Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH œœœœœ &  PHẠM THỊ ANH THƯ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU GIAI ĐOẠN 2008-2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.Hồ Chí Minh – Năm 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH œœœœœ &  PHẠM THỊ ANH THƯ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU GIAI ĐOẠN 2008-2020 Chuyên Ngành: Kinh tế tài chính - Ngân Hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS TRẦN NGỌC THƠ TP.Hồ Ch

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í Minh – Năm 2008 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU GIAI ĐOẠN 2008-2020” là công trình nghiên cứu của bản thân, được đúc kết từ quá trình học tập và nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, dưới sự hướng dẫn của Thầy GS. TS Trần Ngọc Thơ. Tác giả luận văn Phạm Thị Anh Thư LỜI CẢM ƠN Chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế TP.HCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu. Chân thành cảm ơn các Thầy Cô Khoa Sau đại học đã tham gia giảng dạy chương trình Cao học trong thời gian qua. Chân thành cảm ơn GS. TS Trần Ngọc Thơ đã tận tình hướng dẫn, những ý kiến đóng góp quý báu của Thầy đã giúp tôi hoàn thành luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn. Tác giả luận văn Phạm Thị Anh Thư MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, HÌNH PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG I LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU 1 I.1. Thị trường trái phiếu 1 I.1.1. Khái niệm về trái phiếu 1 I.1.2. Phân loại trái phiếu 1 I.1.2.1. Căn cứ vào chủ thể phát hành 1 I.1.2.2. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng 3 I.1.3. Vai trò của thị trường trái phiếu 4 I.1.3.1. Đối với nền kinh tế 4 I.1.3.2. Đối với doanh nghiệp 6 I.1.3.3. Đối với nhà đầu tư 8 I.2. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu 9 I.2.1. Rủi ro lãi suất 9 I.2.2. Rủi ro lạm phát 10 I.2.3. Rủi ro thanh khoản 10 I.2.4. Rủi ro tín dụng 11 I.3. Định mức tín nhiệm đối với thị trường trái phiếu 11 I.3.1. Khái niệm định mức tín nhiệm 11 I.3.2. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức ĐMTN 12 I.3.3.Sự cần thiết cho việc xây dựng hệ thống ĐMTN trong nước 13 I.4. Bài học kinh nghiệm về thị trường trái phiếu ở một số nước Châu Á 16 Kết luận chương I 21 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 22 II.1.Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam 22 II.2 Thực trạng về thị trường trái phiếu Việt Nam 24 II.2.1. Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay 24 II.2.2 Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay 25 II.2.2.1. Trái phiếu Chính phủ 25 II.2.2.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương 36 II.2.2.3. Trái phiếu doanh nghiệp 40 II.3. Nguyên nhân kém phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam 48 II.3.1. Quy mô nhỏ, thanh khoản thấp 48 II.3.2. Thiếu tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp 50 II.3.3. Thiếu đội ngũ các nhà tạo lập thị trường 51 II.3.4. Chưa xác định được đường cong lãi suất chuẩn 52 II.3.5. Tính cạnh tranh thấp 53 II.3.6. Nhận thức của doanh nghiệp 53 II.3.7. Công bố thông tin chưa đầy đủ 54 II.3.8. Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh 54 Kết luận chương II 55 CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 56 III.1 Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm 2020 56 III.1.1. Quan điểm phát triển 56 III.1.2. Định hướng phát triển 57 III.2 Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam 58 III.2.1. Mở rộng quy mô, đa dạng hoá và tăng tính thanh khoản cho TTTP 58 III.2.1.1. Đối với trái phiếu Chính phủ 59 III.2.1.2 Đối với trái phiếu Chính quyền địa phương 60 III.2.1.3 Đối với trái phiếu doanh nghiệp 61 III.2.1.4. Phát triển công cụ phái sinh liên quan đến trái phiếu 63 III.2.2. Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm 64 III.2.3. Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường 67 III.2.4. Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt 67 III.2.5. Thực hiện công khai hóa thông tin 69 III.2.6. Phát triển thị trường phi tập trung 70 III.2.7. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý 72 III.2.8. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư 73 Kết luận chương III 74 KẾT LUẬN 75 ĐỀ XUẤT CHO NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á BTC Bộ Tài chính CTCK Công ty chứng khoán DNNN Doanh nghiệp Nhà nước ĐMTN Định mức tín nhiệm ĐTNN Đầu tư nước ngoài KBNN Kho bạc Nhà nước NĐT Nhà đầu tư NHPT Ngân hàng Phát triển NHTM Ngân hàng thương mại NHTƯ Ngân hàng Trung ương NSNN Ngân sách Nhà nước OTC Thị trường chứng khoán phi tập trung SGDCK TP.HCM Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh TCT Tổng công ty TPCP Trái phiếu chính phủ TPCQĐP Trái phiếu chính quyền địa phương TPCT Trái phiếu công ty TPDN Trái phiếu doanh nghiệp TTCK Thị trường chứng khoán TTGDCK HN Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội TTTC Thị trường tài chính TTTP Thị trường trái phiếu UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước WTO Tổ chức Thương mại Thế giới DANH MỤC BẢNG, HÌNH BẢNG Bảng 2.1: Tình hình phát hành trái phiếu đô thị TP.HCM 2003-2007 31 Bảng 2.2: Tình hình phát hành TPDN từ năm 2006- 30/06/2008 35 HÌNH Hình 2.1: Giá trị trái phiếu Chính phủ phát hành từ 2000-2007 23 Hình 2.2: Giá trị TPCQĐP phát hành từ 2003-2007 30 Hình 2.3: Giá trị TPDN phát hành từ 2003-2007 33 Hình 2.4: So sánh giá trị giao dịch TPCP với giá trị niêm yết TPCP 2003-2007 42 PHẦN MỞ ĐẦU TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam không thể đứng ngoài sự vận động của kinh tế toàn cầu. Một nước đi sau như chúng ta, muốn phát triển nhanh, không tụt hậu, vươn lên ngang tầm thế giới cần phải biết cách hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới để tiến nhanh, tiến mạnh. Để thực hiện mục tiêu trên cần phải chuẩn bị tốt các nguồn lực, một trong những nguồn lực đóng vai trò quan trọng đó là vốn. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng mạnh, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là rất lớn. Việc huy động vốn trong và ngoài nước trong thời gian qua đã đạt những kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước vẫn chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn lúc nào hết, nhu cầu vốn đặt ra cho Chính phủ một sự quan tâm đặc biệt để phát triển. Phát triển thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo, đây là kênh dẫn vốn nhanh để phát triển nền kinh tế đất nước. Tính đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được hơn bảy năm, đã có những bước phát triển cả về quy mô và chất lượng hàng hóa, tiến tới phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh các hoạt động mua bán giao dịch cổ phiếu sôi động thì thị trường trái phiếu vẫn chưa thật sự thu hút được các nhà đầu tư quan tâm. So với thị trường cổ phiếu đã có những phát triển vượt bậc thì thị trường trái phiếu vẫn còn đang bỏ ngỏ. Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trở thành kênh huy động vốn nhanh và hiệu quả, giải quyết các nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng của các doanh nghiệp cũng như tạo thêm hàng hoá cho thị trường và nhà đầu tư. Muốn vậy, cần phải phân tích tìm hiểu nguyên nhân kém phát triển và đưa ra các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu – một thị trường hết sức tiềm năng hiện nay. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã nghiên cứu đề tài: “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2020 ” MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Vấn đề trọng tâm mà đề tài muốn giải quyết là trên cơ sở xem xét thực trạng, phân tích những mặt còn tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các giải pháp phù hợp để thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Thông qua đó, giúp cho nền kinh tế huy động vốn hiệu quả hơn góp phần vào công cuộc phát triển nền kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề liên quan đến thực trạng hoạt động của thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp trái phiếu và những giải phát triển cả hai loại thị trường này ở Việt Nam. Về không gian, luận văn nghiên cứu trên địa bàn cả nước. Về thời gian, giới hạn nghiên cứu của đề tài là hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian tới. IV. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài đã tổng hợp tương đối hệ thống và đầy đủ số liệu hoạt động của thị trường trái phiếu ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để giải quyết các mục đích mà đề tài hướng đến, tác giả đã vận dụng lý thuyết các môn học Thị trường tài chính, Tài chính doanh nghiệp, Đầu tư tài chính làm nền tảng lý luận; bên cạnh đó tác giả sử dụng phương pháp thống kê lịch sử và phương pháp tổng hợp số liệu để đánh giá về tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam; vận dụng kinh nghiệm của các nước làm cơ sở đề xuất các giải pháp phù hợp, nhằm thúc đẩy thị trường trái phiếu Việt Nam vận động và phát triển. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành ba chương: Chương I: Nội dung cơ bản về thị trường trái phiếu. Chương II: Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam. Nêu lên tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian qua, phân tích và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam. Chương III: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Căn cứ vào những phân tích ở chương II và những định hướng phát triển trong thời gian tới, đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Ở chương II và chương III, đề tài sử dụng tên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM thay cho tên Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phù hợp với tình hình hiện nay. Sử dụng cụm từ trái phiếu doanh nghiệp thay vì trái phiếu công ty để phù hợp với từ ngữ sử dụng trong các văn bản pháp lý tại Việt Nam, theo đó trái phiếu doanh nghiệp được hiểu là trái phiếu của các loại hình công ty đang hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Chương I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU I.1. Thị trường trái phiếu I.1.1. Khái niệm về trái phiếu Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (Chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu. I.1.2. Phân loại trái phiếu I.1.2.1. Căn cứ vào chủ thể phát hành Trái phiếu được chia thành hai loại chính: trái phiếu Chính phủ (TPCP), trái phiếu Chính quyền địa phương (TPCQĐP) và trái phiếu công ty (TPCT). Trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương Là chứng khoán nợ do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt ngân sách và tài trợ các dự án xây dựng các cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng trung ương và địa phương. Khoản nợ này được Chính phủ dùng ngân sách quốc gia để thanh toán. Xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ hay Chính quyền địa phương, có thể phát hành trái phiếu: ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Có các loại trái phiếu tiêu biểu: - Trái phiếu