- 1 -
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
]]]]] ^^^^^
NGUYỄN VIỆT TRUNG
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2009
- 2 -
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
]]]]] ^^^^^
NGUYỄN VIỆT TRUNG
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM
Chuyên Ngành: Kinh tế tài chính - Ngân Hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2009
- 3 -
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
TRÁI PHIẾU VIỆT NAM” là công trình nghiên cứu của bản thân,
được đúc kết từ quá trình học tập và nghiên cứu thực tiễn trong thời
gian qua, dưới sự hướng dẫn của GS.TS Dương Thị Bình Minh.
Tác giả luận văn
Nguyễn Việt Trung
- 4 -
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
ĐMTN Định mức tín nhiệm
KBNN Kho bạc Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTƯ Ngân hàng Trung ương
NSNN Ngân sách Nhà nước
OTC Thị trường chứng khoán phi tập trung
Hose Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
TPCP Trái phiếu chính phủ
TPCQĐP Trái phiếu chính quyền địa phương
TPDN Trái phiếu doanh nghiệp
TTCK Thị trường chứng khoán
HNX Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước
- 5 -
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Lạm phát, cung tiền và GDP (%)
Bảng 2.2: Kết quả đấu thầu qua TTGDCK TP.HCM 2000 – 2004
Bảng 2.3: Kết quả đấu thầu qua TTGDCK Hà Nội 2005 – 2007(Đvt: tỷ đồng)
Bảng 2.4: Kết quả phát hành trái phiếu chính phủ qua bảo lãnh từ 2000-2006
Bảng 2.5: Kết quả huy động vốn qua thị trường trái phiếu Chính Phủ
Bảng 2.6: Tình hình phát hành trái phiếu đô thị TP.HCM 2003-2007 (Đvt: tỷ đồng)
Bảng 2.7: Kết quả phát hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng 2000 - 2004
Bảng 2.8: Một số đợt phát hành trái phiếu năm 2007
Bảng 2.9: Kết quả niêm yết trái phiếu thời kỳ 2000 - 2004
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Mô hình các chủ thể trên thị trường trái phiếu
Hình 1.2: Thị trường trái phiếu Malaysia
Hình 1.3: Thị trường TPCP Singapore (tỷ S$)
Hình 2.1: Biểu đồ lạm phát Việt Nam (1/2006-11/2008)
Hình 2.2: Đường cong lãi suất chuẩn của thị trường trái phiếu nội tệ Việt Nam:
Hình 2.3: Chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu kỳ hạn 2 năm và 10 năm.
Hình 2.4: Quy mô trái phiếu nội tệ so với GDP (%)
Hình 2.5: Quy mô và cơ cấu các kỳ hạn trái phiếu nột tệ chính phủ Việt Nam
Hình 2.6: Giá trị giao dịch TPCP/Giá trị niêm yết ở một số thị trường so với Việt Nam
Hình 2.7: Giá trị trái phiếu chính quyền địa phương phát hành từ 2003-2007
Hình 2.8: Tỉ số vòng quay trái phiếu chính phủ
- 6 -
MỤC LỤC Trang
Chương 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1.1. Lý luận cơ bản về trái phiếu............................................................................3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu………………………………………. 3
1.1.2. Phân loại trái phiếu…………………………………………………………. .4
1.1.3. Lãi suất trái phiếu……………………………………………………………..5
1.1.4. Nhược điểm của trái phiếu………………………………………………….. 5
1.2. Thị trường trái phiếu………………………………………………………. 6
1.2.1. Khái niệm và phân loại thị trường trái phiếu………………………………... 6
1.2.2. Các phương thức phát hành trái phiếu vào thị trường………………………..7
1.2.3. Các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu……………………………………7
1.2.4. Các tiêu chí phát triển thị trường trái phiếu bền vững………………………12
1.3. Vai trò của thị trường trái phiếu đối với sự phát triển kinh tế…………..13
1.3.1. Vai trò của thị trường trái phiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế……..13
1.3.2. Vai trò của thị trường trái phiếu đối với hoạt động của doanh nghiệp……..15
1.3.3. Vai trò của thị trường trái phiếu đối với các chủ thể đầu tư……………...…17
1.4. Khái quát thị trường trái phiếu ở các nước……………………………….17
1.4.1. Quy mô giao dịch thị trường trái phiếu Châu Á…………………………….17
1.4.2. Quy mô giao dịch và kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu Malaysia…20
1.4.3. Quy mô giao dịch và kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu Singapore…23
1.4.4. Bài học kinh nghiệm về phát triển thị trường trái phiếu các nước Châu Á…26
Kết luận chương I…………………………………………………………………28
Chương 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
2.1. Khái quát thực trạng kinh tế Việt Nam…………………………………. 29
