Tài liệu Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - Một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
@&?
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT NAM - MỘT TRONG NHỮNG NHIỆM VỤ HÀNG ĐẦU TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC
Giáo viên hướng dẫn : Phan Trần Trung Dũng
Sinh viên : Trần Phương Dung
Lớp : Nhật 1 - K38F - KTNT
HÀ NỘI - 2003
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành nhu cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia. Đó là xu thế k... Ebook Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - Một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - Một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực, nó vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường và toàn cầu hoá như tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, gây ô nhiễm môi trường và mất dần bản sắc dân tộc cũng gây ra không ít trở ngại, thách thức đặc biệt là ở các nước kém phát triển và ở cả những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Kết thúc chiến tranh đã gần 30 năm, Việt Nam đi lên từ hàn gắn, khôi phục nền kinh tế xã hội do hậu quả của chiến tranh bị tàn phá nặng nề để lại và đang từng bước xây dựng, chuyển đổi, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một quãng thời gian chưa dài so với khối lượng công việc đồ sộ, bề bộn và vô cùng phức tạp của một quốc gia, mà mọi thứ đều phải làm để xây dựng một đất nước phồn vinh: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của thanh toán quốc tế là tất yếu khách quan để đáp ứng được nhu cầu thương mại quốc tế cũng như thị trường xuất, nhập khẩu và các giao dịch trên thị trường vốn quốc tế. Thanh toán ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt Nam ngày càng gay gắt. Từ thực tế đó, việc tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thanh toán quốc tế nhất là thanh toán không dùng tiền mặt là yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Vì vậy, cùng với kết quả từ việc nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tế hoạt động của ngân hàng tại Việt Nam về nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt từ quá trình thực tập tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi nhánh Thăng Long em đã chọn và hoàn thiện đề tài: “Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - Một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước”. Mục đích của đề tài này là làm sáng tỏ vị trí và vai trò của nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế; các phương thức thanh toán, các ưu nhược điểm và các nguyên nhân gây ra nhược điểm đối với từng phương thức; để từ đó thấy được sự cần thiết phải hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt và tìm ra những giải pháp tối ưu nhất.
Khoá luận được chia làm 3 chương chính:
Chương I: Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt.
Chương II: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt.
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Định nghĩa
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán trích chuyển vốn trên tài khoản từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ hưởng, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
1.1.2. Đặc điểm
Ngược lại với hình thức thanh toán bằng tiền mặt, và xuất phát từ việc không sử dụng đến tiền mặt của nó, thanh toán không dùng tiền mặt có một số điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, thanh toán không dùng tiền mặt có sự tách biệt giữa không gian và thời gian, giữa sự vận động của vật tư, hàng hoá và tiền tệ. Nó được thực hiện không chỉ trên cơ sở giữa bên mua và bên bán mà còn qua một chủ thể trung gian là ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác. Thực hiện thanh toán một thương vụ có an toàn hay không không chỉ phụ thuộc vào người xuất khẩu, người nhập khẩu mà còn phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề như mã hoá thông tin, bảo mật, lọc thông tin gây nhiễu, đối chiếu số liệu qua mạng máy tính...
Thứ hai, khi thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, sẽ giảm thiểu được các công việc như vận chuyển, đếm, bảo quản tiền mặt...Vì thế sẽ hạn chế được những mất mát, nhầm lẫn do việc sử dụng tiền mặt gây nên. Do đó, ta có thể khẳng định rằng: Độ an toàn trong thanh toán không dùng tiền mặt là cao. Mặt khác, nó sẽ giải quyết tình trạng bị ứ đọng vốn gây lãng phí vốn. Từ đó, vốn được khai thác triệt để đem lại lợi ích cho bản thân các doanh nghiệp, cho các ngân hàng (do việc thu phí đem lại) và đáp ứng được một phần vốn cho nền kinh tế (bởi vì khi sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt sẽ rút ngắn thời gian thanh toán và tăng nhanh vòng quay của vốn).
Thứ ba, thanh toán không dùng tiền mặt tạo môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng. Hệ thống ngân hàng trên thế giới dù phát triển đến mức nào thì cũng vẫn phải quan tâm đến mảng thanh toán, nhất là thanh toán không dùng tiền mặt. Cùng với sự phát triển của công nghệ điện tử, nhu cầu thanh toán ngày càng mở rộng, sự cạnh tranh ngày càng phát triển, các ngân hàng sẽ không ngừng hoàn thiện mình bằng việc đầu tư vào công nghệ thông tin và xử lý dữ liệu.
1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng, cùng với sự đổi mới nền kinh tế đã thực hiện quá trình hiện đại hoá, đặc biệt là trong việc thanh toán, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật như áp dụng công nghệ tin học ngân hàng, công nghệ thông tin ... mà thanh toán quốc tế được tổ chức thành một hệ thống nhất định. Trong hệ thống này, ngân hàng là một trung tâm thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh toán. Quan hệ thanh toán liên quan đến mọi hoạt động trong xã hội. Vì vậy, tổ chức tốt công tác thanh toán đặc biệt là thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó được thể hiện ở những mặt sau:
- Thanh toán không dùng tiền mặt là một quá trình thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà bằng cách trích chuyển từ tài khoản của người chi trả vào tài khoản của người thụ hưởng. Do vậy nó góp phần tạo điều kiện cho quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, an toàn ... từ đó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thanh toán vừa là khâu mở đầu, vừa là khâu kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó, nếu tổ chức tốt khâu thanh toán sẽ làm tăng sự vận động của vật tư và tiền vốn, giúp cho các doanh nghiệp thu được vốn nhanh để phục vụ cho chu kỳ sản xuất sau cũng tức là phục vụ cho quá trình tái sản xuất không ngừng phát triển.
- Thanh toán không dùng tiền mặt tiết kiệm chi phí cho lưu thông tiền mặt như các chi phí: in ấn, phát hành, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm. Hơn nữa, thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm nhẹ khâu kế hoạch và điều hoà lưu thông tiền tệ, tăng sức mua của đồng tiền, góp phần làm cho lưu thông tiền tệ ổn định. Mặt khác, ngày nay, trong khi nền kinh tế thương mại và đầu tư quốc tế làm cho tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng tăng, thì quá trình thanh toán không chỉ giới hạn trong nước mà còn mở rộng ra khu vực thế giới. Vì thế, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hấp dẫn với các nhà đầu tư và các nhà xuất khẩu. Và qua đó, ngân hàng có cơ hội tiếp cận khách hàng ở nước ngoài, tạo cơ hội lập một hình ảnh và vị trí trên thị trường ngân hàng thế giới và đó là cơ sở đầu tiên vững chắc cho kế hoạch mở rộng thanh toán về lâu dài của ngân hàng. Đối với một ngân hàng, mỗi giao dịch thành công là một điểm cộng cho ngân hàng trong mắt thị trường quốc tế. Điều này có lợi cho Việt Nam để hướng tới hoà nhập với thị trường thế giới.
- Thanh toán không dùng tiền mặt buộc các đơn vị sản xuất kinh doanh, cá nhân muốn thực hiện thanh toán mở tài khoản tại ngân hàng phục vụ mình và trên tài khoản luôn phải có số dư để đảm bảo cho khả năng thanh toán, chi phí của mình khi có nghiệp vụ phát sinh bất cứ lúc nào. Qui định này, sẽ vừa đảm bảo cơ sở cho công tác thanh toán, vừa tạo được khả năng tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng, dùng làm nguồn vốn lưu động cho vay phục vụ phát triển sản xuất, đáp ứng mọi nhu cầu vốn cần thiết trong xã hội. Đây là nguồn vốn lớn, nếu có kế hoạch sử dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, nó còn đem lại lợi ích kinh tế cho chính khách hàng vì khi khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán, ngân hàng sẽ trả cho khách hàng số lãi nhất định.
- Khi thanh toán không dùng tiền mặt, khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng và ký thác vốn của mình vào đó. Điều này tạo tiền đề thuận lợi để cho ngân hàng kiểm soát được một phần lượng tiền trong nền kinh tế, từ đó tiến hành cung ứng một lượng tiền thích hợp cho nền kinh tế. Hơn nữa, nó còn đánh giá được khả năng tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp cũng như của tổng thể nền kinh tế.
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt vai trò làm trung gian thanh toán của mình bằng sản phẩm dịch vụ đa dạng. Qua đó ngân hàng sẽ thu được những khoản phí không nhỏ, góp phần làm tăng thu nhập ngân hàng.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt tác động tới tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ huy động vốn… Mặt khác, đây còn là một trong những cơ sở cho sự ổn định tiền tệ, giải quyết được vấn đề tiền mặt trong nền kinh tế, làm cho lưu thông hàng hoá được trôi chảy, từ đó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Đồng thời còn làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế và phát huy vai trò kiểm soát bằng đồng tiền của ngân hàng đối với nền kinh tế. Do vậy, một trong những trọng trách của ngân hàng là không ngừng phát huy vai trò to lớn của thanh toán không dùng tiền mặt đối với sản xuất kinh doanh.
2. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
2.1. Các phương tiện thanh toán quốc tế
Phương tiện thanh toán là công cụ giúp con người thực hiện việc trả tiền cho nhau trong quan hệ buôn bán. Tiền mặt là một phương tiện thanh toán nhưng trong thanh toán quốc tế nó giữ vai trò thứ yếu. Phương tiện thanh toán chủ yếu trong thanh toán quốc tế là: Hối phiếu (Bill of Exchange), Séc (Cheque), Thẻ tín dụng (Credit card) và các phương tiện thanh toán khác. Mỗi công cụ thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán của các chủ thể kinh tế.
2.1.1. Hối phiếu (Bill of Exchange)
a. Khái niệm.
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định được trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
b. Luật áp dụng.
Về phương diện pháp lý, cho đến nay, có ba nguồn luật điều chỉnh lưu thông hối phiếu, đó là:
- Luật thống nhất về hối phiếu (Uniform law for Bill of Exchange - ULB) trong công ước Giơnevơ năm 1930.
- Luật hối phiếu của Anh 1882 (Bill of Exchange Act of 1882 - BEA).
- Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 (Uniform Commercial Code of 1962 - UCC)
c. Các bên liên quan
- Người ký phát hối phiếu (Drawer): Người ký phát hối phiếu là người bán, người chủ nợ. Người ký phát hối phiếu có trách nhiệm pháp lý chính đối với hối phiếu cho đến khi nó được chấp nhận, có trách nhiệm thanh toán cho người giữ hối phiếu, hoặc đền bù cho người ký hậu nếu hối phiếu bị từ chối thanh toán. Trong ngoại thương người ký phát hối phiếu là người xuất khẩu;
- Người trả tiền hối phiếu (Drawee): Người trả tiền hối phiếu là người mua, là người thứ ba được sự chỉ định của người mua (thường là ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chấp nhận hoặc ngân hàng mở tín dụng thư);
- Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người nhận được số tiền ghi trên hối phiếu, đó là người ký phát hoặc một người nào đó do người ký phát chỉ định;
- Người chuyển nhượng hối phiếu (Endorser): Là người đem quyền lợi hưởng hối phiếu của mình chuyển cho người khác bằng thủ tục ký hậu;
- Người cầm phiếu (Bearer): Là người có quyền nhận tiền trên hối phiếu khi hối phiếu được trả tiền.
d. Phân loại hối phiếu
Tuỳ theo từng căn cứ khác nhau mà người ta có thể chia hối phiếu theo từng loại khác nhau.
- Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành ba loại: Hối phiếu trả tiền ngay (At sight bill), hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất định (At…days after sight bill) - thường là từ 5 đến 7 ngày, hối phiếu có kỳ hạn (Usance bill).
- Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay không, có thể chia hối phiếu thành hai loại: Hối phiếu trơn (Clean bill) và hối phiếu kèm chứng từ (Documentary bill).
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu, có thể chia hối phiếu thành hai loại: Hối phiếu đích danh (Nominal bill) và hối phiếu vô danh (Bill to bearer).
- Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành hai loại: Hối phiếu thương mại (Trade bill) và hối phiếu ngân hàng (Bank bill).
2.1.2. Séc (Cheque, Check)
a. Khái niệm
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng trích trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản.
b. Luật áp dụng
- Luật thống nhất về séc (Uniform law for Check - ULC) theo công ước Giơnevơ năm 1931.
- Văn kiện về séc quốc tế của Uỷ ban về luật thương mại quốc tế Liên Hợp Quốc, kỳ họp thứ 15 tại New York từ ngày 26/07/1982 đến 26/09/1982.
c. Các bên liên quan
- Người phát séc để trả nợ gọi là người phát hành séc (Drawer);
- Người phát séc là ngân hàng thanh toán (Paying bank);
- Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc (Beneficiary);
- Người cầm séc là người có quyền hưởng lợi tờ séc sau khi séc được phát hành (Drawee).
d. Phân loại séc
- Đứng ở một góc độ, có thể chia thành: Séc ghi tên (Nominal cheque), séc vô danh (Cheque to bearer), séc theo lệnh (Cheque to order).
- Đứng ở góc độ khác có thể chia thành: Séc gạch chéo (Crossed cheque)- Gồm séc gạch chéo thường (Cheque crossed generally) và séc gạch chéo đặc biệt (cheque crossed specially), séc chuyển khoản (Cheque transfera -ble), séc du lịch (Traveller’s cheque), séc xác nhận (Certified cheque).
Ở nước ta hiện nay đang sử dụng hai loại séc chủ yếu là séc bảo chi và séc chuyển khoản.
2.1.3. Kỳ phiếu (Promissory note)
a. Khái niệm
Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh cuả người này trả cho người khác qui định trong kỳ phiếu đó.
b. Luật áp dụng
- Luật hối phiếu và kỳ phiếu quốc tế của Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc, kỳ họp thứ 15, New York ngày 26/07/1982 đến 06/08/1982, tài liệu số A/CN 9/211 ngày 18/02/1982.
c. Các bên liên quan
- Người phát hành kỳ phiếu (Drawer): Là con nợ;
- Người hưởng lợi (Beneficiary, drawee): Là người có tên trên kỳ phiếu, là chủ nợ.
2.1.4. Thẻ thanh toán (Credit card)
a. Khái niệm
Thẻ thanh toán là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hoặc lĩnh tiền tại các ngân hàng đại lý thanh toán hoặc các quầy trả tiền mặt tự động.
b. Các bên liên quan
- Chủ thẻ (Card’s owner): Là người trực tiếp mua thẻ tại ngân hàng và dùng thẻ để mua hàng hoá và dịch vụ;
- Cơ sở chấp nhận thẻ (Card acceptable point) : Là các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá dịch vụ cho người sử dụng thẻ;
- Ngân hàng phát hành (Issuing bank): Là ngân hàng đã bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng thẻ trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh ngân hàng phát hành và quản lý thẻ;
- Ngân hàng thanh toán (Paying bank): Là các chi nhánh ngân hàng do ngân hàng phát hành thẻ qui định. Ngân hàng đại lý chi nhánh có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
c. Các loại thẻ hiện nay
- Thẻ rút tiền mặt (Payment card).
- Thẻ tín dụng (Credit card).
- Thẻ ghi nợ (Debt card).
- Thẻ thông minh (Smart card).
Để rút tiền mặt, người ta có thể sử dụng các máy rút tiền tự động: DAB (Distributuers autinatiques de banque), CD’s (Cash dispense), ATM (Automatic teller machine).
2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất trong bất kỳ một hoạt động thanh toán nào, đặc biệt là trong Thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Trong quan hệ ngoại thương có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ…Mỗi phương thức đều có ưu và nhược điểm, thể hiện thành mâu thuẫn về quyền lợi giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu; nhưng xét cho cùng, việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.
Ta có thể chia các phương thức thanh toán thành hai nhóm chính: Nhóm phương thức thanh toán không phụ thuộc vào chứng từ và nhóm phương thức thanh toán phụ thuộc vào chứng từ.
- Nhóm phương thức thanh toán không phụ thuộc vào chứng từ (còn gọi là nhóm phương thức thực giao - thực thanh): Là nhóm phương thức mà việc đòi tiền và trả tiền giữa người bán và người mua chỉ dựa trên cơ sở hàng hoá mà không phụ thuộc vào chứng từ hàng hoá. Ở đây, ngân hàng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Chính vì thế nhóm phương thức này chỉ được áp dụng khi quan hệ giữa người bán và người mua là thực sự tin cậy. Nó bao gồm các phương thức thanh toán sau: Phương thức thanh toán chuyển tiền, phương thức thanh toán ghi sổ, phương thức thanh toán bảo lãnh.
- Nhóm phương thức thanh toán phụ thuộc vào chứng từ: Là nhóm phương thức thanh toán căn cứ vào chứng từ hàng hoá để xác định việc đòi tiền và trả tiền. Với nhóm phương thức này, ngân hàng làm nhiệm vụ khống chế bộ chứng từ đối với việc nhận hàng của người mua hoặc người trả tiền. Đối với nhóm phương thức này, bao gồm các phương thức: Nhờ thu, tín dụng chứng từ, uỷ thác mua.
Trong đề tài này, ta sẽ xem xét cụ thể một số phương thức thanh toán sau:
2.2.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)
a. Định nghĩa
Chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
b. Các bên tham gia
- Người trả tiền (Payer) (người mua, người mắc nợ), người chuyển tiền (người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra ngoài nước) là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài;
- Người hưởng lợi (Payee) là người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định;
- Ngân hàng chuyển tiền (Remmiting bank) là ngân hàng ở nước người chuyển tiền;
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền (Corresponding bank) là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
c. Qui trình thanh toán
Ngân hàng chuyển tiền
Ngân hàng đại lý
Người chuyển tiền
Người hưởng lợi
(3)
(2) (4)
(1)
Chú thích:
(1) Giao dịch thương mại;
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (Bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng);
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng;
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi.
d. Phân loại
Gồm hai loại:
- Chuyển tiền bằng thư M/T (Mail Transfer)
- Chuyển tiền bằng điện báo T/T (Telegraphic Transfer)
Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecomunication – Hiệp hội truyền tin về tài chính liên ngân hàng toàn cầu) thì hầu hết các chuyển tiền được thực hiện qua mạng này. Từ năm 1997, các ngân hàng trên thế giới đều thông qua mạng lưới truyền thông liệu ngân hàng Quốc tế (SWIFT) cho phép tự động hoá toàn việc sử dụng các lệnh thanh toán, sự chính xác các thông tin đến và đi (dựa vào kỹ thuật mã số) và tốc độ chóng mặt của thông tin.
đ. Ưu, nhược điểm của phương thức chuyển tiền
Ưu điểm: Đây là phương thức đơn giản, nhanh chóng, việc chuyển tiền không phải thông qua những thủ tục rườm rà, phức tạp. Ngân hàng khi thực hiện phương thức này không bị ràng buộc bởi bất kỳ trách nhiệm nào đối với cả bên mua và bên bán nên thường ít gặp rủi ro.
Nhược điểm: Phương thức thanh toán này không đảm bảo quyền lợi cho bên xuất khẩu vì theo phương thức này, việc giao hàng và thanh toán là tách rời nhau. Chính vì vậy, việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của bên mua, từ đó nảy sinh trường hợp chậm thanh toán, đòi giảm giá, gây khó khăn cho bên bán (gây tình trạng ứ đọng vốn, giảm vòng quay của vốn). Bên cạnh đó, rủi ro cũng xảy ra cho người mua khi họ chuyển tiền trước khi nhận hàng thì có thể không những bị ứ đọng vốn mà còn đứng trước những rủi ro về hàng hóa.
2.2.2. Phương thức ghi sổ (Open account)
a. Định nghĩa
Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quí, nửa năm) người mua trả tiền cho người bán.
b. Các bên tham gia:
Chỉ bao gồm người bán (Seller) và người mua (Buyer) tham gia vào hoạt động thanh toán.
c. Qui trình thanh toán
Người bán
Người mua
Ngân hàng bên mua
Ngân hàng bên bán
(2)
(1)
(3)
(3)
(3)
Chú thích:
(1) Giao hàng hóa hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá;
(2) Báo nợ trực tiếp;
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định kỳ thanh toán.
2.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)
a. Khái niệm
Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.
b. Luật áp dụng
Văn bản pháp lý thông dụng của nhờ thu là “Qui tắc thống nhất về nhờ thu” số 522 của Phòng thương mại Quốc tế, bản sửa đổi năm 1995 (Uniform Rules for the collection, 1995 Revision No 522, ICC) và bắt đầu có hiệu lực 01/01/1996.
c. Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có :
- Người bán tức là người hưởng lợi (Principal) ;
- Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận được sự uỷ thác của người bán (Remmiting bank) ;
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là ngân hàng ở nước người mua (Collecting bank and/ or presenting bank) ;
- Người mua tức người trả tiền (Drawee).
c. Qui trình thanh toán bằng phương thức nhờ thu
*). Nhờ thu phiếu trơn
Ngân hàng chuyển chứng từ
Người bán
Người mua
Ngân hàng thu và xuất trình chứng từ
Gửi hàng và chứng từ
(2)
(4)
(1) (4) (4) (3)
Chú thích :
(1) Nhờ thu hối phiếu;
(2), (3) Đòi tiền người mua;
(4) Trả tiền cho người bán.
*). Nhờ thu kèm chứng từ
Ngân hàng chuyển chứng từ
Người bán
Người mua
NH thu và NH xuất trình chứng từ
(2)
(4)
(1) (4) (4) (3)
Gửi hàng
Chú thích :
Qui trình thanh toán giống như nghiệp vụ nhờ thu hối phiếu trơn, chỉ khác ở khâu (1) là lập bộ chứng từ nhờ ngân hàng thu hộ tiền. Bộ chứng từ gồm có hối phiếu và các chứng từ gửi kèm theo, ở khâu (3) là ngân hàng đại lý chỉ trao chứng từ nếu như người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu.
d. Ưu, nhược điểm của phương thức nhờ thu
*). Nhờ thu hối phiếu trơn
- Người bán chủ động trong việc thanh toán nhưng nó lại không đảm bảo quyền lợi cho người bán vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng và không trả tiền hoặc chậm trả tiền.
- Đối với người mua, phương thức này có nhiều bất lợi là nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có thực hiện đúng hay không.
*). Nhờ thu kèm chứng từ
Người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có việc nhờ ngân hàng khống chế chứng từ vận tải cho người mua. Do đó quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.
