MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Phần I : Thương mại điện tử 4
I- Lý luận cơ bản về thương mại điện tử 4
1) Khái quát về thương mại điện tử 4
2) Hoạt động Thương mại điện tử 4
2.1) Hoạt động chung 4
2.2) Các đặc trưng của thương mại điện tử 4
2.3) Lợi ích của thương mại điện tử 7
2.4) Phương tiện 7
2.5) Các bên tham gia 7
II- Thực trạng và giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam 7
Quá trình phát triển và ứng dụng vào Việt Nam 7
Thực trạng của thương mại điện tử ở Việt Na
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển thương mại điện tử trong Ngân hàng thương Mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 8
Nguyên nhân 10
Một số gợi ý giải pháp 11
Phần II : Thương mại điện tử trong ngân hàng 14
I) Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử 14
Khái niệm về ngân hàng thương mại 15
Sự hình thành phát triển của ngân hàng điện tử 15
II) Những dịch vụ của ngân hàng liên quan đến thương mại điện tử 16
Ngân hàng trực tuyến trên mạng Online Banking hay Internet Banking 16
Ngân hàng trực tuyến qua mạng điện thoại di động 17
Máy rút tiền tự động ATM 19
Các khoản thu phí dịch vụ ngân hàng 19
Phát hành thẻ thanh toán hoặc thẻ tín dụng 20
Tiền gửi thanh toán 20
Cho vay 20
III) Ưu điểm và nhược điểm của E- Banking 20
Theo quan điểm của khách hàng 20
Theo quan điểm của ngân hàng 21
IV) Thực trạng – giải pháp 22
Thực trạng E- Banking 22
Một số giải pháp 23
2.1) Đối với Nhà nước 23
2.2) Đối với ngân hàng nhà nước 23
2.3) Các biện pháp thực hiện từ bản thân nội tại các ngân hàng thương mại 23
Kết luận 25
Danh mục tài liệu tham khảo 26
LỜI MỞ ĐẦU
Máy vi tính xuất hiện đã giúp con người rất nhiều trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Trong xu thế toàn cầu hoá- tự do hoá & hội nhập quốc tế hiện nay không thể không nhắc đến sự đóng góp của mạng máy tính đặc biệt là mạng Internet. Nó liên kết nhiều máy tính lại với nhau, giúp cho con người trao đổi thông tin một cách nhanh chóng. Riêng trong lĩnh vực kinh tế- tài chính quốc tế nói chung và nước ta nói riêng là một lĩnh vực đầu tàu, nhạy bén nhất so với những lĩnh vực khác, đã và đang có nhiều thay đổi cho phù hợp với xu hướng đó. Lĩnh vực tài chính của nước ta đang có những bước chuyển đổi để tự do hoá hệ thống tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển, sáng tạo trong lĩnh vực tài chính, tăng cường tính cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngành, lĩnh vực trong đó không thể không nói đến lĩnh vực ngân hàng- nó không chỉ là công cụ của nhà nước mà nó còn là một lực lượng mạnh mẽ dẫn dắt cả hệ thống tài chính hướng vào mục tiêu đã chọn.
Nhờ những ứng dụng của lĩnh vực điện tử mà nó đã hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Trong tiến trình hội nhập với thế giới với tư cách là thành viên của APEC, Việt Nam đang tích cực tham gia và ủng hộ " Chương trình hành động chung" mà khối này đã đưa ra về thực hiện " Thương mại phi giấy tờ " vào năm 2005 đối với các nước phát triển và năm 2010 với các nước đang phát triển.