2.1.1. Thực trạng kinh tế vĩ mô…………………………………………………….29
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp……………………31
2.2. Thực trạng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam…………………32
- 7 -
2.2.1. Cơ sở pháp lý cho việc phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam…………..32
2.2.2. Thực trạng vận hành thị trường TPCP Việt Nam...........................................33
2.2.2.1. Thực trạng các phương thức phát hành trái phiếu chính phủ...................35
2.2.2.2. Thị trường trái phiếu chính quyền địa phương............................................41
2.2.3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp................................................................44
2.2.3.1. Thị trường phát hành trái phiếu doanh nghiệp...........................................44
2.2.3.2. Hoạt động niêm yết và giao dịch của trái phiếu doanh nghiệp................51
2.2.3.3.Những ưu điểm của của kênh huy động vốn thông qua việc phát hành trái
phiếu đối với doanh nghiệp………………………………………………………………54.
2.2.3.4. Những tồn tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp .............................56
2.3. Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam.....................................57
2.3.1. Ưu điểm...........................................................................................................57
2.3.2. Tồn tại.............................................................................................................58
Kết luận chương II..................................................................................................62
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM
3.1. Quan điểm và định hướng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến
năm 2020.........................................................................................................63
3.1.1. Quan điểm phát triển.......................................................................................64
3.1.2. Định hướng phát triển.....................................................................................64
3.2. Các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam............................65
3.2.1.Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu.................................65
3.2.2. Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ.......................................................67
3.2.2.1.Đối với trái phiếu Chính phủ........................................................................67
3.2.2.2.Đối với trái phiếu chính quyền địa phương.................................................69
3.2.3. Đa dạng hóa các loại trái phiếu doanh nghiệp..............................................70
3.2.4. Các giải pháp mang tính kỹ thuật của thị trường...........................................72
3.2.4.1. Xây dựng được đường cong lãi suất chuẩn………………………………….72
- 8 -
3.2.4.2. Khuyến khích sự phát triển hệ thống định mức xếp hạng tín nhiệm chuyên
nghiệp………………………………………………………………………………….75
3.2.4.3. Phát triển hệ thống giao dịch trái phiếu chuyên biệt………………………79
3.2.4.4. Chuẩn hóa hệ thống thông tin công bố, đơn giản hóa các thủ tục phát hành
trái phiếu………………………………………………………………………………81
3.2.4.5. Đa dạng hóa các chủ thể phát hành trái phiếu………………………………82
3.2.4.6. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho
các doanh nghiệp và công chúng đầu tư………………………………………………..82
Kết luận chương III………………………………………………………………83
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..84
TÀI LIỆU THAN KHẢO………………………………………………………...85
PHỤ LỤC ....................................................................................................................
- 9 -
PHẦN MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc
độ cao, trung bình từ 7 – 7,5%/năm. Mặc dù vậy Việt Nam vẫn còn là một nước
đang phát triển. Chính vì vậy để dáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế trong
thời gian đến, mục tiêu đầu tư cần chiếm đến trên 30%/GDP mỗi năm. Để đáp ứng
yêu cầu này cần huy động tổng hòa nhiều nguồn vốn tài trợ. Một trong những
nguồn tài trợ chính là việc phát triển thị trường trái phiếu trong tổng thể sự phát
triển thị trường vốn.