Tuy nhiên, người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua chứ chưa khống chế được quyền thanh toán của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể không trả tiền khi bất lợi cho họ.
Việc trả tiền còn quá chậm chạp, từ lúc giao hàng đến lúc nhận tiền hàng có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm gây ảnh hưởng đến việc lưu chuyển vốn của người bán.
Trong phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ tiền, còn không chịu trách nhiệm đến việc trả tiền hay không của người mua. Do đó, nhiều trường hợp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ cũng như sự an toàn của việc thu tiền hàng.
2.2.4. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary credit)
a. Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền trên thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định đề ra trong thư tín dụng.
b. Luật áp dụng
Các qui tắc và cách thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế ban hành 1933, 1957, 1962, 1983 (Uniform customs and practice for documentary credits, revision 1983, ICC No. 400 và mới đây có revision 1993, ICC 500.
c. Các bên liên quan
- Người xin mở thư tín dụng (Applicant for the credit): Là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác.
- Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank): Là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Người hưởng lợi thư tín dụng (Beneficiary): Là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người xuất khẩu chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank): Là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
d. Qui trình thực hiện
Ngân hàng
mở L/C
Người
nhập khẩu
Người
xuất khẩu
Ngân hàng
thông báo L/C
(2)
(5)
(6)
(8) (7) (1) (6) (5) (3)
(4)
Chú thích :
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng;
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến cho người xuất khẩu;
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng, thì chuyển ngay đến cho người xuất khẩu;
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng đó cho phù hợp với hợp đồng;
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán ;
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ bộ chứng từ cho người xuất khẩu ;
(7) Ngân hàng xin mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền và chấp nhận thanh toán ;
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không chấp nhận thì từ chối trả tiền.
đ. Phân loại
Các thư tín dụng thường thấy trong thanh toán quốc tế là :
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C)
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed irre vocable L/C)
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C)
- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng (Transferable L/C)
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revoling L/C) - Gồm tuần hoàn tự động, tuần hoàn hạn chế và tuần hoàn bán tự động
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C)
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C)
- Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C)
- Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau (Divisible L/C).
- Thư tín dụng tài khoản đỏ ( Red clause L/C)
e. Ưu, nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ
- Đối với người bán: Khi đó, người bán đảm bảo được việc thanh toán vì có ngân hàng mở L/C đứng ra cam kết. Do đó việc thanh toán không còn phải phụ thuộc vào thiện chí của người mua, người bán có thể thu hồi tiền hàng nhanh bằng cách chiết khấu bộ chứng từ trước thời hạn bộ chứng từ hàng xuất, đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động.
Được ngân hàng khống chế bộ chứng từ nên người bán không sợ mất quyền sở hữu về hàng hoá hoặc không tốn chi phí vận chuyển hàng hoá nếu làm theo đúng yêu cầu của L/C. Tuy nhiên, người bán phải có một ngân hàng khác đứng ra xác nhận tránh trường hợp ngân hàng mở L/C không thực hiện cam kết trả tiền.
- Đối với người mua: Có thể tận dụng được tín dụng ngân hàng, đó là điều thiết yếu trong kinh doanh quốc tế vì với một khoảng cách vận chuyển xa sẽ dễ bị ứ đọng vốn nếu phải ký quĩ toàn bộ giá trị L/C. Ngoài ra, họ có thể tìm kiếm đối tác dựa vào uy tín của ngân hàng thể hiện ở cam kết thanh toán của ngân hàng phục vụ mình. Hơn nữa, người mua còn được ngân hàng kiểm tra giúp bộ chứng từ. Cũng qua phương thức thanh toán này mà việc giao hàng theo hợp đồng đảm bảo đúng số lượng, chất lượng cũng như thời hạn giao hàng.
Tuy nhiên, người mua phải thận trọng khi làm đơn xin mở L/C; người mua phải đưa ra những điều kiện để người bán vừa có thể thực hiện được, vừa đảm bảo được quyền lợi của mình. Bởi nếu không, người mua chắc chắn sẽ gặp rủi ro (Nhiều trường hợp tiền hàng đã trả theo bộ chứng từ xuất trình cho ngân hàng đều phù hợp về cả số lượng chất lượng và thời gian. Nhưng thực tế thì hàng hóa họ nhận được lại không đúng như mong muốn vì chất lượng, chủng loại mặt hàng không giống như trong hợp đồng thương mại mà hai bên đã thỏa thuận). Ngoài ra còn có rủi ro với người mua là bị người bán gian lận lập bộ chứng từ khống để đòi thanh toán. Và một điều dễ nhận ._.thấy ở phương thức này là chi phí mà người mua phải trả cao hơn các phương thức thanh toán khác.
- Đối với ngân hàng: Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng, tăng thu nhập, nâng cao trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên. Cũng thông qua nghiệp vụ này, ngân hàng có điều kiện giúp đỡ khách hàng xuất nhập khẩu của mình đồng thời thúc đẩy được thanh toán quốc tế phát triển.
2.3. Các phương thức thanh toán giữa các ngân hàng
Người ta tùy theo đặc điểm tình hình tổ chức của ngân hàng và trình độ phát triển của từng giai đoạn để đưa ra qui định cho từng phương thức khác nhau. Hiện nay, có các phương thức sau đang được sử dụng :
2.3.1. Thanh toán liên ngân hàng (Interbank of payment)
Phương thức thanh toán liên ngân hàng là quan hệ thanh toán nội bộ giữa các chi nhánh ngân hàng trong cùng một hệ thống, phát sinh trên cơ sở nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt giữa các khách hàng có mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở các chi nhánh ngân hàng khác nhau hoặc các nghiệp vụ chuyển tiền, điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống. Đây là phương thức thanh toán quan trọng của ngân hàng, là cơ sở để các ngân hàng hoàn thành các chức năng của mình đối với nền kinh tế.
Thanh toán liên ngân hàng gồm hai nghiệp vụ cơ bản: Liên hàng đi và liên hàng đến.
- Liên hàng đi là khâu phát sinh nghiệp vụ thanh toán và đơn vị thực hiện nghiệp vụ này là ngân hàng A.
- Liên hàng đến là khâu kết thúc nghiệp vụ thanh toán và ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này là ngân hàng B.
Ngày nay, trong điều kiện khoa học công nghệ và thanh toán phát triển, việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ và thông tin vào các hoạt động của ngân hàng nói chung và công tác thanh toán nói riêng là một điều hết sức cần thiết; thanh toán truyền thống đã được phát triển thành thanh toán tập trung điện tử. Qua hình thức này, số liệu có liên quan giữa các đơn vị liên hàng được truyền và xử lý thông qua hệ thống máy vi tính. Muốn thực hiện thanh toán điện tử thì đòi hỏi chi nhánh tham gia phải có đủ các điều kiện về kỹ thuật nghiệp vụ như: mạng vi tính cục bộ, điện dự phòng, khả năng truyền thông cũng như điều kiện về con người như cán bộ kỹ thuật và cán bộ nghiệp vụ.
Tóm lại, phương thức này có nhiều ưu điểm: Nhanh, chính xác, tài khoản hạch toán đơn giản, qui trình thanh toán chặt chẽ; mọi khoản chuyển tiền được thực hiện trong ngày và đối chiếu ngay, do đó hạn chế được tối đa những sai sót có thể xảy ra.
2.3.2. Phương thức thanh toán bù trừ (Clearing of payment)
Phương thức thanh toán bù trừ áp dụng trong thanh toán giữa các ngân hàng thương mại khác hệ thống và các ngân hàng thương mại trong cùng một hệ thống trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố.
Nếu thanh toán cùng hệ thống, sẽ do một ngân hàng đứng ra chủ trì: nếu thanh toán khác hệ thống, sẽ do ngân hàng Nhà nước đứng ra chủ trì. Mỗi thành viên tham gia thanh toán bù trừ phải mở tài khoản tại ngân hàng chủ trì để hạch toán và thanh toán phần chênh lệch cuối cùng của quá trình thanh toán bù trừ.
Mỗi thành viên trong hệ thống thanh toán bù trừ phải tuân thủ các qui định về thủ tục, nguyên tắc và tổ chức kỹ thuật nghiệp vụ đã qui định. Ngân hàng chủ trì căn cứ vào bảng kê thanh toán bù trừ do các ngân hàng thành viên gửi đến, lập bảng kê kết quả thanh toán bù trừ trong phiên cho các ngân hàng thành viên. Bản kiểm tra số liệu thanh toán bù trừ đảm bảo tổng thu bằng tổng phải trả và phần chênh lệch của kết quả bù trừ, các ngân hàng thương mại hạch toán thông qua tài khoản tiền gửi cho ngân hàng của mình tại ngân hàng chủ trì. Ngân hàng chủ trì có quyền trích tài khoản tiền gửi của ngân hàng thành viên này để trả cho ngân hàng thành viên khác trong thanh toán bù trừ.
Việc thanh toán bù trừ tuy thực hiện đơn giản nhưng lại có nhược điểm là giao nhận chứng từ phụ thuộc vào phiên giao dịch bù trừ trong ngày, do đó sẽ gây nên chậm trễ trong thanh toán.
2.3.3. Thanh toán qua tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước (Payment by account settled at National bank)
Đây là việc thanh toán qua tài khoản tiền gửi của ngân hàng thương mại mở tại ngân hàng Nhà nước.
Đối với những khoản thanh toán của bản thân ngân hàng thì ngân hàng lập và nộp chứng từ vào ngân hàng Nhà nước- nơi mở tài khoản để thực hiện như thanh toán giữa khách hàng qua ngân hàng. Còn đối với những khoản thanh toán của khách hàng thì ngân hàng sẽ lập thêm bảng kê các chứng từ thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và nộp vào ngân hàng Nhà nước kèm theo chứng từ thanh toán của khách hàng.
3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
3.1. Nhân tố khách quan
3.1.1. Nhóm yếu tố chính trị, xã hội, pháp luật
Thanh toán không dùng tiền mặt là một dịch vụ tiện ích cho khách hàng, nó chịu ảnh hưởng rất lớn của nhóm yếu tố chính trị, xã hội, pháp luật. Chỉ một thay đổi nhỏ của nhóm yếu tố này sẽ tạo hoặc cơ hội, hoặc hiểm họa cho ngân hàng. Chính vì thế ngân hàng phải thu thập và xử lý thông tin liên quan đến nhân tố chính trị, xã hội, pháp luật để tìm ra cách giải quyết tốt nhất; bởi vì nếu ngân hàng không kịp thay đổi sẽ rất dễ mất uy tín với khách hàng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng có thể kém hiệu quả và đi đến phá sản.
Tuy nhiên, một môi trường ổn định chưa đủ; để các hoạt động đối ngoại của ngân hàng thương mại phát triển thì cần có sự phát triển mạnh mẽ của thương mại toàn cầu. Các hiệp định đa phương, song phương giữa các quốc gia chính là nền tảng cho thông thương quốc tế, là cơ hội lớn đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, là yếu tố quan trọng tạo ra thị trường cho các dịch vụ thanh toán quốc tế, tài trợ ngoại thương của ngân hàng thương mại.
Đối với khách hàng, họ sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nhờ vào tính hiệu quả, nhanh chóng, thuận tiện, chính xác…Nhưng đôi khi chính những thủ tục, qui định, chế độ quá cứng nhắc sẽ gây cản trở cho khách hàng trong công tác thanh toán.
