnh kịp thời khi xảy ra các biến cố trong vay nợ kết hợp với sự thận trọng
trong việc mở cửa tài khoản vốn đã giúp Trung Quốc thành công khi đạt được những
thành tự phát triển kinh tế trong hoàn cảnh thiếu hụt nguồn vốn trong nước, dự trữ có
hạn và đặc biệ là tránh được khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực vào những
năm cuối thập niên 90.
CHƯƠNG II:
VIỆT NAM PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ NHỮNG
VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
2.1 THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM & RỦI RO QUỐC GIA THỜI
GIAN QUA
Trong khoảng 2 năm rưỡi tính từ đầu năm 2005 đến tháng 6 năm 2007, GPD của Việt
Nam đã tăng khoảng 22%. Đây quả là một tốc độ tăng trưởng rất tốt đối với một nền
kinh tế còn đang phát triển như Việt Nam. GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu
đồng tương ứng 720 USD, tăng 80 USD so với năm 2005. Trong đó, nhiều nhất là khu
vực công nghiệp – xây dựng chiếm 50,99% GDP, khu vực dịch vụ chiếm 40,86% và
khu vực nông lâm nghiệp chỉ chiếm 8,15% do phải đối phó với nhiều dịch bệnh như
lợn tai xanh, lở mồm long móng ở trâu bò, dịch cúm ở gia cầm, các loại bệnh ở cây
trồng. Bên cạnh đó, chỉ mới hơn 4 tháng đầu năm 2008 mà Việt Nam và các vùng biển
ngoài khơi đã liên tiếp hứng chịu nhiều cơn bão lớn làm tiêu hao rất nhiều tài sản và
con người.
2.2.1 Xuất nhập khẩu
Xuất nhập khẩu luôn là một nguồn phần quan trọng trong nền kinh tế và trong giai
đoạn 1996-2005 kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam luôn tăng đều đặn. Ta có thể
thấy rõ hơn điều đó qua bảng sau:
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa 1995-2005
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
%
tăng
BQ 1
năm
(96-
05)
Kim ngạch xuất
khẩu HH (tỷ USD) 5,45 7,25 9,19 9,36 11,54 14,48 15,03 16,71 20,15 26,49 32,45 20,1
% tăng so với
năm trước 133,0 126,8 101,8 123,3 125,5 103,8 111,2 120,6 131,5 122,5
Kim ngạch nhập
khẩu HH (tỷ USD) 8,16 11,14 11,60 11,52 11,62 15,64 16,22 19,75 25,26 31,97 36,76 19,9
Bảng 6:Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005
199
5
199
6
199
7
199
8
199
9
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
Hàng công nghiệp nặng
và khoáng sản (%) 25,3 28,7 28,0 27,9 31,0 37,2 34,9 31,8 32,2 36,4 33,8
Hàng công nghiệp nhẹ
và TTCN (%) 28,5 28,9 36,7 36,6 36,3 33.8 35,7 40,6 42,7 41,0 40,3
Riêng năm 2006 là một năm có nhiều tích cực đáng ghi nhận về tăng trưởng xuất khẩu
về mặt chất lương và khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu góp phầnt húc
đẩy kinh tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2006 ước đạt 9,6 tỷ USD tăng gần 7,16
triệu USD, tăng 22,1% so với năm 2005 trong đó nhóm sản phẩm dệt may vẫn tuếp tục
đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu, đạt trên 5,8 tỷ USD chiếm 14,6% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Kim ngạch của mặt hàng giày dép đạt 3,56 tỷ USD trong hoàn cảnh mặt
hàng này bị áp thuế chống bán phá giá vào thị trường châu Âu.
Trong khi đó tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 44,4 tỷ USD, tăng 20,1% so với
năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu;
riêng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng 24,4% so với năm 2005 mặc dù chỉ
chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 2,8%), trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập siêu năm
2006 ước đạt 4,4 tỷ USD bằng 10,4% kim ngạch xuất khẩu.
