TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
----- cd -----
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Giáo viên hướng dẫn : GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN
Lớp : QTKD THƯƠNG MẠI 47 A
Khóa : 47
Hệ : CHÍNH QUY
Hà Nội: 05- 2009
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----***----
BẢN CAM ĐOAN
Kính gửi: Trường Đại học Kinh tế quốc
157 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân;
Khoa Thương mại & Kinh tế quốc tế
Tên em là:Nguyễn Thị Hồng Liên
Lớp: Thương mại 47 A
Khoa: Thương mại và Kinh tế quốc tế
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp (05/01/2009 đến 07/05/2009) tại Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Công thương em đã nghiên cứu và thực hiện chuyên đề: “Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”
Em xin cam đoan những nội dung được trình bày trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em là hoàn toàn không có sự sao chép từ tài liệu chuyên môn, luận văn, luận án khác mà chỉ có một số trích dẫn, tham khảo để hoàn thiện cho chuyên đề.
Em xin chịu mọi trách nhiệm nếu như những cam kết trên đây là không đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2009
Người cam kết
Nguyễn Thị Hồng Liên
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo hướng mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại những thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho nước ta để tiếp tục hội nhập sâu sắc hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng “ Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng thể để phát triển đất nước” .Theo chủ trương đó, nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã mở cửa hội nhập với thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế và xuất nhập khẩu hàng hóa. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO là một mốc quan trọng đánh dấu Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng trên trường quốc tế. Vươn ra thị trường quốc tế, cơ hội lắm nhưng khó khăn cũng không ít.
Nền kinh tế Việt Nam, trong gần hai thập kỷ qua, đã phát triển nhanh dựa vào xuất khẩu. Từ một nền kinh tế dường như khép kín, "tự sản, tự tiêu", sau 20 năm đổi mới, kim ngạch xuất khẩu đã bằng 70% GDP. Đó là một thành tựu quan trọng trong việc thực hiện chính sách mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, trong đó có thị trường xuất khẩu cho phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới, vì vậy các biến động tài chính của thế giới ít nhiều sẽ tác động đến kinh tế Việt Nam. Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, tuy Việt Nam không bị tác động trực tiếp, song do nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn, chiếm tới 30% tổng sản lượng, chu chuyển vốn thị trường thế giới và trong bối cảnh hội nhập thì mọi quốc gia ít nhiều đều bị ảnh hưởng, đặc biệt là nền kinh tế tăng trưởng quá nóng như Việt Nam. Việt Nam là nền kinh tế rất mở với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt hơn 160% GDP. Xuất khẩu chiếm tới 70-80 % GDP. Khủng hoảng tài chính Mỹ, chính sách thắt chặt tiền tệ, biến động tỷ giá trở thành gánh nặng ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam không tránh khỏi bị giảm sút do sự eo hẹp của thị trường tài chính (do khủng hoảng) dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu hàng hóa, nhu cầu về hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm. Do đó vấn đề phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa đang là một yêu cầu có tính cấp bách đối với các doanh nghiệp. Vì vậy em chọn đề tài : “ Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” nhằm đưa ra những giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu trong tình hình hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian : giai đoạn 2001-2008
Đối tượng : Thị trường xuất khẩu hàng hóa chủ lực của Việt Nam
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường xuất khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Phân tích thực trạng thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam những năm tới.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cán bộ tại Vụ Xuất Nhập khẩu- Bộ Công thương và sự hướng dẫn nhiệt tình của GS.TS Đặng Đình Đào đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Tổng quan về thị trường và thị trường xuất khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường
1.1. Kinh tế thị trường và những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Thị trường là tổng hòa các mối quan hệ mua bán. Nền kinh tế được coi là một hệ thống các mối quan hệ kinh tế. Khi các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường. Nói cách khác kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó các mối quan hệ kinh tế của cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của mọi thành viên, chủ thể kinh tế là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hóa. Khi đó các yếu tố như: đất đai, tài nguyên, vốn bằng tiền, vốn vật chất, sức lao động, công nghệ, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra đều là đối tượng mua bán, là hàng hóa.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
Một là, kinh tế thị trường có khối lượng hàng hóa dịch vụ dồi dào, phong phú. Cho nên, người tiêu thụ được quyền tự do lựa chọn tối đa, họ không bị ép buộc mua bất cứ hàng hóa dịch vụ nào ngoại trừ những thứ phải cung ứng cho lợi ích xã hội. Họ quyết định ai sản xuất, sản xuất cái gì thông qua lá phiếu đồng tiền .
Hai là, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động mua bán đều theo giá cả thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường là do cung cầu hàng hóa quyết định.
Ba là, tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế. Điều này thể hiện các doanh nghiệp lấy chỉ tiêu hiệu quả để lựa chọn đối tác, lựa chọn bạn hàng.
Bốn là, trong nền kinh tế thị trường, sản xuất và bán hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Do đó, nghiên cứu thị trường là công việc quan trọng đầu tiên và thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, có như vậy hàng hóa mới bắt nhịp được nhu cầu của con người cũng ngày càng đa dạng, phong phú và luôn biến đổi.
Năm là kinh tế thị trường là nền kinh tế mở. Nền kinh tế mở là một nền kinh tế có giao dịch với các nền kinh tế khác. Nền kinh tế này trái với một nền kinh tế đóng cửa trong đó không có xuất khẩu, không có nhập khẩu, không có các dòng di chuyển vốn.Trong nền kinh tế thị trường có các hoạt động mua, bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường sản phẩm thế giới; mua và bán các tài sản vốn trên thị trường tài chính thế giới.
Sáu là cạnh tranh là môi trường kinh tế thị trường. Cạnh tranh được xác định là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thỏa mãn nhu cầu tốt hơn và hiệu quả hơn người đó sẽ chiến thắng, sẽ tồn tại và phát triển. Duy trì cạnh tranh bình đẳng và đúng luật là nhiệm vụ của Chính phủ. Các doanh nghiệp phải xác định cho mình một chiến lược cạnh tranh, trong đó phản ánh được các yếu tố ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp.
Bảy là, trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có quyền tự do, tự chủ cao. Họ có quyền tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác, được phép kinh doanh bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào pháp luật không cấm. Điều này phát huy tính sáng tạo, cũng như tinh thần dám nghĩ dám làm, tự chịu trách nhiệm của người kinh doanh.
1.2. Khái quát chung về thị trường
1.2.1. Khái niệm thị trường
Xét trên góc độ phân tích của nhà kinh tế:
Thị trường là tổng hòa các mối quan hệ mua bán.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu.
Thị trường là nơi trao đổi hàng hóa.
Xét trên góc độ kinh doanh của doanh nghiệp:
Thị trường của doanh nghiệp gồm: thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.
Sơ đồ 1: Mối liên hệ Doanh nghiệp – Thị trường của doanh nghiệp
Thị trường đầu vào
Doanh nghiệp
Thị trường đầu ra
Ở phạm vi doanh nghiệp thương mại (DNTM), thị trường được mô tả là các nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự và những người bán đưa ra các sản phẩm khác nhau với các cách thức khác nhau để thỏa mãn nhu cầu đó.
Như vậy theo, quan niệm của người bán, thị trường của DNTM trước hết là những khách hàng có tiềm năng tiêu thụ, có nhu cầu cụ thể về hàng hóa, dịch vụ trong một thời gian nhất định và chưa được thỏa mãn chứ không thể quan niệm thị trường đơn thuần là một khu vực hay một phạm vi địa lý nào đó.
Thứ hai, yếu tố quan trọng và làm đối trọng với cầu trên thị trường là cung về hàng hóa, dịch vụ do các cá nhân, doanh nghiệp là người bán tạo nên, chính sự tác động qua lại với nhau giữa cung và cầu về hàng hóa tạo nên quy luật cung cầu chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Thứ ba, thành phần không thể thiếu được tham gia thị trường của DNTM là các hàng hóa, sản phẩm cụ thể, đối tượng để mua bán trao đổi.
Một khi trên thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và nhiều loại hàng hóa tương tự nhau về chất lượng, giá cả, tất yếu nảy sinh sự cạnh tranh. Cạnh tranh là bộ máy điều chỉnh trật tự thị trường, là yếu tố quan trọng kích thích tính tích cực, tính đa dạng và nâng cao chất lượng hàng hóa cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Có thể hình dung thị trường của DNTM qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Thành phần tham gia và yếu tố cấu thành thị trường của DNTM
Thành phần tham gia thị trường của DNTM
Các yếu tố cấu thành thị trường của DNTM
Hiện tại
Tiềm năng
Người mua
(Khách hàng
Người bán
Sản phẩm
(hàng hóa)
+ Chất lượng
+ Phương thức thanh toán
+ Dịch vụ…
Doanh nghiệp
Đối thủ cạnh tranh
Hiện có
Mới
Cầu hàng hóa
Cung hàng hóa
Giá cả
Cạnh tranh
1.2.2. Các yếu tố cấu thành thị trường
Cầu
Cầu là lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức giá chấp nhận được. Cầu thay đổi theo sự phụ thuộc của các yếu tố tác động đến nó. Nếu giả sử các yếu tố khác không thay đổi, lượng cầu phụ thuộc vào giá cả của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Lượng cầu tăng khi giá giảm, và lượng cầu giảm khi giá cả tăng khi các yếu tố khác không đổi. Các yếu tố khác đó là: sở thích, thu nhập, giá mặt hàng thay thế, phong tục, tập quán, thói quen, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi…Doanh nghiệp khi kinh doanh trên thị trường, cái cần xác định không phải là cầu nói chung mà chính là cầu hướng vào doanh nghiệp, nghĩa là xác định khối lượng cầu cụ thể về hàng hóa của doanh nghiệp ứng với mỗi mức giá xác định.
Cung
Cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn bán ở mỗi mức giá chấp nhận được. Cung thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Lượng cung sẽ tăng lên khi giá cả hàng hóa/dịch vụ tăng lên và lượng cung sẽ giảm xuống khi giá cả của hàng hóa/dịch vụ giảm xuống, nếu các yếu tố khác không thay đổi. Các yếu tố khác đó là: sự phát triển của khoa học công nghệ mới, các chi phí của các yếu tố đầu vào, sự điều tiết của chính phủ. Giống như đại lượng cầu, doanh nghiệp không phải xác định tổng đại lượng cung của toàn xã hội mà xác định số lượng hàng hóa/dịch vụ doanh nghiệp có khả năng đưa ra thị trường ứng với mức giá nhất định.
1.2.2.3. Giá cả
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Sự tương tác giữa người mua với người mua, người bán với người bán, và người bán với người mua hình thành giá cả thị trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa/dịch vụ, ở địa điểm và thời điểm cụ thể.