Đối với Nhà nước, thanh toán không dùng tiền mặt giúp thực hiện vai trò quản lý tiền tệ. Trọng trách nặng nề của Nhà nước là đưa ra một qui định nào đó (như chính sách về ngoại hối, về ngoại thương, bảo hộ sản xuất) phải phù hợp với sự biến động của kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Chính điều này không chỉ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu mà còn quyết định đến việc các phương thức thanh toán có đáp ứng được nhu cầu trong nước hay không, có tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển và hoà nhập được với nền kinh tế thế giới hay không.
3.1.2. Nhóm yếu tố kinh tế
- Sự biến động tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của các quốc gia khác nhau. Xét về thực chất, ẩn sau giá trị của tiền là tỷ giá nên tỷ giá chính là yếu tố thể hiện sự chuyển đổi sức mua đồng tiền của các nước khác nhau với nhau. Chính hoạt động thương mại và quan hệ quốc tế đã làm nảy sinh quan hệ chi trả lẫn nhau giữa các nước. Có thể trong thanh toán quốc tế, các nước chỉ chấp nhận các ngoại tệ nhất định nhưng kết quả của thanh toán quốc tế là sự dịch chuyển sức mua ra vào một nước và khi đó tỷ giá chính là thước đo cho các trao đổi này tức là ảnh hưởng trực tiếp đến các phương thức thanh toán trong đó có thanh toán không dùng tiền mặt. Bởi vì, tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Khi nội tệ tăng giá, hàng hoá của nước đó đắt hơn một cách tương đối so với hàng hoá các nước khác, nhập khẩu có xu hướng tăng, xuất khẩu giảm đi và ngược lại. Từ đó, doanh số thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại cũng bị ảnh hưởng lớn.
- Cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân thanh toán là một hệ thống ghi lại mọi việc trả tiền, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận động vốn giữa một nước với nước ngoài. Thực hiện một nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt thực chất là thực hiện việc di chuyển dòng tiền đó. Do vậy, cán cân thanh toán là cơ sở quan trọng để dự tính, dự báo về môi trường hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Lãi suất đồng tiền: Trong thanh toán quốc tế, lãi suất được hiểu là giá cả cho việc sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Lãi suất tăng sẽ làm giảm doanh số tài trợ của ngân hàng, ngược lại sẽ tạo điều kiện khuyến khích đầu tư, cho phép mở rộng qui mô tài trợ tín dụng của mình và thu hút khách hàng tham gia thanh toán qua ngân hàng. Hơn nữa, tùy theo tình hình lãi suất như thế nào (cao hay thấp, có lợi cho mình hay không) mà các bên sẽ quyết định thanh toán ngay hay thanh toán sau.
3.1.3. Nhóm yếu tố về khoa học công nghệ
Công nghệ ngân hàng là yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Việc áp dụng khoa học công nghệ góp phần thúc đẩy chu trình chu chuyển vốn, giảm thiểu thời gian thanh toán, độ chính xác và an toàn cao. Hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại vào công tác thanh toán đã dần dần cải tiến và hoàn thiện với mục đích thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Như vậy, khoa học công nghệ là yếu tố vô cùng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Khoa học công nghệ có tiên tiến, hiện đại thì thanh toán không dùng tiền mặt mới phát huy được hết vai trò của nó.
3.1.4. Yếu tố tâm lý
Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của thanh toán không dùng tiền mặt là yếu tố tâm lý của các bên tham gia vào hoạt động thanh toán. Nếu trình độ dân trí thấp, lạc hậu, không nắm được những tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt, luôn có thói quen thanh toán bằng tiền thì thanh toán không dùng tiền mặt không thể phát triển (Tham khảo hộp 1). Hơn nữa, điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý thanh toán viên- người thực hiện giao dịch với khách hàng đó. Dó đó nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán.
Hộp 1 Nghĩ gì về nền kinh tế tiền mặt
NPC.
Nhân đọc bài” Thống đốc ngân hàng Nhà nước không có tài khoản cá nhân và thẻ tín dụng” trên Express, tôi có một số trao đổi với quý báo và độc giả.
Việc lãnh đạo cao nhất của cơ quan tiền tệ Việt Nam “hoàn toàn không có nhu cầu” dùng tài khoản cá nhân và thẻ tín dụng nói lên rằng nền kinh tế tiền mặt vẫn đang thống trị, không chỉ trên thực tế mà ngay cả trong tiềm thức của mỗi cá nhân. Với tư duy như vậy, liệu các chính sách sử dụng các phương tiện thanh toán phi tiền mặt do ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra có đạt được mục tiêu như mong muốn? Ngoài ra, ai cũng biết rằng việc không sử dụng tài khoản đồng nghĩa với việc không thể hiện tính minh bạch trong tài khoản cá nhân, chứ không nói lên tính liêm khiết trong tiền lương của người không sử dụng nó.
Nguồn: www.Vnexpress.net (19/12/2002)
3.2. Nhân tố chủ quan
3.2.1. Chiến lược phát triển của ngân hàng
Đây là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển nghiệp vụ kinh tế đối ngoại của ngân hàng. Tùy vào từng giai đoạn khác nhau, ban lãnh đạo ngân hàng sẽ phải đưa ra các chiến lược phát triển khác nhau điều chỉnh nghiệp vụ của mình, các chính sách ưu đãi đối với từng nhóm khách hàng mục tiêu, từng ngành nghề kinh doanh, từng khu vực cũng như từng phương thức thanh toán thích hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Chiến lược đúng đắn tạo đà phát triển, ngược lại nó sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động thanh toán của ngân hàng được mở rộng và phát triển thì ban lãnh đạo ngân hàng cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả các yếu tố có liên quan trước khi đưa ra chiến lược của mình.
3.2.2. Trình độ của thanh toán viên
Tiêu chí hàng đầu của một ngân hàng là nhanh chóng, kịp thời, an toàn và chính xác nên một ngân hàng dù phát triển đến mức độ nào thì cũng phải quan tâm đến nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên – người trực tiếp giao dịch với khách hàng. Có nhiều cách để giải thích cho điều đó như do môi trường làm việc của các nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt rất phức tạp, phương tiện tài chính qui định chặt chẽ dưới ngôn ngữ nước ngoài – chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Pháp. Từ thực tế đó, sự am hiểu về luật pháp quốc tế, trình độ ngoại ngữ cũng như trình độ chuyên môn, khả năng sử dụng máy móc hiện đại, sự nhanh nhạy với các thông tin trên thị trường của đội ngũ lãnh đạo cũng như của cán bộ công nhân viên đều ảnh hưởng đến hiệu quả của thanh toán không dùng tiền mặt.
3.3. Các văn bản pháp lý và các quy định trong thanh toán không dùng tiền mặt.
3.3.1. Văn bản pháp lý
Để thống nhất công tác tổ chức thanh toán, đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia cũng như góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những qui định về thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là những qui định chung giúp cho quá trình thanh toán được thông suốt, đồng thời thực hiện tốt chức năng kiểm soát đồng tiền trong hệ thống ngân hàng đối với các hoạt động của các tổ chức kinh doanh và các cơ quan có hiệu quả. Hệ thống văn bản pháp luật này bao gồm :
- Luật Ngân hàng Nhà nước số 06/1997/QHX và luật Các tổ chức tín dụng số 06/1997/QHX (đều có hiệu lực từ 01/10/1998) là hai văn bản pháp lý cao nhất qui định về thanh toán không dùng tiền mặt.
- Qui định số 22/ QĐ - NH1 ngày 21/12/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành “Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt”. Qui định này căn cứ vào NĐ91, NĐ15- CP và thay thế cho QĐ101, QĐ239, QĐ74, QĐ236 và công văn số 06. Trong đó:
+ Qui định 101/NH - QĐ ngày 30/ 07/1991 về ‘Thể lệ thanh toán qua Ngân hàng”.
+ Qui định 239/QĐ - NH1 ngày 20/01/1992 và Qui định 137/QĐ - NH1 về việc nhận và trả tiền mặt thông qua chuyển tiền giữa các tỉnh và thành phố.
+ Qui định 74/QĐ - NH1 ngày 10/ 04/1993 về “Thể lệ tạm thời thẻ thanh toán điện tử”.
+ Qui định 236/QĐ - NH1 ngày 11/12/1993 về “Quyết định phát hành và sử dụng séc cá nhân”.
- Nghị định số 30/NĐ - CP ngày 09/ 05/1996 của Chính phủ ban hành về “Qui chế phát hành và sử dụng séc”.
- Thông tư 07/TT – NH1 ngày 27/12/1996 của ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định số 30/CP.
- Quyết định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước số 371/99/QĐ - NHNN1 ngày 19/10/1999 về ban hành qui chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng.
- Nghị định 64/2001/NĐ - CP ngày 20/09/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thay thế cho Nghị định 91/CP ngày 25/11/1993 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.
- Quyết định 1557/2001/QĐ - NHNN ra ngày 14/12/2001 về Ban hành quy chế thanh toán thẻ điện tử liên ngân hàng.
3.3.2. Các quy định trong thanh toán tiền mặt
Để đưa ra các đánh giá về sự phát triển, hoạt động của thanh toán trong nền kinh tế, việc so sánh về số lượng rất hữu ích trong việc đánh giá hiệu quả và chi phí giao dịch của phương tiện thanh toán, bởi các chi phí thanh toán thường không liên quan đến giá trị cá biệt của giao dịch mà nó là chi phí cố định. Ngược lại, các so sánh về mặt giá trị thanh toán lại đặc biệt phù hợp với việc phân tích rủi ro đi kèm phương tiện thanh toán bởi nếu các yếu tố khác không đổi, thanh toán giá trị càng cao thì rủi ro càng lớn. Chính vì vậy cần phải có những qui định trong công tác thanh toán để đảm bảo quyền lợi cho các bên cũng như thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. Nội dung của các văn bản pháp qui đã được tóm tắt thành những qui định có tính nguyên tắc sau:
a. Qui định chung
Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Qui định này thay đổi mang tính chất tiền đề cho quá trình đổi mới nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng. Trước đây khách hàng chỉ có thể mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng địa phương nơi đóng trụ sở chính, giờ đây họ được quyền tự do lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản.
Về phía khách hàng, qui định này tạo điều kiện cho họ thực hiên giao dịch một cách nhanh chóng và thuận tiện. Việc gò ép mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng địa phương nơi đóng trụ sở chính không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cản trở quá trình sản xuất kinh doanh.
Về phía ngân hàng, qui định này tạo ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng. Các ngân hàng sẽ buộc phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán để hấp dẫn khách hàng, lôi kéo khách hàng về ngân hàng mình.
b. Qui định đối với bên chi trả
Để đảm bảo khả năng chi trả đầy đủ, kịp thời tiền hàng hoá dịch vụ cho bên thụ hưởng, bên chi trả phải có đủ tiền trên tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Các trường hợp bên chi trả thanh toán vượt quá số dư trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước, bên chi trả sẽ bị phạt về hành chính và bị xử lý theo qui định của pháp luật.