Ngân hàng thương mại Việt Nam đang thua kém các ngân hàng thương mại của các nước phát triển rất nhiều ở quy mô hoạt động, công nghệ ngân hàng, sự đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, hiệu quả hoạt động…Nhưng với ngân hàng điện tử thì cơ hội phát triển của các nước đang gần như nhau và đều mở rộng phía trước. Do đó nếu các ngân hàng thương mại Việt Nam điện tử hoá các nghiệp vụ, dịch vụ truyền thống của mình, thì việc hoà nhập và tiến kịp ngân hàng thương mại của các nước phát triển trên thế giới không còn là khoảng cách thời gian xa vời vợi mấy trăm năm nữa. Vì vậy việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử vào hệ thống ngân hàng là việc làm có tính cấp thiết trong lộ trình tự do hoá ngày nay. Xuất phát từ vấn đề đó chúng em chọn đề tài nghiên cứu là :
“ Phát triển thương mại điện tử trong ngân hàng thương mại Việt Nam”
Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức cũng như thời gian nghiên cứu không nhiều nên bài nghiên cứu không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được sự góp ý, chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy cô, đặc biệt là cô Cao Thị Ý Nhi , đã giúp đỡ chúng em trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Phần I
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I- Một số lý luận cơ bản về thương mại điện tử
1) Khái quát về thương mại điện tử (E-COMMERCE)
Hiện nay thương mại điện tử (TMĐT) được công nhận trên khắp thế giới là một mô hình và công cụ kinh doanh giàu tiềm năng và hứa hẹn mang lại những kết quả lâu dài. Sự thành công của TMĐT, cũng giống như bất kỳ mô hình và hoạt động kinh doanh nào khác đều phụ thuộc rất nhiều việc cung cấp những sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng, vào sự cân bằng giữa chi phí và doanh thu, và vào một khung pháp lý có khả năng tăng cường lòng tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng vào việc kinh doanh qua mạng Internet.
Khái niệm: Thương mại điện tử (Electronic Commerce), một yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa”, là hình thức hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử: là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên cũng gọi là “thương mại không giấy tờ”).
2) Hoạt động TMĐT
2.1) Hoạt động chung
E-Commerce được hiểu theo nghĩa chung là việc thực hiện các hoạt động thương mại qua môi trường điện tử. Các hoạt động này bao gồm: Xúc tiến thương mại, giới thiệu các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh và các công ty, cung cấp trực tiếp các mặt hàng và các dịch vụ phi vật chất ; theo dõi và quản lý các quá trình thương mại cũng như việc thực hiện các giao dịch chuyển tiền mà thiếu nó không thể thực hiện được hoạt động thương mại theo nghĩa đầy đủ.
Trước đây các hoạt động thương mại phụ thuộc rất nhiều vào khoảng cách địa lý. Ngày nay với sự hỗ trợ của mạng lưới viễn thông đặc biệt là Internet khách hàng và người bán dễ dàng tìm đến nhau hơn mà không cần tiếp xúc trực tiếp. Việc thanh toán qua mạng cũng ngày càng trở nên phổ biến.
2.2) Đặc trưng của thương mại điện tử
So với các hoạt động Thương maị truyền thống , TMĐT có những khác biệt sau:
a) Trong thương mại truyền thống :
- Các bên gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc hoá đơn, vận đơn ,gửi báo cáo.
- Các phương tiện viễn thông như: fax, telex ... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên việc sử dụng phương tiện chỉ để truyền tải thông tin một cách trực tiếp giữa các đối tác của cùng một giao dịch.
- Từ khi xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa các doanh nghiệp và công ty mà các hoạt động thương mại đa dạng đã mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng người tham gia ngày càng tăng.Những người tham gia là cá nhân hoặc là doanh nghiệp,có thể đã biết hoặc hoàn toàn chưa biết bao giờ.
Trong nền kinh tế số , thông tin được số hoá thành các byte, lưu giữ trong các máy vi tính và truyền qua mạng với tốc độ ánh sáng, Điều này tạo ra những khả năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen tiêu dùng và mua bán của con người mà không cần qua khâu trung gian hỗ trợ cho bất kỳ công ty nào.TMĐT cho phép mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quan hệ quen biết với nhau.
b) Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên giới ( thị trường thống nhất toàn cầu). TMĐT trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu.
TMĐT càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Không chỉ các công ty hàng đầu thế giới mới có thể tiếp cận những thị trường mới, mà ngay cả một công ty vừa mới khởi sự cũng có một mạng lưới tiêu thụ và phân phối không biên giới ngay đầu ngón tay mình, Với TMĐT, một doanh nhân dù mới thành lập đã hoàn toàn có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức, Chillê ...., mà không hề phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
Sang thế kỷ XXI, bất cứ người dân nào- dù là người tiêu dùng, các nhà kinh doanh nhỏ, hay chủ tịch công ty lớn- đều sẽ có thể mở rộng công việc của mình tới những nơi xa xôi nhất của hành tinh.Toàn cầu hoá,tự do mậu dịch và phát triển là con đường phát triển nhanh chóng đưa các quốc gia và các doanh nghiệp thay đổi theo hướng cạnh tranh quốc tế trên phạm vi toàn cầu, kể cả việc giành lấy thị trường nước ngoài thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cà các đối tác thương mại.
c) Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.
Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.... là những người tạo ra môi trường cho các giao dịch TMĐT, Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.
d) Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành.Ví dụ như: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hinh thành nên các trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới, trọng tài cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hoá và dịch vụ trên mạng may tính.
Theo một số chuyên gia về kinh doanh trên mạng, chính những tính năng dễ sử dụng và hình thức vui mắt, dễ hiểu của các trang Web dành choTMĐT là những yếu tố quyết định trong việc thu hút khách hàng.
Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo! American Online hay Alta Vista ...., đóng vai trò như các trang Web gốc khác với vô số thông tin. Các trang Web này đã trở thành các khu chợ khổng lồ trên Internet.Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có khả năng truy cập vào hàng ngàn các cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào tham rồi mua hàng là rất cao.
Giá cả không quan trọng bằng tính dễ sử dụng và tiện lợi.Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi các công ty kinh doanh trên Web cạnh tranh khốc liệt hơn và đua nhau dành cho khách hàng những dịch vụ tiện lợi nhất, giá cả sẽ trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh.
Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số loại hàng trước đây coi là khó bán trên mạng. Con người ngày càng trở nên lười biếng và họ cho rằng thà phải trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới cửa hàng. Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có nhiều người hưởng ứng. Chủ các cửa hàng ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách mở cửa hàng ảo.
Tóm lại, trong TMĐT bản chất của thông tin không thay đổi. TMĐT chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi, bảo quản và xử lý thông tin, hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông tin đối với các bên tham gia truyền thống của hợp đồng.
Việc mã hoá, số hoá nội dung của các thông tin, chứng từ và tài liệu giao dịch làm cho TMĐT dù cho hoạt động trong khuôn khổ quốc gia hay quốc tế, có sự khác biệt so với thương mại truyền thống chủ yếu dựa trên chứng từ bằng giấy tờ,Trong thương mại truyền thống (bằng giấy tờ) nếu có nhiều bên tham gia thì sẽ phải tốn một khối lượng lớn giao dịch về hợp đồng. Trong khi đó nếu giao dịch được thực hiện thông qua TMĐT, thì tiết kiệm được rất nhiều thời gian và giấy tờ và thời gian. Tuy nhiên các chứng từ được thể hiện bằng giấy tờ cho đến nay, lại có ưu thế hơn trong vai trò chứng từ khi xảy ra có tranh chấp.
2.3) Lợi ích của TMĐT
*Đốivới Chính phủ - Giảm chi phí hành chính. - Cung cấp thông tin và các hệ thống báo cáo tốt hơn. - Các mối quan hệ tốt hơn đối doanh nghiệp thông qua phương thức truyền thống.
*Đối với doanh nghiệp : - Nắm bắt thông tin thị trường tốt hơn bất kể thời gian và địa điểm. - Giảm căn bản chi phí hành chính và chi phi hoạt động. - Thông tin với khách hàng và đối tác thuận tiện hơn. - Quản lý quan hệ khách hàng. - Giảm được chu kỳ sản phẩm. - Quan hệ với khách hàng tốt hơn. - Giới thiệu sản phẩm và dịch vụ thuận lợi và hiệu quả hơn. - Tăng cường khả năng cạnh tranh…
*Đối với người tiêu dùng - Giảm thời gian tìm kiếm, lựa chọn mua hàng hoá và dịch vụ. - Cùng một lúc tiếp cận với nhiều nhà cung cấp, cả trong và ngoài nước. - Giảm bớt trung gian. - Tiếp cận với nhiều nguồn văn hoá và tri thức của thế giới để cải thiện chất lượng cuộc sống.
2.4) Phương tiện Các phương tiện truyền thống điện tử bao gồm điện thoại, fax, vụ tuyến truyền hình, hệ thống thanh toán điện tử (cả mạng giá trị gia tăng) các mạng nội bộ Intranet, Extranet và Internet.