kho bạc: là trái phiếu nợ trung, dài hạn từ 5 đến 30 năm hay hơn nữa, do kho bạc phát hành khi huy động vốn để bổ sung bù đắp ngân sách… - Trái phiếu đô thị: là trái phiếu dài hạn từ 10 đến 30 năm do Chính phủ hay Chính quyền địa phương phát hành nhằm huy động vốn tài trợ cho các dự án đầu tư hạ tầng. Trái phiếu công ty Là chứng khoán nợ do các công ty phát hành với mục đích huy động vốn cho đầu tư phát triển. Các công ty phát hành trái phiếu khi muốn huy động một số vốn lớn và có tính chất dài hạn, khi đó công ty là người đi vay và cam kết trả cho người mua trái phiếu công ty cả gốc và lãi theo những quy định trong hợp đồng phát hành trái phiếu. Để quyết định việc phát hành trái phiếu công ty cần căn cứ vào các nhân tố: tình hình của công ty, tình hình thị trường, tình hình lãi suất ngân hàng, tính chất của dự án đầu tư. Trái phiếu công ty có rất nhiều loại, tùy thuộc vào điều kiện, sự tính toán của công ty có thể lựa chọn một trong những loại trái phiếu đặc trưng sau để phát hành: - Trái phiếu thế chấp (mortagage bonds) còn gọi là trái phiếu bảo đảm: là loại trái phiếu khi phát hành đòi hỏi phải có một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan ủy thác để đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu. Tài sản thế chấp có thể là nhà máy, thiết bị, chứng khoán (cổ phiếu của công ty mua của công ty khác, TPCP, TPCQĐP) do công ty nắm giữ. Trái phiếu thế chấp là loại được xếp hạng bảo vệ cao, có hai loại: + Trái phiếu đóng: loại này không cho phép công ty phát hàng bất kỳ một loại chứng khoán bổ sung nào đối với những tài sản đã thế chấp. + Trái phiếu mở: loại này cho phép công ty phát hành chứng khoán bổ sung đối với tài sản đã thế chấp theo tỷ lệ qui định. Loại này thường có lãi suất cao hơn so với trái phiếu thế chấp đóng. - Trái phiếu tín chấp hay còn gọi là trái phiếu không bảo đảm (unsecured bonds): là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tín của công ty để phát hành, công ty không đưa một tài sản gì ra làm vật đảm bảo. Loại này chỉ có các công ty lớn, có danh tiếng, uy tín mới phát hành. - Trái phiếu chuyển đổi (convertible bonds): là loại trái phiếu mà khi phát hành có kiềm điều khoản cho phép người sở hữu trái phiếu đặc quyền, được đổi sang một số lượng nhất định cổ phiếu thường với chỉ số và thời gian chuyển đổi đã được xác định. Đây là loại trái phiếu rất hấp dẫn và dễ bán hơn, thường được nhiều công ty cổ phần áp dụng. - Trái phiếu thu nhập (income bonds): là loại trái phiếu mà lợi tức được trả tùy thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu. Đây là loại chứng khoán lai tạp giữa trái phiếu và cổ phiếu thường, nó có phần ưu tiên về lợi nhuận hơn cổ phiếu có nghĩa là trái chủ nhận được lãi trước khi cổ đông nhận cổ tức. - Trái phiếu lãi suất chiết khấu (coupon bonds): là loại trái phiếu được trả lãi ngay khi phát hành, được khấu trừ vào vốn mua trái phiếu. - Trái phiếu lãi suất thả nổi (floating rate bonds): là loại trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh theo từng thời không kỳ cho phù hợp với lãi suất trên thị trường (lãi suất tín dụng) hoặc bị chi phối bởi giá, chẳng hạn như chỉ số bán lẻ. Đây là loại trái phiếu được bảo hiểm, chống lại được phần nào lạm phát và sự gia tăng của lãi suất tín dụng ngân hàng. Như vậy, công ty phát hành và nhưng người đầu tư có thể được bảo vệ phần nào trước rủi ro lãi suất. - Trái phiếu có thể thu hồi (callable bonds): là trái phiếu có quy định điều khoản cho phép công ty mua lại trái phiếu trước khi đến hạn, thường theo giá “gia tăng để giảm bớt nợ”. I.1.2.2. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng Trái phiếu vô danh Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người chủ trái phiếu cả trên trái phiếu và cả trên sổ người phát hành. Người cầm giữ trái phiếu là người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu ghi danh Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ người sở hữu cả trên trái phiếu và sổ người phát hành. I.1.3. Vai trò của thị trường trái phiếu Thị trường trái phiếu (TTTP) là nơi giao dịch mua bán các loại trái phiếu đã phát hành, các loại trái phiếu này do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương và các công ty phát hành. TTTP đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đối với các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư. I.1.3.1. Đối với nền kinh tế Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả. Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Đây là thị trường có khả năng huy động các nguồn vốn phân tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư. Đối với Nhà nước/Chính Phủ, toàn bộ các khoản chi tiêu khổng lồ đều trông chờ vào các khoản thu của ngân sách (trong đó chủ yếu là nguồn thu từ thuế), nhưng ngân sách không đủ chi, ngân sách Nhà nước luôn đứng trước nguy cơ thâm hụt. Chính phủ rất cần nguồn tài chính để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu hụt ngân sách quốc gia. Tài trợ bằng cách in tiền rất dễ triển khai nhưng thường để lại hậu quả khó lường cả trước mắt lẫn lâu dài, cả cho mọi thành phần kinh tế, dân cư và Chính phủ. Vì vậy Chính phủ phải huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu. Tùy theo mục đích sử dụng, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu nội tệ hay ngoại tệ và với các kỳ hạn khác nhau. Thị trường TPCP phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ. Trên thị trường vốn, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt là TPCP với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên thị trường, góp phần hình thành lãi suất trên thị trường. Trái phiếu do Chính phủ phát hành thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu thông từ các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này được đưa vào sử dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã hội. Nhờ vậy, mà cân đối tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng quay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước. Ngân hàng trung ương (NHTƯ) theo sự ủy quyền của Bộ Tài chính thường phát hành loại trái phiếu ngắn hạn để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Khi NHTƯ cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông về thì NHTƯ bán tín phiếu ra, ngược lại khi cần thiết phải đưa tiền vào lưu thông thì NHTƯ mua tín phiếu về. Mục đích góp phần thực hiện chính sách tài chính quốc gia khắc phục tình hình lạm phát, bảo đảm được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý. Thị trường trái phiếu phát triển làm cho thị trường vốn hoàn thiện và đa dạng hơn. Thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị trường vững chắc mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân hàng, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị trường trái phiếu thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị trường vốn. Huy động vốn qua loại hình trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt là thị trường trái phiếu công ty vừa có thể huy động được nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Nếu trước đây doanh nghiệp chỉ có nguồn vay duy nhất từ ngân hàng, với sự tồn tại và phát triển hoạt động của thị trường TPCT đã tạo thêm cho các doanh nghiệp nguồn cung tín dụng hữu hiệu. Gánh nặng và rủi ro cho vay của các ngân hàng được san sẻ cho các nhà đầu tư trái phiếu trên thị trường. Như vậy, thị trường TPCT có thể đa dạng hóa nhiều rủi ro hơn hình thức tài trợ qua ngân hàng, nhờ đó việc tài trợ dài hạn cho các dự án rủi ro cao có thể thực hiện được. Còn giúp làm giảm chi phí vốn cho nền kinh tế. Phát triển thị trường trái phiếu sẽ làm giảm sự sự huy động qua hệ thống ngân hàng, điều này tạo sự cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng, làm giảm nhẹ các “sai lệch kép” và do đó hạ thấp nguy cơ nền kinh tế đối mặt với khủng khoảng về cán cân vốn như tình hình ở các nước Châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998. Thị trường trái phiếu giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế-xã hội. Đối với Chính phủ, một trong những chức năng nhiệm vụ quan trọng là quản lý vĩ mô nền kinh tế đảm bảo vai trò của “người trọng tài” tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Thông qua phát hành trái phiếu và đầu tư bằng vốn TPCP góp phần nâng cao hiệu quả của việc phân phối và tái phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế. I.1.3.2. Đối với doanh nghiệp Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Đối với doanh nghiệp, thường có ba cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu. Đối với từng phương thức huy động vốn đều có những thế mạnh riêng, tùy theo tình hình cụ thể của nền kinh tế và của doanh nghiệp, để từ đó doanh nghiệp đưa ra quyết định phương thức tài trợ tối ưu nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở Việt Nam thường huy động bằng cách vay ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái. Phát hành trái phiếu với các ưu điểm: - Thứ nhất, phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn hơn. Mặc dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể cho doanh nghiệp vay với thời hạn dài hơn, nhưng với các dự án lớn ngân hàng lại bị giới hạn đầu tư. Cụ thể, khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng phát hành trái phiếu không bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương án sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trả lãi và gốc cho những người đi vay. Trái lại, phương thức vay ngân hàng, số vốn tối đa doanh nghiệp được vay lại phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng cho vay, nếu số vốn doanh nghiệp cần huy động quá lớn, việc cho vay phải được tiến hành qua phương thức đồng tài trợ phức tạp hơn nhiều. Mặt khác, doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn có ưu điểm về thời hạn vay hơn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm đến kênh huy động vốn này thì sẽ có lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai. - Thứ hai, trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng ngại phát hành cổ phiếu rộng rãi vì sợ phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ phiếu, vì không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư khi phải trả cổ tức cao theo hiệu quả kinh doanh… thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu. Vì thế, doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn chế trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với cổ đổng nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại. - Thứ ba, chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ phiếu. Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải thể hoặc bị phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ đông. Chính vì thế, nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn cổ phiếu và tương ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn đối với cổ phiếu. Để tham gia thị trường trái phiếu với tư cách là nhà phát hành, các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt động, hệ thống kế toán – kiểm toán, định mức tín nhiệm… Điều này đặc biệt quan trọng và không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng một cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên sở giao dịch chứng khoán. Trái phiếu của doanh nghiệp phát hành càng chất lượng thì càng thu hút được nhiều nhà đầu tư và ngược lại. Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu tư. Đây cũng có thể coi là một tác động mang tính gián tiếp của thị trường trái phiếu đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Thông qua chi đầu tư bằng vốn TPCP, khi Chính phủ đầu tư vào ngành, lĩnh vực nào sẽ giúp thúc đẩy hoạt động đầu tư vào ngành, lĩnh vực đó của thành phần kinh tế phi nhà nước. I.1.3.3. Đối với nhà đầu tư Thị trường trái phiếu góp phần làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính, cung cấp cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu tư phù hợp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. TPCP với độ an toàn cao nhưng lãi suất không hấp dẫn bằng TPCT. Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi ro cao hơn. Thị trường trái phiếu với các loại trái phiếu và kỳ hạn khác nhau tạo thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp. Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ được nhận lại vốn góp ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là khoản thu cố định. Khi đầu tư vào TPCT, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Thêm một đặc điểm nữa, nếu công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước các cổ đông. Vì vậy đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư có khẩu vị đầu tư không thích mạo hiểm. I.2. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu Tất cả các khoản đầu tư luôn tồn tại những rủi ro nhất định. Đầu tư chứng khoán nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng, có thể gặp một số rủi ro như: rủi ro lãi suất, rủi ro do lạm phát gây ra, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản…Đối với nhà đầu tư để giảm thiểu rủi ro cũng như thiết lập danh mục đầu tư tối ưu. Đối với nhà phát hành và nhà quản lý đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư và tăng tính hấp dẫn của trái phiếu. Do đó, việc nhận diện các rủi ro trong đầu tư trái phiếu rất cần thiết. I.2.1. Rủi ro lãi suất Lãi suất là yếu tố thường xuyên liên tục biến động, phản ánh những thay đổi về tương quan cung cầu vốn tiền tệ, cung cấp vốn tiền tệ, cung cấp tín dụng trên thị trường tài chính. Cũng từ đó dẫn đến những thay đổi liên tục về tỷ suất sinh lời cần thiết của trái phiếu. Giá của một trái phiếu sẽ thay đổi theo hướng ngược lại với lãi suất thị trường. Khi lãi suất tăng làm cho trái phiếu cũ với mức lãi suất thấp hơn nên kém hấp dẫn hơn, giá trái phiếu sẽ giảm, trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì mức giảm giá càng lớn. Ngược lại khi lãi suất giảm thì giá trái phiếu tăng. Rủi ro lãi suất là rủi ro chính mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi đầu tư trái phiếu. Các loại trái phiếu đều tiềm ẩn rủi ro lãi suất. Ví dụ, khi Chính phủ thâm hụt ngân sách sẽ huy động vốn bằng cách phát hành thêm trái phiếu, khi đó Chính phủ muốn huy động được vốn thì phải tăng lãi suất trái phiếu, còn đối với các nhà đầu tư chỉ mua khi lãi suất trái phiếu mới phát hành cao hơn lãi suất các trái phiếu đang lưu hành, do đó những người đang nắm giữ trái phiếu sẽ bị thiệt hại do giá trái phiếu giảm. Lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng sẽ dẫn đến hệ quả, các nhà đầu tư thay vì mua trái phiếu công ty sẽ chuyển sang mua trái phiếu Chính phủ, do đó lãi suất trái phiếu công ty cũng phải tăng lên. Diễn biến tăng lãi suất ở Việt Nam trong sáu tháng đầu năm 2008, không những đã làm các nhà đầu tư gánh chịu rủi ro do giá trái phiếu giảm, mà còn làm ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của Chính phủ và càng làm khép lại cánh cửa huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp. I.2.2. Rủi ro lạm phát Lạm phát gây nên sự thay đổi giá trị, sức mua của tiền tệ. Từ đó gây nên những thiệt hại nhất định cho các nhà đầu tư trái phiếu. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ được coi là an toàn nhất (theo nghĩa là không có khả năng không được thanh toán) nhưng vẫn có rủi ro lạm phát. Ngay cả trái phiếu có lãi suất thả nổi vẫn có thể phải gánh chịu rủi ro lạm phát nếu lãi suất không phản ánh hết lạm phát. Lạm phát càng cao thì rủi ro đầu tư trái phiếu càng cao. Trong bối cảnh lạm phát cao để đảm bảo lãi suất thực dương thì lợi suất trái phiếu phải tăng. I.2.3. Rủi ro thanh khoản Rủi ro về khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt trên thị trường, bao gồm cả yếu tố thời gian và giá cả chuyển đổi. Để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu, nhà đầu tư buộc phải tăng mức chiết khấu trái phiếu do đó giá trái phiếu bị đẩy xuống, lúc này nhà đầu tư đã phải gánh chịu thiệt hại về giá trị. Khoản thiệt hại này sẽ lớn, khi thị trường thiếu tính thanh khoản và đặc biệt là trong điều kiện chưa có đội ngũ tạo lập thị trường làm cho nhà đầu khó tìm được người mua trái phiếu và khó có thể bán được với mức giá tốt nhất. I.2.4. Rủi ro tín dụng Rủi ro về khả năng thanh toán, khi tổ chức phát hành trái phiếu không đủ khả năng tài chính để hoàn trả đầy đủ, đúng hạn vốn gốc và lãi như đã cam kết với trái chủ. Trái phiếu Chính phủ thường được coi là không có rủi ro về khả năng thanh toán vì Chính phủ có thể tăng thuế hay in thêm tiền để chi trả lãi và vốn gốc khi đến hạn. Một trường hợp hiếm thấy khi Chính phủ không thể thanh toán được nợ là cuộc khủng hoảng đồng Rúp của Chính phủ Nga năm 1998. Ngược lại với trái phiếu Chính phủ, đối với trái phiếu công ty thì đây là loại rủi ro đáng ngại nhất, đặc biệt là trái phiếu tín chấp. Đây là loại rủi ro trực tiếp và đôi khi thảm hại do công ty phát hành bị phá sản đe dọa nhà tư bị thiệt hại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã mua trái phiếu. Rủi ro tài chính của trái phiếu công ty gắn liền với hệ số tín nhiệm của công ty, hệ số tín nhiệm càng cao thì trái phiếu càng được đánh giá an toàn. I.3. ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU I.3.1. Khái niệm định mức tín nhiệm Định mức tín nhiệm là ._.đánh giá về khả năng thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính của một tổ chức phát hành các công cụ nợ. ĐMTN là gồm cả đánh giá định tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành có thể là các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và quốc gia trong trường hợp phát hành nợ của chính phủ. ĐMTN đối với các công cụ thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ được thực hiện phổ biến ở các thị trường tài chính phát triển. Định mức tín nhiệm gồm cả đánh giá định tính và định lượng, đây là hai tiêu chí cơ bản của việc đánh giá ĐMTN. Bao gồm các yếu tố về: tình hình và triển vọng phát triển kinh tế đất nước, các yếu tố rủi ro vĩ mô, chính sách của nhà nước có ảnh hưởng đến ngành và đến công ty; đặc điểm của (các) ngành kinh tế mà công ty đang tham gia, triển vọng phát triển của ngành trong nền kinh tế quốc dân, tác động, ảnh hưởng của những yếu tố vĩ mô, trong, ngoài nước tới ngành kinh tế, vị trí, thị phần của công ty trong ngành; chính sách quản lý trong sản xuất kinh doanh, chính sách tài chính, quản lý vốn, marketing, bán hàng, đặc điểm công nghệ, quy trình sản xuất, khả năng, kinh nghiệm của bộ máy lãnh đạo… Kết quả đánh giá ĐMTN được biển hiện dưới hình thức các ký hiệu từ A (nghĩa là ít bị vỡ nợ nhất) cho đến D (nghĩa là đã bị vỡ nợ rồi) phụ thuộc vào khả năng của người phát hành trả nợ gốc và lãi đúng hạn (phụ lục 4). Trong những năm gần đây, ĐMTN trái phiếu đã được sử dụng ngày càng thường xuyên hơn bởi các nhà quản lý ngân hàng và chứng khoán để quản lý các tiêu chuẩn cẩn trọng hoặc xác định tính thích hợp đầu tư cho một số loại quỹ đầu tư. I.3.2. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức ĐMTN Để thành công và đáng tin cậy các tổ chức ĐMTN cần đảm bảo các nguyên tắc: - Tính độc lập trong quá trình ĐMTN. Tính độc lập của một tổ chức ĐMTN là tối quan trọng cho tính tin cậy và thành công cuối cùng của nhà cung cấp dịch vụ. Các tổ chức phát hành và các nhóm lợi ích thường có ảnh hưởng có chủ đích đến kết quả định mức tín nhiệm. Ví dụ, một tổ chức phát hành có thể sẵn sàng hối hộ tổ chức ĐMTN để có kết quả định mức tín nhiệm cao, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư; trong khi một nước có thể tìm mọi cách vận động tổ chức ĐMTN để dấu đi những vấn đề khó khăn của họ đối với các nước cho vay. Trong những trường hợp như vậy, kết quả định mức tín nhiệm sai lệch là rất nguy hiểm vì nó càng làm sâu sắc thêm sự bất cân xứng thông tin giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Vì vậy, đảm bảo sự độc lập trong quá trình định mức tín nhiệm là điều kiện tối cần thiết. Quyền sở hữu và cấu trúc quản lý đảm bảo tính độc lập, đây là yếu tố quan trọng đối với sự thành công của một tổ chức ĐMTN. Một tổ chức ĐMTN phải tự do từ cả ảnh hưởng chính trị và áp lực lớn từ các tổ chức phải chịu sự đánh giá tín nhiệm. - Để kết quả định mức tín nhiệm đáng tin cậy, tổ chức ĐMTN phải có kỹ thuật chuyên nghiệp, đủ nguồn lực tài chính, tiếp cận các thông tin tài chính tin cậy về người phát hành, và các thủ tục hoạt động nội bộ đưa đến công tác định mức nhất quán và tin cậy. - Một nguyên tắc quan trọng khác đối với hoạt động của các tổ chức ĐMTN là đảm bảo tính bảo mật thông tin. Để cung cấp một phương pháp định mức tín nhiệm chính xác đối với các rủi ro tín dụng, các tổ chức ĐMTN thường yêu cầu các thông tin chi tiết, đặc biệt là các thông tin về tình hình hoạt động và tài chính của tổ chức phát hành. Thông thường, những thông tin đầu vào đòi hỏi đối với việc định mức tín nhiệm là thông tin nội bộ, ở mức chi tiết và toàn diện hơn các thông tin công bố công khai; do đó tính bảo mật là tối quan trọng. I.3.3. Sự cần thiết cho việc xây dựng hệ thống ĐMTN trong nước Trên thế giới, hoạt động ĐMTN xuất hiện từ rất lâu với sự ra đời của công ty ĐMTN đầu tiên là Moody’s và đến nay đã trở thành công ty ĐMTN lớn nhất thế giới, có mặt ở trên 100 quốc gia. Ngoài ra, còn phải kể đến những công ty như Standard & Poor, Fitch… đang là những cái tên quen thuộc trong ngành ĐMTN. Ngày nay, hầu hết ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển đều tồn tại ít nhất một tổ chức định mức tín nhiệm. Việc ĐMTN đối với các chứng khoán nợ là một hoạt động không thể thiếu được trên thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn non trẻ, trong đó thị trường trái phiếu chủ yếu là TPCP. Để tạo cơ chế khuyến khích cho TTCK nói chung và TTTP nói riêng phát triển thì sự tồn tại và phát triển của các tổ chức ĐMTN là điều kiện cần thiết. Việc hình thành và phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước mang lại những lợi ích cho thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng: - ĐMTN như một chứng chỉ ISO về tình trạng tài chính, sẽ giúp cho nhà phát hành tìm kiếm tài trợ từ nhiều nhà đầu tư hơn. Tổ chức ĐMTN trong nước đóng góp một cách tích cực và to lớn vào việc huy động nguồn lực một cách hiệu quả cho các tổ chức phát hành. Một kết quả xếp hạng tín nhiệm tốt sẽ chứng tỏ vị thế trên TTCK nói riêng và trong nền kinh tế thị trường nói chung; ngược lại nếu kết quả xếp hạng chưa tốt hoặc không tốt thì doanh nghiệp sẽ có những chiến lược cải tổ bộ máy quản lý, tình hình tài chính, chiến lược kinh doanh…để đạt được mức tín nhiệm cao hơn. Khi doanh nghiệp đạt mức tín nhiệm càng cao, trái phiếu do doanh nghiệp phát hành có thể có lãi suất thấp nhưng vẫn có thể thu hút được nhiều nhà đầu tư do tính an toàn của trái phiếu được đánh giá thông qua kết quả xếp hạng tín nhiệm cao, điều này sẽ làm cho chi phí vay vốn của doanh nghiệp càng thấp. - Đối với nhà đầu tư, thông qua kết quả xếp hạng tín nhiệm nhà đầu tư có thể thẩm định được rủi ro, lựa chọn danh mục đầu tư, đưa ra quyết định đầu tư và mức lợi nhuận kỳ vọng phù hợp. Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy vẫn còn sơ khai nhưng trong thời gian gần đây cũng đã có sự phát triển khá nhanh, số lượng công ty niêm yết trên TTCK và số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường tăng lên đáng kể, đã gia tăng cơ hội đầu tư cho những nhà đầu tư cả trong nước và quốc tế. Các tổ chức ĐMTN cung cấp nguồn thông tin về rủi ro tín dụng, sẽ đem lại cho nhà đầu tư những thông tin cần thiết về các trái phiếu trước khi quyết định đầu tư. Với các thông tin này sẽ tạo được lòng tin cho nhà đầu tư khi đầu tư vào các công cụ tài chính thay vì đầu tư vào các tài sản không có tính sinh lời cao. - Hệ thống ĐMTN còn có vai trò đối với các tổ chức tín dụng ngân hàng và phi ngân hàng đánh giá làm căn cứ mở rộng quy mô cho vay một cách phù hợp cũng như chứng tỏ vị thế của mình trước trào lưu gia nhập của các NHTM nước ngoài. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là doanh nghiệp đầu tiên được xếp hạng tín nhiệm bởi một tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế và có uy tín như Moody’s và đây cũng là tổ chức xếp hạng cho Chính phủ Việt Nam. - Đối với nhà quản lý, ĐMTN được sử dụng như một công cụ độc lập để giám sát thị trường trên cơ sở xem xét tư cách và tình trạng tài chính của các đơn vị phát hành. Lợi ích của ĐMTN mang lại là rất lớn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm từ nước ngoài sẽ rất tốn kém vì mức phí rất cao. Trong khi Việt Nam hoàn toàn chưa có một tổ chức ĐMTN chuyên nghiệp, có uy tín. Do vậy, phải có tổ chức ĐMTN tầm quốc gia là yêu cầu cấp thiết. Mặc dù các tổ chức ĐMTN quốc tế chuyên nghiệp hơn, các dịch vụ do tổ chức ĐMTN quốc tế cung cấp có chất lượng cao nhưng tổ chức ĐMTN trong nước cũng có những lợi thế nhất định. Trên thực tế, các tổ chức ĐMTN trong nước có thể có kinh nghiệm hơn về các điều kiện trong nước, do vậy các tổ chức ĐMTN trong nước có thể có những phương pháp xác định rủi ro tín dụng phù hợp hơn các tổ chức ĐMTN quốc tế. Bên cạnh đó, nếu được thành lập thì các tổ chức ĐMTN trong nước có sẽ có khả năng cung cấp các dịch vụ với quy mô nhỏ, nhất là trong điều kiện các doanh nghiệp ở Việt Nam hầu hết với quy mô vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này thường không đủ khả năng thuê các tổ chức ĐMTN quốc tế. Việc phát triển tổ chức ĐMTN trong nước sẽ tạo điều kiện cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển. I.4. Bài học kinh nghiệm về thị trường trái phiếu ở một số nước Châu Á Trong suốt thập kỷ 90, Châu Á là tâm điểm của mọi sự chú ý, thập kỷ này bắt đầu bằng những dấu hiệu tích cực đối với hầu hết các quốc gia trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao. Đến năm 1997, khu vực này bị ảnh hưởng của một cuộc khủng hoảng toàn diện khởi nguồn từ Thái Lan, sau đó lan sang Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Philippine, Hồng Kông và Singapore cũng chịu ảnh hưởng nhưng ở mức độ thấp hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là tại phần lớn các nước Châu Á, ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong việc rót những khoản tiết kiệm trong nước vào đầu tư, khu vực này cung ứng khoản 80% nợ tài chính, trong khi thị trường trái phiếu chiếm chỉ hơn 20% . Nhu cầu vốn dài hạn, tốt nhất nên được thoả mãn bằng các khoản đầu tư dài hạn của những người cho vay dưới dạng cổ phiếu hay trái phiếu dài hạn. Sau khủng hoảng tài chính 1997-1998, các nước Châu Á nhận thấy cần phải có một thị trường vốn đa dạng hơn và đặc biệt là một thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hổ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế. Sự xuất hiện này giờ đây đã làm các nước Châu Á thay da đổi thịt. Khu vực Đông Á, tăng trưởng mạnh về giá trị trái phiếu tính bằng đồng nội tệ đáng chú ý liên tục tăng trong 6 tháng cuối năm 2006, đạt 2.840 tỷ USD vào cuối năm 2006, tăng 32,4% từ 2.145 tỉ USD cuối năm 2005. Mức tăng lớn nhất là Trung Quốc (51%) và Thái lan (42%); tiếp theo là Singapore và Hàn Quốc (đều 19%); Indonesia (cùng 15%); Malaysia (14%); Hồng Kông (12%); và Philippine (8%) (*). Sự nổi lên của thị trường trái phiếu Đông Á tiếp tục tăng với tỷ lệ tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Vì vậy, tỷ lệ trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ trên GDP tiếp tục tăng, từ 53% năm 2005 lên đến 61,5% năm 2006 (*). Tăng trưởng thị trường trái phiếu Chính phủ theo đồng nội tệ vẫn khá cao. Mặc dù thâm hụt tài chính của các nước giảm, nhiều công ty nhà nước ở cả cấp trung ương và địa phương đều phát hành trái phiếu mới trong năm qua. Thị trường trái phiếu Chính phủ ở những nước này tăng 30% năm 2006, với việc phát hành lớn nhất ở Trung Quốc, Thái lan, Singapore, Malaysia và Hàn Quốc. Các yếu tố thị trường chính đóng góp vào tăng trưởng năm 2006 (*) như sau: - Tỷ lệ tăng cao nhất ở Trung Quốc tăng 44%, tỷ lệ này tiếp tục tăng khi Ngân hàng Trung ương tiếp tục phát hành trái phiếu để thu hút lượng tiền dư thừa trên thị trường đồng Nhân dân tệ. Điều này đã làm cho Ngân hàng Trung ương trở thành nhà phát hành lớn nhất, tăng gấp đôi lượng trái phiếu của Chính phủ Trung ương. Hai năm trước, lượng trái phiếu phát hành của ngân hàng Nhà nước và ngân hàng chính sách trong tổng lượng phát hành trái phiếu Chính phủ giảm, trong khi phần tăng của các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục giảm. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Nhà nước được phép phát hành trái phiếu liên doanh trực tiếp trên thị trường vốn. - Ở Thái Lan, trái phiếu Chính phủ phát hành cao hơn trong năm 2006, tăng 37%, tăng gần gấp đôi mức tăng trung bình hàng năm của năm 2004 và 2005. Việc tăng này được thực hiện với tất cả các hạng mục phát hành, đặc biệt với trái phiếu bán lẻ do ngân hàng trung ương phát hành và do chính phủ phát hành nhằm huy động cho phát triển cơ sở hạ tầng. (*) Theo Asia Bond Monitor, 4/2007 - Thị trường Singapore tăng 19% trong năm 2006, trở lại với xu hướng tăng trung bình của thập kỷ trước sau khi tăng nhẹ 6% năm 2005. Chính phủ cũng tiếp tục chính sách mở sâu và rộng thị trường trái phiếu – phát hành loại trái phiếu kỳ hạn 20 năm vào ngày 01/03/2007 (2,5 triệu đôla Singapore đã được mua hết 100%). Tháng 12 năm 2006, chính phủ bãi bỏ việc đấu giá nhiều mức giá, thay vào đó là 1 mức giá để phù hợp với xu hướng chung của quốc tế. Tăng ròng khoản nợ đấu giá đa cấp này chiếm khoảng 1/3 tăng trưởng thị trường năm 2006. - Ở Malaysia, khoản nợ trái phiếu Chính phủ tăng với tốc độ đáng kể trong năm 2006, tăng 17% - vượt thị trường trái phiếu công ty về tổng khối lượng. Trái phiếu Chính phủ trung ương và trái phiếu đầu tư của người hồi giáo đóng góp lớn nhất đến nguồn cung mới. Với nỗ lực làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu, chính phủ đã tiến hành chuyển đổi một số trái phiếu nợ với kỳ hạn phát hành mới 3, 5 và 10 năm. Chính phủ cũng giới thiệu một loại trái phiếu vào tháng 12/2006 để cung cấp một khung chuẩn cho khu vực tư nhân. - Hàn Quốc phát hành ít trái phiếu hơn, tăng 16% trong năm 2006 vì chính phủ hợp tác với Ngân hàng Trung ương thắt chặt các điều kiện kinh tế. Kết quả làm nền kinh tế tăng trưởng chậm lại so với 2 năm trước, với tổng nợ trái phiếu Chính phủ giảm thấp hơn khu vực liên doanh. Trái phiếu ổn định tiền tệ một lần nữa chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số phát hành ra công chúng, nhằm vào các dự án phát triển hạ tầng công cộng – gồm cả phát hành trái phiếu địa phương – loại trái phiếu có tỷ lệ phát hành lớn thứ hai. Tháng 3/2007, chính phủ ban hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm lần đầu tiên và có kế hoạch ban hành trái phiếu có kỳ hạn dài hạn hơn trong năm 2007 nhằm cố gắng mở rộng đường giới hạn khả năng sản xuất vượt kế hoạch 3-5 năm 2006. - Tại Indonesia, thị trường trái phiếu tăng ổn định - tăng 14% sau khi co lại vào năm 2004 và 2005. Mặc dù vẫn tiếp tục chương trình mở rộng thời hạn trái phiếu Chính phủ, mức tăng trưởng mới vẫn còn. 14,4 tỷ IDR trái phiếu đến hạn vào năm 2007-2011 được thay thế vào năm 2006 với trái phiếu có thời hạn đáo hạn muộn hơn. Mức tăng trưởng mới đã hiện hữu mặc dù chương trình tiếp tục mở rộng trái phiếu Chính phủ. Để thu hút nhiều hơn những nhà đầu tư nhỏ lẻ vào thị trường, chính phủ đã ban hành trái phiếu bán lẻ lần đầu tiên vào tháng 8/2006 và phát hành thêm 3,6 tỷ IDR vào tháng 3 năm 2007. Các nước trong khu vực Đông Á đã có sự nổ lực trong việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển TTTP. Đã sử dụng một hệ thống đơn vị TTTP Trung ương để thực hiện các chức năng thanh toán bù trừ khác nhau: một hệ thống chuyển các nguồn quỹ trong TTTP liên ngân hàng và một hệ thống chuyển chứng khoán thông qua thông tin nhập vào sổ sách điện tử (tại Hồng Kông). Phát hành TPCP theo lô lớn (Hàn Quốc áp dụng từ năm 2000, Trung Quốc, …) và sử dụng hệ thống giao dịch điện tử cho các đợt phát hành làm chuẩn (Hàn Quốc). Chính phủ Malaysia triển khai các biện pháp tạo tính thanh khoản như: chính sách bảo hiểm cho các TPCP; thực hiện công cuộc tự do hóa lãi suất; công bố công khai kế hoạch thực hiện đấu giá TPCP và thực hiện các biện pháp để cơ cấu lại cơ sở hạ tầng cho thị trường như: hệ thống thanh toán bù trừ; hệ thống đấu thầu tự động; hệ thống công bố thông tin trái phiếu. …Bên cạnh đó các công ty xếp hạng tín nhiệm được thành lập và hoạt động ở nhiều nước. Xây dựng hệ thống lãi suất chuẩn (đặc biệt là lãi suất chuẩn của các công cụ dài hạn) dựa trên TPCP. Cơ sở hạ tầng của TTTP thứ cấp đang từng bước được xây dựng và cải thiện nhưng vẫn còn bị lệ thuộc rất nhiều đến hoạt động của thị trường sơ cấp. Như vậy, hoạt động của thị trường thứ cấp có xu hướng tăng hay giảm theo hoạt động của thị trường sơ cấp. Mặc dù, một số nước như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc đã phát hành các trái phiếu với nhiều kỳ hạn từ những năm 1998 nhưng đối với một trái phiếu nội tệ tính thanh khoản vẫn có xu hướng tập trung vào các kỳ hạn ngắn (khoản từ 3 đến 7 năm), ngoại trừ Singapore và Hồng-Kông. Sự tăng trưởng nhanh chóng được dự đoán của các TTTP trong khu vực tùy thuộc vào việc tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô vững chắc và các biện