Hơn lúc nào hết, trước thực trạng bội chi ngân sách liên tục diễn ra trong thời
gian qua cũng như trong những năm đến thì kênh huy động vốn bù đắp cho sự thâm
hụt này chính là việc phát hành trái phiếu chính phủ. Trong sự phát triển nền kinh
tế, nhu cầu vốn đặt ra cho Chính phủ một sự quan tâm đặc biệt để phát triển. Phát
triển thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ
đạo, đây là kênh dẫn vốn nhanh để phát triển nền kinh tế đất nước.
Tính đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được gần tám
năm, đã có những bước phát triển cả về quy mô và chất lượng hàng hóa, tiến tới phù
hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh các hoạt động
mua bán giao dịch cổ phiếu sôi động thì thị trường trái phiếu vẫn chưa thật sự thu
hút được các nhà đầu tư quan tâm nhất là các nhà đầu tư có tổ chức. Hiện nay dù thị
trường trái phiếu được chuyên biệt hóa trên sàn HNX nhưng quy mô và mức độ
giao dịch của thị trường này vẫn còn quá nhỏ và yếu. So với thị trường cổ phiếu đã
có những phát triển vượt bậc thì thị trường trái phiếu vẫn còn đang bỏ ngỏ.
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trở thành kênh huy động vốn nhanh
và hiệu quả, giải quyết các nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thâm hụt
ngân sách của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất và
tái sản xuất mở rộng của các doanh nghiệp cũng như tạo thêm hàng hoá cho thị
trường và nhà đầu tư. Muốn vậy, cần phải phân tích tìm hiểu nguyên nhân thực
trạng của hoạt động thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian qua để có thể
đưa ra các giải pháp trọg tâm và mang tính đột phá cho sự phát triển này.
Chính vì vậy, tác giả đã nghiên cứu đề tài:
“PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM”
- 10 -
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phân tích thực trạng vận hành thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian
qua để đánh giá nguồn hàng hóa trên thị trường có đa dạng để đáp ứng cho nhu cầu
của thị trường không. Mặc khác qua quá trình phân tích những nguyên nhân từ thực
trạng thị trường trái phiếu Việt Nam đề tài muốn giải quyết các tồn tại này để đưa
thị trường phát triển ngang tầm với các thị trường các nước trong khu vực. Những
giải pháp được đưa ra đều dựa trên quá trình phân tích những tồn tại của thị trường
trái phiếu Việt Nam hiện nay.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn nghiên cứu thị trường trái phiếu trên lãnh thổ Việt Nam và mô hình
vận hành thị trường trái phiếu ở một số nước trên thế giới để có bài học cho các giải
pháp được đưa ra. Thị trường trái phiếu trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là
thị trường trái phiếu trung và dài hạn của nhà nước và doanh nghiệp cho đầu tư phát
triển.
Luận văn nghiên cứu hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam từ năm
2001 đến 2008.
CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đã tổng hợp tương đối hệ thống và đầy đủ số liệu hoạt động của thị
trường trái phiếu ở Việt Nam từ năm 2001 đến 2008. Trên cơ sở đó phân tích, đánh
giá sự phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp chủ
yếu để phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm 2020.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết các mục đích mà đề tài hướng đến, tác giả đã vận dụng lý thuyết
các môn học về Thị trường tài chính làm nền tảng lý luận; bên cạnh đó tác giả sử
dụng phương pháp thống kê lịch sử và phương pháp tổng hợp, phân tích để đánh giá
về tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam; vận dụng kinh nghiệm
của các nước trên cơ sở phát triển thị trường trái phiếu làm cơ sở đề xuất các giải
pháp phù hợp, nhằm thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về thị trường trái phiếu
Chương II: Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.