2.5) Các bên tham gia:
- Người tiêu dùng
- Doanh nghiệp
- Nhà nước
II- Thực trạng và giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
1) Quá trình phát triển TMĐT và ứng dụng vào Việt Nam:
Do có những lợi ích tiềm tàng, từ những giữa những năm 1990, TMĐT đã và đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu và tao nên một làn sóng mạo hiểm trong đầu tư. Đã có lúc người ta nghi ngờ về khả năng thành công của TMĐ do có hàng loat công ty dot-com lâm vào khó khăn song trong thực tế nó vẫn phát triển mạnh mẽ trên mọi mặt. Theo số liệu tính toán của Forester Research- một công ty nghiên cưu Internet ở Massachusetts của Mỹ doanh số TMĐT trên toàn thế giới năm 1997 đạt 36 tỷ USD, năm 2000 đạt khoảng 700 tỷ USD, và ước tính các năm 2003, 2004và 2005 đạt tương ứng 3.879 tỷ USD, 6.201 tỷ USD và 9.241 tỷ USD .
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, với sự mở rộng nhanh chóng của mang Internet, sự cải thiện rõ rệt của môi trường kinh doanh và những định hướng quan trọng nhằm đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào sản xuất –kinh doanh, một số nền tảng cơ bản của TMĐT ở Việt Nam đã từng bước hình thành và số lượng chủ thể cũng như mức độ tham gia vào mô hình kinh doanh này ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, vì là một nước đang phát triển ở độ thấp, nên ở Việt nam còn không ít rào cản và ràng buộc đối với sự phát triển cua TMĐT trên nhiều khía cạnh khác nhau. Do vậy, có thể rằng, hiện nay, TMĐT mới đang ở trong trứng nước và có triển vọng phát triển mang tính pha trộn.
2) Thực trạng của TMĐT ở Việt Nam:
Có thể nói rằng việc ứng dụng TMĐT vào Việt Nam hiện nay mới chi mang tính khởi đầu .Có thể kể đến một trong những doanh nghiệp tiên phong là siêu thị ảo Cybermail do Trung tâm dịch vụ giá trị gia tăng (VASC) cộng tác với Công ty Thiên Phát thiết lập và đi vào hoạt động từ tháng 12/1998 Trên siêu thị có hơn 500 mặt hàng của nhiều nhà cung cấp khác nhau từ ôtô ,hàng điên tử ,hàng gia dụng tới mỹ phẩm, lương thực , thực phẩm. Các mặt hàng được phân loại và người mua có thể tìm kiếm dễ dàng bằng công cụ search có sẵn trên đó. Các mặt hàng cùng với giá cả,tỷ gía được cập nhật thường xuyên. Sau sự ra đời của Cybermail ,hàng loạt siêu thị khác đã được thiết lâp ,đang chú ý là siêu thị máy tính Bluesky của công ty Nhật Quang, cửa hàng bách hoá Bookstore của Xunhahaba và thế giới sách Fuhasa TP HCM .Các công ty chuyên kinh doanh TMĐT cũng đã được thành lập như Vietnamthink.com.vn ,B2Vn.com.vn .
Trong điều kiện kinh doanh ở Việt nam hiện nay, không phải bất cứ doanh nghiệp nào tham gia TMĐT cũng thu được thành công, mà chỉ có những doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sau đây mới có nhiều triển vọng phát triển:
* Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet
* Các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ và du lịch
* Các doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp có nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời về thị trường thế giới
* Các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ sản phẩm công nghệ cao như: điện tử viễn thông, tin học, tư vấn, thị trường, giá cả.
Chính vì vậy mà trong những năm gần đây, những trang Web phổ biến phuc vụ cho việc cung cấp thông tin kinh doanh và cơ hội giao lưu trong cả nước đều thuộc các lĩnh vực trên Có thể kể ra đây như www.fpt.com.vn ; www.vdc.com.vn; www.mekongresearch.com.vn; www.sonystyle; www.nhadat.com.vn ; www.realestate.com.vn ; .....