1.2.2.4. Sự cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh
nhằm giành giật các nguồn lực hay thị trường tiêu thụ nhằm thu lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh diễn ra liên tục, không có đích cuối cùng. Cạnh tranh sẽ bình quân hóa các giá trị cá biệt để hình thành giá cả thị trường. Vì vậy, cạnh tranh là động lực để thúc đẩy các DNTM không ngừng cải tiến hoạt động kinh doanh để tồn tại và phát triển.
Trong hoạt động kinh doanh, khi nghiên cứu thị trường phải nghiên cứu đầy đủ, toàn diện tất cả các yếu tố cấu thành nên thị trường của doanh nghiệp.
1.2.3. Các quy luật và chức năng của thị trường
1.2.3.1. Các quy luật của thị trường
Xét cả một quá trình và xét trên tổng thể, thị trường vận động không phải là hỗn loạn, ngẫu nhiên mà vận động có quy luật. Những quy luật chung của thị trường là:
Quy luật giá trị
Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào còn sản xuất và lưu thông hàng hóa thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động xã hội cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hóa và trao đổi ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi cảu thị trường, của xã hội là với nguồn lực có hạn, phải sản xuất được nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay chi phí cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao. Người sản xuất hoặc kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao hơn thì khi trao đổi sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lợi nhuận và phải thu hẹp sản xuất hoặc kinh doanh. Đây là yêu cầu khắt khe buộc người sản xuất, kinh doanh phải tiết kiệm chi phí, phải không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh – dịch vụ để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, để bán được nhiều hàng hóa và dịch vụ.
Quy luật cung cầu.
Cung cầu hàng hóa, dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trên thị trường quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại, khi tăng, khi giảm tạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung cầu gặp nhau, giá cả thị trường được xác lập. Đó là giá cả bình quân. Tuy nhiên mức giá này không đứng yên, nó luôn luôn giao động trước sự tác động của lực cung, lực cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, giá sẽ hạ xuống, ngược lại khi cầu lớn hơn cung giá lại tăng lên. Sự thay đổi trên là do hàng loạt các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cung, cầu, cũng như kỳ vọng của sản xuất, người kinh doanh và của khách hàng.
Quy luật cạnh tranh
Trong nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua với người mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua với người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự của thị trường. Nhà kinh doanh không thể lẩn tránh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
1.2.3.2. Các chức năng của thị trường
a. Chức năng thừa nhận
Hàng hóa có bán được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của khách hàng của doanh nghiệp. Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phải nghiên cứu nhu cầu khách hàng. Hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng về chất lượng, số lượng, sự đồng bộ quy cách, cỡ loại, bao bì, giá cả, thời gian và địa điểm thuận tiện cho khách hàng.
b. Chức năng thực hiện
Chức năng này đỏi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị trao đổi, hoặc bằng tiền, bằng hàng, bằng các chứng từ có giá khác. Hàng hóa bán được tức là có sự dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua.
Chức năng thực hiện giá trị và chức năng thừa nhận của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chức năng thừa nhận phải thông qua thực hiện để thể hiện trong đời sống thực tế, chức năng thực hiện chỉ diễn ra trên cơ sở chức năng thực hiện đã trở thành hiện thực.
c. Chức năng điều tiết và kích thích
Qua hành vi trao đổi hàng hóa/dịch vụ trên thị trường, thị trường sẽ điều tiết và kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Hàng hóa và dịch vụ bán hết nhan sẽ kích thích người bán đẩy mạnh hoạt động sản xuất, tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung cấp ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế sản xuất, mua hàng, phải tìm khách hàng mới, thị trường mới hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác. Chức năng điều tiết kích thích này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số doanh nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có khả năng bán được khối lượng lớn.
Chức năng thông tin
Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hóa dịch vụ, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ, đối thủ cạnh tranh…Đó là những thông tin kinh tế quan trọng đối với mọi nhà sản xuất kinh doanh, cả người mua và người bán, người quản lý, người tiêu dùng, nhà nghiên cứu. Không có thông tin thị trường không thể có quyết định đúng đắn trong sản xuất, kinh doanh và quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc ra các qyết định đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa đến thành công, cũng có thể đưa đến thất bại bởi sự xác thực của các thông tin được sử dụng.
1.2.4. Vai trò của thị trường
1.2.4.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường của hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Thị trường cũng là nơi chuyển tải các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên thị trường, người mua, người bán, người trung gian gặp nhau trao đổi hàng hóa dịch vụ.
Quá trình sản xuất xã hội gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, thì thị trường là khâu trao đổi (lưu thông). Đó là khâu trung gian cần thiết, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy nó có tác động nhiều mặt đến sản xuất, đến tiêu dùng xã hội.
Vai trò của thị trường đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở năm điểm sau:
Một là, bảo đảm điều kiện cho sản xuất phát triển liên tục với quy mô ngày càng mở rộng và bảo đảm hàng hóa cho người tiêu dùng phù hợp với thị hiếu, nhu cầu một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi và dịch vụ văn minh.
Hai là, nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu dùng
sản xuất và tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới. Nó kích thích sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao và gợi mở nhu cầu hướng tới các hàng hóa chất lượng cao, văn minh và hiện đại.
Ba là, dự trữ các hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng xã hội, giảm bớt dự trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hòa cung cầu.
Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh.
Năm là, thị trường hàng hóa dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
1.2.4.2. Đối với doanh nghiệp thương mại
Thị trường vừa là trung tâm của các hoạt động kinh doanh, vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều hướng vào thị trường. Bắt đầu từ tổ chức bộ máy, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ đến các hoạt động Marketing đều nhằm mục đích đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường.
Thị trường hướng dẫn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả điều tra, thu thập thông tin thị trường để quyết định kinh doanh mặt hàng gì? Cho ai? Bằng phương thức kinh doanh nào?
Doanh nghiệp chỉ tồn tại khi sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được thị trường thừa nhận, được thực hiện về giá trị, khi đó thị trường sẽ giúp doanh nghiệp thu hồi vốn bỏ ra, bù đắp chi phí và có lãi để tái mở rộng kinh doanh.
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng, giữa khách hàng với doanh nghiệp, là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm các chủ trương, chính sách của nhà kinh doanh. Thông qua doanh thu bán hàng, tốc độ phát triển thị trường, phản ứng của khách hàng… doanh nghiệp sẽ có quyết sách phù hợp.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là tất yếu, thị trường được chia sẻ cho nhiều doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào giữ vững và phát triển được thị trường, doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ dẫn đến đình trệ, phá sản. Bởi vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng tìm kiếm cơ hội mở rộng và phát triển thị trường.
1.2.5. Phân loại thị trường của doanh nghiệp
Phân loại thị trường là phân chia thị trường theo các tiêu thức khác nhâu để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển thị trường. Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại thị trường của doanh nghiệp, thông thường căn cứ vào các tiêu thức sau:
1.2.5.1. Căn cứ vào đối tượng mua bán trên thị trường
Căn cứ vào đối tượng mua bán trên thị trường, có bốn loại thị trường:
Thị trường hàng hóa: bao gồm hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Hàng tư liệu sản xuất là những sản phẩm dùng để sản xuất, là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tiếp theo. Hàng tư liệu sản xuất bao gồm nhiều loại khác nhau như thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu, các loại hóa chất, các loại phụ tùng…
Hàng tư liệu tiêu dùng là hàng phục vụ cho tiêu dùng cá nhân như lương thực, thuốc chữa bệnh, quần áo.
Thị trường dịch vụ: là thị trường mà đối tượng mua bán của nó là các dịch vụ. Dịch vụ là những hoạt động có ích của con người tạo ra những “sản phẩm” dịch vụ, không tồn tại dưới hình thái sản phẩm, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thỏa mãn đầy đủ, kịp thời, thuận tiện và văn minh các nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội của con người. Các đặc điểm của “sản phẩm dịch vụ” đó là: không thể xác định cụ thể bằng các tiêu chuẩn hoặc các chỉ tiêu chất lượng một cách rõ ràng, “sản phẩm dịch vụ” không thể dự trữ, chất lượng phụ thuộc vào sự tương tác qua lại giữa người làm dịch vụ và người được phục vụ, hoạt động dịch vụ đỏi hỏi phải được đáp ứng ở đúng địa điểm và thời điểm cần thiết.
Thị trường sức lao động: Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm được trả công. Nói một cách chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc, thể hiện khả năng, và nhận thụ nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Đối với người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ việc làm. Vì vậy, nó xác định nội dung đích thực của thị trường lao động như thị trường việc làm.
Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động của cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao gồm cả trái phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn.
1.2.5.2. Căn cứ vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp
Căn cứ vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp, thị trường bao gồm
thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.Thị trường đầu vào có đối tượng mua bán là các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh như: tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn, công nghệ…Thị trường đầu ra: thị trường của các yếu tố đầu ra như hàng hóa, dịch vụ.
1.2.5.3. Theo phạm vi hoạt động của doanh nghiệp
Theo phạm vi hoạt động của doanh nghiệp, thị trường bao gồm thị trường địa phương, thị trường toàn quốc, thị trường khu vực, thị trường quốc tế. Đối với thị trường địa phương, mỗi địa phương đều có phong tục tập quán khác nhau, nếu muốn hoạt động tại đây, doanh nghiệp phải tìm hiểu điều này. Thị trường toàn quốc là thị trường toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thị trường khu vực là thị trường bên ngoài quốc gia, bao gồm một khu vực nhất định như thị trường khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ, thị trường ASEAN, EU…Thị trường quốc tế là thị trường bao gồm nhiều quốc gia, nhiều khu vực khác nhau. Để hoạt động trên thị trường này, doanh nghiệp phải hiểu biết tập quán tiêu dùng, luật pháp và thông lệ quốc tế.
1.2.5.4. Căn cứ vào tính chất sản phẩm khác nhau trên thị trường
Căn cứ vào tính chất sản phẩm khác nhau trên thị trường, thị trường bao gồm thị trường của các sản phẩm thay thế và thị trường của các sản phẩm bổ sung. Thị trường của các sản phẩm thay thế là thị trường của những sản phẩm có giá trị sử dụng tương tự nhau, có thể thay thế nhau. Kinh doanh trên thị trường này đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm được thời gian thay thế, tốc độ thay thế, giá cả của hàng hóa thay thế để làm chủ mọi diễn biến của thị trường.Thị trường của các sản phẩm bổ sung là thị trường của những sản phẩm liên quan tới nhau trong tiêu dùng. Kinh doanh trên thị trường này phải quan tâm đến biến động về giá cả của các sản phẩm có liên quan để điều chỉnh kịp thời.