2.1.2 Thu hút vốn đầu tư
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 tăng 19,8% so với năm trước, trong đó phải kế
đén tình hình thu hút vốn ODA và FDI. Trong năm 2006, với nguốn ODA, các nhà tài
trợ cam kết hỗ trợ 4,45 tỷ USD, tăng hơn 700 triệu USD so với năm 2005. Nguốn FDI
tăng chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Cuối năm 2007, kết thúc Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG), tổng số
tiền mà các nhà tài trợ cam kết viện trợ cho Việt Nam trong năm 2008 lên tới 5,426 tỉ
USD, cao hơn gần 20% so với mức 4,45 tỉ USD của năm 2007. Trong các tổ chức tài
trợ nhiều nhất cho Việt Nam, dẫn đầu là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với 1,35
tỉ USD, Ngân hàng thế giới (WB) 1,11 tỉ USD; các nước tài trợ nhiều nhất là: Nhật Bản
với 1,111 tỉ USD, Hàn Quốc 286,2 triệu USD, Pháp 228 triệu USD, Mỹ 114,6 triệu
USD, Anh 101,4 triệu USD...
2.1.3 Những hạn chế trong nền kinh tế
Một vấn đề đáng lo ngại và đang khiến các nhà quản lý đau đầu hiện nay chính là tình
hình lạm phát tăng cao và chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt khiến tốc độ phát triển kinh tế
bị kìm hãm và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của nhân dân(phụ lục Chỉ số giá tiêu
dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008). Tuy nhiên, với những chính sách kịp thời
chúng ta có thể hạn chế được tình trạng lạm phát.
Những yếu kém chủ yếu trong nền kinh tế hiện nay bắt nguồn từ những sai lầm trong
quản lý về:
2.1.3.1 Chính sách tài khóa
Chi tiêu ngân sách chưa thực sự tiết kiệm, bội chi còn cao, hiệu quả đầu tư từ khu vực
nhà nước còn thấp. Bội chi ngân sách trong nhiều năm liền liên tục giữ ở mức 5% GDP
trong khi quy mô nền kinh tế ngày càng lớn. Tỷ lệ chi đầu tư từ khu vực nhà nước
(ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước) lớn, nhưng hiệu quả
thấp. Tình trạng đầu tư dàn trải, để nhiều công trình dở dang, chậm đưa vào khai thác,
sử dụng, còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả khá phổ biến đã kéo dài nhiều năm ở cả
trung ương và địa phương chậm được khắc phục. Hệ số ICOR của nền kinh tế có xu
hướng ngày càng cao.
Chủ trương thí điểm thành lập tập đoàn đa ngành chưa được nhận thức thống nhất để
thực hiện tốt. Bên cạnh những kết quả đạt được về nhiều mặt, một số tập đoàn đã đầu
tư rộng sang nhiều ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc chuyên ngành, thế mạnh của
mình, nhất là vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán... Những
hoạt động đầu tư này đã gây khó khăn cho quản lý nhà nước đối với hoạt động của các
tập đoàn, khó khăn cho ngân hàng nhà nước trong quản lý lưu thông tiền tệ, nếu không
được khắc phục sẽ làm tăng tính đầu cơ trên thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản, góp phần tăng thêm tình hình lạm phát nền kinh tế.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu còn hạn chế,
chưa có biện pháp điều chỉnh hợp lý.
Quản lý thị trường, giá cả, việc dự báo, điều hòa cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết
yếu phục vụ sản xuất và đời sống trên thị trường chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu
quả, dẫn tới tình trạng đầu cơ tăng giá.
Những hạn chế, yếu kém trong cơ cấu, chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu
Việt Nam (chủ yếu xuất nguyên liệu, nông sản chưa qua chế biến sâu; sản phẩm công
nghiệp phần lớn là gia công, lắp ráp trên cơ sở nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị nhập
khẩu, giá trị gia tăng thấp) chậm được khắc phục, bộc lộ sự yếu kém rõ hơn khi nền
kinh tế thế giới có biến động, đồng USD mất giá, lãi suất cho vay trong nước cao...
Trong điều kiện phải thực hiện giảm thuế, mở cửa thị trường theo cam kết với WTO,
nhưng cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu chậm được thay đổi, chưa có chính sách hướng
dẫn tiêu dùng hợp lý, chưa tận dụng đầy đủ các hàng rào kỹ thuật và các công cụ thị
trường cần thiết để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần phải hạn chế, đã làm tăng
thêm nhập siêu.
Hoạt động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản còn nhiều hạn chế,
vướng mắc.