Mục đích của quy định này nhằm đẩy nhanh tốc độ thanh toán. Bên mua sau khi đã nhận hàng hoá dịch vụ, phải có trách nhiệm thanh toán cho bên bán, nếu thanh toán qua ngân hàng thì phải đảm bảo cho bên bán chứng từ hợp lệ tới ngân hàng sẽ được thanh toán ngay, tránh tình trạng đợi lâu, ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
c. Qui định đối với bên thụ hưởng
Người thụ hưởng sau khi nhận được giấy tờ thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ thì phải kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ đó (Giấy tờ phải ghi đầy đủ các yếu tố qui định, không sửa chữa, tẩy xoá…) đồng thời giao hàng hoá dịch vụ cho bên mua theo giá trị chứng từ thanh toán. Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì sẽ không được thanh toán.
Mục đích của qui định này nhằm tránh tình trạng sử dụng các phương tiện thanh toán giả (như séc giả, thẻ giả), ghi man, giúp cho bên thụ hưởng đỡ bị thiệt hại.
d. Qui định đối với ngân hàng
Ngân hàng và kho bạc Nhà nước phải chịu những trách nhiệm sau:
+ Thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản đã đảm bảo chính xác, an toàn, thuận tiện. Các ngân hàng và kho bạc Nhà nước có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản.
+ Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán thì ngân hàng và kho bạc Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng và tùy mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo qui định của pháp luật.
+ Ngân hàng được quyền từ chối thanh toán nếu các chứng từ yêu cầu không đầy đủ hoặc không hợp lệ.
4. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
4.1. Quá trình phát triển của công tác thanh toán
Để có được hình thức thanh toán khá phong phú và hiện đại như ngày nay, con người đã trải qua rất nhiều các phương thức thanh toán khác nhau. Trong thời kỳ La Mã cổ đại, hàng hoá được chọn làm môi giới trung gian trong quá trình trao đổi. Những loại hàng hoá được lựa chọn làm phương tiện trao đổi như: Gia súc, thuốc lá, dầu ô liu…Trong quá trình sử dụng loại tiền hàng (hoá tệ) này đã bộc lộ những hạn chế như khó khăn trong việc thu nhỏ, ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên, không thuận tiện trong việc di chuyển giữa vùng này với vùng khác…Chính vì thế, tiền vàng đã ra đời để khắc phục những nhược điểm của tiền hàng hoá: dễ chia nhỏ, có giá trị lớn, dễ di chuyển…Kinh tế ngày càng phát triển, tiền vàng cũng dần dần bộc lộ những bất lợi của mình như khó khăn cho việc di chuyển một khối lượng tiền tệ lớn. Mặt khác, việc lưu thông tiền vàng không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày một tăng lên, bên cạnh đó vàng ngày càng trở lên khan hiếm, kích thích mong muốn dự trữ vàng nên sự ra đời của tiền giấy là điều tất yếu. Sự ra đời của tiền giấy là một bước tiến vĩ đại của con người và cho đến ngày nay thì tiền giấy vẫn được sử dụng một cách phổ biến. Xã hội ngày càng phát triển, công nghệ ngày càng hiện đại, nhu cầu của con người ngày càng cao thì việc ra đời một phương tiện thanh toán khác là cần thiết - đó chính là tiền qua ngân hàng. Sự phát triển của hệ thống thanh toán cùng vai trò của ngân hàng đã cho phép sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Séc ra đời gần như sớm nhất, được sử dụng rộng rãi đầu tiên ở Anh từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh ở thế kỷ 19. Tiếp theo đó là các hình thức thanh toán như: nhờ thu, chuyển tiền, thư tín dụng, thẻ thanh toán…lần lượt ra đời.
4.2. Quá trình phát triển của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
4.2.1. Trước năm 1990
Ngày 06/05/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Xuất phát từ nhận thức về sự cần thiết khách quan cũng như vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, nên ở nước ta ngay từ khi ngân hàng Nhà nước ra đời, thanh toán không dùng tiền mặt đã được tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì hệ thống ngân hàng hoạt động hoàn toàn mang tính chất hành chính, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Chính vì thế, thanh toán không dùng tiền mặt cũng có nhiều bất cập :
- Bắt buộc các đơn vị tổ chức kinh tế phải mở tài khoản tại một ngân hàng nhất định, phải tập trung thanh toán qua ngân hàng.
- Hầu hết mọi thủ tục đều phải làm thủ công, do vậy dễ xảy ra sai sót; thêm vào đó các giấy báo liên hàng, chứng từ …đều phải gửi qua đường bưu điện nên tốc độ thanh toán chậm.
- Trách nhiệm của cán bộ ngân hàng và các bên tham gia thanh toán không cao, chính vì thế thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ này chưa phát huy được hết tác dụng, dẫn đến tốc độ vốn luân chuyển chậm, tâm lý của người dân mới chỉ dừng lại ở việc chuộng tiền mặt.
4.2.2. Sau năm 1990
Sau năm 1990, Chính phủ và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm cải tiến cơ bản thanh toán không dùng tiền mặt. Nghị quyết Đại hội Đảng 7 đã chỉ rõ: “Cải tổ hệ thống Ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành trung tâm tiền tệ, tín dụng, thanh toán, và đóng vai trò nòng cốt trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ”. Đặc biệt là sự ra đời của hai Pháp lệnh: “Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước” và “Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng và Công ty tài chính” đã chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, kho bạc Nhà nước tách khỏi hệ thống ngân hàng, trực thuộc Bộ Tài chính và bộ máy rộng khắp từ trung ương đến cả cấp quận huyện trong toàn quốc. Sau mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động ngân hàng nói chung và công tác thanh toán nói riêng đã có những thay đổi đáng kể đặc biệt là trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, phù hợp với cơ chế thị trường. Đó là từng bước hiện đại hoá, quốc tế hoá hoạt động thanh toán theo chương trình đổi mới công nghệ ngân hàng, bao gồm chương trình trước mắt và lâu dài :
- Hiện đại hoá hoạt động thanh toán thông qua việc cải tiến đồng loạt các nghiệp vụ thanh toán của hệ thống ngân hàng, áp dụng rộng rãi công nghệ tin học vào trong thanh toán ở tất cả các cấp ngân hàng.
- Phát triển nhiều công cụ thanh toán mới phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện tại và giảm nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt.
- Tự do hoá việc lựa chọn ngân hàng mở tài khoản giao dịch, xoá bỏ gò ép thanh toán theo địa chỉ áp đặt, do đó bước đầu tạo ra sự cạnh tranh giữa các hệ thống ngân hàng, tạo ra sự cân bằng giữa ngân hàng và khách hàng.
- Hiện nay đã thực hiện nối mạng thông tin thanh toán trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh và một số ngân hàng thương mại cổ phần, nối mạng thông tin giữa các ngân hàng thương mại với ngân hàng Nhà nước. Xây dựng dự án phát triển các hệ thống thanh toán bao gồm thanh toán bù trừ, thanh toán chuyển tiền liên ngân hàng, thanh toán điện tử.
- Từng bước nâng cao trình độ phát triển của cán bộ công nhân viên ngân hàng, đáp ứng được yêu cầu tiêp cận với các phương tiện thanh toán hiện đại trên thế giới.
- Từng bước xoá bỏ tập quán thích tiêu tiền mặt trong dân chúng, tạo thói quen không dùng tiền mặt.
Tất cả các cải tiến trên đã tạo điều kiện cho thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta dễ dàng và thông suốt hơn. Nhưng nếu so sánh với tốc độ trên thế giới thì tốc độ thanh toán ở nước ta vẫn còn quá chậm (Thời gian chuyển chứng từ giữa các ngân hàng ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ được tính bằng phút do mạng thanh toán điện tử của họ phát triển. Còn ở Việt nam, khoảng thời gian này được tính bằng ngày hoặc thậm chí đến hàng tuần.)…Bên cạnh đó, thanh toán không dùng tiền mặt chỉ phổ biến ở các bộ phận cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp, còn đối với bộ phận cư dân còn ít. Điều này ảnh hưởng đến việc kiểm soát nền kinh tế của Nhà nước và đặc biệt ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Mặt khác, những năm qua, chúng ta đã hình thành một số thể thức thanh toán mới nhưng còn rất nhiều hạn chế nếu chưa muốn nói là hình thức. Việc đổi mới công nghệ thanh toán có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nội dung lẫn cơ sở vật chất nhưng tác dụng chưa tương xứng với chi phí bỏ ra, số liệu thông tin còn chậm trễ, sai sót còn nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Nhìn chung các thể thức thanh toán ở nước ta vẫn còn mang dáng dấp, nội dung của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số hình thức vẫn còn nhiều phiền hà, thủ tục, sự an toàn chưa cao…
Từ những thực tế trên đòi hỏi ngành ngân hàng phải có những nỗ lực lớn, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán để có thể hoà chung vào mạng lưới thanh toán trên thế giới, rút ngắn được khoảng cách về trình độ nghiệp vụ thanh toán so với ngân hàng nước ngoài. Do đó việc đầu tư trang thiết bị hiện đại, đào tạo chuyên gia kỹ thuật giỏi về thanh toán và tin học là điều tất yếu phải làm song song với việc khai thác các ưu thế của các phương thức thanh toán đang được áp dụng và đưa ra các hình thức thanh toán mới nhằm mở rộng phạm vi và tăng khối lượng thanh toán qua ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cần phải tiến hành phổ cập về thanh toán qua ngân hàng trong dân cư để họ thấy được ưu thế của việc sử dụng dịch vụ qua ngân hàng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT NAM
1. MÔI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Nền kinh tế nước ta có khoảng 15 năm chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt. Có được điều đó phải kể đến định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khoá 8 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng Đại hội 7 của Đảng đã quyết định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991 – 2000. Đại hội Đảng 9 đánh giá thực hiện chiến lược đó và qui định chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho 10 năm đầu thế kỷ 21. Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhờ những định hướng đó mà nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu khả quan đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng khoảng, tạo lập những cơ hội thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong vài thập kỷ tới. Hoạt động kinh tế đối ngoại từ 1991 – 2000 đã phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ với tất cả các nước, các tổ chức tài chính quốc tế. Những mặt làm được nổi bật nhất trong hoạt động kinh tế đối ngoại là thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng. Nước ta gia nhập khối ASEAN, tham gia AFTA và APEC, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ và đàm phán gia nhập WTO. Những thành công trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đóng một vai trò hết sức quan trọng về sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Từ năm 1992 trở đi, lạm phát được kiểm soát, thiết lập được cơ chế lãi suất dương, tỷ giá hối đoái biến động theo cơ chế tích cực, giá trị đồng nội tệ và tỷ giá được ổn định. Cơ chế quản lý nền kinh tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nói riêng đang được chuyển đổi theo nguyên tắc thị trường.