Mới đây, ngày 23/4/2003 một bước khởi phát quan trọng đánh dấu những hứa hen cho phát triển TMĐT ở Việt Nam là sự ra đời của sàn giao dịch TMĐT đầu tiên có địa chỉ www.vnemart.com.vn .Sàn giao dịch này sẽ đóng vai trò trung tâm giao dịch thương mại triển lãm văn hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và tăng cường xuất khẩu. Sàn giao dịch còn là địa chỉ đáng tin cậy cung cấp thông tin cho doanh nghiệp; tư vấn về thị trường, sản phẩm, tìm kiếm đối tác kinh doanh cũng như thông tin về luât pháp chính sách thương mại quốc tế và Việt Nam với thời gian nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất.
Tuy nhiên, số doanh nghiệp như vậy là rất ít và, nhìn chung, sự tham gia còn mantg tính tự phát và cầm chừng, chưa thực sự phát triển.Theo kết qua điều tra do Bộ Thương mại thực hiựn mới đây ở hơn 60000 doanh nghiệp trên cả nước thì chỉ có khoảng 7% số doanh nghiệp sã ứng dụng một số khâu của TMĐT,khoảng 3% có ý định ứng dụngTMĐT ở mức độ khác nhau, và 90% số doanh nghiệp còn lại hiểu biết mơ hồ hoặc không hiểu biết gì về TMĐT.
Theo số liệu của Ngân hàng Công thương Việt Nam (incombank) thì cả nước hiện nay mới chỉ có khoảng 3000 doanh nghiệp có trang Web riêng, 8% bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng mạng Internet,90% vẫn đang đứng ngoài cuộc. Trong những giao dịch TMĐT mạng tính thử nghiệm 33,1% số doanh nghiệp tham gia là doanh nghiệp vừa và nhỏ, 54,9% chưa thành công, 58% gặp khó khăn về thiết bị,37%thiếu nguồn nhân lực ...
Còn theo kết quả điều tra do Quỹ Phát triển Chương trình Mêkông (MPDF) tiến hành ở 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ có sử dụng mạng Internet thì 48% số doanh nghiệp chỉ để gửi và nhận thư điện tử, 33% không dùng để hỗ trợ cho công việc kinh doanh và 50% chỉ khoảng 4 người biết gửi và nhận thư điện tử
Đánh giá một cách tổng quát, có thể chia các doanh nghiệp Việt Nam thành ba nhóm chính dưới đây.
Nhóm 1: Có tới 90% số doanh nghiệp chưa hề biết và không quan tâm tới TMDT, không hiểu biết nội dung, lợi ích và xu thế phát triển tất yếu của nó và cho rằng ở Việt Nam hoàn toàn chưa có điều kiện để áp dụng TMĐT, rằng đó là việc của các doanh nghiệp lớn ,doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và chưa tin vào khả năng áp dụng TMĐT của bản thân mình .
Nhóm 2: Có khoảng 3% số doanh nghiệp bắt đầu quan tâm đến TMĐT. Các doanh nghiệp thuộc nhóm này có biết nhưng chưa hiểu rõ nội dung, lợi ích và xu hướng Phát triển, vì vậy còn băn khoăn, e ngại về năng lực ứng dụng TMĐT với các lý do khác nhau. Một số doanh nghiệp đã bước đầu kết nối với mạng Internet, có trang Web nhưng mang tính phong trào, chưa xây dựng kế hoạch tham gia TMĐT.
Nhóm 3: Nhóm này chiếm khoảng 7% số doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp đã nhận thức vai trò và xu thế phát triển tất yếu của TMĐT trên toàn thế giới và Việt Nam, đã có ý thức chủ động đầu tư, xây dựng và triển khai kế hoạch ứng dụng TMĐT.
3) Nguyên nhân
Tinh hình nêu trên cho thấy rằng ở Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng khởi động, chỉ mới thực hiện những bước đầu dò dẫm trên một thị trường rộng mênh mông nhiều bất trắc.Vậy đâu la nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy? Một trong những nguyên nhân rất cơ bản là sự yếu kém của các kết cấu hạ tầng cho TMĐT, nhất là về công nghệ thông tin, kinh tế và pháp lý.Bên cạnh đó, một số chuyên gia trong lĩnh vực này đã đúc ra những nguyên nhân cụ thể sau đây:
Thứ nhất, cước truy cập mạng Internet tại Việt Nam còn ở mức khá cao.trong khi tốc độ truy cập lại thấp. Hiện nay tại các nước trong khu vực, cáp sợi quang va băng thông rộng đã được sử dung phổ biến,nâng cao được tốc độ truy cập Internet, còn ở nước ta, các tiện ích này còn phải phấn đấu đạt được trong những năm tới.