- 11 -
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁI PHIẾU
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về trái phiếu từ các nhà kinh tế trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, tựu trung lại khái niệm về trái phiếu thường được đề cập
đến như là sự thể hiện cam kết của người phát hành sẽ thanh toán một số tiền xác
định vào ngày xác định trong tương lai với một mức lãi suất nào đó, các trái phiếu
thường có mệnh giá, ngày đáo hạn và lãi suất. Khi thực hiện việc mua trái phiếu,
người mua trái phiếu được xem như đã cho tổ chức phát hành vay một khoản tiền
và trái phiếu là bằng chứng thể hiện liên hệ giữa người cho vay (người mua trái
phiếu) và người đi vay (tổ chức phát hành trái phiếu), và nó được xem là một loại
chứng khoán nợ. Thông thường, thời gian phát hành trái phiếu tối thiểu là một năm.
Các loại chứng khoán nợ khác với thời hạn thanh toán dưới một năm gọi là tín
phiếu.
• Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính:
- Mệnh giá: Khác với cổ phần, mệnh giá trái phiếu là yếu tố được xác lập
rất rõ ràng, vì đây là cơ sở đặt nền móng cho các quan hệ nghĩa vụ suốt
chiều dài tồn tại của trái phiếu. Mệnh giá trái phiếu thường được định
chuẩn ở các số chẵn, tùy theo giá trị đồng bạc ở mỗi nước, đồng thời
cũng là để giúp cho việc giao dịch thuận tiện. Mỗi thị trường sẽ có những
mệnh giá được chuộng nhất và được khuyến khích sử dụng.
- Lãi suất: Đây là thành tố xác định quyền lợi về thu nhập định kỳ, phần
cứng cho người sở hữu trái phiếu – chủ nợ. Nó cũng là trách nhiệm và
nghĩa vụ của tổ chức phát hành cam kết thanh toán cho các trái chủ khi
đến hạn.
- Thời hạn: Với tất cả các loại trái phiếu bình thường, việc hoàn trả lại tiền
gốc sẽ được thực hiện vào ngày đáo hạn (maturity). Ngày đáo hạn là cơ
sở quan trọng để xác định các kỳ trả lãi.
- 12 -
1.1.2. Phân loại trái phiếu
Việc phân loại trái phiếu tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau. Điển hình:
• Theo chủ thể phát hành:
- Trái phiếu chính phủ Là loại chứng khoán do Bộ Tài chính phát hành
nhằm mục đích sử dụng để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, cho đầu
tư phát triển và được Chính phủ đảm bảo, có mệnh giá, có kỳ hạn có lãi,
xác nhận nghĩa vụ của chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu.
- Trái phiếu chính quyền địa phương: Là loại giấy tờ ghi nợ do địa phương
phát hành nhằm huy động vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng như trường
học, bệnh viện, hệ thống điện nước và các dự án khác phục vụ cho mục
đích công cộng tại địa phương.
- Trái phiếu doanh nghiệp: Là một công cụ vay nợ có kỳ hạn, có mệnh
giá, có lãi do các doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn trung và
dài hạn để đầu tư mở rộng qui mô sản xuất và đổi mới thiết bị, công nghệ
của doanh nghiệp. Khi mua trái phiếu loại này, nhà đầu tư sẽ trở thành
chủ nợ của doanh nghiệp.
• Theo hình thức phát hành:
- Trái phiếu được phát hành theo mệnh giá: Là loại trái phiếu mà người sở
hữu trái phiếu phải trả cho người phát hành một số tiền bằng đúng mệnh
giá trái phiếu để có được trái phiếu đồng thời người sở hữu trái phiếu sẽ
nhận được một cam kết chi trả lãi định kỳ và nhận lại số vốn gốc bằng
đúng mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn từ người phát hành.
- Trái phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu (discount): Là loại
trái phiếu không có kỳ lãnh lãi. Nhà đầu tư sẽ mua trái phiếu này với giá
thấp hơn mệnh giá, tiền lãi trái phiếu chính là phần chênh lệch giữa giá
mua và mệnh giá.