Trong thập niên 90, đầu tư trong nền kinh tế đã đạt được tốc độ phát triển nhanh về khối lượng và tỷ trọng. So với GDP, tỷ trọng đầu tư năm 1991 chiếm 15,5%, năm 1997 lên đến 28,7%, đến năm 1998 và 1999 với những khó khăn do suy thoái nền kinh tế, tỷ trọng đầu tư còn 26,6% và 26%. Sang năm 2000 tỷ lệ này đạt 27,9%, tăng 20% so với năm 1999. Các chính sách khai thác vốn đầu tư đã chú trọng đa dạng hoá phù hợp nền kinh tế đa thành phần, khai thác vốn trong nước là chủ yếu. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thời kỳ 1991 – 1997, vốn đầu tư huy động được trên 378 ngàn tỷ đồng, tương đương 334,5 tỷ USD (giá cố định năm 1994), trong đó vốn của ngân sách (kể cả ODA, vay nợ) chiếm khoảng 43%; vốn đầu tư của tư nhân 30%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 27%. Nếu tính riêng nguồn FDI và ODA thì vốn huy động từ nước ngoài chiếm khoảng 47 – 48% tổng nguồn; tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu: Công nghiệp chiếm 48%; du lịch, khách sạn 13%, nhưng đầu tư vào ngành nông nghiệp thuỷ sản mới chiếm 4%. Tuy vậy do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng Đông- Á và do những hạn chế về môi trường đầu tư làm cho vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đã giảm dần từ 8640 triệu USD (1997) xuống còn 1567 triệu USD (1999) và 1973 triệu (2000) Nguồn:Tạp chí Ngân hàng, số 5 năm 2001
. Để tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển, Nhà nước đang thực hiện giải pháp tăng cường thu hút vốn nước ngoài, đồng thời đặc biệt chú trọng thiết lập thị trường khai thác vốn trong nước, nhất là trong dân cư và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Hoạt động khai thác vốn của hệ thống ngân hàng ngày càng được chú trọng, đưa lại sự tích cực về khối lượng và chuyển dịch cơ cấu tăng dần tỷ trọng vốn trung, dài hạn, đa dạng hoá các hình thức huy động.
Qua kết quả nghiên cứu, có một số bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập khá hoặc do tích lũy tiết kiệm truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư rất lớn, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt…Trong một số nghiên cứu dự đoán nguồn vốn này xấp xỉ 80% tổng nguồn vốn huy động của toán hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại cho thấy trong thời gian ngắn đã thu được hàng ngàn tỷ VND và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, thu nhập và đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Với truyền thống của người Việt Nam là tiết kiệm và không tiêu xài hoang phí, luôn cố gắng dành dụm tiền để phòng lúc ốm đau và tích lũy cho tương lai, tích lũy để đầu tư…tỷ lệ tích lũy nội bộ trên GDP tăng dần qua các năm: 3% (1980); 16,9% (1995); 16,7% (1996); 20,1% (1997); 22% (1998) Nguồn: Tạp chí Ngân hàng, số 5 năm 2001
…Đây là cơ sở kinh tế để thực hiện chính sách tiết kiệm và huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế.
Hệ thống ._.đó rút ra kinh nghiệm và những biện pháp để phục vụ khách hàng tốt nhất.
Chính sách Marketing của ngân hàng phải bao gồm được 4 chính sách lớn: Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; chính sách giá cả; chính sách phân phối; chính sách giao tiếp – khuyếch trương. Ngân hàng phải kết hợp linh hoạt 4 chính sách này thu hút khách hàng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ cũng như đánh bại đối thủ cạnh tranh.
Ngân hàng cần có một đội chuyên trách phân tích, tổng hợp các thông tin về khách hàng. Hoạt động chăm sóc khách hàng phải được thực hiện một cách thường xuyên và chu đáo hơn. Ngân hàng nên có hình thức ưu đãi như ưu đãi về phí dịch vụ thanh toán, ưu đãi về lãi suất ..., đồng thời phát triển tốt mối quan hệ với khách hàng cũ và không ngừng tìm kiếm và tạo mối quan hệ với khách hàng mới. Ngân hàng cần sẵn sàng cạnh tranh với các đối thủ khác bằng chính chất lượng sản phẩm, tinh thần thái độ phục vụ đặc biệt là dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để thu hút khách hàng. Để làm được điều này, ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu chu kỳ sống của các sản phẩm, dịch vụ do ngân hàng cung cấp giúp công tác kế hoạch hoá sản phẩm, nghiên cứu và phát triển dịch vụ thích hợp với từng thị trường trong từng giai đoạn cụ thể để khai thác thị trường đó với hiệu quả cao nhất.
2.2. Áp dụng cho từng phương thức
2.2.1. Thanh toán bằng séc
Séc là một lĩnh vực không còn mới ở Việt Nam song tính phổ dụng còn thấp và chưa có một sự đầu tư đáng kể nào, vì vậy séc chưa được hình thành thành một thị trường thống nhất. Hiện nay trên thế giới đã hình thành hai mô hình để xây dựng trung tâm xử lý séc: Mô hình cũ (xử lý séc truyền thống) và mô hình mới (mô hình có sự can thiệp của công nghệ hiện đại). Ở Việt Nam nên đi theo con đường thứ hai. Việt Nam là một nước đi sau, vì vậy rút ngắn thời gian là một việc làm cần thiết. Việt Nam có thể xây dựng thị trường séc bằng các biện pháp sau:
Ngân hàng có thể thành lập trung tâm xử lý séc ở ba miền như: Hà Nội - Đà Nẵng – Thành phố Hồ Chí Minh. Sự lựa chọn này là có cơ sở, bởi vì 3 thành phố này chiếm tới 80 % số lượng séc trong toàn quốc Nguồn: Tạp chí Tin học ngân hàng số 2/2003
. Bên cạnh đó, ngân hàng nên cho phép sử dụng rộng rãi séc ở ngoài phạm vi các thành phố, tỉnh cùng tham gia vào trung tâm này.
Các chi nhánh ngân hàng sẽ gửi tờ séc và các thông tin về séc đến ngân hàng nhà nước để kiểm tra, kiểm soát chúng và thanh toán bù trừ, sau đó phân loại và gửi các séc đến ngân hàng phát hành. Ngoài việc thanh toán qua trung tâm bù trừ, các ngân hàng trên cùng địa bàn có thể mở tại nhau các tài khoản song biên clearing. Tài khoản này hoạt động trên nguyên tắc phục vụ lẫn nhau việc thu hộ, chi hộ trong những phạm vi thanh toán đã được thoả thuận trước giữa các ngân hàng với nhau trong đó có séc cá nhân. Đến kỳ các ngân hàng đối chiếu song biên với nhau để quyết toán số tiền đã thu hộ, chi hộ và thanh toán với nhau các khoản phải thu, phải chi. Các ngân hàng không nên tính lãi những tài khoản này, không bắt buộc duy trì số dư ký quĩ khi làm thủ tục mở và trong suốt quá trình hoạt động. Tài khoản song biên này sẽ giúp cho quá trình thanh toán séc được nhanh chóng hơn và khi có sự cố sẽ rút ngắn thời gian xử lý.
Ngân hàng nên phát hành thẻ séc dùng song song với séc cá nhân. Mục đích của việc ra đời thẻ này là tạo tâm lý an tâm khi sử dụng và hạn chế khả năng sử dụng thẻ bất hợp pháp. Trên thẻ séc ghi đầy đủ các yếu tố để đảm bảo cho thanh toán như: Họ tên chủ tài khoản, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, số hiệu, tên ngân hàng giao dịch, số của thẻ séc. Khi người thụ hưởng có tài khoản ở một ngân hàng và muốn phát hành séc, ngân hàng sẽ cấp cho chủ tài khoản một thẻ séc kèm theo số séc đã nhượng, có nghĩa là ngân hàng nhượng séc đảm bảo khả năng chi trả cho người thụ hưởng, có thể gọi đây là chứng chỉ thanh toán do ngân hàng nơi mở phát hành cho người sử dụng séc, một loại dùng trong phát hành séc không thể chuyển nhượng. Có thể khi cần thiết ngân hàng nên nghiên cứu thủ tục uỷ quyền sử dụng thẻ séc giống như người được uỷ quyền phát hành séc hiện nay.
Ngân hàng cũng nên quan tâm đến séc cá nhân có đảm bảo khả năng chi trả của ngân hàng thương mại. Từ một bộ phận dân cư có sử dụng séc thanh toán (Có bảo chi cả sổ séc lẫn mức khống chế không quá một số tiền nhất định khi mỗi tờ séc trao tay) có tác dụng kích thích nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo từng giai đoạn, ngân hàng có thể qui định séc không được chuyển nhượng và séc được chuyển nhượng. Đối với những khách hàng có uy tín hoặc có những đảm bảo phù hợp, ngân hàng có thể cấp tín dụng bằng cách áp dụng hình thức thấu chi (Tính lãi tiền vay khi vượt quá số dư trong một thời hạn nhất định). Với doanh nghiệp khi bán hàng cho dân cư sử dụng séc thanh toán thì doanh số bán hàng bằng các hình thức thanh toán qua ngân hàng nên được miễn hoặc giảm thuế trong những thời kỳ nhất định.
2.2.2. Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Nghiệp vụ thẻ là một trong những nghiệp vụ mới mẻ của ngân hàng bán lẻ . Nó đang phát triển với tốc độ lớn, qui mô rộng nên việc tìm hiểu và quản trị rủi ro là vấn đề cần được quan tâm đối với những đối tác tham gia nghiệp vụ này. Rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thẻ có thể hiểu là khả năng tổn thất tài chính hoặc giảm lợi nhuận kinh doanh so với dự kiến của chủ thẻ, của ngân hàng phát hành, của ngân hàng thanh toán hoặc của đơn vị chấp nhận thẻ; kể cả khả năng giảm hoặc mất cơ hội kinh doanh hay cơ hội thoả mãn mong muốn của các chủ thể này.
Trong thời gian tới ngân hàng nên mở rộng mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ nhất là ở những nơi có giao dịch lớn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng dùng thẻ để thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp như: Lắp đặt máy kiểm tra và thanh toán thẻ miễn phí, thu phí thấp hơn hoặc không thu phí trong thời gian đầu đối với cơ sở chấp nhận thẻ. Đồng thời ngân hàng cần có biện pháp khuyến khích các ngân hàng thương mại chấp nhận thanh toán cả thẻ nội địa lẫn thẻ quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước nên thành lập và phát triển trung tâm thẻ quốc gia để làm cầu nối giữa các ngân hàng thương mại chưa là thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế đồng thời là người bảo trợ cho các ngân hàng này. Trung tâm xử lý thẻ sẽ điều hành toàn bộ hoạt động thanh toán thẻ tại các ngân hàng và các điểm thanh toán thẻ: Cấp phép thanh toán và xử lý các hoá đơn thanh toán. Việc thành lập hệ thống thanh toán bù trừ và tỷ giá chuyển đổi giữa VND và ngoại tệ trong thanh toán thẻ quốc tế ở Việt Nam thiết nghĩ là một việc làm cần thiết. Tập trung phối hợp với các tổ chức thẻ quốc tế và các cơ quan an ninh quốc tế phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thẻ.
Hạn chế và rủi ro tín dụng: Ngân hàng cần cân nhắc xem xét kỹ lưỡng các trường hợp cho vay tín chấp để phát hành thẻ; đặc biệt là với thẻ có hạn mức đặc biệt (V.I.P). Lưu ý với chủ thẻ các quyền lợi của họ, đặc biệt cần lưu ý về các nghĩa vụ của chủ thẻ đối với ngân hàng khi sử dụng dịch vụ này. Ngân hàng cần theo dõi chặt chẽ việc sử dụng thẻ và tình hình chi tiêu của các chủ thẻ, chú ý và có biện pháp theo từng bước đối với các chủ thẻ trì hoãn hoặc không chịu thanh toán sao kê để thông báo, nhắc nhở, khuyến cáo, khoá thẻ tạm thời hoặc chấm dứt hợp đồng thẻ tuỳ theo hành vi của chủ thẻ.