Thị trường chứng khoán phát triển thiếu bền vững; số lượng doanh nghiệp niêm yết
chưa nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ, nhưng mức vốn hóa quá lớn, không phản ánh
đúng giá trị thật của doanh nghiệp, đem lại những khoản lợi rất lớn cho công ty phát
hành và nhà đầu tư chứng khoán lớn, đồng thời gây thiệt hại cho nhà đầu tư chứng
khoán nhỏ, không chuyên nghiệp (chiếm số đông). Các biện pháp can thiệp để khắc
phục đà tụt điểm sau thời kỳ tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán chậm
phát huy tác dụng và chưa đem lại kết quả vững chắc. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp của
nước ngoài (FII) đổ vào rất lớn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng và sự tham gia vào đầu tư bất động sản của
nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn khá lớn
chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc chống đầu cơ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc cho sự
phát triển lành mạnh thị trường bất động sản còn chưa có hiệu quả nên giá cả bất động
sản, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức quá cao,
vượt xa hơn nhiều giá trị thực, gây cản trở phát triển thị trường bất động sản lành
mạnh, phát triển công nghiệp và góp phần đẩy chỉ số giá tăng cao.
2.1.3.2 Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ nới lỏng liên tục trong nhiều năm, nhất là trong năm 2007, làm tổng
phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng mạnh. Năng lực
kiểm tra, giám sát của ngân hàng nhà nước chậm được tăng cường, không theo kịp tình
hình khi các tổ chức tín dụng chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và
hội nhập quốc tế, không kiểm soát có hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương
mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần trong việc cho vay kinh doanh chứng
khoán và kinh doanh bất động sản.
Thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến bất thường nhưng việc phát hiện và cảnh báo còn
chưa kịp thời. Hệ thống thông tin, số liệu phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu
và chưa đủ độ chuẩn xác.
Chính sách tỷ giá thấp để khuyến khích xuất khẩu trong nhiều năm không kịp điều
chỉnh phù hợp khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy giảm, đồng USD giảm giá mạnh. Việc
đồng VND được giữ giá trị cao so với đồng USD cùng với lãi suất trong nước cao... đã
khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào khá lớn nhưng chưa có biện
pháp hấp thụ có hiệu quả.
Khi có tình hình xảy ra, việc ngân hàng nhà nước thực hiện đồng thời các giải pháp
mạnh vào cùng một thời điểm: Tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tỷ lệ nợ cho vay đầu tư
kinh doanh chứng khoán và bất động sản, tăng lãi suất chỉ đạo, phát hành tín phiếu bắt
buộc đối với các ngân hàng thương mại, hạn chế mua, bán USD của tổ chức và cá nhân
có nhu cầu... nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác,... tuy có góp phần ngăn
chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho
ngân hàng thương mại, tạo ra việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn
cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội. Nhờ thực hiện một
số biện pháp điều chỉnh, những ảnh hưởng tiêu cực này đã được khắc phục một phần.
2.1.4 Đánh giá của Standard & Poor’s
S&P là một trong 3 công ty đánh giá hệ số tín nhiệm có uy tín trên thế giới và Việt
Nam đã tiến hành mời công ty đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia và là quốc gai thứ 6
trong số các nước Đông Nam Á có hệ số này.
Năm 2002 S&P đánh giá cao triển vọng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt Nam
nhờ vào Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực, nền kinh tế đa dạng, tài nguyên
thiên nhiên dồi dào, tỷ lệ tích lũy cao; quá trình cải cách của Việt Nam có chuyển biếm
tích cực như cải cách cơ cấu và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đang chủ động tham gia
hội nhập cũng như từng bước tự do hóa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ.
Tuy nhiên tại thời điểm đó mức thu nhập bình quân theo đầu người là 440 USD là thấp.