• Theo đối tượng sở hữu:
- Trái phiếu ký danh: Là loại trái phiếu có ghi tên cơ quan, đơn vị, cá nhân
sở hữu trái phiếu (gọi là người mua trái phiếu) trên chứng chỉ trái phiếu
hoặc đăng ký tại cơ quan phát hành trái phiếu. Dạng ghi danh được sử
dụng phổ biến hiện nay là hình thức ghi sổ, trái phiếu ghi sổ hoàn toàn
không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ
tên và địa chỉ của chủ sở hữu trái phiếu trên máy tính.
- 13 -
- Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên người mua trái phiếu
trên chứng chỉ trái phiếu hoặc không đăng ký tại cơ quan phát hành trái
phiếu. Người cầm giữ trái phiếu chính là người sở hữu trái phiếu.
• Theo thời hạn phát hành trái phiếu: thông thường trái phiếu có nhiều kỳ hạn
khác nhau và được chia thành trái phiếu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
1.1.3. Lãi suất trái phiếu
Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau tùy theo việc lựa chọn của chủ thể phát
hành. Có thể phát hành theo lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi. Tuy nhiên dù dưới
hình thức nào thì lãi suất trái phiếu chịu tác động bởi các yếu tố:
- Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ
thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung
ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ
thâm hụt đó.
- Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc
rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn,
lãi suất càng cao.
- Lạm phát và mức độ trượt giá của nền kinh tế. Lạm phát gây nên sự thay
đổi giá trị, sức mua của tiền tệ. Từ đó gây nên những thiệt hại nhất định
cho các nhà đầu tư trái phiếu. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái
phiếu càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Trái phiếu Chính
phủ được coi là an toàn nhất (theo nghĩa là không có khả năng không
được thanh toán) nhưng vẫn có rủi ro lạm phát. Ngay cả trái phiếu có lãi
suất thả nổi vẫn có thể phải gánh chịu rủi ro lạm phát nếu lãi suất không
phản ánh hết lạm phát. Lạm phát càng cao thì rủi ro đầu tư trái phiếu
càng cao. Trong bối cảnh lạm phát cao để đảm bảo lãi suất thực dương
thì lợi suất trái phiếu phải tăng.
- Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như
nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.1.4. Nhược điểm của trái phiếu :
Trái phiếu là một công cụ nợ mà các chủ thể có thể sử dụng nó để huy động
vốn trên thị trường tài chính theo nguyên tắc có hoàn trả. Chính đặc điểm này đã
cho thấy, chủ thể phát hành trái phiếu phải có nghĩa vụ chi trả trong tương lai về
tiền lãi và vốn gốc cho các nhà đầu tư nắm giữ (các trái chủ). Nếu chủ thể phát hành
- 14 -
không có khả năng hay mất khả năng chi trả trong tương lai sẽ tác động đến khả
năng thu hồi vốn đầu tư của các trái chủ. Niềm tin của các trái chủ vào hệ thống tài
chính sẽ giảm đi nhất là trong trường hợp chủ nợ là chính phủ.
Việc phát hành nợ có thể được dựa trên niềm tin (không cần tài sản đảm bảo)
hay thậm chí có tài sản đảm bảo nhằm mục đích huy động vốn để thực hiện đầu tư
phát triển. Chính phủ phát hành nợ để bù đắp bội chi ngân sách, nhằm thực hiện
những dự án đầu tư phát triển nền kinh tế hay thậm chí là an sinh xã hội. Doanh
nghiệp phát hành trái phiếu cũng để huy động vốn đáp ứng những nhu cầu đầu tư
phát triển. Mỗi chủ thể phát hành đề có những mục đích sử dụng vốn khác nhau.
Nếu việc sử dụng vốn huy động từ trái phiếu này không sử dụng có hiệu quả thì đều
đe dọa đến khả năng trả nợ của chủ thể phát hành. Các trái chủ sẽ gặp rủi ro trong
việc thu hồi vốn. Tuy nhiên, nếu các dự án đầu tư có hiệu quả thì việc sử dụng nợ sẽ
khuếch đại lợi ích cho các chủ thể phát hành. Doanh nghiệp thì gia tăng lợi nhuận,
chính phủ thì gia tăng nguồn thu trong tương lai cho ngân sách.