1.3. Thị trường xuất khẩu hàng hóa
1.3.1. Các khái niệm
1.3.1.1. Khái niệm hàng hóa xuất khẩu
Theo quy ước của Liên hợp quốc và WTO thì hàng hóa xuất khẩu là những sản phẩm hàng hóa hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất, gia công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị trường nước ngoài ( xuất khẩu), đi qua hải quan. Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hóa xuất khẩu. Hàng hóa quá cảnh không thuộc diện của khái niệm hàng hóa xuất khẩu.
Hàng hóa xuất khẩu là hàng hóa khác biệt so với hàng hóa tiêu dùng ở trong nước. Những hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hóa phải đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kỹ thuật, môi trường và đạt được tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu. Ví dụ: sản xuất hàng thủy sản xuất khẩu vào khối EU hay Mỹ phải đạt các tiêu chuẩn trong hệ thống HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Points - Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn - là một tiêu chuẩn quốc tế xác định các yêu cầu của một hệ thống quản lý thực phẩm an toàn).
1.3.1.2. Khái niệm thị trường xuất khẩu hàng hóa
Thị trường xuất khẩu là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa mua bán, chất lượng hàng hóa và các điều kiện mua bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải qua qua biên giới.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa bao gồm cả thị trường xuất khẩu hàng hóa trực tiếp bao gồm cả thị trường xuất khẩu hàng hóa trực tiếp (người tiêu thụ cuối cùng), và thị trường xuất khẩu hàng hóa gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian). Chẳng hạn, một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hóa của Việt Nam hoặc nhập hàng hóa của Việt Nam rồi đem xuất khẩu sang thị trường khác cũng được coi là thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Cần nhấn mạnh rằng thị trường xuất khẩu hàng hóa không chỉ giới hạn ở những thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước nhiều trường hợp là thị trường xuất khẩu hàng hóa tại chỗ (nhất là đối với các ngành xuất khẩu dịch vụ: Du lịch, tài chính – ngân hàng, bảo hiểm…). Đối với hàng hóa xuất khẩu từ các khu chế xuất của Việt Nam vào chính thị trường Việt Nam thì khi đó, thị trường nội địa có thể coi là một thị trường xuất khẩu hàng hóa đối với hàng hóa của các khu chế xuất.
Tuy nhiên, trên cơ sở tài liệu thực tế có được tại cơ quan thực tập, cũng như kiến thức của bản thân, chuyên đề của em chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giới hạn ở những thị trường nước ngoài.
1.3.2. Phân loại thị trường xuất khẩu hàng hóa.
Có nhiều tiêu thức phân loại thị trường xuất khẩu hàng hóa, theo em, có các tiêu thức sau:
Căn cứ vào vị trí địa lý: Thị trường châu lục (Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á…); thị trường khu vực (thị trường ASEAN, Bắc Mỹ, Trung Đông, Tây Phi, Nam Á…); thị trường nước và vùng lãnh thổ (Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ..)
Căn cứ vào dung lượng và sức mua của thị trường: Thị trường xuất khẩu có sức mua lớn; thị trường xuất khẩu có sức mua trung bình; thị trường xuất khẩu có sức mua thấp.
Căn cứ vào kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại giữa nước
xuất khẩu và nước nhập khẩu: Thị trường xuất siêu; thị trường nhập siêu
Căn cứ vào mức độ mở cửa của thị trường, mức bảo hộ, tính chặt chẽ và khả năng xâm nhập thị trường: thị trường “dễ tính”, thị trường “khó tính”
Căn cứ vào sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp của nước xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh; Thị trường xuất khẩu không có ưu thế cạnh tranh.
Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường: Thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Một dạng của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo đã được nhiều nước ứng dụng thành công khi tìm kiếm thị trường là thị trường ngách.
Thị trường ngách đóng vai trò rất quan trọng cho các nước đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu, những nước mà khả năng cạnh tranh của hàng hóa còn kém so với các hàng hóa hiện đang có mặt trên thị trường quốc tế. Về khái niệm, thị trường ngách là một khoảng trống hay những “khe nhỏ” của thị trường, ở đó đã xuất hiện hay tập hợp nhu cầu về một loại hàng hóa nào đó. Những “khe nhỏ” hay “chỗ trống” trên thị trường là lý tưởng khi : chúng có quy mô vừa nhỏ để kinh doanh có lãi; đảm bảo tiềm năng tăng trưởng; không đượcn những nhà dẫn đạo thị trường để ý, hoặc có để ý đến cũng không muốn đầu tư. Đối với Việt Nam, thị trường ngách cần được đặc biệt lưu tâm nghiên cứu để xuất khẩu hàng hóa vì quy mô và khối lượng xuất khẩu nhiều loại hàng hóa của nước ta phù hợp với loại thị trường này.
2. Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa
2.1. Tính tất yếu của phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa
Mục đích cuối cùng của nghiên cứu là để phát triển thị trường của doanh nghiệp. Phát tri._.ển thị trường xuất khẩu hàng hóa là tổng hợp cách thức biện pháp của doanh nghiệp nhằm đưa khối lượng sản phẩm kinh doanh đạt mức tối đa, mở rộng quy mô kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận và nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là cuộc chạy đua không có đích cuối cùng. Vì vậy, phát triển thị trường vừa là mục tiêu, vừa là phương thức quan trọng để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh. Có mở rộng và phát triển thị trường mới duy trì được mối quan hệ thường xuyên gắn bó với khách hàng, củng cố và tạo dựng uy tín của doanh nghiệp trước người tiêu dùng để tăng thêm khách hàng. Mới có cơ may đầu tư phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên; thực hiện những mục tiêu đã vạch ra, từ đó có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa, việc phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa không những mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích như trên, mà còn giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Đặc biệt kinh doanh trên thị trường quốc tế có nhiều biến động khó dự đoán, việc phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa giúp cho doanh nghiệp phân tán được rủi ro trong kinh doanh. Doanh nghiệp thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế đất nước.
Trong nhiều trường hợp như nhu cầu nội địa nhỏ bé hoặc cạnh tranh trong nước quá gay gắt dẫn đến việc kinh doanh trong thị trường nội địa khó khăn thì việc đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế là một hướng kinh doanh mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp. Phát triển thị trường xuất khẩu sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng khai thác lợi thế so sánh do sản xuất trong nước mang lại, giúp doanh nghiệp tăng thị phần, tăng doanh số bán, lợi nhuận tạo điều kiện phát triển trong tương lai.
2.2. Hướng phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa
Việc phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa cớ thể được thực hiện về khía cạnh mặt hàng, theo chiều rộng và chiều sâu. Khi định hướng cho phát triển thị trường hàng hóa xuất khẩu, một nước có thể phát triển theo chiều rộng, chiều sâu, hoặc cùng một lúc phát triển cả hai hướng này.
Phát triển về mặt hàng có thể thực hiện về lượng và chất: Thứ nhất, việc đưa ra ngày càng nhiều sản phẩm dựa trên nhu cầu đa dạng, mong muốn thỏa mãn và khả năng thanh toán của con người trong một xã hội phát triển. Sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất những sản phẩm đa dạng để đáp ứng nhu cầu của con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua thông qua tăng cường chủng loại hàng hóa trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng.
Thứ hai, việc phát triển các mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Hình thức phát triển này là hình thức phát triển về chất của hàng hóa nhằm đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao hơn của con người.
Phát triển theo chiều rộng: là việc thể hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm nào đó. Đồng thời việc phát triển theo chiều rộng còn bao gồm cả việc phát triển về mặt không gian và phạm vi địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó.
Phát triển theo chiều sâu: về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm những việc như nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, đưa ra thị trường những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể được thực hiện theo cắt lớp, phân đoạn thị trường để thỏa mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng.
Theo nội dung này, phát triển thị trường hàng hóa xuất khẩu sẽ có tác dụng tích cực trong chiến lược hướng về xuất khẩu, đặc biệt đối với Việt Nam, khi kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 70 -80% GDP. Phát triển thị trường xuất khẩu thể hiện ở việc tăng cường được số lượng thị trường nhập khẩu, tăng cường được xuất khẩu về chất lượng cũng như số lượng hàng hóa xuất khẩu, thay đổi tích cực cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
2.3. Nội dung phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa
2.3.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng hóa
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều các nhân tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Việc định dạng các nhân tố này cho phép doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần tiến hành nghiên cứu, nó cũng là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức thâm nhập thị trường và các chính sách marketing khác. Việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu được tiến hành theo các nhóm nhân tố ảnh hưởng sau: Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu ( tập quán thương mại, thuế quan, hàng rào phi thuế quan…); nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế ( cấu trúc công nghiệp, phân phối thu nhập, động thái nền kinh tế); nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị - luật pháp; nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hóa; nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh; nghiên cứu nhu cầu thị trường ( lượng tăng giảm của tổng mức nhu cầu, sản lượng sản phẩm có thể tiêu thụ, doanh số…); nghiên cứu cơ cấu thị trường; nghiên cứu hành vi khách hàng; nghiên cứu cách thức tổ chức thị trường nước ngoài và nghiên cứu về khả năng lập xí nghiệp ở nước ngoài.
2.3.2. Phân tích, đánh giá khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp
Quyết định xuất khẩu hay không và liệu các công ty đã sẵn sàng bắt đầu xuất khẩu hay chưa, điều này phụ thuộc vào việc xem xét các yếu sau:
Một là, các mục tiêu ở tầm quản lý: Ban quản trị có mục tiêu hướng tới xuất khẩu hay không, cam kết xuất khẩu ở mức độ nào? Hai là kinh nghiệm xuất khẩu: Công ty đã có kinh nghiệm xuất khẩu chưa hay dựa vào kinh nghiệm kinh doanh trong nước? Ba là quản lý nhân sự: Công ty đã có nguồn nhân lực để thực hiện xuất khẩu chưa? Bốn là năng lực tài chính: Công ty có khả năng tăng sản lượng khi nhu cầu đối với hàng xuất khẩu tăng đột biến không...
Phân tích đánh giá khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp là công việc rất quan trọng, đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc, chính xác, cụ thể. Nếu không sẽ dẫn tới những quyết định kinh doanh sai lầm, đi chệch hướng và gây tổn thất cho doanh nghiệp.
2.3.3. Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường xuất khẩu
Phân đoạn thị trường xuất khẩu hàng hóa được xác định theo những nhu cầu tương tự nhau về một loại hàng hóa hoặc một nhóm hàng hóa ở các nước khác nhau.Thị trường có thể được phân đoạn dựa vào các tiêu chí khác nhau, ví dụ: Về mặt văn hoá xã hội: tuổi, giới tính, thu nhập, trình độ, tầng lớp, gia đình, v.v; Về mặt địa lý: khí hậu, mật độ dân cư, v.v.; Về mặt tâm lý: tính cách, lối sống…Phân đoạn thị trường có thể được thực hiện dựa vào một hoặc nhiều tiêu chí.