Năm 2005: là năm đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường
quốc tế, S&P đã nâng mức tín nhiệm của Việt Nam từ BB- lên BB do Việt Nam đã tỏ
ra kiên định hơn với những chính sách đã đề ra, tỏ rõ quyết tâm hình thành một thị
trường trái phiếu năng động, ngoài ra vần đề giàu tài nguyên cũng làm tăng mức tín
nhiệm. Tuy nhiên các chuyên gia của S&P cũng đề cập đến những hạn chế còn tồn tại
làm ảnh hưởng đến mức tín nhiệm như: chính sách tiền tệ không linh hoạt, ngân hàng
nhà nước thiếu sự cởi mở và chỉ thực hiện nửa vời để quản lý sự tăng trưởng tín dụng
thái quá, các rào cản liên quan đến mức độ cạnh tranh của nền kinh tế như hệ thống tài
chính công còn yếu, nhiều quy định pháp luật còn thiếu minh bạch…
Năm 2006: S&P đã nâng hệ thống tín nhiệm của Việt Nam lên một bậc: hệ số tín
nhiệm của các nhà phát hành bằng ngoại tệ từ mức BB- (triển vọng tích cực) lên mức
BB (triển vọng ổn định), hệ số tín nhiệm của nhà phát hành bằng nội tệ từ mức BB lên
mức BB+, hệ số tín nhiệm cho các khoản vay ngoại tệ không đảm bảo đến hạn vào
năm 2016 từmức BB- lên mức BB, hệ số tín nhiệm cho các khoản vay bằng không đảm
bảo bằng nội tệ từ mức BB lên mức BB+. Lý do cho việc nâng mức này là vì tiềm năng
kinh tế mạnh và dự báo tăng trưởng ở mức bình quân lớn hơn 7,5%/năm, năng suất lao
động thuận lợi, hệ số tiết kiệm bằng nội tệ cao làm nguốn cugn cấp vốn cho các dự đầu
tư bớt lệ thuộc vào nguồn tài trợ từ nước ngoài, sự đẩy nhanh các nguồn các chương
trình cải cách kinh tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế nước ngoài. Tuy
nhiên S&P đánh giá chúng ta vẫn còn một số yếu kém như: cần cho phép khu vực kinh
tế tư nhân có vai trò lớn hơn trong nền kinh tế, cần cắt giảm thâm hụt ngân sách, sự
tích lũy nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cần phải được duy trì ở mức thấp hơn nhiều
so với tốc độ tăng trưởng danh nghĩa của GDP.
2.2 NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ VÀ THỰC LỰC CỦA NGUỒN TÀI CHÍNH
CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1 Các nguồn tài chính tại Việt Nam hiện nay
2.2.1.1 Nguồn lực tài chính trong nước
Vốn nhà nước: bao gồm ngân sách, vốn tín dụng (không bao gồm vốn ODA), vốn
doanh nghiệp nhà nước và vốn huy động khác. Trong cơ cấu toàn xã hội, vốn đầu tư
của khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 56,3% trong năm 2002, sang 54,0%
trong năm 2003, 53,6% trong năm 2004, 52,2% năm 2005 và chỉ cỏn 50,1% trong năm
2006 nhưng đến nay đây vẫn là nguồn lự chủ yếu của xã hội.
Vốn ngoài nhà nước: Chủ yếu là nguồn tích lũy vốn từ các doanh nghiệp tư nhân và
của dân cư. Nguồn vốn đầu tư của khu vực này ngày càng phát triển với mức đóng góp
là 33,6%, chiếm trên 1/3 trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2006. Đây là
nguồn vốn ngày càng thể hiện vai trò to lớn của mình và trong tương lai có thể thay thế
dần vị trí của đầu tư nhà nước trong các ngành Việt Nam có lợi thế so sánh. Các doanh
nghiệp tư nhân trong nước ngoài khả năng thỏa mãn nhu cầu dịch vụ, hàng hóa trong
nước và bắt đầu xuất hiện các doanh nghiệp tìm hướng mở rộng đầu tư ra khu vực quốc
tế nhằm tận dụng các ưu thế của quy chế WTO. Việc ăn nên làm ra của các doanh
nghiệp làm cho đời sống người dân được nâng lên, bắt đầu tích lũy cho mình và bản
thân các doanh nghiệp cũng bắt đầu có vốn tích lũy để mở rộng đầu tư kinh doanh.
Giai đọan 2001-2005 nguồn tiết kiệm trong nước đã liên tục đạt mức cao chiếm từ
khoảng 28%-30% của GDP. Việc tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước cũng là động lực về
tài chính để mở rộng tái đầu tư sản xuất kinh daonh và là bước đệm cho việc phát triển
kinh tế.
2.2.1.2 Nguồn lực tài chính bên ngoài
Các hình thành nên vốn cho việc phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua được chủ
yếu hình thành nên từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), các khoản vay
từ các tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế (IMF, ADB, WB) đặc biệt là nguồn vốn
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và phải kể đến khoản nợ vay lần đầu tiên trên thị
trường tài chính quốc tế qua hình thức phát hành trái phiếu quốc tế.