Thứ hai, các doanh nghiệp phải trả một mức phí cao so với lợi ích thu được để xây dựng những trang Web, hoặc biến trang Web phục vụ hữu hiệu cho TMĐT.
Thứ ba, hệ thống thanh toán điện tử của các ngân hang chưa phát triển đủ để đáp ứng đủ nhu cầu của TMĐT. Do mức đầu tư cho CNTT ở phần lớn các ngân hàng Việt Nam còn quá thấp, nên việc thanh toán không dùng tiền mặt cũng như việc phát triển các loại thẻ thanh toán điện tử còn hạn chế trong phạm vi hẹp, hoặc còn mang tính thử nghiệm, chưa trở thành giải pháp tổng thể đối với từng ngân hàng.
Thứ tư, còn nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại tiêu chuẩn công nghiệp và thương mại đối với thương mại truyền thống. Để xây dựng hệ thống này cần có một thời gian dài .Chính tiến trình này là một trong những cản trở của việc chấp nhận thanh toán điện tử trong TMĐT ở Việt Nam.
Thứ năm, công nghệ bảo mật thông tin trong TMĐT chưa phát triển và đang còn ở mức thấp so với các nươc trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, Việc bảo mật thông tin giao dịch kinh tế - thương mai và ngân hàng trong xã hội còn hạn chế .
Thứ sáu, đa số doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ bé ,tiềm lực tài chính có hạn, gặp nhiều khó khăn trong đầu tư lao đông, cơ sở vật chất để áp dụng TMĐT.Phần lớn các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam không có tên tuổi trên thị trường quốc tế, và các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế trong quan hệ hợp tác quôc tế, chưa thông thạo luật pháp và tập quán của thị trường.
Thứ bảy, không chỉ người dân mà ngay cả lãnh đạo của doanh nghiệp cũng như cơ quan nhà nước chưa tin tưởng và chưa quyết tâm vận dụng TMĐT.Họ cho rằng TMĐT có nhiều rủi ro, bị tin tặc tấn công, rút tiền của khách hàng, các thông tin về công nghệ bị đánh cắp. Thói quen của người tiêu dùng mua bán trực tiếp đã ăn sâu bám rễ, không dễ dàng xoá bỏ ngay được. Ngoài ra, thưc trạng đào tạo nhân lực cho phương thức làm ăn kinh doanh mới vẫn còn nhiều bất cập .
4) Một số gợi ý giải pháp :
Thực trạng trên đây đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết , kinh nghiệm phát triển của những nước đi trước cho thấy rõ một cách tiếp cận chung là Chính phủ tạo ra môi trường thuận lợi , còn doanh nghiệp là động lực thúc đẩy TMĐT phát triển .Với cách tiếp cận này, chúng tôi xin kiến nghị một số gợi ý giải pháp nhằm phát triển TMĐT ở Việt Nam trong những năm tới như sau:
a) Xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại:
Phát triển mạng viễn thông và mạng Internet tiên tiến hiện đại ,hoạt động hiệu quả, an toàn tin cậy, phủ sóng cả nước; tình hình xa lộ thông tin quốc gia có dung lượng lớn, tốc độ cao; cung cấp dịch vụ truy cập băng thông rộng đến tận hộ tiêu dùng;cáp quang vô tuyến điện băng rộng, thông tin vệ tinh ...; phát triển các mạng thông tin dùng riêng.
- Đẩy mạnh việc phổ cập Internet trong các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có thể truy cập Internet với chất lượng tốt, giá cả tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực.
- Phát triển mạng Internet để ứng dụng các loại dịch vụ và ứng dung CNTT khác nhau, gồm cả TMĐT.
- Mở cửa cho phép thêm nhiều nhà cung cấp dịch vụ kết nối (IXP) dịch vụ truy cập (IPS), dịch vụ ứng dụng (OPS) tham gia cạnh tranh bình đăng nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy thị trường phát triển.
b) Phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin và TMĐT
- Nâng cao chất lượng đào tạo về CNTT trong hệ thống giáo dục và đào tạo hiện có thông qua việc nâng cao trình độ của giáo viên ,giảng viên;cập nhật giáo trình hiện đại theo nhu cầu của xã hội và thị trường.