Mỗi đoạn của thị trường cần phải được đánh giá dựa vào thành công dự kiến trong kinh doanh. Các cơ hội sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như: sự phát triển dự kiến của đoạn thị trường có thể mang lại lợi nhuận là bao nhiêu, đoạn thị trường lớn cỡ nào, đoạn thị trường phù hợp thế nào với hướng phát triển hiện tại và lâu dài của DN, v.v.
Đối với việc lựa chọn thị trường xuất khẩu, thông thường để lựa chọn thị trường nào là thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sử dụng đánh giá xếp hạng thị trường này so với thị trường khác.Một số tiêu chí doanh nghiệp hay sử dụng đó là:
- Mức độ hấp dẫn của thị trường thông qua một số chỉ số kinh tế như GDP trên đầu người, lực lượng lao động, mức tăng dân số…
- Lợi thế cạnh tranh thông qua những kết quả kinh doanh đã thực hiện trước đó để xem xem đây có phải là thị trường có thể kinh doanh hàng hóa với giá rẻ hay không cũng như đây có phải là nơi mà lãnh đạo doanh nghiệp thấy thuận tiện khi làm ăn hay không. Hầu hết các hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu được là dựa trên lợi thế chi phí nhân công giá rẻ.
- Mức độ rủi ro được đánh giá thông qua những chỉ số như ổn định chính trị, ổn định tiền tệ và các quy định về xuất nhập cảnh.
Ví dụ: Bảng đánh giá thị trường xuất khẩu:
Tính hấp dẫn của thị trường
Rủi ro
Lợi thế cạnh tranh
Cao
Trung bình
Thấp
Cao
Hoa Kỳ
Cao
TB
TB
Thấp
Châu Phi
Thấp
2.3.4. Xây dựng và thực hiện chiến lược marketing xuất khẩu
Theo McCarthy: Marketing là quá trình thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu của một tổ chức thông qua việc dự đoán trước các nhu cầu của khách hàng hoặc người tiêu thụ để điều khiển các dòng hàng hóa dịch vụ thỏa mãn các nhu cầu từ nhà sản xuất tới các khách hàng hoặc người tiêu thụ.
Marketing xuất khẩu thực chất là hoạt động marketing của doanh nghiệp nhằm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp thích ứng với nhu cầu của thị trường xuất khẩu bên ngoài. Như vậy, Marketing xuất khẩu khác Marketing nội địa bởi vì nhân viên tiếp thị (marketer) phải nghiên cứu nền kinh tế mới, kể cả chính trị, luật pháp, môi trường văn hóa- xã hội đều khác với các điều kiện, môi trường trong nước, buộc doanh nghiệp phải thay đổi chương trình Marketing trong nước của mình nhằm để đưa hàng hóa thâm nhập thị trường nước ngoài. Các bước tiến hành marketing xuất khẩu:
Một là, phân tích điểm mạnh yếu: mục tiêu là để khẳng định công ty có đủ điều kiện để xuất khẩu hay không trước khi đi đến những quyết định có thể gây lãng phí công sức. Ðiều quan trọng là trong phân tích phải chú ý đến kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân, lĩnh vực được nhà nước khuyến khích để được hưởng ưu đãi của chính phủ, phải làm rõ mục tiêu lớn của xuất khẩu là hướng về thị trường mục tiêu, cơ cấu tổ chức sao cho phù hợp với khả năng tài chính, kỹ thuật và đội ngũ cán bộ.
Hai là, phân tích và nhận biết sản phẩm dành cho xuất khẩu, mục đích là tìm ra những sản phẩm có nhu cầu tiêu thụ trên thị trường mà công ty có khả năng sản xuất. Tiếp theo các công việc nhà xuất khẩu cần làm là nhận biết được thị trường xuất khẩu tiềm năng, xếp hạng thứ tự ưu tiên thị trường tiềm năng, quyết định thị trường xuất khẩu và cuối cùng là xây dựng kế hoạch marketing.
2.3.5. Thực hiện nghiệp vụ xuất khẩu
Sau khi nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp tiến hành lập phương án kinh doanh, và đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Kinh doanh trên thị trường quốc tế, nhà xuất khẩu phải chấp nhận giá quốc tế, đòi hỏi phải nghiên cứu, dự báo xu hướng biến động giá của mặt hàng, liên quan tới việc đàm phán về giá và vận dụng phương pháp quy định giá trong hợp đồng ngoại thương là vô cùng quan trọng. Doanh nghiệp muốn tối ưu hóa lợi nhuận xuất khẩu phải tuân thủ nguyên tắc chi phí cận biên để xuất khẩu một đơn vị hàng hóa bằng giá quốc tế của hàng hóa đó. Sau khi đàm phán thành công, nhà kinh doanh vận dụng các nghiệp vụ xuất khẩu để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết: xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hóa, sơ bộ thực hiện yêu cầu của thanh toán, thuê phương tiện vận tải, mua bảo hiểm, làm thủ tục hải quan, giao nhận hàng xuất khẩu, làm thủ tục thanh toán, thực hiện giải quyết khiếu nại nếu có.
2.3.6. Kiểm tra và đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chiến lược
Doanh nghiệp cần sử dụng hệ thống chỉ tiêu để kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chiến lược kinh doanh. Đây là công việc quan trọng để doanh nghiệp rút ra những ưu điểm, hạn chế, những bài học kinh nghiệm phục vụ cho những chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Doanh nghiệp cần có hệ thống những chỉ tiêu đánh giá, chẳng hạn như: quy mô và sự tăng trưởng, thị phần,…
2.4. Các phương thức thâm nhập để mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu
Nhượng quyền thương mại
Cấp giấy phép sản xuất
Liên doanh
Đầu tư trực tiếp
Chi phí, rủi ro, việc kiểm soát và tiềm năng doanh lợi
Khi doanh nghiệp đã quyết định thâm nhập vào một thị trường nào đó, doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình hình thức tham gia phù hợp. Có thể tóm lược năm hình thức chính phục vụ cho việc thâm nhập thị trường bao gồm: xuất khẩu, nhượng quyền thương hiệu, cấp giấy phép sản xuất, liên doanh, đầu tư trực tiếp.
Sơ đồ 3: Các phương thức xâm nhập thị trường nước ngoài
2.4.1. Xuất khẩu
Xuất khẩu vào thị trường mục tiêu là phương thức truyền thống được thiết kế chặt chẽ để xâm nhập thị trường. Hình thức xuất khẩu không đòi hỏi việc sản xuất phải được thực hiện tại nước nhập khẩu do vậy không đòi hỏi tiền vốn đầu tư cho trang thiết bị, nhà xưởng sản xuất. Một cách khái quát hoạt động xuất khẩu thường có sự tham gia của các đối tác như nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, hãng vận chuyển và cơ quan quản lý nhà nước.
Doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hoặc hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua các đơn vị trung gian làm dịch vụ xuất nhập.
2.4.1.1. Xuất khẩu gián tiếp
Các công ty bắt đầu với việc xuất khẩu gián tiếp thông qua các nhà trung gian độc lập. Có bốn loại nhà trung gian mà công ty có thể gặp:
Một là thương gia xuất khẩu đặt cơ sở trong nước: Nhà trung gian này mua sản phẩm của nhà chế tạo rồi bán chúng ra nước ngoài với chi phí riêng của mình. Hai là, đại lý xuất khẩu đặt cơ sở ở trong nước: Nhà đại lý này tìm kiếm và thương lượng với khách mua hàng nước ngoài và được trả tiền hoa hồng. Bao gồm trong nhóm này là các doanh nghiệp thương mại.
Ba là tổ chức hợp tác xã: Thực hiện các hoạt động xuất khẩu thay mặt cho nhiều nhà sản xuất và một phần nào đó chịu sự kiểm soát về hành chính của họ.
Bốn là công ty quản trị xuất khẩu: Nhà trung gian này đồng ý quản trị các hoạt động xuất khẩu của các công ty để hưởng thù lao
Các lợi thế của xuất khẩu gián tiếp:
Thứ nhất, xuất khẩu gián tiếp đòi hỏi vốn đầu tư ít, không cần triển khai triển khai một phòng xuất khẩu, một lực lượng bán hàng ngoại, tiếp xúc với nước ngoài.Thứ hai, xuất khẩu gián tiếp ít rủi ro.Các nhà trung gian marketing quốc tế mang bí quyết công nghệ và dịch vụ đến người liên hệ và người bán thường sẽ ít phạm sai lầm hơn.
2.4.1.2. Xuất khẩu trực tiếp
Các công ty có thể quyết định tự đảm nhận việc xuất khẩu của mình. Trong trường hợp này, vốn đầu tư và các rủi ro có thể xảy ra sẽ lớn hơn, nhưng lợi nhuận tiềm ẩn cũng nhiều hơn. Công ty có thể thực hiện việc xuất khẩu trực tiếp bằng nhiều phương thức sau:
Một là phòng hay bộ phận xuất khẩu đặt ở trong nước: Một phòng xuất khẩu độc lập tự thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu.
Hai là, chi nhánh hay công ty con bán hàng ở nước ngoài: Một chi nhánh bán hàng ở nước ngoài cho phép nhà xuất khẩu kiểm tra chương trình hoạt động nhiều hơn trên thị trường nước ngoài, giải quyết việc bán hàng, phân phối, tồn kho, khuyến mại. Nó thường được sử dụng như một trung tâm triển lãm và trung tâm dịch vụ khách hàng.
Ba là các đại diện xuất khẩu lưu động: Công ty có thể gửi các đại diện bán hàng ở trong nước ra nước ngoài để tìm kiếm khách hàng.
Bốn là các nhà phân phối hay các nhà đại lý ở nước ngoài: Công ty có thể thuê các nhà phân phối hay các đại lý ở nước ngoài bán hàng thay cho công ty.
2.4.2. Nhượng quyền thương mại ( Franchising)
Theo Luật Thương mại Việt Nam 2005, nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau:
Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
2.4.3. Cấp giấy phép sản xuất chế tạo (Licensing)
Cấp giấy phép chế tạo là một cách đơn giản để nhà chế tạo trở thành người tham gia vào marketing quốc tế. Người cấp giấy phép chế tạo cho phép một công ty nước ngoài sử dụng quy trình chế tạo, nhãn hiệu, bằng sáng chế, bí quyết thương mại hay các hình thức có giá trị khác để nhận được lệ phí hay tiền bản quyền. Người cấp giấy phép sản xuất xâm nhập vào thị trường nước ngoài nhưng ít rủi ro, người được cấp giấy phép sản xuất sẽ có kỹ năng sản xuất hay có được một sản phẩm tên tuổi nổi tiếng mà không cần phải bắt đầu xây dựng từ đầu.