Hỗ trợ chính thức (ODA):
Bảng 7: Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 2001 - 2005
Ngành, lĩnh vực
Hiệp định ODA ký kết Giải ngân ODA
Tổng Tỷ lệ % Tổng Tỷ lệ %
1. Nông nghiệp và phát triển
nông thôn kết hợp xóa đói
giảm nghèo
1.818 16% 1.641 21%
2. Năng lượng và công nghiệp 1.802 16% 1.375 17%
3. Giao thông vận tải, bưu
chính viễn thông, cấp, thóat
nước và phát triển đô thị.
Trong đó:
- GTVT, BCVT
- Cấp, thóat nước và phát triển
đô thị
3.801
2.753
1.048
34%
25%
9%
3.801
2.753
1.048
32%
25%
7%
4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi
trường, khoa học kỹ thuật, các
ngành khác. Trong đó:
- Y tế, giáo dục
- Môi trường, khoa học kỹ
thuật
- Các ngành khác
3.785
1.171
351
2.263
34%
11%
3%
20%
2.332
554
361
1.417
30%
7%
5%
18%
Tổng số 11.206 100% 7.907 100%
“Nguồn: Bộ Kế họach và Đầu tư”
Thời kỳ 2001-2005, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA
khá lớn với tổng giá trị đạt trên 14,8 tỷ USD. Các chương trình dự án ODA đã được ký
kết có giá trị hơn 11,2 tỷ USD, trong đó 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Việc vay này
gắn liền với trách nhiệm và uy tín quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quôc tế.
Vốn ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt hơn 7,9 tỷ USD, bằng 88% chỉ tiêu mà Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra.
Trong giai đoạn 2006-2010, chủ yếu sẽ giải ngân phần vốn ODA cam kết trong thời kỳ
2001-2005. Và theo tính toán, nếu không có gì thay đổi thì giai đoạn 2005-2010, nguồn
vốn ODA sẽ được giải ngân khoảng 11 tỷ USD. Năm 2006 được đánh giá là có tỷ lệ
giải ngân cao nhất từ trước đến nay và đạt khoảng 1,8 tỷ USD. Hội nghị CG 2007 kết
thúc với mức cam kết viện trợ kỷ lục giành cho Việt Nam, đạt 5,426 tỷ USD, tăng hơn
20% so với năm 2006. Trong đó, cam kết viện trợ song phương đạt hơn 2,6 tỷ USD,
cam kết đa phương đạt hơn 2,55 tỷ USD và cam kết của các tổ chức phi chính phủ
quốc tế là 250 triệu USD. Ngân hàng phát triển châu Á ADB, Nhật Bản và Ngân hàng
thế giới là những nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với hơn 1 tỷ USD tài trợ. Việt Nam
đang ngày càng tiếp cận lớn hơn vào thị trường vốn thế giới. Việt Nam sẽ cần ít hơn
những khoản viện trợ có điều kiện chặt. Hiện nay, 25% nguồn vốn ODA của WB vào
Việt Nam không kèm theo điều kiện. Nguồn vốn này được sử dụng cho chương trình
135. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA sẽ ngày càng thu hẹp dần cho đến năm 2010 khi mức
thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đạt mức trung bình.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Bảng 8 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đọan 2001 – 2005
Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005
Thu hút vốn Triệu
USD
3.224 2.757 3.064 4.019 5.835
Số dự án cấp mới Dự án 550 802 752 679 850
Vốn đăng ký mới Triệu USD 2.592 1.621 1.914 2084 3.900
Số dự án tăng vốn Dự án 241 366 393 458 458
Vốn đăng ký tăng
thêm
Triệu USD 632 1.136 1.150 1.935 1.935
Thực hiện vốn
Vốn FDI thực hiện Triệu USD 2.450 2.591 2.650 2.825 3.300
Doanh thu Triệu USD 9.800 12.000 13.000 18.600 21.000
Tạo việc làm 1.000người 450 590 665 739 800
Nộp ngân sách Triệu USD 373 459 470 800 1.290
Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đọan 2006-2010, tổng số vốn đầu tư toàn
xã hội khoảng 160 tỷ USD trong đó nguồn vốn FDI được dự báo khỏang 24 tỷ USD,
chiếm khoảng 17,1% trong tổng số vốn. Trong năm 2006, FDI được cấp phép và tăng
vốn đạt trên 10 tỷ USD, vốn thực hiện ước tính đạt 65 nghìn tỷ đồng chiếm 6,3% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội.