Chính vì vậy, việc phát hành trái phiếu cần có những điều kiện nhất định, cần
có cơ chế giám sát việc sử dụng đồng vốn huy động này để tránh tình trạng sử dụng
không đúng mục đích phát hành và sử dụng không hiệu quả. Bài học khủng hoảng
nợ của các nước Châu Mỹ Latinh là một minh chứng trong quá khứ.
Tóm lại, việc sử dụng nợ tạo ra nhiều rủi ro cho chính các chủ thể phát hành,
cho nhà đầu tư và cho cả hệ thống tài chính.
1.2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1.2.1. Khái niệm và phân loại thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là thị trường thực hiện giao dịch, mua bán các loại trái phiếu
do chính phủ hoặc doanh nghiệp phát hành. Thị trường trái phiếu có thể được phân
thành:
• Thị trường sơ cấp: Là thị trường thực hiện giao dịch, mua bán trái phiếu phát
hành lần đầu. Mục đích của thị trường này là phục vụ nhu cầu huy động vốn
dài hạn cho chính phủ hoặc công ty. Có một số hình thức phát hành chủ yếu
như sau:
- Phát hành thông qua Kho bạc nhà nước đối với TPCP.
- Phát hành qua các đại lý là những định chế tài chính trung gian
- Bảo lãnh phát hành.
- Đấu thầu qua Ngân hàng nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- 15 -
• Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch, mua bán các loại trái phiếu đã
phát hành. Mục đích của thị trường thứ cấp là cung cấp khả năng thanh khoản
cho trái phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Mặc dù không trực
tiếp huy động vốn dài hạn nhưng thị trường thứ cấp đóng vai trò rất quan
trọng. Không có thị trường thứ cấp pháp triển, thị trường sơ cấp khó thu hút
được nhà đầu tư và họ lo ngại không thể chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt
khi cần thiết. Thị trường thứ cấp gồm:
- Thị trường tập trung: là thị trường mà các trái phiếu được giao dịch theo
phương thức khớp lệnh hoặc thỏa thuận tại một địa điểm tập trung là Sở
giao dịch chứng khoán.
- Thị trường không tập trung (OTC): Là thị trường không có địa điểm cụ
thể, trái phiếu chỉ được giao dịch trực tiếp thông qua các nhà môi giới trái
phiếu.
1.2.2. Các phương thức phát hành trái phiếu vào thị trường
Có một số hình thức phát hành chủ yếu như sau:
- Phát hành thông qua Kho bạc nhà nước đối với TPCP.
- Phát hành qua các đại lý là những định chế tài chính trung gian
- Bảo lãnh phát hành.
- Đấu thầu qua Ngân hàng nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Đây là hình thức phát hành phổ biến nhất trên thế giới cũng như ở Việt
Nam.
1.2.3. Các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu
a. Nhà phát hành: Thành phần chính là chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức
tài chính khác đều được xếp vào loại TPDN
¾ Chính phủ: Chính Phủ Trung Ương và các Chính Quyền Địa Phương là
một trong những chủ thể phát hành nhiều nhất của thị trường. Điều này
là dễ hiểu vì không phải lúc nào Chính Phủ cũng có thể bù đắp sự thiếu
hụt vốn xảy ra khá thường xuyên trong chi tiêu của mình bằng cách yêu
cầu ngân hàng trung ương in tiền. Cho nên việc huy động bằng cách phát
hành trái phiếu là cách làm phổ biến nhất. Chính phủ tham gia thị trường
trái phiếu, cung cấp hàng hóa ra thị trường thông qua phát hành trái
phiếu (trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu
- 16 -
công trình) nhằm huy động vốn từ các tổ chức và các tầng lớp dân cư
phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của Chính phủ.