Tuy nhiên các bất lợi của việc cấp giấy phép sản xuất là công ty cấp giấy phép có quyền kiểm soát ít hơn đối với người được cấp giấy phép so với việc công ty tự thiết lập các cơ sở sản xuất của riêng mình. Mặt khác, việc cấp giấy phép đã mặc nhiên tạo ra một đối thủ cạnh tranh với chính mình.
2.4.4. Liên doanh
Đây là hình thức kinh doanh trong đó có sự liên kết giữa công ty nước ngoài và công ty trong nước. Nhà xuất khẩu có thể liên kết với các nhà đầu tư bên nước nhập khẩu để hình thành một xí nghiệp liên doanh giữa hai bên, trong đó quyền sở hữu và quyền kiểm soát công ty sẽ tùy theo phần vốn góp của họ.
Có năm mục tiêu chủ yếu khi doanh nghiệp thành lập liên doanh đó là để: thâm nhập thị trường; chia sẻ rủi ro; chia sẻ công nghệ; cùng phát triển sản phẩm; tuân thủ quy định của luật pháp. Những yếu tố quan trọng khi cân nhắc đến hình thức liên quan là hình thức cơ cấu sở hữu, cách thức kiểm soát, thời hạn của hợp đồng, giá cả và chuyển giao công nghệ, năng lực và nguồn lực của đối tác trong nước và định hướng của nhà nước. Việc sở hữu chung đối với một công ty có thể đưa đến các bất đồng giữa hai bên góp vốn do quyền lợi khác biệt.
2.4.5. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là hình thức sở hữu trực tiếp đối với nhà xưởng máy móc thiết bị đầu tư tại một nước nào đó. Đầu tư trực tiếp liên quan đến việc chuyển giao tiền vốn, con người và công nghệ. Đầu tư trực tiếp có thể được thực hiện qua hình thức mua lại một doanh nghiệp đang có sẵn hoặc thành lập một doanh nghiệp mới. Hình thức sở hữu trực tiếp đảm bảo mức độ kiểm soát hoạt động doanh nghiệp cao hơn cũng như khả năng nhận biết về khách hàng cũng như môi trường hoạt động tốt hơn. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi phải có nguồn lực nhiều hơn cũng như sự cam kết cao hơn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
3. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa
3.1. Các chỉ tiêu đánh giá
3.1.1. Các chỉ tiêu tuyệt đối
a. Lượng tăng lên của số lượng thị trường xuất khẩu:
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
K = Ka – Ka-1
Trong đó:
a, a-1: lần lượt là năm a, năm a-1
K: Số lượng thị trường xuất khẩu tăng lên năm a.
Ka: Tổng số thị trường xuất khẩu năm a.
Kb: Tổng số thị trường xuất khẩu năm a-1.
Khi K > 0: điều này có nghĩa là lượng thị trường xuất khẩu hàng hóa tăng, như vậy phạm vi thị trường đã được mở rộng. Đây là một dấu hiệu tốt mà doanh nghiệp cần phải duy trì.
Khi K = 0: doanh nghiệp vẫn duy trì được thị trường xuất khẩu của mình.
Khi K < 0: thị trường của doanh nghiệp đang bị thu hẹp, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp khắc phục.
b. Lượng tăng lên của giá trị kim ngạch xuất khẩu:
G= Gta – Gt (a-1)
Trong đó:
G: lượng tăng lên của giá trị kim ngạch xuất khẩu vào thị trường (t)năm (a).
Gta: Giá trị kim ngạch xuất khẩu vào thị trường (t) năm (a).
Gt (a-1): Giá trị kim ngạch xuất khẩu vào thị trường (t) năm (a-1).
Khi G > 0: doanh nghiệp đang thâm nhập sâu vào thị trường, hoạt động phát triển thị trường đang đạt được những thuận lợi, doanh nghiệp cần nhanh chóng tận dụng cơ hội.
Khi G = 0: doanh nghiệp duy trì được giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào thị trường, tuy nhiên chưa thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
Khi G < 0: Thị trường của doanh nghiệp đang bị thu hẹp
c. Lượng tăng lên của số lượng chủ thể tham gia xuất khẩu hàng hóa
M = Mt - M(t-1)
M: Lượng tăng lên của số lượng chủ thể tham gia xuất khẩu hàng hóa.
Mt: Số lượng chủ thể tham gia xuất khẩu hàng hóa năm t.
M(t-1): Số lượng chủ thể tham gia xuất khẩu hàng hóa năm (t-1)
3.1.2. Các chỉ tiêu tương đối
a. Tốc độ tăng số lượng thị trường thị trường xuất khẩu
M =
Trong đó:
M: tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu năm a.
Ma: Số lượng thị trường xuất khẩu năm a
Ma-1: Số lượng thị trường xuất khẩu năm a-1
Tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu
Z=
Trong đó:
Z: Tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu năm a
Za: Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm a
Za-1: Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm a-1
c. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
H =
Trong đó:
H: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
h1, h1,… hn: Tốc độc tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từng năm
n: Số năm trong giai đoạn
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
3.2.1. Các nhân tố khách quan
3.2.1.1. Môi trường pháp lý, kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu
Môi trường pháp lý bao gồm tất cả các quy định pháp lý của một quốc gia như hệ thống luật pháp, các quyết định, nghị định, chỉ thị... Các quy định đó sẽ cho phép doanh nghiệp của quốc gia đó, cũng như các quy định đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vào quốc gia đó không được phép làm gì. Vì thế, khi kinh doanh với các đối tác thuộc một quốc gia khác, nhà xuất khẩu phải theo dõi và cập nhật những văn bản luật liên quan để tránh tổn thất về thời gian, chi phí. Chẳng hạn như, hàng hóa của Việt Nam muốn xuất khẩu sang thị trường EU phải tuân thủ các quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm: theo các quy chế 91/492/EEC và 91/493/EEC, các sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể về vệ sinh gồm độ tươi, độ sạch, mức nhiễm vi sinh tối đa (bao gồm các vi sinh vật gây bệnh và các vi sinh vật chỉ thị), dự lượng hoá chất (kim loại nặng, kháng sinh và thuốc trừ sâu), chất độc, độc tố sinh học biển và ký sinh trùng.
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia hàm ý chỉ nền kinh tế của quốc gia đó đang ở trình độ phát triển nào theo theo thứ bậc phân loại quốc tế. Nền kinh tế đó quyết định mức độ phát triển của quốc gia đó, thể hiện qua mức sống dân cư, thu nhập, và liên quan tới cầu hàng hóa. Trình độ phát triển của một nền kinh tế ảnh hưởng đến quan niệm, trình độ giao dịch và cách thức giao dịch với các đối tác thuộc các nền kinh tế khác. Chính trị ổn định là môi trường khuyến khích hoạt động kinh doanh của các chủ thể, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Một đất nước chính trị bất ổn, luôn đi kèm với nó là những rủi ro trong kinh doanh không thể lường trước.
3.2.1.2. Hệ thống các quy định, các rào cản thương mại của nước nhập khẩu
Để đảm bảo cho việc kinh doanh được tiến hành thuận lợi, đúng thời gian, tránh mắc các sai lầm đáng tiếc, thì việc nghiên cứu hệ thống các quy định, các rào cản thương mại của nước nhập khẩu là một công việc thường xuyên và không thể thiếu của nhà xuất khẩu.Chẳng hạn như trong năm 2008, EC và một số nước EU đã thực hiện một số biện pháp về chính sách thương mại có thể gây khó khăn cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU
Từ tháng 12/2007 đến tháng 1/2008, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không cho nhập khẩu cá kiếm của Việt Nam với lý do Việt Nam chưa phải là thành viên của Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC); Tháng 6/2008, Hội đồng châu Âu thông qua việc không cho mục XII (chủ yếu là giày dép) của Việt Nam được hưởng ưu đãi GSP giai đoạn 2009 – 2011;
Tháng 10/2008, EC quyết định tiến hành rà soát cuối kỳ việc chống bán giá đối với mặt hàng giày mũ da của Việt Nam và Trung Quốc đồng nghĩa với việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá trong thời gian rà soát cuối kỳ (về lý thuyết có thể lên tới 15 tháng). Trong năm 2008, hàng thực phẩm của Việt Nam đã 51 lần bị đưa vào Hệ thống Cảnh báo nhanh đối với hàng thực phẩm và thức ăn gia súc của EU (RASFF) tăng hơn so với năm 2007 (42 lần). Trong đó, có 31 lần đối với hàng thủy sản (năm 2007 là 22) và 20 lần đối với nông sản,
thực phẩm (tương đương với năm 2007). Những quy định đã gây khó khăn cho việc phát triển thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.1.3. Tiềm năng thị trường xuất khẩu
Nói tới tiềm năng thị trường xuất khẩu là nói tới quy môi thị trường, cơ cấu và tăng trưởng của thị trường. Quy mô của thị trường thể hiện qua dân số và thu nhập quốc dân. Một thị trường có dân số đông, với mức thu nhập trung bình trở nên, hứa hẹn nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu ở các quốc gia khác. Nhà xuất khẩu phải đánh giá được mức cầu hiện nay của thị trường, mức gia tăng hiện nay, dự đoán cầu hướng vào doanh nghiệp, để xem xét thị phần hàng hóa của doanh nghiệp trên thị trường đó như thế nào. Hiện nay, Các tiểu Vương quốc Ảrập thống nhất (UAE) đang được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.Ở vị trí "cửa ngõ" vịnh Ba Tư, các cảng biển của UAE có lợi thế lớn trong giao lưu thương mại với châu Phi, các nước Ả Rập và cả châu Âu. UAE là thị trường khá dễ tính, hàng gì cũng có thể bán được, do đây là nơi trung chuyển đi châu Phi những hàng hóa rẻ tiền. Hơn nữa đây là thị trường rất dễ dàng về luật lệ vì ngoại trừ 5% thuế quan, ngoài ra không có thêm bất kỳ loại thuế nào, đưa hàng sang rất dễ dàng, không có yêu cầu gì về bảo hộ hay đăng ký.
Đây là một thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với rất nhiều loại hoa quả nhiệt đới như chuối, nhãn, vải, chôm chôm... nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam vào UAE còn rất hạn chế. Ngoài ra, hàng dệt may, giày dép, gạo, các loại rau xanh - những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam - cũng có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này.
3.2.1.4. Quan hệ ngoại giao, chính sách của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Quốc gia có đường lối chính trị mở cửa, hội nhập với thế giới, có quan hệ ngoại giao ngoại thương thông qua các hiệp định được ký kết... là một nhân tố quan trọng tạo điều kiện phát triển thị trường hàng hóa, tìm kiếm đối tác. Ngoài ra các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của nhà nước cũng đóng góp tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu như là: Hỗ trợ xúc tiến thương mại, Tín dụng xuất khẩu, khuyến khích đầu tư...Qua 20 năm mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thêm với 57 nước, nâng tổng số các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam lên 169 nước và có quan hệ buôn bán với 224/255 thị trường và các vùng lãnh thổ. Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, coi xuất khẩu chiếm vị trí cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu có điều kiện thuận lợi để thâm nhập và mở rộng, phát triển các thị trường xuất khẩu hàng hóa.
