Phát triển và phát huy tiềm lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử phát triển của các nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) luôn luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp (DN) có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại càng được chú trọng. Ở nước ta, DNVVN cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiề

doc121 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển và phát huy tiềm lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m năng còn lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Trong 16 năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, tăng trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài,... Kết quả đó có sự đóng góp của các DNVVN. Vì vậy, DNVVN ngày càng được coi trọng. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ: "Chú trọng phát triển các DNVVN...". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 cũng nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các DNVVN... ". Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1989 sau gần 14 năm hợp nhất với tỉnh Bình Định (từ 11/1975 đến 7/1989), là một tỉnh nghèo, với gần 90% dân số sống ở nông thôn, lại chủ yếu sống bằng nghề nông và ở mức sống thấp, lao động nhàn rỗi và dư thừa nhiều (tỷ lệ thất nghiệp chung khoảng 2,64%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị: 5,74%)... Song bên cạnh đó Quảng Ngãi lại có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế: về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có nhiều nhà máy lớn, có lực lượng lao động dồi dào,... Vì vậy, việc phát triển và phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết bởi nó sẽ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Muốn vậy, đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh để từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển DNVVN trên địa bàn, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến mô hình DNVVN luôn được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Điều đó có thể thấy rõ qua khối lượng các tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa dạng được công bố hầu như hàng ngày, hàng tuần, từ các luật lệ của Chính phủ, các chiến lược, chương trình phát triển DNVVN của quốc gia, đến các sách hướng dẫn, các công trình nghiên cứu và các bài báo về DNVVN. Có thể nêu một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau: - Định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. - Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Dự án US/VIE/95/007 "Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do UNIDO tài trợ. - Dự án "Chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Cúc - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ dự án. - PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Vương Liêm - Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội, 2000. - Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà, Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001 v.v... Tuy vậy, vấn đề DNVVN đối với cả nước ta và đối với tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn là vấn đề mới, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 và thực hiện đường lối CNH, HĐH do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra thì việc nghiên cứu DNVVN vẫn là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa có tác giả, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu về DNVVN. Đây là vấn đề lớn, mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh, đang đòi hỏi cần có những đầu tư nghiên cứu cụ thể, có hệ thống. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn đi sâu nghiên cứu, học hỏi những vấn đề về lý luận, đồng thời tiến hành tổng hợp số liệu kết hợp với quá trình khảo sát thực tiễn trên địa bàn, để từ đó đề xuất ý kiến của mình về phát triển DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu - Mục đích: Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển của DNVVN, cũng như luận giải rõ vai trò của DNVVN trong nền kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát triển DNVVN có hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. - Nhiệm vụ: Thứ nhất, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, phân tích thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Thứ ba, nêu những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. - Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề DNVVN là vấn đề rộng và phức tạp, tồn tại trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung chủ yếu phân tích thực trạng của các DNVVN trong công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trên địa bàn. Luận văn không đề xuất các giải pháp để phát triển DNVVN trong từng ngành cụ thể cũng như trong từng DN cụ thể. Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1996 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kế thừa một cách có chọn lọc, hợp lý các công trình nghiên cứu có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,... để phân tích đối tượng nhằm đạt được mục đích luận văn đề ra. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận của DNVVN, trên cơ sở phân tích rõ thực trạng của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở nhiều khía cạnh, luận văn sẽ mang lại một bức tranh tổng quát, toàn diện về DNVVN trên địa bàn, về những kết quả đạt được, về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Từ đó đề xuất được các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển DNVVN trong quá trình CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan nghiên cứu, các ban ngành liên quan của tỉnh Quảng Ngãi tham khảo để hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn trong việc khuyến khích phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo và các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý kinh tế của tỉnh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài ra mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết. CHƯƠNG 1: DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VÀ QUAN ĐIỂM VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM 1.1.1. Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam - Tính tất yếu khách quan của sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, DNVVN ra đời sớm hơn DN lớn. Tiền thân của các DNVVN là các hộ gia đình sản xuất tự cung tự cấp. DNVVN không chỉ là một phạm trù phản ánh độ lớn của DN mà là một phạm trù bao hàm nội dung tổng hợp về kinh tế tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học - công nghệ. DNVVN tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ, tính chất phát triển của lực lượng sản xuất. Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình thành và phát triển của các DN. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện khi sự phân công lao động đạt đến một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập. Trong giai đoạn tiền sử (Các Mác gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình (gia đình mình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị trường. Đó là loại DN cá thể, DN gia đình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), có một số người gặp một số vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, biết cách điều hành tổ chức công việc,... để thành đạt, ngày càng giàu lên, tích lũy vốn, mở rộng được quy mô SXKD và do đó cần phải thuê thêm người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hóa nhỏ khác thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho người khác. Theo các nhà kinh tế học hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Bắt đầu sự nghiệp với số vốn ít ỏi của mình phần lớn họ đều thành lập DN nhỏ chỉ của riêng mình, tự SXKD. Trong quá trình kinh doanh của mình, một số người thành đạt đã phát triển DN của mình bằng cách mở rộng quy mô SXKD và như vậy, nhu cầu về vốn đòi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ đó, thôi thúc các nhà DN hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần (CTCP), bằng cách thành lập "liên kết dọc", "liên kết ngang"... để phát triển DN. Các DN lớn ra đời phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các DN lớn, nhỏ tạo thành. Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và tác động sâu sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN cũng có sự thay đổi về chất so với DNVVN của các thế kỷ trước: có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao,.. DNVVN không phát triển rời rạc mà gắn bó và "nấp dưới bóng" của các DN lớn. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình DNVVN ngày càng được mở rộng và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả ở những nước đang phát triển và kém phát triển. Vì thế, dù mang cái tên rất khiêm tốn "vừa và nhỏ" song sức sống và vai trò của nó thật sự không nhỏ. - Sự ra đời của các DNVVN ở Việt Nam Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Việt Nam đã được hình thành cùng với quá trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Những nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng, nổi tiếng phần lớn đã ra đời từ rất lâu, vài trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thành tổ chức SXKD của nghề thủ công và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, vừa mang tính chất sáng tạo nghệ thuật. Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn được tiếp tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa (TBCN), các DNVVN đã được hình thành. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNVVN vẫn phát triển. Vùng bị tạm chiếm, nhiều chủ DN chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn... bỏ vốn ra kinh doanh. Trong vùng tự do, chính quyền cách mạng thành lập các DN để sản xuất các mặt hàng phục vụ kháng chiến và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng thời khuyến khích nhân dân lập xưởng sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Các DNVVN ở vùng tự do đã có tác dụng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ đội, nhân dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đến thắng lợi vẻ vang. Từ năm 1954 đến năm 1975, các DNVVN ở hai miền Bắc - Nam phát triển theo hai đường lối, cơ chế khác nhau. Ở miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra đời, đồng thời các xí nghiệp quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh, còn DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xóa bỏ. Ở miền Nam, một mặt các cơ sở công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn,... được phát triển, mặt khác các DNVVN chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân cũng ra đời và phát triển mạnh. Từ năm 1975 - 1985, các DNVVN ở miền Nam hoặc là bị quốc hữu hóa, hoặc được cải tạo, xóa bỏ. DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển, phải hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã (HTX), công tư hợp doanh,... Nói chung, ở thời kỳ này các DNVVN ở hai miền được phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, số lượng DNVVN chưa nhiều và tồn tại dưới hai loại hình: xí nghiệp quốc doanh, HTX. Sau năm 1986, nhờ tác động của các chủ trương và chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại và lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời, phát triển. - Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam Nhìn lại quá khứ, chúng ta nhận thấy, trên thực tế các DNVVN ở nước ta đã ra đời, tồn tại cách đây hàng trăm, nghìn năm. Song trước đây do chúng ta quan niệm và vận dụng máy móc chế độ sở hữu, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, coi nhẹ việc sử dụng kinh tế ngoài quốc doanh, muốn xóa bỏ nhanh kinh tế tư nhân, cá thể (hầu hết là DNVVN) nên Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp nhằm hạn chế tối đa sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Có thể nói, về mặt nhận thức, chúng ta không chính thức thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Từ đó làm cho bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh phát triển rất thấp, không tương xứng với tiềm năng của nó trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng. Để khắc phục khủng hoảng kinh tế, bắt nguồn từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trên phạm vi toàn quốc, trong đó đổi mới kinh tế được chú trọng đặc biệt, sự đổi mới kinh tế này đã tạo ra những cơ sở pháp lý, chính trị và kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam, bao gồm khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân). Nhờ đó, hàng loạt các DN (chủ yếu là DNVVN) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì DNVVN còn gặp nhiều khó khăn trong SXKD, chưa phát huy được hết tiềm năng của mình bởi nhiều nguyên nhân: do bản thân của các DN, do hiểu biết về loại hình DN này còn nhiều hạn chế,... Mặt khác, các chuyên gia cùng nhận định, khu vực DNVVN ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải tiến hành nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về DNVVN, để từ đó tạo điều kiện cho các DNVVN phát huy hết khả năng của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Việc nghiên cứu loại hình DNVVN đã được Nhà nước quan tâm và được các tổ chức của nhiều nước trên thế giới ủng hộ, hỗ trợ. Nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương đã tiến hành nghiên cứu về DNVVN: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Liên minh các HTX Việt Nam, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO), Trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh... Ngay từ những năm 1990, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã tiến hành hai cuộc hội thảo về DNVVN có sự tài trợ của Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó tiến hành khảo sát 135 DNVVN ở tỉnh Hà Bắc. Năm 1991, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cùng với Trung tâm xúc tiến việc làm châu Á (ARTEP-ILO) và các cộng tác của trường Đại học kinh tế Stockholm (Thụy Điển) đã tiến hành khảo sát điều tra 1.000 DN nhỏ ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Quảng Ninh, Long An (theo chương trình của dự án VIE 90/MO). Năm 1993, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội phối hợp với Viện Khoa học lao động Nhật Bản thực hiện cuộc khảo sát 300 DNVVN ở Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng... Việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam cũng được thuận lợi bởi Việt Nam trong những năm qua liên tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế. Trước hết, Việt Nam tiếp nhận nhiều dự án phát triển DNVVN của Liên Hợp Quốc như dự án VIE/86-054 về đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNVVN, Liên minh châu Âu (EU) - Việt Nam xây dựng "Quỹ phát triển các DNVVN", năm 1996 Viện FRIEDRICH EBERT của Cộng hòa Liên bang Đức hợp tác với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tài trợ cho dự án: "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam", năm 1997 Công ty Tài chính quốc tế chuyên trách khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới xây dựng "Chương trình dự án Mê Kông MPDF" nhằm thành lập và phát triển DNVVN khu vực tư nhân cho ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Các nước Vương quốc Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... đã cử chuyên gia, giúp tư vấn cũng như tài trợ về vốn cho khảo sát, lập quỹ bảo lãnh tín dụng,... để nghiên cứu và phát triển DNVVN ở Việt Nam. Có thể nói, mặc dù thời gian nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam chưa nhiều song được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới, quá trình nghiên cứu này đã thu hút được nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia trong nước và ngoài nước tham gia, do đó hàng loạt các tài liệu, các sách hướng dẫn, các bài báo, các công trình nghiên cứu về DNVVN được công bố. Các vấn đề về lý luận và thực tế liên quan đến DNVVN đều được đưa ra nghiên cứu và ngày càng sáng tỏ: khái niệm, tiêu chí xác định, ý nghĩa của DNVVN ở Việt Nam, các chính sách liên quan đến DNVVN,... Song vì đây là vấn đề nghiên cứu rất rộng và phức tạp, nên quá trình nghiên cứu về DNVVN vẫn luôn là vấn đề cấp thiết, luôn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để từng bước tháo gỡ những vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển, khai thác tốt tiềm năng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam Như đã trình bày phần trên, việc nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam mặc dù chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn so với thực tế tồn tại DNVVN ở Việt Nam, song kết quả đạt được rất lớn, hàng loạt các vấn đề về DNVVN ở Việt Nam đã được làm sáng tỏ. Cụ thể: - Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu đã hình thành khái niệm DNVVN, thuật ngữ DNVVN bước đầu đã đi vào cuộc sống, đi vào các tài liệu khoa học, các văn kiện của Đảng và Nhà nước. - Từng bước hoàn chỉnh định nghĩa về DNVVN. Mỗi cơ quan nghiên cứu đều đưa ra định nghĩa về DNVVN. Trên cơ sở những định nghĩa đó, trong Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa DNVVN ở Việt Nam: DNVVN là các cơ sở SXKD, đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa thì DNVVN ở Việt Nam bao gồm: + Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN. + Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DNNN. + Các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX. + Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (ĐKKD). - Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. - Phân tích làm rõ những ưu thế, hạn chế cũng như khuyết điểm của các DNVVN. - Xác định những điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vai trò quản lý của Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả của các DNVVN. - Nghiên cứu hình thành và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các chính sách hỗ trợ để phát triển DNVVN. Với kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, đặc biệt là với sự ra đời của Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã làm thay đổi quan niệm của các cấp ủy Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức của mọi người nói chung về loại hình DNVVN, từ chỗ không chấp nhận sự tồn tại, phân biệt đối xử, kỳ thị,... đến chỗ thừa nhận, khuyến khích hỗ trợ DNVVN phát triển. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhiều kiến nghị, giải pháp được trình bày cho các nhà hoạch định chính sách, cho Chính phủ, tạo cơ sở ban hành những chính sách nhằm khuyến khích phát triển DNVVN. Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đứng trước tình hình biến đổi phức tạp và sôi động của đời sống kinh tế - xã hội nhiều vấn đề mới đối với DNVVN tiếp tục phát sinh, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH. 1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, các DN có quy mô vừa và nhỏ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, song trong từng giai đoạn khác nhau sự quan tâm, tạo điều kiện cũng khác nhau bởi sự khác nhau về quan điểm đối với loại hình DN này. - Giai đoạn từ 1986 trở về trước Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quan niệm về chế độ sở hữu XHCN gồm hai bộ phận quốc doanh và tập thể, còn kinh tế tư nhân thuộc diện cải tạo. Xét về quy mô, cả quốc doanh và tập thể đều là loại vừa và nhỏ, nhất là các HTX tiểu thủ công nghiệp, nhưng chưa có khái niệm về DNVVN. - Giai đoạn từ 1986 đến nay Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định: cùng với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cần sử dụng khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi và bình đẳng trước pháp luật. Đường lối này lại được củng cố thêm ở Đại hội Đảng VII, VIII, IX, các văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội này đều nêu rõ chủ trương xuyên suốt là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó các DN thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào kinh doanh đúng pháp luật, theo định hướng chung của Nhà nước đều được khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ DNVVN bắt đầu du nhập vào nước ta, cũng có ý kiến cho rằng, đây là loại hình kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Nhưng qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng, sự tồn tại của DNVVN là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Từ đó, đã tác động lớn đến quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với DNVVN. DNVVN không còn coi là phụ trợ như trước, mà giờ đây là công cụ hữu hiệu, là nhà thầu phụ quan trọng cho các DN lớn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nhấn mạnh: "Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả" [10, tr. 28]. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr. 27]. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống thể chế chính sách khuyến khích phát triển DNVVN. Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng như: + Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo quy định của pháp luật, công nhận quyền được đối xử của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. + Nghị định 66-HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định quy định trong Nghị định 221-HĐBT ngày 23-7-1991 + Luật Công ty và Luật DN tư nhân 1990 quy định khung pháp luật cho các DN này hoạt động, tham gia thị trường trong nước và ngoài nước. + Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và năm 2001 đã quy định các DN có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất. + Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 quy định rõ những chính sách ưu đãi cho các dự án kinh doanh thuộc các ngành nghề, các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn cần được ưu đãi. + Luật HTX năm 1996 nhằm để phát huy vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX. + Nghị định số 15/CP-1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển HTX. + Luật Thuế thu nhập DN năm 1997 đơn giản hóa và thực hiện thống nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình kinh doanh trong nước. + Luật Thuế giá trị gia tăng - một sắc thuế giản đơn, công bằng thay thế Luật Thuế doanh thu. + Luật Thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các DN. + Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và Nghị định số 51 (7/1999) cụ thể hóa việc thực hiện luật đó, đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức SXKD, kể cả cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT (nay là Nghị định 02/2000/QĐ-TTg ngày 03-02-2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh). + Luật DN năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000) quy định việc tổ chức hoạt động của bốn loại hình DN: công ty TNHH, CTCP, DNTN, công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty và Luật DNTN trước kia. + Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. + Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về xuất, nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây, giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế. + Các chính sách về tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển như Quyết định 67/1997/QĐ-TTh, Nghị định 43/1999/NĐ-CP... + Đặc biệt là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN. Rõ ràng là, trải qua 16 năm đổi mới của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các chính sách theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật sự hoàn chỉnh, song hệ thống chính sách hiện hành này đã bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của DNVVN như: chính sách về hành nghề và tạo lập DN, chính sách về thuế, chính sách về vốn và tín dụng, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách công nghệ,... Nhờ hệ thống chính sách này mà kinh tế dân doanh bước đầu bùng nổ, mọi lực lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của nền kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Một ví dụ nổi bật, là từ khi Luật DN có hiệu lực thi hành, chỉ riêng năm 2000 đã có thêm 13.891 DN mới ĐKKD, năm 2001 thêm 22.945 DN, 6 tháng đầu năm 2002 thêm khoảng 11.000DN nhưng đáng chú ý nhất là số DN mới này đã giải quyết được thêm 1 triệu lao động mới có việc làm (khoảng 30% số lao động mới) (chưa kể hơn 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký thu hút khá nhiều lao động) [21, tr. 62]. Song, như trên đã trình bày, đây là hệ thống chính sách chung cho DN chứ chưa phải là hệ thống chính sách riêng đối với DNVVN (trừ Nghị định 90), vì thế mà cơ chế, chính sách đối với DNVVN còn nhiều sơ hở, chồng chéo, thậm chí thiếu nhất quán. Trong hệ thống chính sách đã đưa ra các quan điểm bình đẳng nhưng trong thực tế điều hành thì vẫn còn có sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các loại hình DN. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu và ban hành các chính sách phù hợp với đặc điểm DNVVN, nhất là trong tình hình hiện nay. 1.2. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 1.2.1. Tình hình phát triển DNVVN trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam Trước năm 1986, DNVVN ngoài quốc doanh nói chung, DNTN, cá thể nói riêng chưa thật sự được quan tâm khuyến khích phát triển, do vậy họ phải tổ chức hoạt động núp bóng dưới các hình thức như tổ hợp, hộ gia đình, HTX, xí nghiệp công tư hợp doanh... Từ năm 1986 đến nay, quan điểm, đường lối, chủ trương mới về chính sách cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý dẫn đến sự thay đổi cơ bản hệ thống DN trong nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế được chính thức thừa nhận và khuyến khích phát triển. Từ đó hàng loạt các DN, nhất là các DN ngoài quốc doanh (trong đó phần lớn là DNVVN) đã ồ ạt ra đời và phát triển. Trong thời kỳ đổi mới số lượng DN của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn: số lượng DNNN giảm liên tục, từ 12.300 DN năm 1990 sau ba đợt sắp xếp, đổi mới đã giảm xuống còn 5.655 DN (tháng 5/2001), giảm 55% về số lượng, chủ yếu là các DN nhỏ và do địa phương quản lý, số lượng DNVVN thuộc DNNN giảm từ 90% xuống còn 75% trong tổng số DNNN [2, tr. 7]. Trong khi đó thì số lượng DN trong khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, nếu như năm 1991 chỉ có 123 DN (bao gồm DNTN, công ty TNHH, CTCP) đăng ký theo Luật, thì đến năm 1992 có 4.347 DN, năm 1993 là 12.131 DN, năm 1994 có 18.412 DN, năm 1998 có 28.708 DN, năm 1999 có 37.557 DN, đặc biệt từ khi Luật DN ra đời (01/01/2000) số lượng DN khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về tốc độ và vốn ĐKKD, năm 2000 có 51.448 DN (tăng 36,9%), năm 2001 có 74.393 DN (tăng 44,6%) và tính đến cuối tháng 6/2002 tổng số DN thuộc khu vực này đã lên đến 85.393 DN với số vốn ĐKKD bình quân là 970 triệu đồng/DN (năm 2000), 1,25 tỷ đồng/DN (năm 2001), 1,5 tỷ đồng/DN (6 tháng đầu năm 2002) [30, tr. 91] [21, tr. 62]. Hiện nay, qua các cuộc điều tra cho thấy DNVVN chiếm đến 95-98% số DN cả nước. DNVVN có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, trong đó phần lớn tập trung vào các lĩnh vực chính: thương mại, dịch vụ sửa chữa, vận tải, công nghiệp chế biến, xây dựng,... và ._.được phân bổ rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, thành thị đến vùng nông thôn. Hiện nay, DNNN đang trong giai đoạn tiếp tục xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hóa, cho thuê, bán cho các thành phần kinh tế khác theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX), đồng thời thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về việc tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, DNVVN sẽ có xu hướng và điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa. 1.2.2. Vai trò của các DNVVN trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta Về tiêu chí phân loại DNVVN, có những ý kiến khác nhau nhưng trong đánh giá về vai trò của DNVVN có thể nói là khá tập trung và thống nhất: DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thể hiện qua các mặt sau đây: - Đóng góp vào việc tăng trưởng nền kinh tế Theo số liệu thống kê và đánh giá của các chuyên gia thì mỗi năm DNVVN đóng góp 25% - 26% GDP của cả nước [41]. Song trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của loại hình DNVVN này khả năng đóng góp vào GDP của cả nước ngày càng tăng. Trong năm 2000, tỷ trọng của khu vực kinh tế tập thể trong GDP là 8,5%, khu vực kinh tế tư nhân 32%, khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9%, như vậy tổng của 3 khu vực trên chiếm khoảng 44,2% GDP của cả nước (mà đây là các khu vực DN tồn tại chủ yếu là DNVVN) [12, tr. 229]. Theo Tổng cục thống kê, năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân nộp Ngân sách 11.003 tỷ đồng, năm 2001 là 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8% tổng thu Ngân sách [21, tr. 62]. Do số lượng DNVVN tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xã hội. DNVVN góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế, đặc biệt trong việc phát triển ngành nghề truyền thống, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Việc phát triển DNVVN trong các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế từng vùng để phát triển kinh tế, đồng thời đang là một thế mạnh của ta trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. - Tạo việc làm cho người lao động Khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút một lượng lao động khá lớn, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và bằng 22,5% lực lượng lao động cả nước, nhưng so với các nước trong khu vực (chiếm 50-60%) thì còn quá thấp [3, tr. 6]. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2000, cả nước có tới 1.447.000 người đang trong độ tuổi lao động không có việc làm, trong đó khu vực thành thị có 692.000 người, chiếm 48% và khu vực nông thôn có 755.000 người, chiếm 52%. Theo dự báo, từ năm 2000 đến năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại (từ 1,43% năm 1999 xuống 1,17% năm 2010) [48, tr. 247], nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng (đến năm 2010 có khoảng 56,8 triệu người trong độ tuổi lao động, tăng 11 triệu người so với năm 2000) [12, tr. 210]. Đây là cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm. Các DNVVN đang là nơi có triển vọng thu hút lao động rất lớn, là nơi có nhiều thuận lợi để tiếp nhận số lao động, nhất là lao động ở nông thôn tăng thêm mỗi năm, vì vậy, để thực hiện mục tiêu giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp đến năm 2010 còn 50% thì phải phát triển mạnh DNVVN. Đồng thời, DNVVN còn là nơi tiếp nhận số lao động từ các DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài. Sở dĩ DNVVN có khả năng thu hút lao động lớn là vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở DNVVN thấp hơn rất nhiều so với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. - Nâng cao thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp, do nền kinh tế phát triển chậm. Thu nhập của dân cư nông thôn (chiếm trên 80% tổng dân số) lại chủ yếu phụ thuộc vào nền nông nghiệp thuần nông, mà trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh nhưng nếu không có công nghiệp chế biến thì không thể làm giàu. Kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu cho thấy, thu nhập của vùng dân cư có các DN phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng dân cư thuần nông; thu nhập bình quân của lao động trong các DNVVN là 300.000đ - 400.000đ/tháng so với thu nhập của lao động nông thôn thuần nông là 100.000đ - 200.000đ/tháng. Do đó việc phát triển DNVVN là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp ở các vùng trong nước. - Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn. Với sự góp mặt của các DNVVN làm cho số lượng các DN trong nền kinh tế tăng lên rất lớn, kéo theo sự tăng lên về chủng loại, mặt hàng, dịch vụ, phương thức phục vụ,... quá trình này làm tăng thêm mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế, người tiêu dùng được hưởng phần sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá cả rẻ hơn, phương thức phục vụ văn minh, tiện lợi hơn. Với quy mô nhỏ, vốn ít, sự thích nghi nhanh, các DNVVN có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, đổi mới công nghệ,... làm cho nền kinh tế năng động hơn. Ngoài ra các DNVVN còn có tác dụng hỗ trợ, làm chân rết cho các DN lớn kinh doanh có hiệu quả thông qua các hoạt động như làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp vật tư đầu vào, thâm nhập vào hết các ngóc ngách của thương trường mà các DN lớn không với tới được. - Thu hút vốn. Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình SXKD, nó có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng DN. Nhưng thực tế hiện nay đang có một nghịch lý là hầu hết các DN của ta đang thiếu vốn trầm trọng trong khi đó vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn nhưng không thể huy động được cho SXKD. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường kinh doanh chưa ổn định, tính pháp lý chưa cao. Trong tình hình đó, chính các DNVVN với đặc điểm hình thành của nó gắn liền với các điều kiện thực tế của các dân cư nên dễ tiếp xúc trực tiếp với các nguồn vốn này để huy động vốn hoặc chính người chủ sở hữu vốn đầu tư vốn để trực tiếp kinh doanh. Thực tế cho thấy, các DNVVN đã huy động ngày càng nhiều vốn trong xã hội đầu tư vào SXKD. Năm 2000, chỉ tính riêng khu vực kinh tế tư nhân, vốn ĐKKD tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1995, vốn đầu tư tăng 13% so với năm 1999, chiếm khoảng 24,3% tổng số vốn đầu tư xã hội. Tính đến tháng 3/2002 vốn đăng ký của khu vực kinh tế tư nhân đã lên tới 55.000 - 60.000 tỷ đồng, tương ứng 4 tỷ USD. - Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH Các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở thành thị cũng góp phần làm cho tỷ trọng dịch vụ tăng thêm và làm cho tỷ trọng khu vực nông nghiệp thu hẹp lại trong cơ cấu kinh tế quốc dân, làm dịch chuyển từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông sang một nền kinh tế đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại, thể hiện trên các mặt: + Cơ cấu thành phần kinh tế: Chuyển hướng theo đúng các quy luật của cơ cấu kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, phát huy được tiềm năng cho tăng trưởng đất nước, các DNNN được sắp xếp, củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. + Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng và phong phú theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Thực tế qua 16 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế ở nước ta thay đổi theo hướng tiến bộ, tỷ trọng giá trị nông nghiệp giảm liên tục, còn tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong đó có sự đóng góp của DNVVN. + Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Các DN được phân bổ rộng khắp trên mọi vùng lãnh thổ: cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, các DNVVN vẫn chủ yếu tập trung ở thành thị. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách. - Góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường Các DNVVN là nơi đào tạo, rèn luyện cho các nhà quản lý DN. Với quy mô vừa và nhỏ là môi trường thuận lợi cho các nhà quản lý DN làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ đây một số nhà quản lý DN đã trưởng thành lên những nhà quản lý DN lớn, tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi ở Việt Nam trong nhiều năm đội ngũ các nhà quản lý DN gắn liền với cơ chế bao cấp nên chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường. Tóm lại, DNVVN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước và vai trò này ngày càng được tăng lên cùng với quá trình CNH, HĐH, bởi DNVVN đang là động lực cho phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, huy động vốn trong nước, chuyển dịch cơ sở kinh tế,... Do tầm quan trọng của các DNVVN đang ngày càng tăng và tiềm năng của DNVVN trong nền kinh tế, nên quyết định của Chính phủ về xây dựng chiến lược phát triển cho các DNVVN, theo Công văn số 681/CP-KTH và Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN, rõ ràng là những quyết định kịp thời. 1.2.3. Khái quát những vướng mắc và hạn chế của DNVVN Bên cạnh những ưu thế vốn có của bản thân DNVVN, những thuận lợi do chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của các DNVVN đang gặp phải những hạn chế và vướng mắc sau: - Quan điểm của xã hội về DNVVN Cho đến nay, tư duy cũ của cơ chế kế hoạch hóa tập trung không công nhận thị trường, không công nhận kinh tế dân doanh vẫn đang còn là rào cản khá lớn để đưa doanh nhân thời kinh tế thị trường trở về với vị trí của họ, vẫn còn sự kỳ thị phân biệt đối xử đối với doanh nhân, nhất là doanh nhân trong khu vực ngoài quốc doanh kể cả trong cán bộ, công chức nhà nước (mà DNVVN chủ yếu là khu vực ngoài quốc doanh). Nhiều người vẫn còn thích làm việc trong các DNNN hơn, bởi họ quan niệm làm việc trong DNNN mới được coi là có việc làm, có trong biên chế. Hơn nữa, trong khu vực tư nhân bảo hiểm xã hội và những vấn đề phúc lợi xã hội khác chưa được đảm bảo đầy đủ. - Vốn và tín dụng. Hiện nay, 75% số DNVVN có số vốn dưới 50 triệu đồng, thiếu vốn đang là khó khăn phổ biến, nhưng số DNVVN được vay vốn của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng từ quỹ trợ giúp đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước từ 1/12/1999 đến 30/6/2000, đã có 164 dự án với tổng số vốn vay ưu đãi 424 tỷ đồng, trong đó 61 dự án thuộc khu vực quốc doanh (39% tổng dự án) được vay 294 tỷ đồng (69% tổng giá trị khoản tín dụng ưu đãi); có 103 dự án thuộc khu vực dân doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa, phần lớn tín dụng tập trung chủ yếu vào các DNTN lớn, chứ không phải là các DNVVN [41, tr. 102]. Do vậy để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN thường phải vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi chính thức, cụ thể là từ thân nhân và bạn bè, với lãi suất đôi khi cao gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt khác, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNVVN. Lý do: thủ tục vay phức tạp, chi phí giao dịch cao, việc phải trả hoa hồng là phổ biến, những quy định khắt khe về tài sản thế chấp,... - Đất đai. Hiện nay, hầu hết các DNVVN đều thiếu đất đai làm mặt bằng SXKD, để lập cơ sở mới hoặc mở rộng SXKD. Đó là do các quy định về quyền sử dụng đất đai thường không rõ ràng, các quyền mua bán, thế chấp, chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. - Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ. Phần lớn công nghệ các DNVVN sử dụng đã trở nên lạc hậu. Do DN thiếu vốn, do thiếu thông tin về thị trường công nghệ lại không được tiếp cận đầy đủ với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ, việc chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn và tốn kém,... - Sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận với thị trường thế giới. Thị trường của DNVVN đang bị thu hẹp bởi sức mua quá thấp của nông dân, do hàng hóa nhập lậu qua biên giới không thể nào kiểm soát được, do khả năng cạnh tranh của hàng hóa của DN này càng yếu nên lại càng khó khăn hơn khi xuất khẩu. Ngoài ra sức cạnh tranh trên thị trường trong nước của DNVVN bị suy giảm còn bởi do phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng như nhãn hiệu, bản quyền... chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa có luật cạnh tranh, nạn tham nhũng, vụ lợi của một số cán bộ quản lý thị trường chưa được ngăn chặn triệt để,... - Trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp. Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo. Đội ngũ các nhà quản lý DN có trình độ và khả năng quản trị kinh doanh yếu so với nhu cầu, do đó rất lúng túng trước sự biến động của thị trường. Số liệu điều tra cho thấy có đến 48,4% số chủ DN ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn. Sở dĩ các DNVVN có những hạn chế và vướng mắc đối với sự phát triển như trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể khái quát thành ba nguyên nhân chính: - Do bản thân DN: Do quy mô vừa và nhỏ nên vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề kém, trình độ quản lý kinh doanh hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật và đạo đức trong kinh doanh còn nhiều yếu kém. - Môi trường kinh doanh: Thị trường còn sơ khai, chưa đầy đủ lại thiếu ổn định và lành mạnh; cơ chế chính sách và cả luật pháp chưa thật thuận lợi cho sự hoạt động và phát triển của DNVVN. - Tác động quản lý của Nhà nước: Ngoài cơ chế chính sách còn nhiều vướng mắc thì quản lý nhà nước đối với DNVVN còn nhiều hạn chế: chưa có chiến lược rõ ràng, chưa có hệ thống chính sách riêng áp dụng cho DNVVN, thủ tục phiền hà, quan liêu còn nặng nề gây khó khăn cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của DNVVN. Cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN, việc xác định được những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế vướng mắc mà DNVVN gặp phải, Nhà nước, các cơ quan chức năng có liên quan và cả bản thân các DNVVN sẽ sớm có những giải pháp thích hợp để khắc phục, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN phát triển theo đúng tiềm năng sẵn có của mình. 1.3. KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.3.1. Kinh nghiệm một số nước về phát triển DNVVN Ở hầu hết các nước trên thế giới, dù là nước phát triển cũng như đang phát triển, họ đều dành sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt cho loại hình DNVVN. Loại hình DN này được đánh giá là những "hạt nhân" của những hoạt động có tính chất đổi mới và đóng vai trò quan trọng trong một cơ cấu kinh tế năng động. Chính vì vậy, các chính sách và biện pháp của Nhà nước đều nhằm vào thúc đẩy quá trình ra đời và phát triển loại hình DN này. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm thành công của một số nước trên thế giới. 1.3.1.1. Cộng hòa Liên bang Đức Ở CHLB Đức, DNVVN tập trung chủ yếu trong ngành tiểu thủ công nghiệp có truyền thống lâu đời, hiện nay có khoảng 700.000 DN, tổng số lao động khoảng 4,8 triệu người, tạo ra giá trị tổng sản phẩm bằng khoảng 10% GDP của cả nước [5, tr. 36]. Mặc dầu CHLB Đức đã có một nền công nghiệp phát triển mạnh, với nhiều DN lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò quan trọng như góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp; bảo vệ và phát huy các ngành nghề thủ công truyền thống… Mặc dù có vai trò không nhỏ nhưng các DNVVN gặp không ít khó khăn và bất lợi cho chính qui mô nhỏ gây ra. Do đó DNVVN cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Sự hỗ trợ các DNVVN ở CHLB Đức được quan tâm từ rất lâu, thể hiện từ các mặt: Thứ nhất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho DNVVN hoạt động. Do DNVVN ở Cộng hòa liên bang Đức chủ yếu thuộc ngành tiểu thủ công nghiệp, nên năm 1953 Quốc hội CHLB Đức đã thông qua quy chế tiểu thủ công nghiệp, quy định về mặt pháp lý từ khái niệm, nội dung hoạt động, các điều khoản liên quan quy định những ngành nghề gì được coi là tiểu thủ công nghiệp. Năm 1976, Chính phủ Đức đã thông qua "Các nguyên tắc trong chính sách cơ cấu đối với kinh doanh vừa và nhỏ". Năm 1980, một số văn bản pháp quy cho phép DNVVN được hưởng hơn 180 loại ưu đãi ra đời,.... Thứ hai, tổ chức hoạt động tư vấn cho DNVVN như tư vấn về quản lý kinh doanh, tư vấn về pháp lý, tư vấn về thuế, về đào tạo nghề, về kỹ thuật,... Thứ ba, hỗ trợ về tài chính, Nhà nước giúp DNVVN bằng chính sách tài chính thông qua con đường tín dụng và trợ cấp; hình thành hoạt động bảo lãnh vay tín dụng; hỗ trợ kinh phí cho tư vấn và đào tạo; áp dụng ưu đãi về thuế,... để tạo cho các DNVVN tự chủ tài chính. Thứ tư, hỗ trợ về đào tạo, ở CHLB Đức có hệ thống dạy nghề dưới hình thức liên doanh nhà máy với trường học. Các DN có chức năng và nghĩa vụ đào tạo miễn phí cho công nhân. Kinh phí cho dạy nghề một phần nhỏ do Ngân sách của Chính phủ liên bang chi, phần lớn do các DN đóng góp. 1.3.1.2. Đài Loan Đài Loan được coi là vương quốc của các DNVVN. Sự tăng trưởng kinh tế siêu tốc của Đài Loan trong những thập kỷ vừa qua gắn liền với những đóng góp to lớn về mọi mặt của DNVVN, đặc biệt trong lĩnh vực tạo việc làm và xuất khẩu. Với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, các DNVVN ở Đài Loan luôn được sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước để phát triển. Các cơ quan, tổ chức hỗ trợ phát triển được thành lập như: Thiết lập các cơ cấu chuyên trách để thúc đẩy sự phát triển của DNVVN (1954); thành lập các ngân hàng chuyên nghiệp cung cấp vốn và tín dụng cho các DNVVN (1964); thành lập Bộ Kinh tế của các DNVVN (1970), thành lập Trung tâm dịch vụ DNVVN ở các địa phương, Trung tâm giải pháp nhanh, Trung tâm đào tạo DNVVN,... Qua gần nửa thế kỷ đến nay, Đài Loan đã hình thành được một hệ thống chính sách và biện pháp trợ giúp DNVVN tương đối ổn định và có tính ổn định cao. Hệ thống này đã được thể chế hóa bởi văn bản "Đại cương các chính sách và biện pháp nhằm vào các DNVVN" do Cục quản lý DNVVN phát hành. Theo văn bản này, khuôn khổ chính sách và biện pháp trợ giúp DNVVN của Đài Loan tập trung vào ba nhóm lớn. Đó là: - Xây dựng môi trường kinh doanh tối ưu: Duy trì sự cạnh tranh công bằng hợp lý, cải thiện hệ thống tài chính, giúp DNVVN cải thiện điều kiện lao động và môi trường,.... - Thúc đẩy sự hợp tác giữa các DNVVN và giữa các DNVVN với các DN lớn. - Thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của DN: Trợ giúp các DN tối ưu hóa quản lý, thành lập DN mới, thúc đẩy các hãng hoạt động ở nước ngoài,... Mỗi chính sách lớn trên đều được thực hiện bởi nhiều biện pháp cụ thể. Một số biện pháp nổi bật đang được Chính phủ Đài Loan thực hiện để trợ giúp các DNVVN hiện hành là: + Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý trợ giúp cho sự phát triển của các DNVVN, thành lập "Nhóm đặc trách thúc đẩy DNVVN" có chức năng soát xét và kiến nghị sửa đổi luật lệ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DNVVN,... + Thành lập các quỹ trợ giúp tài chính cho các DNVVN gồm Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, Quỹ bảo lãnh tương hỗ, Quỹ phát triển DNVVN và tập đoàn phát triển DNVVN. Ngoài ra các DNVVN còn được nhận các khoản vay đặc biệt nhằm vào các mục đích như giảm ô nhiễm, giảm chi phí hoạt động,... thông qua nhiều quỹ đặc biệt của Chính phủ. + Hình thành hệ thống tư vấn DN cho các DNVVN, bao gồm: Hệ thống hướng dẫn tài chính và tín dụng, hệ thống hướng dẫn quản lý,… Với bối cảnh mới của nền kinh tế Đài Loan hiện nay đang dần chuyển sang một giai đoạn phát triển dựa trên các ngành sử dụng nhiều vốn và tri thức, tầm quan trọng tương đối của các DNVVN trong nền kinh tế Đài Loan có phần suy giảm, sức mạnh cạnh tranh giảm. Song với tính chất linh hoạt, cùng với hệ thống chính sách trợ giúp thích hợp của Chính phủ, các DNVVN Đài Loan hoàn toàn có khả năng thính ứng và tiếp tục phát triển. 1.3.1.3. Nhật Bản Hình thức tổ chức DN của Nhật Bản ra đời cách đây 100 năm với hai loại chính: Hình thức tổ chức kiểu "cái ô" và hình thức tổ chức "mắt xích". Cả hai hình thức tổ chức DN này rất phù hợp với loại hình DNVVN. Do vậy loại hình này phát triển rất sớm ở Nhật Bản và đã khẳng định được vai trò của mình trong đời sống kinh tế - xã hội Nhật Bản. Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế, Nhà nước Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển DNVVN. Có thể phân chia chính sách phát triển DNVVN thành hai nhóm chính: Một là, hỗ trợ để tăng cường năng lực kinh doanh của DNVVN: cho vay vốn qua tín dụng nhà nước, cải thiện về vốn qua các CTCP, định thuế ưu đãi,... Hai là, hỗ trợ thay đổi cơ cấu, bao gồm các biện pháp hỗ trợ cho việc tạo ra kinh doanh mới; hỗ trợ phát triển kỹ thuật;... Toàn bộ việc thực hiện các chính sách giúp đỡ DNVVN được thực hiện bởi hoạt động của Liên đoàn các DN nhỏ của Nhật Bản (JSBC). Từ đầu năm 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái. Đặc biệt gần đây, với sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, sự phát triển kinh tế tri thức,... đã làm cho DNVVN gặp không ít khó khăn, song khu vực DN này với những ưu việt vốn có cộng với các chính sách trợ giúp của Chính phủ sẽ tiếp tục phát triển mạnh và sẽ trở thành một nguồn lực năng động tạo đà cho sự phục hồi và tăng trưởng mới của nền kinh tế Nhật Bản. 1.3.2. Kinh nghiệm một số địa phương về phát triển DNVVN 1.3.2.1. Tỉnh Bình Dương Bình Dương là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ, là một trong những tỉnh có tăng trưởng kinh tế cao vào loại bậc nhất của cả nước; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1991-1995 là 17,52%, giai đoạn 1996-2000 là 13,5%. Những thành tựu Bình Dương đạt được là nhờ sự đóng góp đáng kể của loại hình DNVVN (chiếm trên 98% tổng số DN của cả tỉnh). Tác động to lớn của các DNVVN đối với kinh tế - xã hội của tỉnh được thể hiện: + Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH, giảm mạnh tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; + Phát huy mọi tiềm năng về đất đai, lao động, ngành nghề truyền thống và nguồn vốn trong dân để phát triển kinh tế của tỉnh: thu hút được 813,83 tỷ đồng, chiếm 37% tổng số vốn đầu tư kinh doanh của tỉnh (năm 2000); các DNVVN trong công nghiệp, dịch vụ đã tạo việc làm cho hơn 73.000 người (tính đến cuối năm 1999); năm 1999, lực lượng kinh tế ngoài quốc doanh trong nước, trong đó chủ yếu là các DNVVN đóng góp khoảng 50% GDP của tỉnh; đóng góp vào ngân sách nhà nước 156,3 tỷ đồng. + DNVVN góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người năm 1997 đạt 5,6 triệu đồng thì năm 2000 đạt 8 triệu đồng; năm 1997 còn 8% số hộ nghèo thì năm 2000 còn 6% hộ nghèo, không có hộ đói. Mặc dù có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhưng các DNVVN ở Bình Dương cũng gặp không ít khó khăn như hoạt động tự phát, phân tán, sức cạnh tranh yếu nên khó thích ứng với sự biến động của thị trường; thiết bị công nghệ còn lạc hậu vừa gây hạn chế chất lượng sản phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường, tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ chưa quá 15% doanh thu; trình độ quản lý kinh doanh của các chủ DN nhìn chung còn nhiều hạn chế, có đến 32% chủ DN chưa qua đào tạo hoặc chỉ qua một lớp học quản lý ngắn hạn;... Nhận thấy được tầm quan trọng của DNVVN cũng như những khó khăn mà các DNVVN gặp phải, lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã có sự quan tâm thích đáng đối với sự phát triển của DNVVN: + Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã có nhiều chủ trương và chính sách thông thoáng nhằm phát huy nội lực, thu hút ngoại lực để phục vụ chiến lược phát triển của tỉnh với khẩu hiệu "Trải thảm đỏ mời khách đầu tư" như xây dựng các khu công nghiệp tập trung để kêu gọi đầu tư; tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo mô hình"một cửa", tập trung đầu mối xét và cấp giấy phép đầu tư cho Sở Kế hoạch và Đầu tư với thủ tục nhanh, gọn; tạo điều kiện thuận lợi để các DN được tiếp xúc dễ dàng với các nhà lãnh đạo chủ chốt của tỉnh để trình bày các khó khăn trong quá trình đầu tư và nhờ đó khó khăn được tháo gỡ kịp thời. + Từ những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của lãnh đạo tỉnh, các sở, ban ngành đã cụ thể hóa nội dung quản lý của mình để thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển DNVVN thông qua các chính sách đất đai, tín dụng, khoa học - công nghệ... như tiến hành cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân và các DN (đến cuối năm 2000 đã hoàn thành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được 90% và cấp đến tay người dân được 77%); thực hiện chủ trương "đổi đất lấy kết cấu hạ tầng" vừa thu hút được vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, vừa sử dụng đất có hiệu quả; hoạt động tín dụng thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thu hút tiền gửi của các tổ chức kinh tế và của dân cư, kịp thời cung ứng vốn cho các thành phần kinh tế để phát triển SXKD; hệ thống ngân hàng hướng vào phục vụ hoạt động kinh doanh của các DN, trong đó có DNVVN; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển ưu tiên cho vay DNVVN ở nông thôn để sản xuất gốm, sứ, hàng mỹ nghệ, cho vay dự án sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, hỗ trợ di dời các DN ra khỏi khu dân cư; hoạt động của ngành thuế với mục tiêu không chỉ tăng nguồn thu ngân sách nhà nước mà quan trọng hơn là kích thích phát triển SXKD của các DN, đặc biệt là DNVVN;... 1.3.2.2. Tỉnh Bắc Ninh Cũng như nhiều địa phương khác, DNVVN ở Bắc Ninh chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số DN của tỉnh, gần 97% số DN và Công ty tư nhân, 93% DNNN địa phương, 100% HTX... thuộc loại DNVVN và có mặt trong nhiều ngành, nghề khác nhau. Vai trò của các DNVVN thể hiện trên các mặt: + Tạo thêm nhiều việc cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, trên cơ sở đó góp phần tăng thu nhập dân cư, đa dạng hóa các nguồn thu nhập. + Thu hút vốn vào SXKD: Theo số liệu của tỉnh, vốn đầu tư của các DNVVN ngoài quốc doanh và đầu tư của dân cư năm 1999 chiếm 58,2% tổng số vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh. + Các DNVVN đóng góp không nhỏ vào GDP, tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Chỉ tính riêng trong công nghiệp, các DNVVN chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Các cơ sở sản xuất trong các làng nghề của tỉnh hàng năm đã tạo ra của cải trị giá trên 200 tỷ đồng. + Các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế của tỉnh, trong những năm qua, các cấp chính quyền từ tỉnh đến các huyện, xã đã có nhiều nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho các DN nói chung, đặc biệt là các DNVVN khắc phục khó khăn và phát triển. Những nỗ lực đó thể hiện trên nhiều mặt: + Trên cơ sở các luật và chính sách có liên quan đến hoạt động của các DN nói chung, DNVVN nói riêng được ban hành từ Trung ương như chính sách đất đai, chính sách vốn - tín dụng, chính sách thuế, chính sách đào tạo,... các cơ quan chức năng của tỉnh đã triển khai thực hiện tốt, tạo ra điều kiện, cơ hội thuận lợi nhất cho các DN phát triển như