pháp cải cách về định chế. Từ thực trạng TTTP các nước Châu Á nêu trên, tuy vẫn còn hạn chế nhưng cho thấy mỗi nước có những đặc điểm khác nhau nhưng đều có những điểm mạnh nói chung mà ta cần học hỏi kinh nghiệm: Kết cấu hạ tầng cơ sở của TTTP hiện đại, nguồn nhân lực, trình độ quản lý và tốc độ thanh toán cao, phát triển lớn mạnh TTTP trên cơ sở phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp lẫn thứ cấp nhằm phát triển tính thanh khoản của trái phiếu. TPCP nắm giữ vị trí chủ lực trên TTTP, hình thành lãi suất chuẩn, phản ánh cung cầu thực tế về nhu cầu vốn trên thị trường, làm cơ sở tham chiếu cho các loại lãi suất khác trên TTTC. Chính phủ thực hiện và đẩy nhanh công cuộc tự do hóa lãi suất. Công khai chương trình thu hút nợ của Chính phủ, công bố lịch trình phát hành định kỳ TPCP tăng tính minh bạch (ví dụ như Malaysia, Trung quốc…). Thực hiện các biện pháp nhằm tăng tính thanh khoản như: phát hành TPCP theo lô lớn để tăng tính thanh khoản, cải thiện hệ thống thanh toán bù trừ… Phát triển thị trường TPCT để có thể thay thế một phần thị trường cho vay của ngân hàng và hoàn toàn có khả năng giảm nhẹ bớt gánh nặng cho vay của hệ thống ngân hàng. Phát triển thị trường TPCT thực hiện cùng với việc tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Thành lập, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ chức định mức tín nhiệm. Đây là một tổ chức trên thị trường chứng khoán nợ, làm cơ sở cho phát triển hoạt động thị trường giao dịch chứng khoán nợ thuần túy và các công cụ phái sinh dựa trên các chứng khoán nợ. Sự gia tăng các nguồn vốn nước ngoài đổ vào đầu tư chứng khoán dựa trên uy tín quốc gia, thị trường vốn mở, tỷ giá hối đoái ổn định và tình hình ổn định kinh tế vĩ mô, thành tích tốt trong thanh toán nợ nước ngoài, tiềm năng tăng trưởng kinh tế. Hoàn thiện hệ thống pháp lý, phát triển và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động các tổ chức đầu tư phi ngân hàng, nâng cao hiệu quả của cơ chế và hệ thống thanh toán. Kết luận chương I Những nội dung cơ bản về thị trường trái phiếu như khái niệm, vai trò, cũng như những rủi ro khi đầu tư trái phiếu…. Bên cạnh đó, các thông tin về thị trường trái phiếu Châu Á giúp cho ta có một cái nhìn tương đối và rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu ở nước ta. Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu đem lại những lợi ích đáng kể cho nền kinh tế. Phát triển thị trường trái phiếu là yêu cầu phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, khi mà vay vốn ngân hàng vẫn còn dễ dãi và thị trường cổ phiếu sôi động thì thị trường trái phiếu ít được quan tâm hơn, dẫn đến thị trường trái phiếu kém phát triển. Thực tế hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam sẽ được phân tích trong Chương II. Chương II: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM II.1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam Các văn bản pháp luật liên quan đến việc phát hành và giao dịch trái phiếu xuất hiện từ đầu thập niên 90 như các quy định về phát hành trái phiếu của công ty cổ phần trong Luật công ty 1990. Nghị định 72/CP ngày 26/07/1994 của Chính phủ ban hành quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Đến năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 120/CP ngày 17/09/1994 kèm theo quy chế tạm thời về phát hành trái phiếu, cổ phiếu của Doanh nghiệp nhà nước. Trong quy chế hướng dẫn việc phát hành, mua bán, chuyển nhượng, hình thức thanh toán, lãi suất trái phiếu, quy định điều kiện để DNNN phát hành trái phiếu và các vấn đề liên quan khác. Năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị Định 23/CP ngày 22/03/1995 về việc phát hành trái phiếu quốc tế. Hướng dẫn việc phát hành trái phiếu huy động vốn nước ngoài cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hướng dẫn về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và TTCK. Nghị định được xây dựng để chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK và tạo điều kiện kịp thời cho TTCK nước ta đi vào hoạt động. Năm 1999, Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/06/1999 và có hiệu lực ngày 01/01/2000, đã thay thế cho Luật Công ty 1990 và việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp cũng được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp. Đến năm 2000, quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo nghị định 72/CP ngày 26/07/1994 được thay thế bằng Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 ban hành quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ. Quy chế phát hành TPCP đã đổi mới thể hiện qua việc áp dụng phương thức phát hành trái phiếu thông qua đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung và bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó còn quy định việc TPCP niêm yết, giao dịch trên TTCK và phân rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, UBCKNN, các Bộ, các ngành,… trong việc phát hành TPCP. Đến năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, TPCQĐP thay thế cho Nghị định 01/2000/NĐ-CP. Khác với Nghị định 01/2000/NĐ-CP, bên cạnh các quy chế về phát hành TPCP, Nghị định 141/2003/NĐ-CP đưa ra các quy chế về phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, TPCQĐP. Trên cơ sở Nghị định 141, một loạt các TPCQĐP đã ra đời mà đầu tiên có thể kể đến là trái phiếu đô thị TP Hồ Chí Minh do Quỹ đầu tư phát triển đô thị (HIFU) phát hành theo ủy nhiệm của UBND TP.HCM . Đã tạo cơ chế khuyến khích huy động vốn qua phát hành trái phiếu. Tiếp theo, Chính phủ ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán thay thế cho Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998. Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp thay thế cho Nghị định 120/CP ngày 17/09/1994. Nghị định đã giúp cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể tiếp cận các nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu hay các công cụ nợ, tạo lập các quy định cơ bản về quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia thị trường nợ (người phát hành, nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước), tạo lập nội dung pháp lý ban đầu để điều chỉnh hoạt động của thị trường trái phiếu. Ngày 29/06/2006 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật chứng khoán. Trước khi Luật chứng khoán ra đời, các văn bản pháp lý hiện hành chỉ dừng lại ở mức Nghị định, Luật chứng khoán là bước kiện toàn hệ thống pháp lý, giúp thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng phát triển ổn định, công khai và minh bạch hơn. II.2. Thực trạng về thị trường trái phiếu Việt Nam II.2.1. Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay Thị trường trái phiếu là một bộ phận của TTCK, là một kênh huy động vốn tiềm năng cho các dự án của chính phủ và cho các dự án tư nhân. Thị trường trái phiếu Việt Nam bao gồm các hàng hoá chủ yếu là TPCP, TPCQĐP, TPDN. Các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường vốn. Thị trường vốn Việt Nam với qui mô vẫn còn nhỏ, còn chưa thực sự chuẩn hoá. Đây là một thị trường đang phát triển và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và tổ chức tài chính nước ngoài. Dư nợ thị trường trái phiếu Việt Nam năm 2007 đạt 17% GDP. Tính đến 30/06/2008, có khoảng 579 loại trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng mệnh giá 155.367,623 tỷ đồng, chiếm khoảng 72% giá trị toàn thị trường. Trong các loại trái phiếu đã được phát hành và giao dịch trên TTCK Việt Nam, TPCP chiếm ưu thế trên thị trường. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thị trường trái phiếu Chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ của Việt Nam tăng trưởng mạnh nhất trong năm 2007, với tốc độ tăng 83% và lượng lưu hành khoảng 8,3 tỷ USD. Lượng trái phiếu Kho bạc Nhà nước lưu hành tăng 16%, trong khi lượng trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) phát hành tăng trưởng mạnh nhất và ngân hàng này hiện chiếm 30% lượng trái phiếu công đang được lưu hành. Thị trường trái phiếu nội tệ do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành cũng ghi nhận mức tăng trưởng mạnh trong năm 2007, với mức tăng lên tới 251% - cao nhất trong số các thị trường đang nổi lên ở Đông Á - và lượng phát hành mới trên 1,1 tỷ USD. Phần lớn các doanh nghiệp phát hành trái phiếu là các doanh nghiệp đã niêm yết, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, ngoài ra còn có các doanh nghiệp trong lĩnh vực phát điện, đóng tàu, giao thông, dệt may, và các ngân hàng. TPCQĐP được chính quyền địa phương phát hành dưới sự cho phép của Chính phủ. Hiện nay, mới chỉ có Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành TPCQĐP để huy động vốn. Số trái phiếu này được phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành. Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái phiếu này không cao. Theo ADB, năm 2007 tốc độ tăng trưởng của TTTP Việt Nam cao nhất trong khu vực, nhưng giá trị giao dịch (một thước đo về tính thanh khoản) của thị trường trái phiếu Việt Nam lại vào hàng thấp nhất trong số các thị trường đang nổi lên ở Đông Á. Phần lớn chỉ tập trung ở thị trường sơ cấp, ở thị trường thứ cấp khối lượng giao dịch trái phiếu rất nhỏ giọt. Thị trường trái phiếu Việt Nam đã có những khởi sắc trong một vài năm gần đây cả khu vực Chính phủ và doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế đã làm cho thị trường trái phiếu hoạt động kém hiệu quả. II.2.2. Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay II.2.2.1. Trái phiếu Chính phủ Hoạt động phát hành TPCP qua hệ thống KBNN đã được thực hiện từ năm 1991. Lúc này, KBNN đóng vai trò là kênh phát hành TPCP duy nhất để huy động vốn từ ngắn hạn để bù đắp thâm hụt tạm thời NSNN thông qua việc phát hành tín phiếu KBNN đến việc huy động vốn dài hạn thông qua phát hành công trái. Tuy nhiên, nếu xét ở khía cạnh thị trường tài chính thì TPCP là một hàng hóa do đó cần phải có một thị trường là nơi mà TPCP không chỉ được bán ra mà còn được chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư chứng khoán, thể hiện quan hệ cung cầu TPCP. Ở góc độ này, KBNN chỉ có thể là một bộ phận cung TPCP chứ không thể hình thành thị trường TPCP qua hệ thống kho bạc mà thị trường TPCP phải là một bộ phận của TTCK. Đến năm 2000, thêm hai phương thức phát hành TPCP: phương thức đấu thầu qua thị TTCK và bảo lãnh phát hành Hiện nay TPCP được Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam phát hành hàng năm với khối lượng chủ yếu thông qua các kênh bảo lãnh phát hành và đấu thầu qua TTCK. TPCP niêm yết tại các TTGDCK chiếm khoảng 82% thị trường trái phiếu Việt Nam. Hình 2.1: Giá trị trái phiếu Chính phủ phát hành từ 2000-2007 Nguồn: Tập hợp từ Sở GDCKTP.HCM và TT GDCKHN Tình hình đấu thầu TPCP qua TTGDCK - TPCP do Kho bạc Nhà nước (KBNN) phát hành từ 2000-30/06/2008: + Từ 2000-30/06/2006, tại SGDCK TP.HCM (HOSE), KBNN đã thực hiện 91 đợt đấu thầu TPCP với tổng khối lượng gọi thầu là 19.800 tỷ đồng. Kết quả có 74 đợt thành công với khối lượng TPCP trúng thầu là 10.578,7 tỷ đồng, đạt 53,43% so với khối lượng gọi thầu + Từ 2005-30/06/2008, tại TTGDCK HN (HASTC), KBNN đã thực hiện 59 đợt đầu thầu TPCP (trong đó có 10 phiên đấu thầu lô lớn) với tổng khối lượng gọi thầu là 40.150 tỷ đồng (trong đó 8.000 tỷ đồng là của TPCP lô lớn), khối lượng trúng thầu 24.360 tỷ đồng (trong đó 2.570 tỷ đồng là của TPCP lô lớn), bằng 60,67% khối lượng gọi thầu. - TPCP do Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành từ năm 2002 - 30/06/2008: + Từ 2002-30/06/06, tại SGDCK TP.HCM, Quỹ HTPT đã thực hiện 60 đợt đấu thầu TPCP với tổng khối lượng gọi thầu là 9.100 tỷ đồng. Kết quả chỉ có 18 đợt thành công với khối lượng TPCP trúng thầu là 1.199 tỷ đồng, đạt 13,18% so với khối lượng gọi thầu. + Từ 2005-30/06/2008, tại TTGDCK Hà Nội, Quỹ HTPT đã thực hiện 15 đợt đấu thầu TPCP với khối lượng gọi thầu là 7.394 tỷ đồng và khối lượng trúng thầu là 1.730 tỷ đồng, bằng 23,4% khối lượng gọi thầu. Giai đoạn 2000-2005 được xem là giai đoạn hình thành và khởi động TTCK Việt Nam. Do thị trường mới đi vào hoạt động, việc phát hành trái phiếu cũng như tham gia đấu thầu còn mang tính nghiên cứu, thăm dò. Cụ thể, tổng giá trị TPCP gọi thầu năm 2000-2005 lần lượt là 1.300 tỷ; 3.400 tỷ; 6.300 tỷ; 6.325 tỷ và khối lượng trúng thầu lần lượt là 600 tỷ; 1.333 tỷ; 386 tỷ; 1.279 tỷ; 2.307,7 tỷ; 2.365 tỷ. Năm 2006, cùng với sự bùng nổ của TTCK và thực hiện Quyết định 2276/QĐ-BTC ngày 20/6/2006 của Bộ Tài chính về tập trung đấu thầu trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, hoạt động đấu thầu đã có những thành công đột biến. Giá trị TPCP trúng thầu năm 2006 khoảng 7.885 tỷ gấp 3,3 lần so với năm 2005. Hơn nữa, đã có nhiều phiên đấu thầu TPCP trong năm 2006 có kết quả mời thầu từ 200 tỷ đồng trở lên và dành cho TPCP có cùng kỳ hạn nhưng ngày đáo hạn khác nhau. Phiên đấu thầu ngày 09/06/2006 có giá trị mời thầu 700 tỷ đồng, giá trị trúng thầu là 650 tỷ. Các phiên đấu thầu từ tháng 9/06 đến tháng 12/2006 chỉ có một phiên đạt tỷ lệ 90% còn lại tất cả đều đạt 100%. Những kết quả thành công trong năm 2006, tạo tiền đề cho việc phát hành TPCP theo lô lớn. Ðầu năm 2007, KBNN đã phát hành thành công TPCP theo lô lớn đầu tiên có tổng khối lượng tính theo mệnh giá là 1.000 tỷ đồng, được phát hành thành ba đợt vào các ngày 19/03/2007, 27/04/2007 và 17/05/2007, có cùng ngày đến hạn thanh toán là 19/03/2012, lãi suất thanh toán hằng năm (7,8%/năm). Đến lô thứ hai năm 2007, có tổng khối lượng gọi thầu là 2.000 tỷ, khối lượng trúng thầu 1.570 tỷ, đạt 78,5%, lô này cũng được phát hành thành ba đợt. Hoạt động đầu thầu TPCP tiếp tục tạo ấn tượng mạnh đến sáu tháng đầu năm 2007. Tuy nhiên, theo thống kê của TTGDCK HN dấu hiệu của những phiên đấu thầu thất bại đã xuất hiện. Cụ thể, quý I/2007 tỉ lệ thành công đạt 99%; quý II/2007 giảm xuống 82,46%, quý III/2007 giảm còn 58,39%, quý IV/2007 67,3%. Điển hình là tại phiên đấu thầu TPCP ngày 05/09/2007, tỷ lệ trúng thầu chỉ đạt 100 tỷ đồng trên tổng khối lượng gọi thầu 700 tỷ đồng, tỷ lệ thành công ở mức khiêm tốn là 14,2%. Phiên đầu thầu 200 tỷ đồng TPCP kỳ hạn 15 năm, phát hành ngày 27/09/2007 do NHPT Việt Nam phát hành với khối lượng trúng thầu bằng 0. Đỉnh điểm của sự chú ý là phiên đầu thầu TPCP đợt 16/2007, ngày 4/10/2007 có khối lượng trúng thầu bằng 0, toàn bộ 500 tỷ đồng trái phiếu không phát hành được. Một nghịch lý là số lượng thành viên tham gia đấu thầu ngày một tăng, khối lượng đăng ký đấu thầu cũng vượt quá khối lượng gọi thầu, bình quân gấp 3,65 lần khối lượng gọi thầu, đ._. của thị trường vốn và trong quá trình điều hành hoạt động ĐMTN đã rút tỉa được kinh nghiệm nếu xét thấy cần thiết thì ban hành luật hoạt động ĐMTN. + Hoạt động ĐMTN là một bộ phận của TTCK, nó liên quan chặt chẽ với hoạt động của toàn TTCK và ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, do đó cần phải có sự đồng bộ hóa các quy định có liên quan đến hoạt động ĐMTN với các quy định khác có liên quan. Cần giám sát và có qui định xử phạt đối với các hành vi sai trái khi tổ chức ĐMTN đưa ra các kết quả xếp hạng tín nhiệm không trung thực. - Tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Một tổ chức ĐMTN phụ thuộc vào sự sẵn có các thông tin chính xác tin cậy về các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Mặt khác, các cơ quản lý không chỉ dừng lại ở việc khuyến khích xếp hạng tín nhiệm mà phải thông qua việc ban hành các quy định về ĐMTN bắt buộc, yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK phải thực hiện ĐMTN, nhất là các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dù chào bán ra công chúng hay chào bán riêng lẻ. Minh bạch hoá thông tin vừa tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư vừa tạo uy tín cho bản thân các doanh nghiệp phát hành. Một trở ngại cho sự phát triển của các tổ chức ĐMTN là có quá ít công cụ nợ để định giá, do đó cần mở rộng quy mô cung chứng khoán đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp. - Cần nâng cao nhận thức của nhà phát hành và nhà đầu tư về ĐMTN. Để hệ thống ĐMTN tồn tại và phát triển là sự công nhận và xem công tác ĐMTN như một trong những nhân tố toàn diện nhất để nhận biết những rủi ro tiềm ẩn. Để làm được điều này, cần phải làm cho các nhà đầu tư, các tổ phát hành trái phiếu và các tổ chức trung gian thị trường hiểu được những lợi ích mà ĐMTN mang lại. Bên cạnh đó, các tổ chức ĐMTN phải tạo được sự tin cậy, tín nhiệm từ phía những người ủy thác và công chúng đầu tư, đảm bảo nguyên tắc hoạt động tính tin cậy, tính độc lập, tính khách quan và chuyên nghiệp. - Cuối cùng, để hệ thống ĐMTN thành công còn phụ thuộc vào khuôn khổ chính sách dẫn dắt, có thể thực hiện các bước đi sau: + Hợp tác và tiếp thu kinh nghiệm, chuyên môn từ các tổ chức ĐMTN nổi tiếng trên thế giới. Vai trò của các tổ chức ĐMTN quốc tế, ngay cả trong giai đoạn đầu, cần được xem xét một cách phù hợp. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ gia tăng sự lựa chọn và chất lượng của các dịch vụ cung cấp cho các tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Áp lực cạnh tranh từ các tổ chức ĐMTN quốc tế cũng sẽ buộc các tổ chức ĐMTN trong nước tăng cường chất lượng và tính cạnh tranh về dịch vụ của họ. Tuy nhiên, với mục đích phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước, trong giai đoạn đầu nên hạn chế sự tham gia của các tổ chức ĐMTN nước ngoài, chỉ dừng ở mức hỗ trợ thu hút vốn nước ngoài. Việc tham gia vào các mảng thị trường khác chỉ nên cho phép khi đã qua một số giai đoạn nhất định, với điều kiện lộ trình đó phải được minh bạch và có độ tin cậy cao. + Trong điều kiện hiện tại của VN, có một số lý do không ủng hộ việc cho phép các Công ty định mức tín nhiệm tư nhân hoạt động. Thứ nhất, các tổ chức tư nhân này thường có quy mô nhỏ. Thứ hai, có rủi ro là một số tổ chức phát hành có thể thành lập các Công ty định mức tín nhiệm của chính mình để đạt được những kết quả sai lệch về tình hình tín dụng của họ. Mặc dù vậy, các tổ chức ĐMTN nhà nước cũng vẫn có những điểm yếu, vấn đề phức tạp nhất có thể xảy ra là sự can thiệp của Chính phủ đối với kết quả định mức tín nhiệm. Để đảm bảo chất lượng định mức tín nhiệm, việc thực thi công tác kiểm soát, giám sát và phân định trách nhiệm rõ ràng phải được chú trọng. Ngoài ra, việc lựa chọn quyền sở hữu đối với các tổ chức ĐMTN đòi hỏi phải xem xét kỹ tới quy mô và tính chuyên nghiệp cần thiết.... Trong giai đoạn đầu có thể thành lập một tổ chức ĐMTN thuộc sở hữu nhà nước và sau đó có thể cho phép chuyển thành sở hữu tư nhân. III.2.3. Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường Ở các thị trường chứng khoán phát triển, các nhà tạo lập thị trường là các trung gian tài chính. Họ niêm yết giá mua, giá bán và sẵn sàng thực hiện giao dịch với các mức giá đã niêm yết. Các hoạt động của họ tạo tính linh hoạt cho thị trường trái phiếu; tăng khả năng thực hiện giao dịch trái phiếu làm cho thị trường giao dịch trái phiếu sôi động hơn thông qua cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau… Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn sơ khai, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết. Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chính sách phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn. Để xây dựng đội ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm năng tài chính đủ mạnh sẵn sàng mua - bán một lượng trái phiếu nhất định khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ trương khuyến khích các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm có tiềm năng tài chính lớn tham gia. III.2.4. Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt Trái phiếu với những đặc điểm riêng đòi hỏi phải có cơ chế phát hành và giao dịch riêng. Giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp cần tách khỏi thị trường cổ phiếu, xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường. Cần tìm ra một mô hình giao dịch phù hợp cho thị trường trái phiếu chuyên biệt. Một số thị trường trái phiếu trên thế giới đã và đang áp dụng các mô hình giao dịch điển hình sau: - Hệ thống khớp lệnh chéo (cross-matching system): các nhà đầu tư được kết nối với nhau thông qua các nhà kinh doanh trái phiếu. - Hệ thống một nhà kinh doanh (single-dealer system): nhà đầu tư thực hiện giao dịch với một nhà kinh doanh trái phiếu duy nhất để thương lượng và thực hiện giao dịch. Nhà kinh doanh trái phiếu này đưa ra yết giá hai chiều mua-bán trái phiếu. - Hệ thống liên định chế (Interdealer system): hệ thống giao dịch giữa các nhà kinh doanh trái phiếu với nhau thông qua mạng lưới giao dịch điện tử của các nhà môi giới liên định chế; các tổ chức đầu tư có thể biết được các chào giá tốt nhất trên thị trường tại một thời điểm và tiến hành giao dịch thông qua nhà môi giới. - Hệ thống đa định chế (Multi-dealer system): nhà đầu tư kết nối với nhiều nhà kinh doanh trái phiếu, cho phép hiển thị các giá chào bán và chào mua có trên hệ thống tại một thời điểm để so sánh và chọn chào giá tốt nhất của từng loại trái phiếu. Hệ thống này còn cho phép các nhà đầu tư yêu cầu lấy giá cho một loại trái phiếu từ một hoặc nhiều nhà kinh doanh tham gia hệ thống giao dịch. Hệ thống này tăng khả năng tiếp cận thông tin cho nhà đầu tư cuối cùng và có nhiều lựa chọn giao dịch. - Hệ thống đấu giá (Auction system): thành viên bán trái phiếu sẽ đăng các thông tin chi tiết về trái phiếu được chào bán và các điều kiện cụ thể trong đấu giá, các thành viên tham gia đấu giá nộp đơn đấu giá và khối lượng trái phiếu chào bán sẽ được chuyển cho thành viên nào trả giá cao nhất. Việc lựa chọn hệ thống giao dịch phù hợp cho thị trường thứ cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mức độ phát triển của thị trường trái phiếu là quan trọng nhất, đặc biệt là thị trường TPCP đóng vai trò chủ đạo. Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn non trẻ, số lượng nhà đầu tư có tổ chức còn hạn chế và mức giao dịch trái phiếu thấp thì hệ thống giao dịch thỏa thuận là phù hợp để tăng tính thanh khoản. Tuy nhiên, khi thị trường trái phiếu phát triển, quy mô thị trường lớn, đã có hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu đủ lớn và chuyên nghiệp, việc ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ cao, nhu cầu về tính hiệu quả và minh bạch của thị trường càng lớn, lúc này cần vận dụng các mô hình hệ thống hiện đại hơn vào thị trường trái phiếu. Giao dịch trái phiếu tập trung sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu trong nước, là một kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế. Với sự ra đời của thị trường trái phiếu chuyên biệt, nhà đầu tư, các quỹ đầu tư sẽ ngày càng quan tâm hơn đến thị trường trái phiếu với niềm tin vào một thị trường trái phiếu sôi động và minh bạch hơn, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường trái phiếu sơ cấp và tính thanh khoản của thị trường thứ cấp. III.2.5. Thực hiện công khai hóa thông tin Việc công khai và minh bạch hoá thông tin là một yếu tố quan trọng để thị trường trái phiếu hoạt động lành mạnh. Do đó, Chính phủ và doanh nghiệp cần tích cực thực hiện công khai hóa thông tin, khắc phục tình trạng bưng bít thông tin hoặc công khai mang tính hình thức. Công bố thông tin một cách tùy tiện, không có hệ thống và chuẩn mực sẽ tạo tâm lý e ngại đối với nhà tư là nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu kém phát triển. Độ tin cậy của thông tin là cơ sở để nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Về phía Chính phủ, công tác công khai hóa thông tin trong thời gian tới cần hoàn thiện các mặt sau: - Tăng cường công bố kế hoạch phát hành trái phiếu, các thông tin về khối lượng phát hành, lãi suất và thời hạn. Bên cạnh đó cần tăng khả năng tiếp cận thông tin về cơ cấu nợ, lý do huy động vốn và đặc biệt là chiến lược quản lý nợ. Cụ thể vào đầu năm, Chính phủ công khai kế hoạch phát hành trái phiếu trong năm gồm các nội dung: thời điểm phát hành, khối lượng phát hành, lãi suất dự kiến, đối tượng tham gia… Vào cuối năm, cần công khai báo cáo tổng hợp, chi tiết về tình hình sử dụng vốn huy động từ TPCP, TPCQĐP trong năm. Bên cạnh đó, TPCP là một hàng hóa niêm yết trên thị trường, để thu hút nhà đầu tư hơn nữa, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, TPCP cần được các tổ định mức tín nhiệm có uy tín trên thế giới như Moody’s, S&P, Fitch đánh giá. - Ngày nay, cần khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin để đưa thông tin đến nhà đầu tư, đặc biệt là phương tiện thông tin trực tuyến từ internet, thông qua các website giúp cho nhà đầu tư dễ truy cập. UBCKNN cần thiết lập hệ thống thông tin tự động để nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể tra cứu thông tin bất cứ lúc nào. Xây dựng website chuyên cung cấp thông tin về trái phiếu và thị trường trái phiếu trong đó bao gồm các thông tin về: thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, các chính sách, chiến lược phát triển, khung pháp lý có liên quan để cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư. Lựa chọn nhà cung cấp thông tin về thị trường trái phiếu trên cơ sở gắn kết về tính chuyên nghiệp và cơ sở vật chất kỹ thuật của các thành viên tham gia thị trường. - Để đảm bảo thông tin được công bố chính xác và minh bạch cần nâng cao tính cưỡng chế của pháp luật; nâng cao kiến thức, kinh nghiệm cho các nhà đầu tư, các tổ chức trung gian thị trường để phân tích thông tin của các tổ chức phát hành; hệ thống kế toán kiểm toán đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đối với các trường hợp vi phạm về công bố thông tin trên TTCK, cần có các biện pháp chế tài xử lý vi phạm. Mặt khác, Chính phủ nên đi đầu trong công tác đào tạo kiến thức trong các lĩnh vực như: pháp lý, kế toán… Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tổ chức bộ phận chuyên trách công tác thông tin để công bố thông tin kịp thời và nâng cao chất lượng thông tin của doanh nghiệp. Thông tin cần cập nhật định kỳ, thường xuyên, có số liệu thống kê và phân tích xu hướng phát triển. Bên cạnh đó, cần nâng cao trình độ của bộ máy quản lý, đội ngũ kế toán… III.2.6. Phát triển thị trường phi tập trung (OTC) Trên thế giới, thị trường trái phiếu thường được tổ chức theo hình thức thị trường OTC, đây vốn là thị trường giao dịch của những chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đủ kiện niêm yết trên thị trường tập trung. Cụ thể, thị trường trái phiếu ở Mỹ, toàn bộ TPCP phải được tập trung phát hành và giao dịch qua thị trường OTC; thị trường trái phiếu tại Hàn Quốc, giao dịch OTC là chủ yếu. Các tổ chức tài chính trung gian như các NHTM, tổ chức kinh doanh bảo hiểm sẽ thực hiện vai trò tạo lập thị trường. Trái phiếu có độ rủi ro thấp nên chủ yếu được các tổ chức tài chính trung gian nắm giữ, đặc biệt là các ngân hàng phát triển, các NHTM và các tổ chức bảo hiểm. Các tổ chức tài chính này không muốn giao dịch qua Sở giao dịch chứng khoán do chi phí quá cao so với thu nhập của trái phiếu. Việc giao dịch thẳng giữa các tổ chức tài chính trung gian không chỉ giúp họ tiết kiệm chi phí mà còn tạo được phương thức giao dịch, thanh toán linh hoạt và phù hợp. Hơn nữa, để thực hiện vai trò tạo lập thị trường, các tổ chức tài chính trung gian phải có một lượng vốn đủ lớn, và như vậy với quy mô rất lớn của thị trường trái phiếu, các công ty chứng khoán thường không thể đáp ứng yêu cầu vốn cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. TTGDCK Hà Nội thành lập năm 2005, hoạt động gần giống thị trường phi tập trung cũng đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng hiện nay, thị trường trái phiếu sơ cấp khá phức tạp với nhiều kênh phát hành đan xen với kênh đấu thầu qua TTCK, thị trường trái phiếu thứ cấp còn kém phát triển với khối lượng giao dịch chủ yếu là TPCP. Do vậy việc xây dựng và phát triển thị trường OTC đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới. Cần xây dựng thị trường trái phiếu Việt Nam theo mô hình thị trường OTC, trên cơ sở đồng bộ với thị trường trái phiếu tập trung và phù hợp với chiến lược phát triển TTCK. Trong đó, cho phép các NHTM, các công ty bảo hiểm và các tổ chức Tài chính trung gian khác đủ khả năng trở thành nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Với lượng trái phiếu lớn đang được các NHTM và tổ chức kinh doanh bảo hiểm nắm giữ, với hệ thống thanh toán liên ngân hàng đang vận hành tốt, thị trường OTC đối với trái phiếu sẽ sớm vận hành có hiệu quả. III.2.7. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý Để thị trường trái phiếu vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực. Hiện nay, hoạt động của thị trường trái phiếu được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy: Nghị định 141/2003/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP), Nghị định 52/2006/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPDN), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 (quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán) và một số các văn bản pháp quy khác có liên quan. Tiếp tục rà soát, bổ sung và sửa đổi để hoàn thiện khung pháp lý. Quốc hội bên cạnh việc đã thông qua Luật chứng khoán đồng thời phải từng bước hoàn thiện Luật Chứng khoán cho phù hợp với tình hình đặc thù của TTCK sơ khai đang từng bước phát triển và hội nhập. Phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định về đấu thầu TPCP và việc công khai hóa thông tin của Chính phủ về TPCP cần được thể hiện trong Luật Chứng khoán, không nên quy định riêng lẻ trong các văn bản dưới Luật như hiện nay. Cần có các quy định để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên tham gia đấu thầu và bảo lãnh phát hành. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động công bố thông tin, nền tảng là Luật Chứng khoán và Luật Kế toán. Tạo khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh cũng như các tranh chấp, kiện tụng giao dịch. Hiện nay, hoạt động của thị trường OTC không trái với pháp luật hiện hành, tuy nhiên Luật Chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có những điều khoản về thị trường OTC. Các đối tượng tham gia thị trường đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu rủi ro nếu không được bảo vệ bởi bất kỳ khung pháp lý nào, do đó cần có khung pháp lý rõ ràng để bảo vệ các đối tượng tham gia thị trường. Cụ thể trong Luật Chứng khoán cần quy định rõ đối tượng được phép thành lập, thủ tục thành lập, cơ cấu điều hành Trung tâm OTC, quy định đối với trường hợp giải thể trung tâm OTC… Ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các công ty chứng khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ; cần có cơ chế hỗ trợ khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước tham gia thị trường. Bên cạnh đó, Chính phủ cần thực hiện chương trình cải cách sâu, rộng các quy định pháp lý về chuẩn mực quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện quản lý theo chuẩn mực để sớm hình thành cơ chế quản lý bình đẳng; nâng cao hiệu quả giám sát từ phía Nhà nước. Thành lập hiệp hội thị trường trái phiếu sẽ giúp xây dựng và chuẩn hoá các phương thức cũng như điều kiện giao dịch chung. III.2.8. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu. Chú trọng hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các doanh nghiệp và công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet để tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu tư trái phiếu. Kết luận chương III Trong thời gian qua thị trường trái phiếu đã chứng minh được tiềm năng huy động vốn của mình và Chính phủ cũng đã có nhiều giải pháp phát triển. Tuy nhiên để thị trường trái phiếu phát huy tốt vai trò của mình, cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, cần có những nổ lực cụ thể và hiệu quả từ nhiều phía: Chính phủ, Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Xây dựng lộ trình triển khai thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường trái phiếu. Trên cơ sở thực hiện tốt các định hướng và giải pháp đã trình bày trong phần này, sẽ góp phần phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, đảm bảo các mục tiêu chiến lược phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam trong gian qua đã đạt được sự tăng trưởng ấn tượng, trong đó yếu tố về vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đứng trước những cơ hội và thách thức hiện tại, chiến lược phát triển thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư cho mọi đối tượng trong nền kinh tế, đảm bảo nguồn lực phát triển kinh tế. Qua phân tích thực tế hoạt động thị trường trái phiếu Việt Nam, cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ dư nợ trái phiếu/GDP vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân do thị trường trái phiếu còn non trẻ, với quy mô chưa phát triển, chưa có nền tảng lãi suất chuẩn, tính cạnh tranh của trái phiếu còn thấp, chưa xây dựng được hệ thống định mức tín nhiệm chuyên nghiệp, thiếu đội ngũ tạo lập thị trường, khung pháp lý và hệ thống quản lý chưa được hoàn thiện, nhận thức và kiến thức của doanh nghiệp và công chúng đầu tư còn kém, tâm lý e ngại rủi ro… Vấn đề cần giải quyết là từng bước khắc phục các nguyên nhân dẫn đến tình hình kém phát triển và đưa ra các giải pháp thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển.. Việc tổ chức thực hiện các giải pháp cần phải có lộ trình nhất định, từ việc hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống quản lý tạo nền tảng cho thị trường đến việc phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, kết hợp với việc nhất thiết phải hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm, phát triển đội ngũ tạo lập thị trường, đẩy mạnh công tác đào tạo và tuyên truyền kiến thức về chứng khoán đến doanh nghiệp và công chúng đầu tư. Xuất phát từ những nhu cầu trên, đề tài “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 - 2020 ” được thực hiện với mong muốn các giải pháp nêu trên góp phần thúc đẩy thị trường phát trái phiếu Việt Nam phát triển. Hy vọng rằng với sự phối hợp thực hiện đồng bộ giữa các cấp các ngành, với sự quan tâm của Nhà nước, trong tương lai thị trường trái phiếu Việt Nam sẽ có những phát triển mạnh mẽ góp phần tạo thành công cho chiến lược phát triển thị trường vốn và công cuộc phát triển kinh tế đất nước. ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu về thị trường trái phiếu, tìm hiểu về thực tế thị trường trái phiếu Việt Nam và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển. Nhưng do hạn chế về kiến thức và thời gian nên vẫn còn nhiều vấn đề mà tầm vóc của một luận văn Thạc sĩ Kinh tế chưa thể đề cập và trình bày hết được. Do vậy, tác giả hy vọng rằng trong thời gian tới, các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng sẽ có những công trình nghiên cứu bao quát hơn, chuyên sâu hơn về các chủ đề sau: - Hình thành và phát triển ngành định mức tín nhiệm ở Việt Nam. - Xây dựng đường cong lãi suất – Kinh nghiệm các nước và bài học cho Việt Nam. - Phát triển chứng khoán phái sinh ở Việt Nam. Nếu được thực hiện, những nghiên cứu trên sẽ rất có ích cho các nhà quản lý trong việc xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách phát triển thị trường. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2 Phương thức tổ chức đấu giá trên TTCK - Phương thức đấu thầu theo kiểu Anh: trước khi tổ chức phiên đấu thầu TPCP, chủ thể phát hành sẽ thông báo khối lượng TPCP mời thầu. Nhà đầu tư tham gia phiên đấu thầu sẽ đưa ra giá đặt thầu và khối lượng đặt thầu. Thông tin về giá đặt thầu và khối lượng đặt thầu sẽ được giữ kín. Phiên đấu thầu được bắt đầu, các phiếu đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự tự từ giá cao nhất đến giá thấp nhất tương ứng với khối lượng TPCP đặt mua. Sẽ có nhiều mức giá trúng thầu bắt đầu từ người trả giá cao nhất và tiếp tục bán cho người trả giá thấp hơn cho đến khi đạt được khối lượng TPCP cần bán. Đấu giá theo kiểu Anh là phương thức “đấu giá kín”, người tham gia phiên đấu giá không thể thay đổi giá đặt thầu và hoàn toàn không nắm được thông tin đặt thầu của các nhà đầu tư khác cùng tham gia phiên đấu thầu. Phương thức này gần như không có lợi cho nhà đầu tư nhưng có lợi cho nhà phát hành. - Phương thức đấu thầu theo kiểu Hà Lan: đấu thầu theo kiểu Hà Lan còn gọi là đấu thầu theo kiểu đơn giá, thủ tục đấu thầu cũng giống như đấu thầu theo kiểu Anh. Tuy nhiên khi mở thầu dù cũng được sắp xếp theo thứ tự từ giá cao nhất đến giá thấp nhất nhưng sẽ không có nhiều mức giá trúng thầu khác nhau mà chỉ có một giá trúng thầu duy nhất. Giá trúng thầu sẽ là mức giá mà ở mức giá đó toàn bộ TPCP mời thầu được bán hết. Phương thức đấu thầu này khác với phương thức đấu thầu theo kiểu Anh là toàn bộ TPCP mời thầu sẽ bán hết với cùng một mức giá cho tất cả nhà đầu tư tham gia đấu thầu. Đấu thầu theo kiểu Hà Lan cũng được thực hiện theo hình thức “đấu giá kín”. Đấu thầu theo phương thức này do giá bán thống nhất nên không hình thành chênh lệch giá bán như phương thức đấu thầu theo kiểu Anh. PHỤ LỤC 3 THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU TRÁI PHIẾU TẠI TRUNG TÂM GDCKHN Từ ngày 01/01/2007 đến 31/12/2007 STT CHỈ TIÊU NỘI DUNG 1 Tổng số đợt đấu thầu đã thực hiện 44 2 Tổng số loại trái phiếu đấu thầu 3 3 Tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu 29.016.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 2 năm - Trái phiếu kỳ hạn 3 năm 1.900.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 5 năm 20.960.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 10 năm 2.806.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 15 năm 3.350.000.000.000 4 Tổng số phiếu đăng ký tham gia đấu thầu 403 Phiếu đăng ký cho thành viên 305 Phiếu đăng ký dành cho khách hàng của thành viên 98 5 Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp lệ 403 6 Tổng khối lượng đăng ký đầu thầu hợp lệ 88.627.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 2 năm - Trái phiếu kỳ hạn 3 năm 1.770.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 5 năm 75.748.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 10 năm 5.845.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 15 năm 5.264.000.000.000 7 Tổng khối lượng trái phiếu trúng thầu 18.939.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 2 năm7 - Trái phiếu kỳ hạn 3 năm 850.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 5 năm 15.620.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 10 năm 1.095.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 15 năm 1.374.000.000.000 8 Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu 18.966.046.522.563 Nguồn: TTGDCK Hà Nội PHỤ LỤC 4 Thang điểm để đánh giá mức độ tín nhiệm của các Công ty xác định hệ số tín nhiệm khi vay vốn dài hạn Moody’s S&P Nội dung Aaa AAA Điểm tối cao: khoản nợ này được đánh giá vào hạng mạnh nhất, có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi cực mạnh. Aa A Điểm cao: mức độ này được đánh giá là cao trong việc trả nợ cả gốc và lãi, chỉ khác với mức trên rất nhỏ. A A Điểm trung bình khá: khoản nợ này được đánh giá là có khả năng trả nợ gốc và lãi mạnh, nhạy cảm hơn với các tác động bất lợi của điều kiện và hoàn cảnh kinh tế so với các nhóm trên. Baa BBB Điểm trung bình: khoản nợ này được đánh giá là có khả năng vừa đủ mạnh để hoàn trả trả nợ gốc và lãi, nhạy cảm mạnh hơn trước các tác động bất lợi của các điều kiện và hoàn cảnh so với các nhóm trên. Ba BB Điểm đầu cơ: khoản nợ này được đánh giá là ít rủi ro vỡ nợ, song lại phải đối mặt với khả năng thanh toán gốc và lãi thấp do những điều kiện tài chính kinh tế bấp bênh của nhà phát hành. B B Điểm đầu cơ rõ ràng: khoản nợ này dễ bị rủi ro phá sản hơn, nhưng hiện tại nó vẫn có khả năng thanh toán cả gốc lẫn lãi. Caa CCC Khoản nợ này được đánh giá là có khả năng rủi ro vỡ nợ lớn, việc thanh toán gốc và lãi phụ thuộc vào điều kiện tài chính kinh tế của nhà phát hành. Ca CC Khoản nợ này có tính chất đầu cơ cao nhưng lại thường bị vỡ nợ hoặc những khiếm khuyết đáng lưu ý khác. C C Khoản nợ được xác định ở mức độ tính nhiệm này có khả năng thanh toán cả gốc và lãi thấp, khả năng vỡ nợ lớn. D Khoản nợ này có khả năng vỡ nợ cực lớn, hoặc sẽ bị vỡ nợ khi đến hạn thanh toán. Ghi chú: Moody’s kèm theo các số 1,2 và 3 sau mỗi các xếp loại từ Aa đến Caa; số 1 biểu diễn mức cao nhất trong một mức xếp hạng, số 2 là mức trung bình, và số 3 là mức thấp nhất trong một mức xếp hạng. S&P sử dụng kèm theo sau mỗi xếp hạng là các dấu +,- Ví dụ: Moody’s S&P Aa1, Aa2,Aa3 AA+, AA, AA- A1, A2, A3 A+, A, A- Baa1, Baa2, Baa3 BBB+, BBB, BBB- Ba1, Ba2, Ba3 BB+, BB, BB- B1, B2, B3 B+, B, B- Caa1, Caa2, Caa3 CCC+, CCC, CCC- Thông thường, mỗi mức thấp hơn thì tỷ lệ bù cộng thêm 0,15% -> 0,25%; tuy nhiên từ Baa3 xuống Ba1 tỷ lệ bù có thể 0,5% hoặc hơn. Triển vọng định mức tín nhiệm của Việt Nam: Tổ chức đánh giá Xếp loại Triển vọng Thời gian xếp loại S&P BB Tiêu cực 5/2008 Moody’s Ba3 Tiêu cực 6/2008 Fitch BB- Tiêu cực 5/2008 (Nguồn Asianbondsonline, cập nhật ngày 15/08/08) PHỤ LỤC 5 Thống kê tình hình giao dịch trái phiếu từ năm 2000-30/06/2008 tại Sở GDCK TP.HCM Năm Giao dịch khớp lệnh Giao dịch thoả thuận Tổng cộng KLGD GTGD (triệu đồng) KLGD GTGD (triệu đồng) KLGD GTGD (triệu đồng) 2000 21.790 2.143 - - 21.790 2.143 2001 81.730 7.804 612.000 62.898 693.730 70.702 2002 37.890 3.554 1.254.820 118.008 1.292.710 121.562 2003 48.920 4.575 25.032.920 2.463.312 25.081.840 2.467.887 2004 53.520 5.290 171.625.712 17.877.992 171.679.232 17.883.282 2005 - - 232.110.825 23.837.588 232.110.825 23.837.588 2006 - - 477.500.447 48.654.248 477.500.447 48.654.248 2007 - - 380.987.007 39.918.828 380.987.007 39.918.828 6 tháng Đầu 2008 - - 234.195.714 23.716.897 234.195.714 23.716.897 Tổng cộng 243.850 23.366 1.523.319.445 156.619.771 1.523.319.445 156.619.771 Nguồn: Sở GDCK TP.HCM Thống kê tình hình giao dịch trái phiếu từ năm 2005-30/06/2008 tại TGDCK Hà Nội Năm Giao dịch báo giá Giao dịch khớp lệnh Tổng cộng KLKL GTGD KLKL GTGD (triệu đồng) KLKL GTGD (triệu đồng) 2005 - - 781.830 78.062 781.830 78.062 2006 - - 68.593.370 7.001.817 68.593.370 7.001.817 2007 - - 752.732.400 77.521.337 752.732.400 77.521.337 30/06/2008 - - 618.934.035 57.749.376 618.934.035 57.749.376 Tổng cộng 1.441.041.635 142.350.592 1.441.041.635 142.350.592 Nguồn: TTGDCK Hà Nội Thống kê quy mô giao dịch trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài tại các TTGDCK Năm Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (tỷ đồng) 1 - Sở GDCK TP.HCM: 2003 200.000 20 2004 7.030.989 719 2005 40.770.226 4.133 2006 142.202.868 14.498 2007 258.274.881 27.375 6 tháng đầu 2008 217.714.500 22.309 Cộng 666.193.464 69.055 2 – Trung tâm GDCK Hà Nội: 2006 77.965.180 7.911 2007 1.199.375.690 123.752 6 tháng đầu năm 2008 951.923.564 89.351 Cộng 2.229.264.434 221.014 Nguồn: Tập hợp từ Sở GDCK TP.HCM & TTGDCK HN Những kết quả đạt được của đề tài: Phân tích chi tiết thực trạng phát hành và giao dịch của thị trường trái phiếu Việt Nam, từ đó phân tích các nguyên nhân kém phát triển của thị trường này: quy mô nhỏ, thanh khoản thấp; thiếu tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp; thiếu đội ngũ các nhà tạo lập thị trường; chưa xác định được đường cong lãi suất chuẩn; tính cạn tranh của thị trường trái phiếu thấp, nhận thức của doanh nghiệp; công bố thông tin chưa đầy đủ; hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh. Trong những năm gần đây thị trường trái phiếu Việt Nam tuy đã có những phát triển khả quan nhưng qui mô vẫn còn nhỏ, hàng hóa trên thị trường chưa được đa dạng… Thực tế thị trường trái phiếu còn nhiều hạn chế cần có giãi pháp để hoàn thiện và phát triển thị trường.Từ những định hướng phát triển, đề tài đã đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy triển thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển như: mở rộng quy mô, đa dạng hóa và tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu, xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm, thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường, xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt, thực hiện công khái hóa thông tin, phát triển thị trường phi tập trung, hoàn thiện hệ thống pháp lý và quản lý, nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0140.doc
Tài liệu liên quan