3.2.2. Các nhân tố chủ quan
3.2.2.1. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh được coi là kim chỉ nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là định hướng hoạt động có mục tiêu trong một thời gian dài cùng với hệ thống chính sách, biện pháp và cách thức phân bổ nguồn lực để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp trong khoảng thời gian tương ứng. Chiến lược kinh doanh xác định ai là khách hàng của doanh nghiệp, thị trường nào là thị trường mục tiêu- điều này chi phối đến việc kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa hay hướng ra xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
3.2.2.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện trên nhiều mặt: chất lượng, giá cả sản phẩm, sự khác biệt của sản phẩm, năng lực tài chính, kinh nghiệm, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực hay vị thế của doanh nghiệp trên thị trường...Quyết định xuất khẩu hay không và liệu doanh nghiệp đã sẵn sàng chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường hay chưa chính là phụ thuộc vào việc xem xét các yếu tố trên.Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu không làm được điều này, doanh nghiệp không chỉ thất bại trên “sân khách” mà còn gánh chịu những hậu quả tương tự trên chính “sân nhà”.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2008
1. Thực trạng thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sau Hiệp định thương mại tự do Việt – Mỹ (BTA) và trước khi Việt Nam gia nhập WTO (giai đoạn 2001-2006)
1.1.Vai trò của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
Đến cuối năm 2002, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170 nước trên thế giới, trong số này ta đã có quan hệ thương mại với gần 140 nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực thương mại hoạt động, Chính phủ Việt Nam đã ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó gần 80 cam kết cho Việt Nam hưởng Quy chế Tối huệ quốc – Most Favoured Nations (MFN). Trong số các hiệp định thương mại song phương đã ký thì Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ sẽ có ảnh hưởng lớn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam, vì:
Mỹ là nước có nền kinh tế và thương mại lớn nhất thế giới: Mỹ chiếm gần 50% sản lượng công nghiệp, gần 20% trị giá xuất nhập khẩu của thế giới. Mỗi năm, Mỹ xuất khẩu gần 900 tỷ USD, nhập khẩu gần 1.300 tỷ USD. Năm 2001, GDP của Mỹ đã lên đến gần 10.000 tỷ USD (số liệu của WTO công bố năm 2002), cho nên ký hiệp định với Mỹ mở ra thị trường thuận lợi có dung lượng lớn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Nước Mỹ có vai trò nòng cốt, chi phối hoạt động của các định chế tài chính và thương mại quốc tế như IMF, WTO, WB, ADB…, cho nên ký hiệp định thương mại với Mỹ tạo ra khả năng tăng cường sự ảnh hưởng thuận lợi của các tổ chức trên với nền kinh tế của Việt Nam và giúp đẩy nhanh tiến trình hội nhập của nước ta với khu vực và thế giới.
Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ được soạn thảo dựa vào các tiêu chuẩn nội dung của Tổ chức Thương m._. cho các thương vụ hiện có cần phải mở thêm các thương vụ mới ở những nước quan trọng trong khu vực như Panama, Venezuela và Colombia. Mỗi thương vụ ít nhất nên có 2 biên chế.
Khu vực Mỹ La Tinh đa phần sử dụng tiếng Tây Ban Nha, (Trừ Brasil sử dụnh tiếng Bồ Đào Nha) - ngôn ngữ mà các doanh nghiệp ta ít biết; do vậy, việc giao dịch cũng bị hạn chế. Số người biết tiếng Tây Ban Nha của Bộ cũng rất ít và đa phần đã sắp đến tuổi nghỉ. Đối với tiếng Bồ Đào Nha, tình trạng còn khó khăn hơn. Do vậy, việc đào tạo 2 ngôn ngữ này cho các cán bộ làm việc ở khu vực này là điều hết sức cần thiết.
Các nước Mỹ La Tinh rất coi trọng quan hệ cá nhân, đặc biệt là quan hệ giữa các lãnh đạo cấp cao, do vậy nên cần phải thiết lập được mối quan hệ này bởi vì hầu như tất cả các Tổng thống của các nước Mỹ La Tinh đều là Nguyên thủ Quốc gia, đồng thời đứng đầu Nội các. Việc có được các quan hệ cá nhân thân thiện với họ là chìa khoá giúp giải quyết nhanh chóng các vấn đề lớn thuộc về lợi ích quốc gia.
Lãnh đạo Bộ cũng cần phải có chương trình thăm và làm việc với cấp tương đương của các nước sở tại để thiết lập các mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại song phương và đề xuất các vấn đề mang tính chiến lược cũng như tìm tiếng nói chung góp phần giải quyết các bất đồng trong buôn bán toàn cầu và đề xuất các giải pháp khả thi thúc đẩy tăng trưởng thương mại và đầu tư phù hợp với điều kiện thực tế giữa ta và các nước trong khu vực.
Về phía vụ Thị trường và các vụ chức năng khác như Vụ XNK, Vụ Đa biên, Cục XTTM, Cục QLCT cũng cần thiết phải kết hợp tổ chức các chuyến công tác sang các nước quan trọng trong khu vực như Brasil, Colombia, Argentina, Chile, Peru, Venezuela ỏ Nam Mỹ và các nước khác như Mexico, Panama. để khảo sát thị trường, tìm hiểu tập quán buôn bán, các biện pháp tốt nhất giúp công tác xúc tiến thương mại vào các nước này đạt hiệu quả cao nhất, cũng như tham khảo chính sách của các nước sở tại trong việc áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá. Xem xét khả năng ký kết các thoả thuận song phương, cắt giảm thuế quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi cho việc phát triển buôn bán và đầu tư giữa ta và họ. Việc thực hiện các chuyến thăm chắc chắn sẽ giúp các vụ chức năng nêu trên có cách nhìn thực tế hơn về Mỹ La tinh, về nhu cầu hàng hoá, khả năng cung cấp, các kênh phân phối, các chính sách và tập quán thương mại mà họ đang thực thi, các cơ hội cho hàng hoá Việt Nam có thể xâm nhập thị trường khu vực. Đặc biệt là để xác định được những mặt hàng nào ta có thể xuất khẩu được vào khu vực và ngược lại. Trên cơ sở đó giúp cải tiến các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia vào khu vực linh hoạt và hiệu quả hơn. Đồng thời giúp các doanh nghiệp xác định được những mặt hàng mà thị trường khu vực có nhu cầu và những sản phẩm mà họ có khả năng cung cấp.
Mặt khác, hàng năm vụ Thị trường nên xem xét kết hợp với các vụ chức năng nêu trên và có thể cả với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Đại sứ quán các nước Mỹ La Tinh tại Việt Nam tổ chức các hội thảo chuyên đề buôn bán với Mỹ La Tinh cho các doanh nghiệp ta nhằm giúp họ các thông tin cần thiết và thực tế về Mỹ La Tinh.
Công tác xúc tiến thương mại của ta thời gian qua vào khu vực đã có những tiến bộ đáng kể, tuy nhiên xét về mặt hiệu quả thì còn chuyện phải bàn. Cục xúc tiến Thương mại nên phối hợp với các hiệp hội ngành hàng chọn trong số họ nhũng doanh nghiệp có khả năng sản xuất, cung cấp và phân phối các sản phẩm mà ta có thế mạnh như dệt may, da giày, cao su, đồ gỗ, các sản phẩm điện và điện tử, hải sản đã chế biến, vật liệu xây dựng (chủ yếu là gạch lát nền, gạch ốp tường)…
Thị trường các nước Mỹ La Tinh từ lâu đã được phân chia. Đa số các sản phẩm từ trước tới nay ta xuất khẩu được vào thị trường khu vực đều là các sản phẩm có chất lượng khá và giá cả hợp lý. Các mặt hàng giá rẻ, chất lượng thấp hàng của ta không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc, hàng Ấn Độ, Uruguay và Brasil. Đặc biệt, trong lĩnh vực dệt may, giày dép, hàng của ta xuất sang họ chủ yếu là những mặt hàng ta sản xuất theo đơn đặt hàng của các các tập đoàn lớn như NIKE, ADIDDA, REB. SAMSONITTE, SARA hoặc mang nhãn hiệu của các Cty xuyên quốc gia khác. Ta chưa có được nhãn hiệu của riêng mình ngoại trừ gạo cà phê cao su tự nhiên và hạt tiêu mang nhãn hiệu “sản xuất tại Việt Nam”. Do vậy, các Thương vụ ta tại khu vực này phải tìm các biện pháp tiếp cận được với các tập đoàn siêu thị quốc tế đang hoạt động ở Mỹ La Tinh, kéo họ vào Viêt Nam, hợp tác với họ trong việc sản xuất và cung cấp hàng tiêu dùng thì mới có cơ hội để tăng trưởng nhanh xuất khẩu hàng hoá của ta sang các nước này.
Trong số các nước Mỹ La Tinh hiện nay có 4 nước ta nên tập trung ưu tiên mở rộng quan hệ buôn bán và đầu tư với họ đó là Mexico, Brasil, Chile và Panama, đây là 4 nước có nền thương mại mở cửa nhất. Chile, Brasil và Mexico là ba nước có vốn đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất trong khu vực. Panama là trung tâm và cửa ngõ vào các nước Trung Mỹ. Chile là nước có biểu thuế nhập khẩu thấp nhất hiện nay trong khu vực Mỹ La Tinh và họ cũng là nước đã ký nhiều hiệp định thương mại tự do và hiệp định kinh tế bổ sung với các nước này. Mặt khác Chile hiện là nước có các tập đoàn siêu thị đang hoạt động rất hiệu quả tại hầu hết các nước Nam Mỹ và là cửa ngõ thuận lợi cho hàng hoá vào các nước như Peru, Bolivia, Achentina. Việc triển khai đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Chile sẽ tác mở ra cơ hội mới và tác động tích cực tới việc tăng trưởng xuất khẩu cũng như việc phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá của ta vào khu vực.
3.2.4. Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á
3.2.4.1. Một số thuận lợi và khó khăn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực
Thuận lợi:
Một là, nền kinh tế châu Phi và Nam Á đã có những chuyển biến đầy hứa hẹn do nhiều nước đã thực hiện triệt để chương trình cải cách các chính sách kinh tế vĩ mô tập trung ở nhiều ngành và lĩnh vực.