Hình 1.1: Mô hình các chủ thể trên thị trường trái phiếu
Trung gian
thi trường
Nhà
phát
hành
Nhà
đầu
tư
Các nhà điều hành thị trường
¾ Các doanh nghiệp: Việc thiếu vốn trong đầu tư và mở rộng sản xuất
kinh doanh là điều thường thấy trong hoạt động kinh doanh của một
doanh nghiệp. Không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng giải quyết vấn đề
thiếu vốn bằng cách vay ngân hàng. Hơn nữa khi muốn mở rộng kinh
doanh, đầu tư vào trang thiết bị, máy móc cơ sở vật chất thì doanh nghiệp
thường cần những khoản vốn lớn và thường phải mất thời gian rất nhiều
năm để thu hồi vốn. Do vậy, phát hành trái phiếu vay vốn là một trong
những cách phổ biến và hiệu quả mà các doanh nghiệp thường sử dụng để
đạt được mục tiêu của mình.
b. Nhà tạo lập thị trường: Đó chính là công ty chứng khoán, nhà môi giới -
giao dịch. Họ chấp nhận đứng ra gánh chịu tổn thất khi nắm giữ một lượng
chứng khoán nhất định nhằm thúc đẩy thị trường phát triển. Do đó họ luôn đối
mặt với rủi ro lãi suất. Và việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh sẽ giúp
họ ngăn ngừa rủi ro. Nhà tạo lập thị trường thực hiện các giao dịch cho nhà
đầu tư. Do vậy họ phải có đủ khối lượng trái phiếu để bán nếu nhà đầu tư
muốn mua trái phiếu và đủ nguồn vốn để thanh toán nếu nhà đầu tư muốn bán
trước hạn.
Các giao dịch trái phiếu thường có khối lượng và giá trị lớn nên thời gian tiến
hành thường lâu hơn giao dịch cổ phiếu. Bên cạnh đó, một nhà tạo lập thị trường
thông thường dù có vốn lớn đến đâu cũng rất khó có thể đảm bảo tiến hành được tất
cả các giao dịch bằng lượng chứng khoán của mình, và cũng không thể đảm bảo
luôn tìm kiếm được các lệnh đặt đối ứng cần thiết của khách hàng. Do đó phát sinh
ra việc cần có một hình thức tạo lập thị trường thứ hai, đó là các nhà môi giới - giao
- 17 -
dịch nội bộ. Đây là một hình thức tổ chức tồn tại trong các thị trường trái phiếu và
các thị trường OTC sản phẩm phái sinh, những tổ chức này đóng vai trò như những
trung gian giữa các công ty môi giới chính trên thị trường với mục đích hỗ trợ, thúc
đẩy các giao dịch nội bộ giữa các tổ chức này. Đối tượng giao dịch của họ là các
công ty môi giới khác, các nhà môi giới khác, các tổ chức nhận quản lý danh mục
đầu tư, tín thác.
c. Nhà đầu tư: Là những người trực tiếp mua các chứng khoán do các chủ thể
phát hành cung cấp. Có hai chủ thể đầu tư, đó là các nhà đầu tư cá nhân và các
nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư cá nhân thường là những hộ gia đình,
những người có vốn tiết kiệm hay tích lũy được, thay vì gửi ngân hàng, họ
đem mua trái phiếu để hi vọng nhận được tiền lãi và các khoản chênh lệch giá
khi bán trái phiếu đi. Còn đối với nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các quỹ đầu
tư, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, ngân hàng là những tổ chức có kiến thức về
chuyên sâu về chứng khoán. Các tổ chức đầu tư sử dụng số tiền huy động
được từ dân chúng để đầu tư vào trái phiếu nhằm thu lợi nhuận. Đại đa số các
trái phiếu được nắm giữ bởi các hiệp hội như công ty tài chính, công ty bảo
hiểm, quỹ hưu bổng, ngân hàng, quỹ đầu tư và quỹ tương hỗ. Ở Mỹ, các cá
nhân riêng lẻ nắm giữ khoảng 10% thị trường. Đối với các tổ chức đầu tư, việc
tham gia vào thị trường trái phiếu nhằm đa dạng hóa các khoản đầu tư, tìm
kiếm lợi nhuận tối đa.