Hạn chế rủi ro trong phát hành và sử dụng thẻ: Cán bộ phát hành phải kiểm tra, xác minh các thông tin phát hành thẻ và các thông tin của khách hàng một cách kỹ lưỡng bằng nhiều hình thức phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, các cán bộ phát hành phải đảm bảo các nguyên tắc an toàn như: Thẻ và PIN phải được giao tận tay chủ thẻ hoặc thẻ và PIN (Personal inden tification number – số nhận dạng cá nhân) phải được gửi cách biệt nhau. Bên cạnh đó, ngân hàng nên đẩy mạnh việc sử dụng chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế như: phải thường xuyên và cập nhật các thông tin trên các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế như SAFE của Mastercard, GFIS, CRIS của Visa. Ngân hàng nên thường xuyên cập nhật vào hệ thống quản lý danh sách thẻ mất cắp, thẻ bị hạn chế và thẻ cấm lưu hành…
Mua bảo hiểm cho nghiệp vụ thẻ nếu có hoặc trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp phát sinh từ nghiệp vụ phát hành thẻ.
Hạn chế rủi ro nội bộ: Thường xuyên kiểm tra hệ thống máy tính của mình, đảm bảo tính liên tục và ổn định. Tăng cường kiểm soát các bước thực hiện nghiệp vụ của các cán bộ làm việc trực tiếp. Hạn chế tối đa tình trạng trục trặc kỹ thuật trong hệ thống, khi hệ thống ngừng hoạt động hoặc phát hiện sai sót phải có biện pháp sửa chữa và xử lý kịp thời.
Một câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là làm thế nào để từ 5 – 10 năm tới thị trường thẻ ở Việt Nam phát triển như các nước khác? Theo tôi, việc cần làm ngay là:
- Thứ nhất, ngân hàng Nhà nước nên khuyến khích các ngân hàng thương mại trích một phần vốn điều lệ đang được chính phủ xem xét tăng lên cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để đầu tư vào mạng lưới thanh toán thẻ.
- Thứ hai, tổng công ty Bưu chính viễn thông cần đầu tư xây dựng và giảm chi phí thuê bao đường truyền thanh toán trực tuyến cho các cửa hàng.
- Thứ ba, Chính phủ nên có các qui định dần dần buộc các cơ sở bán hàng dịch vụ có số vốn lớn như các siêu thị phải trang bị thiết bị thanh toán thẻ. Xét trên khía cạnh tài chính chống thất thu thuế, đây có thể là giải pháp rất hiệu quả.
- Thứ tư, trước mắt, về phía tổ chức nên miễn các khoản thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh thanh toán cho các ngân hàng thương mại.
- Thứ năm, ngân hàng Nhà nước nên khuyến khích nhiều hơn nữa các ngân hàng thương mại cổ phần tham gia vào hoạt động thanh toán thẻ. Theo kinh nghiệm điển hình của Nhật Bản, công ty dịch vụ tiết kiệm của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường thẻ ở Việt Nam.
2.2.3. Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
Mặc dù được xem là một phương thức có độ an toàn cao, chặt chẽ và được sử dụng rộng rãi nhưng phương thức tín dụng chứng từ vẫn chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn. Đó là khả năng bị từ chối thanh toán, chứng từ bất hợp lệ, khách hàng mất khả năng thanh toán, bất đồng quan điểm giữa các bên trong việc xác định tính hợp pháp và hợp lý của bộ chứng từ. Vì vậy:
- Các ngân hàng cần thẩm định để nắm bắt được tình hình tài chính của khách hàng mình:
+) Đối với ngân hàng mở: Thẩm định để nắm bắt được tình hình tài chính của nhà nhập khẩu là biện pháp có hiệu quả nhất để ngăn ngừa rủi ro, thể hiện bản chất thư tín dụng là độc lập với hợp đồng ngoại thương và hàng hoá.
+) Đối với ngân hàng chiết khấu cũng cần tìm hiểu kỹ về người xuất khẩu trước khi nhận chiết khấu.
- Ngân hàng nên đưa ra một mức ký quĩ cụ thể đối với từng loại khách hàng. Với những khách hàng mới giao dịch lần đầu hoặc trường hợp ngân hàng cảm thấy người nhập khẩu khó có khả năng chi trả thì ngân hàng nên yêu cầu người nhập khẩu kỹ quĩ 100 % trị giá L/C, hoặc yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, hoặc phải có người bảo lãnh.
Ngân hàng kiểm tra kỹ đơn yêu cầu mở L/C để phát hiện ra những điều khoản bất lợi cho người nhập khẩu, cho ngân hàng phát hành như việc đưa ra những quyết định không rõ ràng trong mô tả hàng hoá, hoặc yêu cầu không rõ ràng về việc kiểm tra chứng từ.
Khi kiểm tra bộ chứng từ do ngân hàng chứng từ gửi đến, ngân hàng mở phải thông báo lại sự bất hợp lệ trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ chứng từ. Nội dung thông báo phải ghi lại tất cả những bất hợp lệ mà nó phát hiện, và những bất hợp lệ này là toàn bộ và cuối cùng. Có nghĩa là ngân hàng mở không được bổ sung bất cứ điều khoản bất hợp lệ nào khác, mặc dù sau đó mới phát hiện ra. Bởi vì trong thực tế, có những trường hợp ngân mở thông báo báo cho ngân hàng chiết khấu những điều không đúng và ngân hàng chiết khấu không chấp nhận, sau đó ngân hàng mở lại thông báo những bất hợp lệ khác. Điều này phát sinh tranh chấp giữa hai ngân hàng gây nên những chi phí vô ích không đáng có.
Về phương diện pháp lý: Cho đến nay, UCP 500 được tất cả các ngân hàng được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế áp dụng nhằm mục đích hoà nhập vào mạng lưới thanh toán xuất nhập khẩu toàn cầu. Nhưng việc vận dụng UCP 500 vào nước ta gần như tuyệt đối mà không có bất kỳ một sự điều chỉnh nào. Trong khi đó các quốc gia khác hầu như đều có văn bản luật hoặc văn bản dưới luật về giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế liên quan đến thông lệ quốc tế phù hợp với những đặc thù của nước họ. Ta cũng nên có văn bản luật hoặc văn bản dưới luật đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng mua bán ngoại thương của người mua người bán với giao dịch chứng từ giữa các ngân hàng. Khi thực hiện cũng cần tuân thủ chặt chẽ các bước qui định nghiệp vụ theo đúng thông lệ quốc tế để phòng tránh và hạn chế rủi ro. Những điểm khác biệt với thông lệ quốc tế phải chỉ rõ nguồn gốc văn bản pháp lý qui định.
Để thực thi qui chế quản lý ngoại hối, ngân hàng Nhà nước cần có những văn bản qui định trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ liên quan khi chuyển tiền ra nước ngoài. Ngân hàng hướng dẫn kiểm tra chi tiết việc kiểm tra giấy phép nhập khẩu và cota nhập khẩu bất hợp lệ của khách hàng khi phát hành thư tín dụng của khách hàng khi phát hành thư tín dụng tránh trường hợp khách hàng sử dụng giấy phép ở nhiều ngân hàng với mục đích thiếu trung thực. Ngân hàng Nhà nước cũng cần có một văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, đó có thể là một nghị định về thanh toán quốc tế đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ giữa các ngân hàng. Mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu và các ngân hàng khi tham gia phương thức tín dụng chứng từ; mối quan hệ này cũng cần được pháp lý hoá trên cơ sở luật pháp quốc gia. Để tạo hành lang pháp lý của các giao dịch này, các ngân hàng và khách hàng cần yêu cầu ký kết một thoả thuận chung mang tính nguyên tắc trong giao dịch bằng văn bản.
Hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ là một phương thức phức tạp đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều phòng ban trong nước như: Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam… Chính vì thế, sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan nhằm tạo ra sự nhất quán cho việc ban hành cũng như áp dụng và thi hành là hết sức cần thiết. Ngân hàng cũng nên kết hợp chặt chẽ với cục, vụ, phòng chức năng thuộc Bộ công an. Đây là sự kết hợp đúng đắn và linh hoạt nhằm tạo ra một cơ sở thông tin tốt hơn cho kinh doanh nhằm ngăn ngừa các hoạt động lừa đảo.
2.2.4. Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền và nhờ thu.
*). Hình thức thanh toán chuyển tiền
Hiện nay, ở rất nhiều ngân hàng, chuyển tiền vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Chính vì thế, để hình thức thanh toán này có hiệu quả hơn nữa, cần có những giải pháp thích hợp. Cụ thể là:
Để khuyến khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng thì ngân hàng nên miễn phí cho khách hàng khi sử dụng hình thức thanh toán này trong thời gian đầu hoặc trong những món có giá trị nhỏ. Bên cạnh đó còn cho họ một mức lãi suất thấp. Đây là một cách để chuyển tiền được sử dụng nhiều hơn trong dân chúng, mà ngân hàng lại có thể lấy số tiền trên tài khoản gửi của khách hàng cho vay với lãi suất cao hơn.
Mở rộng dịch vụ Homebanking và Telephonebanking cho các tổ chức, gia đình, cá nhân nối với các ngân hàng. Dich vụ này với mục đích là để cho họ đưa ra một lệnh chi định kỳ, ví dụ như: Chi tiền điện, nước, điện thoại hàng tháng... sẽ không thu phí của Sở điện lực, Công ty cấp thoát nước, Bưu điện vì khi sử dụng dịch vụ này, họ đã giảm được một công việc là nhân viên hàng tháng phải đến từng nhà để thu tiền điện nước, điện thoại…
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khách hàng của các ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như các cá nhân có nhu cầu về vốn cao, việc cho khách hàng vay trong thanh toán vừa tháo gỡ tài chính cho khách hàng, vừa đảm bảo cho đơn vị thụ hưởng thu được tiền, vừa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng lại giữ được quan hệ tốt với khách hàng. Như vậy, ngân hàng nên cho vay để đảm bảo khả năng thanh toán. Để làm tốt điều đó, phải phân loại khách hàng. Nếu đối tượng là khách hàng tốt, có quan hệ thường xuyên, lâu dài nhưng do nguyên nhân khách quan dẫn đến số dư trên tài khoản không đủ thanh toán trong thời gian ngắn thì ngân hàng nên cho khách hàng vay với mức lãi suất phù hợp (cao nhất là bằng lãi suất nợ quá hạn của loại cho vay ngắn hạn mà ngân hàng nên áp dụng).
Để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đơn vị mua, đơn vị bán phải nộp UNC (Uỷ nhiệm chi) để trả tiền trong điều kiện hiện nay, ngân hàng nên qui định sau 2 ngày kể từ ngày nhập kho hàng hoá, nhập các cung ứng dịch vụ thì đơn vị mua phải lập UNC để trích tài khoản trả tiền cho đơn vị cung cấp. Khi nộp UNC phải kèm theo hoá đơn nhập kho hàng hoá để ngân hàng kiểm soát.
*). Đối với hình thức thanh toán nhờ thu
Nhờ thu là một hình thức không đảm bảo quyền lợi cho người bán. Vì vậy, ngân hàng nên đứng ra bảo vệ quyền lợi cho người bán bằng cách khống chế bộ chứng từ trong thanh toán. Tức là chỉ khi nào người mua thanh toán cho người bán lập tức ngân hàng có tài khoản tiền gửi của người bán, trong thời hạn đó mới giao chứng từ cho người mua.
Khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng một cách phổ biến thì Nhà nước nên qui định các ngành thu dịch vụ như: Bưu điện, Công ty điện lực, Công ty cấp thoát nước, Thuế…sử dụng hình thức thanh toán nhờ thu. Vì khi sử dụng hình thức này thì nhân viên của họ đỡ mất thời gian đi lại, mặt khác có thể giảm khối lượng nhân viên dẫn đến tiết kiệm được chi phí tiền lương cho nhân viên. Để làm được điều này đòi hỏi bảng kê thanh toán tiền dịch vụ các ngành bưu điện, điện lực… phải chính xác.
3. KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN GIẢI PHÁP THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
3.1. Đối với Nhà nước
Ngoài các điều kiện năng lực của bản thân ngân hàng, sự hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt về mặt pháp lý đóng vai trò quan trọng. Vì thế, bản thân Nhà nước cũng phải có những giải pháp thích hợp nhằm giúp ngân hàng có những hoạt động bớt rủi ro hơn. Cụ thể là :
3.1.1. Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước :
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: Bộ luật Dân sự, bộ luật Thương mại, luật Ngân hàng Nhà nước, luật Các tổ chức tín dụng…Tuy nhiên vẫn còn quá chung chung, sau khi văn bản luật có hiệu lực cũng không có văn bản hướng dẫn cụ thể, nhiều lĩnh vực chưa được sửa đổi, có văn bản phải sửa đổi và bổ sung nhiều lần, không có tính ổn định nên việc thực thi và áp dụng là rất khó. Thực tế là các văn bản luật liên quan đến hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng, đặc biệt là hoạt động nhờ thu và chuyển tiền còn nhiều vướng mắc…Chính vì vậy, dù luật được ban hành nhưng phần qui định về thanh toán không dùng tiền mặt, thể thức thanh toán phổ biến, chiếm đa số trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng vẫn dậm chân tại chỗ, gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động tài chính. Để tạo điều kiện và môi trường pháp lý cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực trong đó có hoạt động thanh toán thanh toán không dùng tiền mặt, Nhà nước cần :
- Xử lý các văn bản pháp lý, các đạo luật đồng bộ. Bên cạnh, hoàn thiện những chính sách hiện hành, nghiên cứu cho ra đời những văn bản mới về lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán…
- Đổi mới công tác ngoại hối, chế độ quản lý ngoại hối.
3.1.2. Cải thiện Cán cân Thanh toán Quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế là công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá, phân tích mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nó thể hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viện trợ nước ngoài. Tình trạng cán cân thanh toán liên quan đến khả năng thanh toán của đất nước, của các ngân hàng; nó tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Vì vậy, cải thiện cán cân thanh toán là cực kỳ quan trọng. Do đó Nhà nước cần:
- Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại đối với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối ASEAN, các nước Đông Âu…Từng bước tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO.
- Cần khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên cũng như tiềm năng về sức lao động. Cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng cường các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, xác định các mặt hàng chủ lực đi đôi với việc xây dựng và phát triển thị trường trọng điểm, đồng thời mở rộng thêm thị trường và mặt hàng mới, cần đầu tư thích đáng vào những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như: Gạo, cà phê, cao su, khí đốt…
- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu như giảm lãi suất, thuế, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Đối với hàng nông sản, Nhà nuớc cần có chính sách trợ giá giúp nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.
- Bên cạnh đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách quản lý nhập khẩu thông qua cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được.
- Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta cần tiếp tục tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.
3.1.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời từ 10/1994, đây là nơi diễn ra trao đổi, cung cấp ngoại tệ, giải quyết nhu cầu ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại và cho cả nền kinh tế. Thông qua thị trường này, Nhà nước có thể điều hành tỷ giá, giữ vững sự ổn định tiền tệ bằng những dấu hiệu thị trường. Các ngân hàng thương mại có điều kiện thuận lợi để mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, trong những năm qua, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát huy hết hiệu quả do nhiều nguyên nhân: Sự điều tiết của nhà nước còn mang nặng dấu ấn hành chính, chưa nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường, các giao dịch diễn ra với hình thức đơn giản, số lượng thành viên tham gia chưa nhiều…Định hướng của Nhà nước là phải hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tiến tới thành lập thị trường hối đoái ở Việt Nam. Muốn vậy, chúng ta phải tích cực xây dựng các điều kiện cơ bản thông qua việc :
- Đa dạng hoá hình thức mua bán trên thị trường: Hiện nay, chủ yếu mới là phương thức giao ngay. Để có được thị trường hối đoái hiện đại phải mở rộng các hình thức mua bán kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn…
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh trên thị trường. Bên cạnh loại ngoại tệ cơ bản như USD, phải đưa vào kinh doanh các ngoại tệ có nhu cầu như JPY, EURO…Bởi vì một nền kinh tế mở phải có nhiều mối quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới.
- Mở rộng số lượng thành viên tham gia trên thị trường: Hiện nay, Nhà nước mới chỉ cho phép hội sở của các ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường. Chính sách này bộc lộ nhiều hạn chế: Ngân hàng Nhà nước chưa tiếp cận sát sao với thị trường, các dấu hiệu thị trường chưa phản ánh đầy đủ, kịp thời. Việc cho phép các chi nhánh ngân hàng thương mại, các nhà môi giới hoạt động sẽ thúc đẩy thị trường phát triển, giúp cho cung cầu sớm gặp nhau.
3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan Chính phủ, là ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những hoạt động cơ bản của ngân hàng Nhà nước là quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản pháp qui qui định quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp trong các giao dịch liên quan đến ngoại hối. Ngoài việc thắt chặt quản lý ngoại hối, ngân hàng Nhà nước cần có qui định rõ ràng hơn đối với doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu để giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong việc xin mua ngoại tệ để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán quốc tế.
Mặt khác, tỷ giá cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Việc áp dụng một tỷ giá kém linh hoạt sẽ làm sai lệch giá trị thực của đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ khác, và do đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các giao dịch ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một chế độ tỷ giá hợp lý hơn, điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình mà còn góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của đất nước.
Cuối cùng, Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ giữa ban thanh tra của ngân hàng Nhà nước với bộ máy kiểm tra giám sát của các ngân hàng thương mại để nhanh chóng phát hiện những vướng mắc, những sai lầm để kịp thời xử lý.
3.3. Đối với khách hàng
Thanh toán không dùng tiền mặt là một hoạt động chứa nhiều rủi ro. Sự rủi ro không đơn giản ở sự tách biệt về vị trí địa lý giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu mà nhiều khi rủi ro xuất phát từ chính những khách hàng yêu cầu ngân hàng thực hiện thanh toán. Để hạn chế điều này, các khách hàng phải không ngừng hoàn thiện mình nhất là trong điều kiện phát triển của các công cụ thanh toán như hiện nay. Các khách hàng không ngừng nghiên cứu tìm hiểu thêm các công cụ trong thanh toán để có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của mình trong giao dịch ngoại thương. Trong hoạt động này, ngân hàng chỉ nên đóng vai trò tư vấn cho các doanh nghiệp chứ không phải là “làm hộ” như hiện nay vẫn làm. Các cán bộ thanh toán chỉ nên căn cứ vào nhu cầu mà khách hàng đặt ra để hướng dẫn họ một phương thức thanh toán tối ưu nhất chứ không nên áp đặt.
Sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng là một trong những điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng. Một khách hàng có mối quan hệ thường xuyên và luôn luôn chấp hành mọi qui định của ngân hàng chắc chắn sẽ được những ưu tiên nhất định từ phía ngân hàng. Do đó, trong giao dịch của mình, khách hàng nên thực hiện một cách nhanh nhất và tốt nhất những nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng. Trong trường hợp có những thông tin thiếu chính xác khách hàng nên cẩn trọng xem xét và phản hồi lại cho ngân hàng để ban lãnh đạo có biện pháp xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, khách hàng nên thận trọng lựa chọn đối tác. Thông tin từ phía đối tác cần được thu thập đầy đủ từ nhiều nguồn khác nhau như ngân hàng, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. Bởi vì, dù thanh toán theo phương thức nào thì việc trả tiền cũng phụ thuộc vào thiện chí của người mua, uy tín cũng như mối quan hệ giữa hai bên.
KẾT LUẬN
Xã hội càng phát triển thì ngân hàng càng đóng vai trò then chốt, nó là cơ quan giữ chức năng tổ chức quản lý lưu thông tiền tệ. Ngân hàng cũng là một bộ phận lớn tham gia quản lý, giữ thăng bằng về giá cả, là một hệ thống các kế hoạch của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế nước ta đang đi lên quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, vai trò của ngành ngân hàng phải đáp ứng được thực tiễn của nền kinh tế đất nước để thực hiện tốt việc đưa đồng tiền vào sản xuất có hiệu quả. Bởi vậy ngành ngân hàng nước ta càng phải khẩn trương nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, không ngừng đưa công tác ngân hàng ngày càng đổi mới và nâng cao, tăng cường các phương tiện tính toán, thông tin hiện đại và đồng bộ. Đặc biệt là “Tăng cường quản lý lưu thông tiền tệ, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ tốt quá trình sản xuất kinh doanh”.Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng VI
. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự trợ sức của các cấp, các ngành, các thành phần trong xã hội; đặc biệt là phải có “chỉ lối, đưa đường” của Đảng và Nhà nước. Muốn xã hội càng phát triển, cuộc sống của người dân ngày càng nâng cao thì phải đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Chính vì thế “Phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt - một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước”.
Hi vọng qua khoá luận này, em có thể phản ánh phần nào thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam và có thể đóng góp một vài giải pháp nhỏ nhằm phát triển và hoàn thiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.
Tuy vậy, do thời gian nghiên cứu còn eo hẹp với điều kiện và nhận thức còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thày cô cùng bạn đọc để khoá luận hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo và cán bộ phòng Thanh toán Quốc tế tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chi nhánh Thăng Long đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn hướng dẫn chu đáo và tận tình của Thày Phan Trần Trung Dũng đã giúp em có phương pháp nghiên cứu khoa học để em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX.
Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, PGS. Đinh Xuân Trình – Nhà xuất bản giáo dục, 2002.
Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ tại Việt Nam, Lê Văn Tề & Trương Thị Hồng- Nhà xuất bản trẻ.
Giao dịch thương mại điện tử, Nguyễn Văn Minh & Trần Hoài Nam – H: Chính trị quốc gia, 2002.
Tạp chí Tin học Ngân hàng.
Tạp chí Ngân hàng.
Thời báo Ngân hàng.
Thời báo kinh tế.
Tạp chí Thương mại.
Thông tin Kinh tế thương mại.
Báo cáo thường niên các năm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi nhánh Thăng Long.
Báo cáo thường niên các năm của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Luận án phó tiến sĩ “Giải pháp hoàn thiện và mở rộng hệ thống thanh toán của Ngân hàng Công thương”, Bùi Khắc Sơn.
Luận án tiến sĩ “Những vấn đề nhằm hoàn thiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế”, Lại Ngọc Quý.
www.Vnexpress.net
www.Vietlaw.com.vn
www.Vnn.vn
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19476.doc