Hai là, nhu cầu thế giới với các sản phẩm xuất khẩu của châu Phi đang ngày càng gia tăng như xăng dầu, kim loại, khoáng sản…
Ba là, các nước Nam Á đã thực hiện thành công chính sách thúc đẩy tăng trưởng khu vực tư nhân và tư nhân hóa (Ấn Độ, Pakistan)
Bốn là, tích cực hội nhập sâu hơn giữa các nền kinh tế trong khu vực và với nền kinh tế toàn cầu
Năm là, chính sách tài chính, ngân hàng của các nước Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ cũng ngày càng cởi mở hơn trong nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài.
Sáu là, đặc biệt với khu vực Tây Á (Trung Đông), giá dầu thô tăng cao đã đem lại một khoản thu nhập ngoại tệ lớn đối với các quốc gia khu vực này.
Những bất lợi tiềm ẩn:
Thứ nhất, bất ổn về chính trị, chiến tranh, cướp bóc, nội chiến và phân biệt sắc tộc vẫn chưa được giải quyết triệt để (bạo loạn ở Nigeria, mâu thuẫn nội bộ ở Pakistan, nội chiến ở Sudan hay Liberia)
Thứ hai, cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Iran đến nay vẫn chưa có hồi kết khiến cho giá dầu ngày một leo thang, ảnh hưởng đến nền kinh tế nhiều quốc gia.
3.2.4.2. Giải pháp
Khu vực thị trường Trung Đông – Nam Á – Châu Phi có những đặc thù riêng. Trung Đông có những yếu tố tôn giáo chặt chẽ. Châu Phi có khoảng cách địa lý xa xôi và thông tin về thị trường còn hạn chế và chưa được các doanh nghiệp chú trọng nhiều. Nam Á, ngoại trừ Ấn Độ, gồm các quốc gia thu nhập thấp và tình hình chưa thực sự ổn định. Ngoài ra, một vấn đề lớn đặt ra trong quan hệ thương mại với các nước Nam Á là mức thâm hụt thương mại ngày càng lớn với Ấn Độ. Vì vậy, việc tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Ấn Độ nhằm giảm tỷ lệ nhập siêu với quốc gia này là rất cần thiết.
Đối với nhà nước
a. Tăng cường trao đổi các đoàn lãnh đạo cấp cao, đoàn cấp Bộ ngành để thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các nước, trước mắt là các thị trường trọng điểm như : Nam Phi, Ai Cập, Angieri, Maroc, UAE, Thổ Nhĩ Kỳ…
b. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý thông qua việc ký kết các Hiệp định như Hiệp định Thương mại, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực hàng không, hàng hải, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Cụ thể : tiếp tục thực hiện Hiệp định Hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp với Marốc, giải tỏa những vướng mắc trong hoạt động thanh toán qua hệ thống ngân hàng với Iran, xây dựng cơ chế xử lý các hành vi không đúng chuẩn mực thương mại, gian lận thương mại, các hành vi lừa đảo của một bộ phận doanh nghiệp (như ở Pakistan).
c. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại. Một mặt tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại như chương trình XTTM quốc gia, tham dự triển lãm, hội chợ. Mặt khác, cần có sự điều chỉnh đối với các chương trình XTTMQG như Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí xúc tiến cho các đoàn XTTM hoặc khảo sát thị trường tại những nước châu Phi chậm phát triển. Các chương trình XTTM cần được đổi mới, hạn chế các đoàn khảo sát, nghiên cứu chung chung.
d. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước châu Phi để sản xuất hàng hoá tiêu thụ tại chỗ hoặc phục vụ xuất khẩu sang nước thứ ba trong các lĩnh vực như sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cơ khí, điện tử, viễn thông, công nghiệp xe máy, chế biến nông lâm thủy sản.
e. Mở rộng Thương vụ: hiện tại, ở Châu Phi ta mới có 05 Thương vụ trong tổng số 54 nước Châu Phi. Tại Trung Đông mới chỉ có 4 trong 15 nước. Cần triển khai thành lập mới Thương vụ tại các thị trường điểm như: Tanzania, Ăngôla, Cote d’Ivoire, Arap Xêut, Israel.
f. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thu thập và phổ biến thông tin thị trường:
- Đối với Thương vụ : tư vấn cho doanh nghiệp cách thức thâm nhập vào các kênh phân phối hoặc cách thức để đưa hàng hoá nhập khẩu vào thị trường.
- Đối với Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp và các Hiệp hội Ngành hàng: rà soát và đổi mới cách thức tổ chức các Chương trình XTTMQG và các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài nhằm tận dụng tối đa cơ hội để thu thập thông tin về cơ chế chính sách, tập quán buôn bán, nhu cầu mặt hàng…
- Phổ biến thông tin: Cần tranh thủ ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập cũng như phổ biến thông tin thị trường trên trang web của Bộ Thương mại, Phòng TMCN, Cục XTTM, Trung tâm XTTM và ĐT TPHCM, Diễn đàn doanh nghiệp Việt nam – Châu Phi…
- Diễn đàn doanh nghiệp Việt nam – Châu Phi cần đẩy mạnh công tác giới thiệu và hướng dẫn doanh nghiệp tham gia và khai thác thông tin qua cổng giao dịch này một cách hữu ích. Viện Nghiên cứu Trung Đông và Châu Phi cần phối hợp với Diễn đàn trong việc đăng tải các tài liệu nghiên cứu thị trường có tính thực tế.
- Tổ chức Hội thảo trong nước giới thiệu về thị trường Châu Phi và Trung Đông cho các doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp
a. Tích cực và kiên trì hơn trong công tác nghiên cứu thông tin thị trường
Doanh nghiệp cần xác định mặt hàng trọng điểm, thị trường trọng điểm, từng bước xây dựng bàn đạp để mở rộng hoạt động xuất khẩu vào khu vực thị trường này, chẳng hạn: An-giê-ri (gạo, cà ph ê và hạt ti êu), Ăng-gô-la và Kê-nya (gạo và sản phẩm dệt may), Ai Cập (máy vi tính và linh kiện, hạt tiêu, rau quả và sợi), Nam Phi (gạo, giày dép, cà phê, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, sản phẩm gỗ, Thổ Nhĩ Kỳ (sản phẩm nhựa, giày dép, hàng điện tử, dệt may), UAE (hạt tiêu, hải sản, đồ gỗ và nội thất, chè, cà phê, dệt may, giày dép)…
b. Khảo sát thị trường, tham dự hội chợ, hội thảo doanh nghiệp
Một trong những kinh nghiệm của các doanh nghiệp đang trực tiếp làm ăn với Châu Phi là cần trực tiếp gặp gỡ đối tác kinh doanh.
Để những hoạt động này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, từng chuyển đi, tránh tham gia một cách hời hợt.
c. Tăng cường liên hệ với các Thương vụ tại các nước sở tại
Thương vụ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các khó khăn. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể gửi hàng mẫu đề nghị Thương vụ giúp chào hàng và tìm hiểu thủ tục của bạn về những vấn đề khác liên quan.
d. Lựa chọn phương thức kinh doanh phù hợp : Doanh nghiệp cần lựa chọn một trong các hình thức kinh doanh sau cho phù hợp với khả năng tài chính cũng như mục tiêu của mình: xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu tại chỗ hay đầu tư.
e. Tập trung đào tạo và xây dựng đội ngũ tiếp thị hàng hóa chuyên nghiệp
Các hiệp hội ngành hàng cần tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đào tạo xây dựng đội ngũ tiếp thị thị theo từng nhóm, ngành hàng để nâng cao chất lượng giao dịch kinh doanh và quảng bá sản phẩm.Tạo lập môi trường điều kiện để phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
4. Tạo lập môi trường điều kiện để phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
4.1. Trong ngắn hạn
Đề nghị Chính phủ:
Giao Bộ Công Thương xây dựng Chương trình xúc tiến thương mại năm 2009 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý I/2009 theo hướng vừa phát huy biện pháp xúc tiến thương mại truyền thống, vừa áp dụng xúc tiến thương mại theo từng ngành hàng, từng hợp đồng xuất khẩu lớn; thu hút các tập đoàn lớn nước ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Dự kiến nguồn vốn dành cho chương trình khoảng 200 tỷ đồng.
Ngân hàng Nhà nước:
Tiếp tục xem xét điều chỉnh lãi suất cơ bản phù hợp với diễn biến thị trường trong năm 2009 có tính đến lãi suất các nước trong khu vực và thế giới. Đây là biện pháp hữu hiệu để kích cầu và thúc đẩy sản xuất. Đồng thời, đảm bảo duy trì tỷ giá ổn định theo hướng có lợi cho xuất khẩu.
Nghiên cứu cơ chế khuyến khích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay xuất khẩu với lãi suất ưu đãi thông qua việc giảm lãi suất tái cấp vốn, hỗ trợ lãi suất và các hình thức hỗ trợ khác… Ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho nông dân và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản xuất khẩu.
Bộ Tài chính
Tăng cường sử dụng công cụ Ngân hàng Phát triển để thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu:
Xem xét tiếp tục giảm mức lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu phù hợp với tình hình thực tế và thực sự có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn (điều chỉnh giảm từ mức 10,8%/năm hiện nay xuống khoảng 5-6%/năm, tương đương lãi suất được bù theo gói Kích cầu 17.500 tỷ đồng).
Bổ sung, sửa đổi Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu theo hướng tập trung ưu tiên cho tín dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bổ sung danh mục mặt hàng và lĩnh vực được vay vốn đầu tư sản xuất gồm: gạo, dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng, cao su, nhóm hàng cơ khí, sắt thép, các sản phẩm từ gang thép, vật liệu xây dựng và túi xách va ly ô dù. Triển khai nghiệp vụ cấp tín dụng nhập khẩu cho nhà nhập khẩu nước ngoài nhằm đẩy mạnh xuất khẩu đối với một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, nông sản…
Mở rộng định mức vay và giãn thời gian trả nợ vay ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản, công nghiệp, chế biến (gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giầy dép, nhựa) và các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp đã nhập khẩu thép. Kịp thời giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp về thủ tục hành chính, hải quan liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
d. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chủ trì phối hợp với Bộ Công Thương nghiên cứu các hình thức hỗ trợ nông dân theo cam kết của Việt Nam với WTO về hỗ trợ nông nghiệp (10% trị giá sản phẩm nông nghiệp), hỗ trợ thiết bị và kinh phí kiểm tra dư lượng kháng sinh, vệ sinh an toàn thực phẩm, hỗ trợ bảo quản hàng nông sản (gạo, cà phê) sau thu hoạch như đầu tư sân phơi, lò sấy, kho chứa…
Chủ trì phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương nghiên cứu đề xuất các biện pháp từng bước hoàn chỉnh các cơ chế đảm bảo sản xuất và tiêu thụ ổn định các nông sản, thủy sản chính như gạo, cá tra, tôm và cà phê. Triển khai xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn các mặt hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu mua nông lâm thủy sản, trước mắt, như tôm, cá xuất khẩu.