- Xây dựng một số cơ sở chuyên trách đào tạo chất lượng cao các kỹ sư, cử nhân và sau đại học về CNTT đáp ứng nhu cầu về lao động chuyên nghiệp cho công nghiệp CNTT, cho nghiên cứu giảng dạy CNTT.
- Đẩy mạnh chính sách hỗ trợ cho gửi đi đào tạo chính quy ở nước ngoài cho các sinh viên; cử chuyên viên và cán bộ các cấp đi thực tập ngắn hạn, nghiên cứu, khảo sát kinh ngiệm trong lĩnh vực CNTT ở các nước và khu vực có nền CNTT phát triển.
- Gấp rút đào tạo đội ngũ chuyên gia CNTT cấp cao và các chuyên gia đầu ngành về CNTT.
- Xã hội hoá công tác giáo dục đào tạo về CNTT, khuyến khích các tổ chức xã hội, các thành phần kinh tế than gia đầu tư phát triển nguồn nhân lực CNTT. Khuyến khích và có chính sách hỗ trợ cho các hoạt động phổ biến kiến thức, thông tin về CNTT trong toàn xã hội. Tạo điều kiện và môi trường thu hút người nước ngoài mang tri thức, công nghệ và đầu tư đóng góp tích cực vào quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam.
- Có chính sách ưu tiên cho xây dựng và đào tạo đội ngũ chuyên gia TMĐT, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phổ cập kiến thức về TMĐT cho toàn dân.Trước hết cần dự báo được những yếu tố tác động tới sự hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng nhân lực cho TMĐT trong vòng 5-10 năm tới. Từ đó xác định rõ được mục tiêu đào tạo thích hợp. Với mỗi mục tiêu về giáo dục đào tạo, đề xuất những giải pháp cụ thể để đảm bảo thực hiện được những mục tiêu riêng hướng mục tiêu chung là hoàn thành việc xây dựng kết cấu hạ tầng nhân lực cho TMĐT đến năm 2010.
c) Xây dựng khung pháp lý cho TMĐT:
Nhanh chóng hoàn thành Pháp lệnh về TMĐT và các văn bản hướng dẫnthi hành Pháp lệnh về TMĐT và các văn bản quy định về những vấn đề có liên quan đến giao dich điện tử, bao gồm:
- Quy định về phạm vi hiệu lực của chữ ký điện tử.
- Quy định về các tiêu chuẩn liên quan đến tính trung thực và không giả mạo chữ kí điện tử.
- Quy định về các tiêu chuẩn của chữ kí điện tử.
- Quy định về các tiêu chuẩn của việc xây dựng một quy trình hệ thống mã hoá cho các doanh nghiệp để quản lý và xử lý trong giao dịch điện tử.
- Quy định về các tiêu chuẩn của việc xử lý các vi phạm về TMĐT như tội phạm tin hoc (hackers), những vấn đề tranh chấp.
- Quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ.
d) Xây dựng kết cấu hạ tầng thanh toán điện tử chung cho các ngân hàng Việt nam:
- Nhiều ngân hàng ở Viêt Nam trong đó có cả Ngân hàng Nhà nước Việt nam tham gia và đang đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án này để có những đánh giá, tổng kết và từng bước áp dụng sâu rộng trên toàn quốc.
- Phát triển việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt mà trước hết là phải tạo ra công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như tạo và phát triển tiền điện tử, séc điện tử, thẻ thông minh, thẻ tín dụng.
e) Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong việc phát triển TMĐT:
- Chúng ta cần thành lập ngay một đầu mối quốc gia về kinh tế số hoá và TMĐT. Một hội đồng đại diện của nhiều Bộ, ngành và giới có liên quan là hữu hiệu để hội tụ được kiến thức và sự nhìn nhận từ nhiều góc cạnh.
- Bên cạnh đó cần thành lập một uỷ ban Quốc gia cho chức năng và quyền hạn ra quyết định, chỉ đạo và xử lý giải quyết. Hội đồng và Uỷ ban sẽ là đầu mối vạch kế hoạch chiến lược cũng như chương trình hành động trước mắt, đồng thời chỉ đạo thực hiện chiến lược chương trình đó.