tạo điều kiện để các DN tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn, đất đai, mặt bằng sản xuất như cấp đất và cho thuê đất một cách thuận lợi cho các DN, xây dựng các khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các khu tập trung cho các làng nghề, thực hiện cơ chế giá cả đền bù và cho thuê đất tương đối thông thoáng, chẳng hạn thực hiện phương châm "đền bù thì áp dụng giá cao, cho thuê thì áp dụng giá tối thiểu"; hỗ trợ về vốn cho các DN dưới nhiều hình thức trong đó chú ý tới vấn đề tích tụ và tập trung vốn cho DN;… + Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ DNVVN của Hội đồng liên minh HTX: hình thành trung tâm tư vấn cung cấp thông tin và dịch vụ tư vấn cho các DN, đào tạo nghề cho các DN, tổ chức hội thảo, tổ chức các đoàn đi nghiên cứu kinh nghiệm và tìm thị trường... Bên cạnh những thuận lợi, những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển các DNVVN còn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại. Ngoài những khó khăn, trở ngại từ phía bản thân, các DNVVN còn gặp phải khó khăn, trở ngại từ phía môi trường, từ phía các cơ quan nhà nước như chưa thật sự bình đẳng giữa các DN; việc cung cấp thông tin cho các DNVVN chưa được chú trọng; việc quy hoạch các khu công nghiệp chưa tính đến vấn đề môi trường trong dài hạn nên có thể xảy ra tình trạng ô nhiễm; việc định hướng, hướng dẫn các DN của một số cơ quan chức năng còn lúng túng và còn yếu; sự hỗ trợ cho các DNVVN từ phía các cấp chính quyền có lúc, có nơi còn chưa được chú trọng đúng mức; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp;... Do đó, để thúc đẩy phát triển DNVVN tỉnh Bắc Ninh, các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành của tỉnh đã quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI 2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH QUẢNG NGÃI 2.1.1. Khái quát chung về tình hình tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Quảng Ngãi Quảng Ngãi là một tỉnh mới được tái lập từ tháng 7/1989 từ tỉnh Nghĩa Bình cũ. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Quảng Ngãi tiếp giáp với tỉnh Quảng Nam ở phía Bắc, tỉnh Bình Định ở phía Nam, phía Tây Nam ngăn cách với tỉnh Kon Tum bởi chi nhánh của dãy núi Trường Sơn, phía Đông giáp Biển Đông với 130 km bờ biển. Trung tâm của tỉnh là thị xã Quảng Ngãi. Về hành chính, hiện tại tỉnh có 1 thị xã, 5 huyện miền núi, 6 huyện đồng bằng ven biển và huyện đảo Lý Sơn. Diện tích tự nhiên của Quảng Ngãi là 5.131,51 km², bằng 1,52% diện tích cả nước, với gần 2/3 diện tích là núi rừng và đồi trọc. Địa hình nghiêng từ Tây sang Đông, chia làm 4 khu vực: đồng bằng, trung du, miền núi, hải đảo. Đồng bằng có độ cao 8 độ so với mực nước biển. Quảng Ngãi nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nền nhiệt độ cao và ít biến động (trung bình 25,70 C). Lượng mưa trung bình năm là 2504 mm, cực đại lên đến 3500 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 86%. Tổng lượng bức xạ trung bình năm là 143,3 Kcal/cm2 [7, tr. 10]. Với lượng bức xạ lớn rất thuận lợi về phơi sấy, sử dụng năng lượng mặt trời trong công nghệ chế biến nông lâm sản, hải sản, làm muối và sản xuất điện năng. Trong lòng đất Quảng Ngãi có nhiều tích tụ khoáng sản như: Graphic trữ lượng khoảng 4 triệu tấn, hàm lượng cacbon trung bình 20%, siliminat trữ lượng 1 triệu tấn, than bùn trữ lượng 476 nghìn m³, cao lanh trữ lượng khoảng ._.các hộ kinh doanh cá thể nắm được đầy đủ các thông tin về thuế và các ưu đãi về thuế. Các ưu đãi về thuế cần được hướng dẫn kịp thời, rõ ràng và triển khai đồng bộ, tránh tình trạng mỗi ngành hiểu một cách nên triển khai thực hiện không thống nhất. + Tăng cường công tác quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các chủ thể kinh doanh. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm khuyến khích xu hướng lành mạnh, tạo điều kiện cho các DN làm ăn đúng đắn, nghiêm túc. Điều cấp bách hiện nay là phải hạn chế tình trạng trốn thuế khá phổ biến trong khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể. Để thực hiện điều đó, cần giảm dần và tiến tới xóa thuế khoán, tiến tới áp dụng hệ thống tự kê khai báo thuế. Muốn vậy các chủ thể kinh doanh thực hiện tốt các chế độ chứng từ, sổ sách kế toán, thống nhất cách thức tính thuế GTGT để tránh sự khác biệt không đáng có. Thực hiện tốt việc ĐKKD theo Luật DN và Nghị định 02/CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ. + Cơ quan thuế phối hợp cùng các hữu quan tích cực giúp đỡ và thúc đẩy các DN thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán. Đây là khâu chủ yếu để thực hiện tốt việc tính thuế và thu thuế. Việc trợ giúp có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức: Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ kế toán, phát triển các dịch vụ kế toán... Đối với các DNVVN mới thành lập cần phải cam kết thực hiện chế độ kế toán như là một điều kiện để được ĐKKD. + Đối với các DNVVN chưa có điều kiện thực hiện đầy đủ, đúng đắn chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ (phải chịu hình thức thuế khoán) cần có phương thức tính và thu thuế hợp lý. Mức thuế khoán phải công khai, phù hợp với quy mô, điều kiện kinh doanh của DN trong từng thời kỳ hay chu kỳ kinh doanh. Tránh tình trạng gây khó khăn cho hoạt động SXKD của DN hoặc hiện tượng thông đồng giữa cán bộ thuế với chủ DN để trốn lậu thuế. + Cùng với việc trợ giúp cần kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm chế độ kế toán, chế độ thuế đối với tất cả các DN, với cán bộ thuế. + Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thuế, tổ chức công tác thu thuế... + Tăng thời gian ưu đãi thuế đối với các DNVVN mới thành lập nhằm giúp cho các DN có điều kiện tích lũy, ổn định sản xuất và phát triển sản xuất tới mức đứng vững trên thị trường, qua đó tạo nguồn thu ổn định, lâu dài. Đối với các hoạt động đổi mới công nghệ, đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới, có thể miễn thuế. Đồng thời mở rộng đối tượng ưu đãi, quan tâm ưu đãi theo quy mô để tạo điều kiện cho các DNVVN vượt lên sự yếu ớt của họ và kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, cần có thêm sự ưu đãi đối với các DN thu hút nhiều lao động và thu hút được nhiều vốn. - Về chính sách đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay trên địa bàn Quảng Ngãi nói chung, nguồn lao động trong các DNVVN trên địa bàn nói riêng, tỉnh đã xác định đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung quan trọng của các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. Yêu cầu của việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được đặt ra ngay từ bây giờ với hướng đào tạo là nâng cao chất lượng dân số - lao động thông qua giáo dục và dạy nghề, tạo điều kiện để áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, dịch vụ và hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó chuyển đổi cơ cấu lao động một cách hợp lý theo hướng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, phân bố lại lao động theo lãnh thổ, thu hút lao động vào các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản, thương mại... Muốn vậy trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau: + Tiếp tục củng cố, sắp xếp và quy hoạch các trường chuyên nghiệp, xác định cơ cấu ngành, nghề đào tạo phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo. Đầu tư xây dựng Trường Cao đẳng cộng đồng Quảng Ngãi để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của địa phương. Tỉnh cần dành tỷ lệ ngân sách hợp lý trong tổng thu ngân sách hàng năm để ưu tiên đầu tư cho dạy nghề và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho dạy nghề [13, tr. 77]. + Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các trường, các cơ sở đào tạo, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề với các DN trên địa bàn để gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo theo địa chỉ. Các cơ sở đào tạo hoàn thiện chương trình đào tạo để đáp ứng được yêu cầu đa dạng hóa ngành nghề và kết hợp tiến bộ của khoa học công nghệ. Các trường, các cơ sở đào tạo cần mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa hình thức đào tạo: tập trung, không tập trung, chính quy, tại chức, từ xa, ngắn hạn, dài hạn... để mọi đối tượng lao động có thể tham gia quá trình đào tạo, chú ý đến đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động làm việc trong các DN một cách thường xuyên, kịp thời. Tổ chức nghiêm túc các kỳ thi nâng ngạch, thi nâng tay nghề, đặc biệt chú ý đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn. + Mở rộng hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh và người lao động, nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, các trung tâm giáo dục thường xuyên và dịch vụ việc làm để hướng nghiệp, đào tạo và giới thiệu việc làm cho người lao động. Mỗi huyện ít nhất phải có một trung tâm dạy nghề. + Phải có các chính sách sử dụng hợp lý và đãi ngộ thỏa đáng, khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn nhân lực để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn như chính sách thu hút nhân tài, các chính sách ưu đãi, trọng dụng đối với các nghệ nhân trong các làng nghề truyền thống để phục vụ và phát triển nghề, khuyến khích họ sáng tạo, truyền nghề cho con cháu, chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người lao động có tay nghề cao, cán bộ quản lý giỏi có đóng góp nhiều cho DN, tạo nên phong trào thi đua rộng khắp trong các DN. + Tạo điều kiện giúp đỡ các DN rà soát, đánh giá thực trạng lao động từ đó lập kế hoạch đào tạo cụ thể, hợp lý; thực hiện việc hỗ trợ một phần vốn đào tạo và phát triển tay nghề của lực lượng lao động trong các DNVVN, nhất là ở vùng nông thôn. + Tiếp tục chỉ đạo các ngành chức năng tập huấn triển khai Luật Lao động đến DN ngoài quốc doanh nhằm giúp các DN này thực hiện đúng Luật Lao động + Quy định chế độ nâng bậc lương cho người lao động trong các DN được cổ phần hóa từ DNNN. + Khuyến khích các DN lớn: Công ty Đường, Công ty Hóa chất... liên kết giúp đỡ các DNVVN đào tạo công nhân lành nghề, truyền đạt kinh nghiệm quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý DN. + Mở các lớp đào tạo phổ cập kiến thức về kinh doanh và pháp luật cho chủ DN, các lớp đào tạo chuyên sâu cho chủ DN trong các lĩnh vực gắn liền với hoạt động SXKD của DN mà họ là chủ với các hình thức đào tạo đa dạng. Thường xuyên phổ biến các chủ trương, chính sách mới, tình hình biến động thị trường trong tỉnh, trong nước, quốc tế để họ có đủ thông tin, quyết định phương án SXKD có hiệu quả. Tổ chức đi khảo sát thực tế để học hỏi kinh nghiệm của các DN trong tỉnh, trong nước, để họ có thêm kiến thức về tổ chức sản xuất, phong cách quản lý... + Thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của đội ngũ lãnh quản lý