đ. Bộ Công Thương
Nghiên cứu và báo cáo Thủ tướng Chính phủ các hình thức hỗ trợ tài chính cho các hợp đồng xuất khẩu giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.Tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các thương vụ tập trung tìm đầu ra để tiêu thụ gạo, thủy sản và các nông sản khác.
Theo dõi sát, có biện pháp đề phòng tích cực trước tình hình khủng hoảng tài chính của Mỹ và thế giới. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin dự báo, phát hiện kịp thời và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật do các nước đưa ra để hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tập trung đầu tư nâng công tác dự báo về thị trường, về hàng hàng hóa và các điều kiện thương mại… làm cơ sở cho việc chỉ đạo phát triển sản xuất, xuất khẩu vào những thời điểm có hiệu quả nhất.
Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam tìm hiểu thông tin, có chiến lược vận động Chính phủ, Bộ Nông nghiệp, Bộ Thương mại và các cơ quan có liên quan của Mỹ nhằm hạn chế việc Dự luật nông nghiệp 2008 gây khó khăn cho xuất khẩu cá tra.Tập trung thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại theo phương thức tập trung hỗ trợ trực tiếp cho các mặt hàng và các hợp đồng xuất khẩu lớn, quan tâm đến các thị trường lớn, truyền thống lẫn các thị trường tiềm năng như Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ La Tinh ở cả cấp Chính phủ và doanh nghiệp. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư kêu gọi và thu hút các tập đoàn lớn nước ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
Phối hợp với các Bộ ngành liên quan phân tích và đánh giá hiệu quả của việc tham gia các FTA và đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, đào tạo về lĩnh vực hội nhập khu vực nói chung và về các Quy tắc xuất xứ (trong các FTA) nói riêng để giúp các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời những quy định mới, áp dụng hiệu quả các cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường các nước nhập khẩu do các Hiệp định FTA mang lại.
Chủ trì cùng Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua hình thức thuê kho ngoại quan ở nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam gửi hàng và bán trực tiếp cho doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối của các thị trường ở Châu Phi, Trung Đông, Nam Mỹ và một số nước khác nhằm giúp hàng hoá của Việt Nam có có hội thâm nhập trực tiếp vào các thị trường này và giảm thiểu các rủi ro về thanh toán. Quản lý chặt chẽ thị trường nội địa, bảo đảm nhu cầu lành mạnh, hợp lý, đi đôi với việc xử lý nghiêm vi phạm đối với các hành vi đầu cơ gây biến động giá cả, cung cầu.
e. Các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp:
Cần có cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành quản lý và các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành. Nhà nước cần có sự hỗ trợ nhất về tài chính cho hoạt động của Hiệp hội. Các Bộ, ngành và Hiệp hội cần phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá ở thị trường trong nước và nước ngoài cung cấp cho các hội viên và doanh nghiệp.
Phối hợp với các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài trong việc thông tin về tình trạng pháp lý và khả năng thanh toán của đối tác, nhằm giảm thiểu rủi ro trong giao kết hợp đồng xuất khẩu, nhất là ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang chịu tác động ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính. Khuyến cáo doanh nghiệp trong việc rà soát các hợp đồng xuất khẩu đã ký, nhất là các hợp đồng dài hạn, hợp đồng kỳ hạn. Đặc biệt chú ý vấn đề khả năng thanh toán của đối tác. Cẩn trọng trong việc sử dụng các công cụ thanh toán, điều kiện thanh toán trong các giao dịch có khả năng tiềm ẩn rủi ro trong việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán của đối tác.
4.2. Trong trung và dài hạn
a. Xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu
Bộ Công Thương triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, dày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. Vấn đề này mặc dù đã được đặt ra nhiều năm nay đối với nhiều mặt hàng ngành hàng nhưng cho đến nay kết quả vẫn rất khiêm tốn. Trong thời gian tới đề nghị nhà nước cho phép triển khai các khu tập trung như những khu công nghiệp, khu bảo thuế, trung tâm buôn bán nguyên phụ liệu (dệt may, giầy dép…) và cho phép các nhà đầu tư phân phối hàng hoá trong nước và nước ngoài vào hoạt động.
b. Thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan,
Bộ Tài chính xây dựng lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu để giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa... Trước mắt cần xem xét bãi bỏ một số thủ tục đối với việc nhập khẩu nông sản từ các nước có chung biên giới với Việt Nam, tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu sản xuất xuất khẩu và xem xét cho thông quan hàng xuất khẩu từ các cửa khẩu phụ.
c. Đẩy mạnh đàm phán với các nước
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, New Zealand… để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản.
Hợp tác với các nước khác có cùng mặt hàng xuất khẩu (gạo với Thái Lan, cà phê với Indonesia, Braxin, đồ gỗ với Malaysia…) để tăng cường hiệu quả xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản có thế mạnh của Việt Nam.
d. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng phục vụ xuất khẩu
Bộ Công Thương triển khai thành lập Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Hình thức bảo hiểm xuất khẩu (hỗ trợ của Chính phủ) được áp dụng phổ biến tại các nước phát triển, trong khi thực tiễn kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần thiết và phù hợp với các quy định của WTO.
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng báo cáo đánh giá ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian qua và dự báo tỷ giá giai đoạn 2009-2010. Tỷ giá hối đoái có tác dụng tích cực hoặc hạn chế đến công tác xuất nhập khẩu. Do đó, điều tiết tỷ giá hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý là cần thiết.
Ngân hàng Nhà nước ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho người nông dân và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu với lãi suất hợp lý. Các mặt hàng cần ưu tiên trước mắt là thủy sản, gạo, cà phê, hạt điều, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Đẩy mạnh tuyên truyền và khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa đồng tiền thanh toán và phòng ngừa rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu.
đ. Bộ Công Thương nâng cao hiệu quả và tăng cường công tác xúc tiến thương mại
Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng.
Đổi mới cách thức tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm có kim ngạch nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước EU…, và các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tham tán thương mại tại các nước theo hướng hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua cơ chế phối hợp giữa các Hiệp hội ngành hàng và các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài. Nghiên cứu và phát triển hình thức xúc tiến doanh nghiệp nhằm kêu gọi các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới vào đầu tư sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu tại Việt Nam…
g. Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất xuất khẩu
Bộ Lao động Thương binh và xã hội: Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí…Đồng thời, chú trọng khâu thiết kế, tạo dáng sản phẩm; Tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước.
Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành quản lý với các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá ở thị trường trong nước và nước ngoài cung cấp cho các hội viên và doanh nghiệp.. Nhà nước cần có sự hỗ trợ nhất về tài chính cho hoạt động của Hiệp hội.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc, xuất khẩu tiếp tục được khẳng định là động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế Việt Nam những năm tới, khi mà giá trị kim ngạch xuất khẩu hiện nay chiếm tới 70-80% GDP. Mục tiêu của Việt Nam là hướng đến xuất siêu, muốn thế phải đẩy mạnh xuất khẩu, giảm dần nhập siêu và hướng tới xuất siêu để tích luỹ ngoại tệ. Kinh ngiệm Trung Quốc cho thấy, sau 20 năm xuất siêu liên tục, nước này đã có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Vì vậy, Việt Nam cũng cần hướng tới xuất siêu để có nguồn lực để tăng nhanh dự trữ ngoại tệ quốc gia và đây chính là công cụ hiệu quả để đối phó với những biến động trên thị trường thế giới, nhất là khi tình hình kinh tế thế giới đang có những diễn biến khó lường ảnh hưởng từ cuộc khủng hoàng tài chính đã lan ra toàn cầu. Muốn vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động chuẩn bị biện pháp phù hợp để thâm nhập, mở rộng thị trường, nâng cao kim ngạch xuất khẩu theo định hướng bền vững và hiệu quả. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã có độ mở rất lớn, dựa tới 70% vào xuất khẩu, thậm chí cả nhập khẩu (vì Việt Nam vẫn phải nhập khá lớn nguyên liệu cho hàng hóa xuất khẩu), thì trong bối cảnh xuất khẩu giảm sút, giá cả thị trường thế giới biến động mạnh, các yếu tố phát triển bền vững sẽ bị đe dọa. Nếu chỉ quan tâm tới xuất khẩu, mà không coi trọng đúng mức thị trường nội địa, tiêu dùng trong nước và không kết hợp hài hoà giữa sản xuất cho xuất khẩu với sản xuất thay thế nhập khẩu, thì không thể duy trì sự phát triển ổn định và bền vững. Bởi vậy, cần quán triệt thị trường trong nước là cơ sở, thị trường nước ngoài là quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp và cả trong chiến lược phát triển của đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
Giáo trình Kinh tế thương mại. GS.TS. Đặng Đình Đào - GS.TS Hoàng Đức Thân - NXB Thống kê 2003.
Giáo trình Marketing Thương mại. PGS.TS. Nguyễn Xuân Quang - NXB Lao động xã hội 2006
Thương mại Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế - Bộ Thương mại 8/2004
Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu. PGS.TS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống kê 2003
Xúc tiến thương mại.Ủy ban Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc Khu vực Châu Á Thái Bình Dương - Viện nghiên cứu Thương mại. NXB Chính trị quốc gia 4/2005
Các chiến lược và các kế hoạch Marketing xuất khẩu. GS.TS Dương Hữu Hạnh - NXB Thống kê Quý 3/2005
Thị trường Việt Nam thời kỳ hội nhập AFTA - Trung tâm thương mại - NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2003
Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. NXB thống kê 2001.
Báo và Website
www.vnep.ort.vn - Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện Quản lý kinh tế Trung ương
www.moit.gov.vn - Trang tin điện tử Bộ Công thương
-
www.baocongthuong.com.vn - Báo Công thương điện tử
- Tổng cục thống kê
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Tạp chí kinh tế số 25/2008
C. Các báo cáo, đề án của Bộ Công thương
1. Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010
2. Báo cáo tổng kết 2008
3. Đề án xuất nhập khẩu giai đoạn 2008-2010
4. Đề án xuất nhập khẩu giai đoạn 2009-2010
5. Báo cáo chung về công tác thị trường ngoài nước 2007
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2006 43
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2004-2006(Nguồn: Bộ Công thương) 45
Bảng 3: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%) 45
Bảng 4: Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985 - 200 46
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu 52
Bảng 6: Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%) 53
Bảng 7. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam 2 năm gia nhập vT 66
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường khi Việt Nam gia nhập WTO 67
Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2 năm Việt Nam gia nhập WTO 69
Bảng 10: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 73
Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 phân theo nhóm hàng 76
Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 theo nhóm chủ thể tham gia xuất khẩu 78
Bảng 12: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm chủ thể tham gia giai đoạn 2001-2008 78
Bảng 13: Phương án 2 - Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2009-2010 89
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21554.doc