Tại phiên họp Chính phủ cuối năm 2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chính thức báo
cáo với Chính phủ về vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam năm 2007 đạt 20,3 tỷ
USD. Đây là mức thu hút FDI cao nhất trong quá trình hơn 20 năm Việt Nam đổi mới,
thực hiện hiện đại hoá đất nước. Năm 2007, quá trình thu hút vốn FDI vào nước ta có
những điểm nổi bật hơn so với các năm trước:
- Thứ nhất là FDI năm 2007 có những đột phá về số lượng các dự án đầu tư vào
Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 20,3 tỷ. Đây là một con số lớn gây ấn
tượng đối với các bộ, ngành, địa phương. Riêng năm 2007, Việt Nam thu hút
được 20,3 tỷ USD chiếm gần 25% tổng số 80 tỷ USD vốn FDI đăng ký đầu tư
vào Việt Nam trong suốt 19 năm qua. Điều đó chứng tỏ làn sóng đầu tư của các
doanh nghiệp nứơc ngoài vào Việt Nam là có thực và triển vọng năm 2008 khả
năng tiếp nhận các dự án nứơc ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ tăng mạnh hơn
nữa.
- Thứ hai là các dự án nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có chuyển biến cả về chất
lượng theo đúng định hướng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Danh mục các dự án lớn đang tìm hiểu và xúc tiên đầu tư vào Việt
Nam ngày càng nhiều với số vốn không ngừng tăng. Chất lượng các dự án mới
đầu tư được nâng cao, điều này được thể hiện qua cơ cấu ngành nghề: 62% số
dự án và 56,4% số vốn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp; 33% số dự án và
42,2% số vốn vào lĩnh vực dịch vụ. Riêng đối với lĩnh vực công nghệ cao, năm
2006, nhiều dự án đã được triển khai với quy mô lớn như dự án nhà máy lắp ráp
và kiểm tra các bản mạch in của Công ty TNHH Jabil Circuit ( Mỹ) tại thành
phố Hồ Chí Minh với tổng vốn 100 triệu USD; Hai nhà máy công nghệ cao của
Tập đoàn Foxconn( Đài Loan) ở Bắc Ninh có tổng vốn 80 triệu USD và trong
tương lai tập đoàn này có ý định sẽ trở thành một trong những nhà đầu tư nước
ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng mức đầu tư lên tới 5 tỷ đồng…
- Thứ ba là phong trào hoạt động đẩy mạnh đầu tư nước ngoài diễn ra sôi động
trên hầu khắp các địa phương trên cả nước. Kể từ khi Luật đầu tư mới có hiệu
lực từ 1/7/2006, phân cấp toàn diện về các địa phương để các địa phương có
trách nhiệm và chủ động hơn. Các địa phương phải tự vận động, có sự thi đua
giữa địa phương này với địa phương kia để thu hút đầu tư nước ngoài.
Ba đặc điểm nổi bật trong việc thu hút FDI vào Việt Nam năm 2007 với khối lượng
vốn lớn như vậy và với hàm lượng công nghệ cao sẽ là động lực để đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mặt khác nó còn chứng cho sức hấp
dẫn và khả năng của môi trường đầu tư Việt Nam. Nó còn là lượng vốn lớn để gối đầu
cho hiện nay và những năm sắp tới cho đầu tư phát triển kinh tế.
2.2.2 Nhu cầu phát hành trái phiếu quốc tế
2.2.2.1 Hạn chế của nguồn vốn trong nước
Trong giai đoạn 2001-2006, ngân sách nhà nước luôn bị bội chi, mặc dù khỏan bội chi
này luôn nằm dưới mức 5% mà Quốc Hội đã cho phép nhưng vấn đế ở đây là phải tìm
cho ra nguồn thu để bù đắp cho các khỏan thiếu hụt này cũng như thực hiện các kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội đã đề ra. Thông thường, để bù đắp các khoản bội chi,
các quốc gia thường in thêm tiền họăc đi vay trong nước hoặc nước ngoài. Điều này đã
tạo nên gánh nặng về nợ nần quốc gia.
Hiện nay, theo cách tính của Quỹ tiền._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf
- Tom tat.pdf