DN với kết quả hoạt động SXKD. Với giám đốc DNNN nếu điều hành DN 3 năm liền làm ăn thua lỗ cần dứt khoát thay thế. 3.2.4. Cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các DN đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Trước khi có Luật DN, thủ tục ĐKKD còn nhiều hạn chế: bị hạn chế về ngành nghề kinh doanh, việc thành lập DN là của Nhà nước, cơ chế "xin cho" thể hiện rất rõ... Thực tế trên cho thấy các nhà đầu tư trong tỉnh không muốn ĐKKD theo Luật DNTN, Luật Công ty mà cố tìm cách lách luật, xin ĐKKD hộ kinh tế nhỏ, điều đó góp phần tăng thêm tình trạng kinh tế ngầm, vừa cản trở sự phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và của từng DN nói riêng. Trong hai năm gần đây khi có Luật DN ban hành, quyền thành lập DN được giao lại cho nhà đầu tư (cá nhân), ngành nghề ĐKKD không bị hạn chế (trừ ngành nghề pháp luật cấm kinh doanh). Thực hiện cải cách hành chính, thủ tục thành lập DN và ĐKKD đơn giản hơn nhiều, từ đó đã tạo một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế tỉnh nhà. Song để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự hình thành, phát triển các DNVVN thì cần phải tiếp tục cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các DN, đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. Cụ thể: + Xác định rõ ràng các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, xác định rõ ràng và cụ thể các điều kiện kinh doanh đảm bảo tính cần thiết, tính hợp lý, tính khả thi của các điều kiện này, tránh tình trạng các văn bản quy định quá nhiều, phân tán, không rõ ràng, chồng chéo (được quy định bởi 300 văn bản các loại). Kiên quyết hủy bỏ những giấy phép kinh doanh không còn phù hợp với Luật DN [32, tr.112]. + Xây dựng bộ máy ĐKKD có đủ năng lực để phục vụ tốt hơn cho các DN. + Cần sớm thành lập phòng ĐKKD cấp huyện trên cơ sở giao cho Phòng Kế hoạch và Đầu tư huyện, thị xã thực hiện chức năng ĐKKD, phối hợp xác minh các DN đóng trên địa bàn huyện, thị cũng như báo cáo tình hình ĐKKD của các hộ kinh doanh cá thể cho phòng ĐKKD cấp tỉnh hàng tháng, hàng quí theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP. + Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục ĐKKD để DN tham gia vào hoạt động SXKD một cách rõ ràng hơn, nhưng phải trên cơ sở quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của ngành trong từng giai đoạn. Theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP, chủ DN có quyền ĐKKD theo pháp luật, cơ quan ĐKKD không được hạn chế, do vậy để tránh tình trạng đăng ký tràn lan thiếu căn cứ, kém hiệu quả tỉnh cần tổ chức cơ quan tư vấn. Xây dựng hệ thống thông tin về DNVVN, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật; hỗ trợ DN trong việc tìm kiếm thông tin về chính sách của Nhà nước, hướng dẫn các DN giải quyết các vướng mắc trong việc ĐKKD. Nhờ đó, một mặt giúp cho công chúng, những người có liên quan nắm bắt được các thông tin về các DN đã được đăng ký để qua đó kiểm soát lẫn nhau trong khi thực hiện các giao dịch, ký kết hợp đồng. Mặt khác góp phần giảm nhẹ khối lượng công việc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng giám sát và quản lý của Nhà nước đối với DN. + Yêu cầu tất cả các DN và công ty đã đăng ký phải thông báo ngay cho cơ quan ĐKKD về mọi thay đổi liên quan tới thông tin đã đăng ký và nộp các báo cáo định kỳ, hàng năm cho cơ quan ĐKKD, vì đó là công cụ quản lý nhà nước trong việc nắm thông tin về các DN đã đăng ký còn đang hoạt động. + Ngoài các giải pháp tạo điều kiện cho các DN gia nhập thị trường, cần chú ý một số giải pháp để tạo điều kiện cho các DN dễ dàng rút khỏi thị trường (bán DN, đóng cửa DN, phá sản theo luật định) để giúp cho họ có cơ hội mới trên thị trường mới, tạo sự năng động hơn trong nền kinh tế như đưa ra quy định cụ thể hướng dẫn việc mua bán DN, kiên quyết trừng trị những tổ chức, cá nhân xử lý vay nợ theo "luật rừng", nâng cao năng lực của bộ máy tòa án xử lý phá sản của DN. + Quán triệt hơn nữa quan điểm: chức năng của các cơ quan công quyền là hỗ trợ chứ không phải cản trở sự phát triển của các DNVVN mà đặc biệt là sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Quan điểm này chẳng những được thể hiện trong Nghị quyết của đảng, trong chính sách của Nhà nước mà quan trọng hơn là trong hành vi của từng cán bộ, công chức để từ đó đổi mới tư duy của các cơ quan công quyền theo quan điểm trên. 3.2.5. Phát triển các tổ chức đại diện, tổ chức tư vấn và tổ chức quản lý đối với các DNVVN Nhằm củng cố và thúc đẩy các DNVVN phát triển có hiệu quả, lâu dài, bền vững theo định hướng chung, thông qua nghiên cứu thực trạng của DNVVN và yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực tiễn đòi hỏi cần một tổ chức đầu mối với một mạng lưới hỗ trợ nhằm phát triển các DNVVN. Việc xác lập một tổ chức đầu mối đòi hỏi phải khẳng định các chức năng chủ yếu của nó là tham mưu giúp Chính phủ và chính quyền địa phương tạo môi trường thuận lợi cho phát triển DNVVN, điều phối các hoạt động giúp các DNVVN từ việc đào tạo, tiếp thị, làm cầu nối giữa DNVVN với các cơ quan quản lý của Nhà nước, các ngành, các hiệp hội, nhằm phát triển SXKD, chuyển giao công nghệ... có hiệu quả. Chính vì thế theo NĐ 90/2001 đã quy định thành lập hai tổ chức mới để xúc tiến phát triển DNVVN. Đó là: Cục phát triển DNVVN và Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN. Trên địa bàn tỉnh, để hỗ trợ và khuyến khích phát triển DNVVN cần: - Thành lập tổ chức xúc tiến phát triển DNVVN của tỉnh để chuyên trách theo dõi, tổng hợp, đề xuất thể chế, chính sách khuyến khích DNVVN trong từng thời kỳ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và phối hợp với các sở, ban, ngành trong việc tổ chức thực hiện. - Tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hơn nữa sự hoạt động của Trung tâm hỗ trợ và đầu tư phát triển HTX&DNVVN của tỉnh. - Khuyến khích thành lập các tổ chức trợ giúp DNVVN như hiệp hội, Câu lạc bộ DN (gọi tắt là hiệp hội DN). Đó là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp nhằm khai thác mọi nguồn lực của xã hội, kể cả thu hút tài trợ từ bên ngoài, để phát triển các hoạt động trợ giúp một cách trực tiếp, có hiệu quả thiết thực cho DNVVN. Các hiệp hội DN này có thể tổ chức theo địa bàn địa phương, theo ngành nghề để cùng nhau thương thảo giải quyết vấn đề mà từng DN riêng lẻ không tự giải quyết, để hỗ trợ nhau trong kinh doanh, đồng thời làm vai trò cầu nối giữa các hội viên với cơ quan của Chính phủ, đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của DNVVN. - Tăng cường cán bộ quản lý các DNVVN trong các sở, ban, ngành cấp tỉnh, cấp huyện, đặc biệt là các bộ phận như ĐKKD của Sở Kế hoạch và Đầu tư, bộ phận quản lý DNVVN trong các Sở Công nghiệp, Sở Thương mại... - Tăng cường chức năng của bộ máy quản lý nhà nước đối với DNVVN theo hướng tăng thêm chức năng cho một số cơ quan, bộ phận hiện có như: chức năng kiểm tra sau ĐKKD cho Phòng ĐKKD, chức năng quy hoạch và định hướng phát triển cho các Sở chuyên ngành, chức năng cung cấp thông tin... Ngoài ra, cần phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các chức năng được giao giữa các cơ quan hữu quan trong việc quản lý và hỗ trợ các DNVVN. - Thực hiện tốt chức năng kiểm soát đối với DN nhằm ngăn ngừa hạn chế các vi phạm, việc kiểm tra các hoạt động SXKD của DNVVN phải được thực hiện theo đúng chức năng, thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng để tránh trùng lắp, tránh gây phiền hà không đáng có cho các DN. KẾT LUẬN Phát triển DNVVN trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng và mang tính lâu dài. Việc thúc đẩy sự phát triển các DNVVN sẽ góp phần rất quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo… Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Quảng Ngãi là một tỉnh nông nghiệp, dân số chủ yếu sống ở nông thôn và làm nghề nông. Đây là một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có những tiềm năng quan trọng như vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có lực lượng lao động dồi dào, người dân năng động, sáng tạo, cần cù. Tuy nhiên, tỉnh cũng có không ít khó khăn trong việc phát triển kinh tế nói chung và các DNVVN nói riêng. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội. Trong những thành công đó có sự đóng góp đáng kể của các DNVVN. Các DN này với những lợi thế của mình đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế và giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội của tỉnh hiệu quả. Trong thời gian qua, các cấp, các ngành ở tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ tích cực cho các DNVVN trong hoạt động kinh doanh dưới nhiều hình thức, trong đó đặc biệt thông qua cơ chế, chính sách hỗ trợ. Tuy vậy, đến nay các DNVVN trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại như thiếu vốn, trình độ tay nghề thấp, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng… Để hỗ trợ các DNVVN phát triển SXKD, tăng cường vai trò của các DN này trong sự nghiệp CNH, HĐH, tỉnh cần tích cực hơn nữa trong việc giúp đỡ và có các biện pháp hỗ trợ thiết thực. Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đã đưa ra một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm góp phần phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đồng thời, tác giả đưa ra một số kiến nghị sau đây: Một là, các địa phương muốn thúc đẩy phát triển DNVVN còn phụ thuộc rất lớn vào pháp luật, đường lối, chính sách ở Trung ương, do đó kiến nghị Trung ương tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách vốn - tín dụng,... để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương triển khai thực hiện tốt hơn nhằm khuyến khích, hỗ trợ tích cực cho các DNVVN phát triển. Hai là, Trung ương cần xây dựng và thực hiện một cơ chế, một kế hoạch cung cấp các thông tin cơ bản về mọi DN đã ĐKKD để các cơ quan nhà nước cũng như công chúng có thể dễ dàng thu thập được các thông tin về một DN nào đó nhằm tạo ra sự tin tưởng, ngăn ngừa trình trạng lừa đảo trong quan hệ kinh doanh. Ba là, Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, việc phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh còn gặp phải nhiều khó khăn. Do đó rất mong sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của Trung ương đối với tỉnh Quảng Ngãi, đặc biệt là sự hỗ trợ về vốn. Đánh giá đúng thực trạng và đề ra được các giải pháp hữu hiệu để phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay là vấn đề rất phức tạp. Sự phức tạp thể hiện ở chỗ mô hình DNVVN tồn tại trong nhiều thành phần kinh tế, trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, liên quan đến nhiều cơ quan, sở, ban, ngành trong tỉnh. Trong khi đó tỉnh vẫn chưa có sự thống nhất, chưa có quy định cụ thể về tiêu chí DNVVN (mặc dù Nghị định 90/2001/NĐ-CP đã quy định rất rõ), chưa có chính sách riêng biệt cụ thể cho loại hình DNVVN, chưa có công trình, đề án nào nghiên cứu đầy đủ về mô hình DN này (chỉ có một số báo cáo chuyên đề về kinh tế tư nhân) nên luận văn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu, đặc biệt là vấn đề tìm hiểu và tổng hợp số liệu. Mặc dù tác giả luận văn đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn còn có sai sót, còn những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung. Tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, chỉ giáo quý báu của các nhà khoa học, các đồng nghiệp. Hy vọng sau khi hoàn thành, bản luận văn sẽ mang được tính khả thi, sẽ đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, góp phần chung vào sự phát triển Quảng Ngãi trở thành một tỉnh giàu đẹp, văn minh, hiện đại trong tương lai. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Đình Bách (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế Nhà nước - Lý luận, chính sách và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban cán sự Đảng Chính phủ (2001), Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN tại Việt Nam, Hà Nội. Trần Minh Châu (2000), "Hỗ trợ DNVVN trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực", Nghiên cứu lý luận, (3), tr. 29-31. Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cục thống kê Quảng Ngãi (2000), Quảng Ngãi: Tiềm năng và động thái kinh tế 1990 - 1999, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. Cục thống kê Quảng Ngãi (2001), Niên giám thống kê 1996 - 2000, Công ty in Thống kê và sản xuất bao bì Huế, Huế. Cục thuế Quảng Ngãi (2002), Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2001, Quảng Ngãi. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVI, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. Vũ Bá Định (2001), "Từ kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ vốn đối với DNVVN", Thương mại, (1), tr. 31-32. Trịnh Quang Hạo (2002), "Kinh tế tư nhân ở Quảng Ngãi. Thực trạng và định hướng phát triển ", Báo Quảng Ngãi, (1175), tr. 1-2. Hoàng Văn Hoa (2002), "Tạo điều kiện để DNVVN phát triển", Báo Nhân dân, (17.128), tr. 6 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN trong nông thôn Việt Nam, Hà Nội. Hội đồng Liên minh các HTX Quảng Ngãi (2001), Báo cáo tổng kết kinh tế hợp tác và HTX phi nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. Đỗ Mạnh Khởi (2000), "Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm thúc đẩy sự phát triển các DNVVN ở Việt Nam", Kinh tế và dự báo, (3), tr. 17-18. Vương Liêm (2000), Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. Lương Tấn Luận (2002), "Để tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Cơ chế tài chính cần đi trước một bước", Thuế nhà nước, (8), tr. 62-63. Dương Bá Phượng (1996), Phát triển DNVVN ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa và chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quảng Ngãi (2000), Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá thực trạng máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất của các DNNN tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Quảng Ngãi (2001), Thực trạng và giải pháp giải quyết lao động và việc làm ở nông thôn Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. Sở Công nghiệp Quảng Ngãi (2001), Công nghiệp Quảng Ngãi thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển ngành trong giai đoạn 2001 - 2005, Quảng Ngãi. Sở Thủy sản Quảng Ngãi (2001), Đề án phát triển thủy sản tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2005 và 2010, Quảng Ngãi. Sở Tài chính vật giá Quảng Ngãi (1999), Chiến lược tài chính giai đoạn 2000-2010, Quảng Ngãi. Sở Tài chính vật giá Quảng Ngãi (2002), Tổng hợp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001, Quảng Ngãi. Sở Tài chính vật giá Quảng Ngãi (2002), Tổng hợp báo cáo tài chính DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001, Quảng Ngãi. Nguyễn Thanh Sơn (2002), "Cơ chế tài chính đối với kinh tế tư nhân: Nắm cái gì và thả cái gì?", Tài chính, (451), tr. 91-92 Schumacher (1994), "Nhỏ là đẹp. Về lợi thế của quy mô vừa và nhỏ trong kinh tế", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lê Viết Thái, Trần Đình Hào, Nguyễn Đình Cung, Tô Đình Thái, Hoàng Văn Thành (2000), Báo cáo nghiên cứu DNVVN - Hiện trạng và những kiến nghị giải pháp, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. Hoàng Công Thi, Phạm Thị Hồng Vân (2000), Tạo lập môi trường tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. Phạm Ngọc Thước (1999), "DNVVN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2001), Báo cáo kết quả khảo sát kinh tế tư nhân (loại hình DNTN, công ty TNHH, CTCP, Quảng Ngãi. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2001), Thực trạng tình hình và một số giải pháp thực hiện công tác cán bộ của tỉnh trong thời gian đến, Quảng Ngãi. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2002), Chương trình hoạt động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa IX về việc tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, Quảng Ngãi. Nguyễn Mỹ Trinh (2000), "DNVVN ở nước ta. Tiềm năng và hạn chế", Phát triển kinh tế , (114), tr. 23-24. Trung tâm hỗ trợ, phát triển HTX- DNVVN Quảng Ngãi (2001), Những văn bản hiện hành cần thiết dành cho cán bộ quản lý: HTX, DNVVN, Xí nghiệp in Quảng Ngãi , Quảng Ngãi. Nguyễn Minh Tú (2001), Một số vấn đề cơ bản về đổi mới kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thái Hòa (2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. Vũ Quốc Tuấn (2001), "Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa", Thời báo kinh tế Việt Nam, (147), tr. 12. Vũ Quốc Tuấn (2001), Doanh nghiệp doanh nhân trong kinh tế thị trường, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Minh Tuấn (2002), "Sử dụng chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ", Tài chính, (7), tr. 24-27. UBND tỉnh Quảng Ngãi (1995), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1996-2010, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2002), Đề án sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005, Quảng Ngãi. UBND tỉnh Sơn La (2000), Phát triển DNVVN để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Sơn La, Sơn La. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SXKD CỦA DOANH NGHIỆP (SỐ LƯỢNG: 27 DN) TT Các chỉ tiêu ĐVT Năm 2000 Tính đến tháng 6/2001 1 Tổng giá trị sản phẩm Trong đó: Giá trị sản phẩm xuất khẩu Tr. đồng Tr. USD 159.841,4 0,668 82.786,7 0,274 2 Tổng vốn kinh doanh - Tổng vốn đăng ký - Tổng vốn đăng ký đã thực hiện - Tổng vốn đầu tư kinh doanh Trong đó: Vốn vay - Tổng vốn cố định Tr. đồng Tr. đồng Tr. đồng Tr. đồng Tr. đồng 38.737 32.438 46.476,1 13.997 31.334 48.335 43.168 56.328,1 25.399 38.433 3 Số lao động Tổng số lao động Trong đó: - Số có ký hợp đồng lao động - Số có bảo hiểm xã hội - Số đã qua đào tạo - Số được hưởng phúc lợi tập thể Người Người Người Người Người 802 128 57 177 14 813 174 94 244 24 4 Tự đánh giá trình độ trang thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp - Khá - Trung bình - Kém DN DN DN 7 19 1 9 18 0 5 Tổng số thuế nộp Tr.đồng 636,465 645,3 6 Đóng góp vào hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện Tr.đồng 18,9 13,4 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi. Mở đầu 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài 4 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5 7. Kết cấu luận văn 5 Chương 1: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 6 1.1. Sự phát triển lý luận và quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 6 1.1.1. Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam 6 1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam 12 1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN 13 1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta 17 1.2.1. Tình hình phát triển DNVVN trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 17 1.2.2. Vai trò của các DNVVN trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta 18 1.2.3. Khái quát những vướng mắc và hạn chế của DNVVN 23 1.3. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 26 1.3.1. Kinh nghiệm một số nước về phát triển DNVVN 26 1.3.1.1. Cộng hòa Liên bang Đức 26 1.3.1.2. Đài Loan 27 1.3.1.3. Nhật Bản 29 1.3.2. Kinh nghiệm một số địa phương về phát triển DNVVN 30 1.3.2.1. Tỉnh Bình Dương 30 1.3.2.2. Tỉnh Bắc Ninh 32 Chương 2: thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh quảng ngãi 34 2.1. Những đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 34 2.1.1. Khái quát chung về tình hình tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 34 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 34 2.1.1.2. Đặc điểm và tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi 35 2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 39 2.2. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 41 2.2.1. Quá trình lịch sử phát triển DNVVN tỉnh Quảng Ngãi 41 2.2.2. Thực trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay 43 2.2.2.1. Số lượng và phân bổ ngành nghề, địa bàn hoạt động 43 2.2.2.2. Tiềm lực DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi 46 2.2.2.3. Thị trường và sức cạnh tranh của DNVVN 51 2.2.2.4. Hiệu quả kinh doanh của các DNVVN 52 2.2.2.5. Tác động đối với kinh tế - xã hội của tỉnh 54 2.2.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 58 2.2.3.1. Tác động của chính sách vĩ mô đối với các DNVVN của tỉnh Quảng Ngãi 58 2.2.3.2. Quản lý nhà nước địa phương đối với DNVVN 59 2.2.4. Đánh giá chung - nguyên nhân 71 2.2.4.1 Đánh giá những mặt được và chưa được của DNVVN trên địa bàn Quảng Ngãi 71 2.2.4.2. Nguyên nhân 72 Chương 3 : Quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh quảng ngãi 76 3.1. Những quan điểm và một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 76 3.1.1. Những quan điểm cơ bản 76 3.1.2. Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2005 78 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 80 3.2.1. Xây dựng quy hoạch phát triển DNVVN gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 80 3.2.1.1. Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 80 3.2.1.2. Định hướng quy hoạch phát triển DNVVN của tỉnh 82 3.2.2. Tiếp tục đổi mới sắp xếp lại các DNNN có qui mô vừa và nhỏ 85 3.2.3. Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển DNVVN 88 3.2.4. Cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các DN đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật 101 3.2.5. Phát triển các tổ chức đại diện, tổ chức tư vấn và tổ chức quản lý đối với các DNVVN 104 Kết luận 106 Danh mục tàI liệu tham khảo 109 khảo sát tình hình SXKD của doanh nghiệp 113 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2574.DOC
Tài liệu liên quan