Phần II
PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
NGÂN HÀNG
Sự lựa chọn của các Ngân hàng hiện đại
Tại Hội nghị thương mại điện tử quốc tế lần thứ năm tại Bắc Kinh, các chủ ngân hàng cho biết ngân hàng điện tử là sự lựa chọn chiến lược của ngành công nghiệp ngân hàng hiện nay. Những ứng dụng của thương mại điện tử trong lĩnh vực công nghiệp ngân hàng đó trở thành chủ đề được quan tâm nhất tại hội nghị.
Mức độ phát triển nhanh chóng của mạng và công nghệ thông tin đó mạng lại thay đổi chưa từng thấy trong lĩnh vực công nghiệp ngân hàng truyền thống và các ngân hàng ngày nay không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy nhanh các giải pháp ứng dụng thương mại điện tử để phát triển được, các ngân hàng buộc phải tìm kiếm những giải pháp kết hợp công nghệ thông tin và mạng cùng với các phương thức kinh doanh ngân hàng truyền thống.
Thực tế, ngành công nghiệp ngân hàng đang đúng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển thương mại điện tử cùng với sự xuất hiện hàng ngày các sản phầm mới có liên quan đến ngân hàng như thẻ tín dụng, giao dịch ngân hàng qua điện thoại di động, ngân hàng tự phục vụ... và tiền điện tử hay ví điện tử cũng đang trở thành hiện thực.
Ngân hàng điện tử thực sự là một cuộc cách mạng ngân hàng, nếu trước kia công nghệ thông tin hỗ trợ hoạt động kinh doanh ngân hàng thì ngày nay ngân hàng điện tử sẽ thay đổi bộ mặt của kinh doanh ngân hàng.
Ma Weihua, Chủ tịch của Ngân hàng Merchant, Trung Quốc cho biết "Thương mại điện tử đó đưa lại cho ngành công nghiệp ngân hàng những vũ khí lợi hại để phá bỏ những hạn chế đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng trước kia và mở rộng dịch vụ mới".
Giới chủ ngân hàng tỏ ra lạc quan với xu hướng phát triển hiện nay sẽ mang lại hiệu quả cho hoạt động ngân hàng trong những năm tới.
I) NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ:
E-banking đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, tạo ra môi trường tài chính năng động, đã có hàng ngàn cá nhân và các doanh nghiệp trên thế giới sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử mà không gặp bất kỳ một vấn đề nào.
Ngân hàng điện tử bao gồm hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ như chuyển tiền, thanh toán hoá đơn, rút tiền ATM, .... đó giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn thông qua các hoạt động tự động của ngân hàng và các giao dịch điện tử với ngân hàng.
Dịch vụ này giúp các doanh nghiệp cú thể kiểm soát tài chính của mình tại nhà, văn phòng hoặc khi đi cộng tác chặt hơn chẽ. Kết quả là, ngân hàng điện tử có thể giúp cá nhân và doanh nghiệp giảm được các chi phí hành chính, nâng cao năng suất và quản lý tiền mặt tốt hơn trong một môi trường hoàn toàn an toàn.
1) Khái niệm về ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, nó là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại tạo lợi nhuận thông qua chênh lệch giữa cho vay và đi vay và những sản phẩm dịch vụ mà nó cung cấp.
Cùng với sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, dịch vụ TMĐT (E-Commerce) đã và đang phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, trở thành đề tài nóng hổi trong bất kì cuộc hội thảo nào về công nghệ thông tin. Trong lĩnh vực ngân hàng, TMĐT được nhiều tổ chức tín dụng quan tâm chiến lược nhằm giảm chi phí hoạt động, gìn giữ và thu hút khách hàng, tăng thị phần qua đó nâng cao hình ảnh và tăng doanh lợi cho ngân hàng.
Ở Việt nam, mức độ quan tâm của các tổ chức tín dụng còn khác nhau, song xét cho cùng đây vẫn là một dịch vụ mới mẻ, nhưng nhiều tổ chức tín dụng quốc tế coi dịch vụ này là chiến lược ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0945.doc