• Sự có mặt của các tổ chức đầu tư trên thị trường góp phần vào việc phát
triển nền kinh tế.
• Các tổ chức đầu tư có khả năng huy động vốn nhàn rỗi lớn trong công
chúng, do đó khả năng giao dịch của các tổ chức đầu tư trên thị trường
với mục đích kinh doanh là rất lớn.
• Hơn nữa các tổ chức đầu tư có khả năng sử dụng vốn linh hoạt nên vấn
đề thu được lợi nhuận nhiều hơn so với nhà đầu tư cá nhân.
• Trong trường hợp chủ thể phát hành bán không hết chứng khoán thì các
tổ chức đầu tư có nhiệm vụ mua hết phần còn lại. Điều này góp phần làm
gia tăng tính thanh khoản cho chứng khoán trên thị trường thứ cấp.
• Mặt khác, các tổ chức đầu tư là những người am hiểu các công cụ phòng
ngừa tài chính như hợp đồng quyền chọn, hoán đổi lãi suất hay hợp đồng
giao sau, kỳ hạn. Do đó khả năng việc quản trị rủi ro của các tổ chức đầu
tư rất tốt.
- 18 -
• Việc thực hiện đầu tư của các tổ chức đầu tư luôn xem xét tính phù hợp
về vòng đời tài sản và khoản nợ liên quan.
d. Các tổ chức tài chính trung gian: Không giống như thị trường hàng hóa
thông thường, nơi hoạt động mua bán thường được diễn ra trực tiếp, thị trường
trái phiếu đòi hỏi phải có tổ chức tài chính trung gian – những tổ chức đứng ở
giữa người mua và người bán.
¾ Tổ chức bảo lãnh phát hành: Là tổ chức đứng ra giúp tổ chức phát hành
thực hiện các thủ tục trước và sau khi chào bán trái phiếu như chuẩn bị
hồ sơ xin phép phát hành, phân phối bảo lãnh phát hành gồm hai khâu cơ
bản đó là tư vấn tài chính và phân phối chứng khoán. Thông thường để
phát hành trái phiếu, tổ chức phát hành cần phải có được sự bảo lãnh của
một hay nhiều tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu tổ chức phát hành là một
công ty nhỏ và số lượng phát hành trái phiếu không lớn thì chỉ có một tổ
chức bảo lãnh phát hành. Nếu là một công ty lớn và số lượng phát hành
vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp
bảo lãnh phát hành bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh chính và
một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ % hoa
hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành chính
là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán cho nhà đầu tư và số tiền tổ chức phát
hành nhận được.
¾ Đại diện người sở hữu trái phiếu: Đại diện người sở hữu trái phiếu là tổ
chức rất quan trọng khi phát hành trái phiếu. Tổ chức này thay mặt những
người sở hữu trái phiếu của tổ chức phát hành tiến hành đàm phán các vấn
đề liên quan đến quyền lợi của trái chủ với tổ chức phát hành. Những
quyền lợi này bao gồm quyền hưởng lãi, quyền được thanh toán vốn gốc
khi công ty bị phá sản, giám sát các cam kết về vay nợ của tổ chức phát
hành.
Thông thường trước khi tiến hành một đợt phát hành trái phiếu ra công chúng,
tổ chức phát hành phải tìm được một tổ chức đứng ra làm đại diện người sở hữu trái
phiếu và kí hợp đồng với tổ chức này. Đại diện người sở hữu trái phiếu sẽ được
hưởng phí do tổ chức phát hành trái phiếu trả tùy theo khối lượng trái phiếu phát
hành. Ở Mỹ, các đợt phát hành trái phiếu bắt buộc phải có đại diện người sở hữu
trái phiếu. Tuy nhiên ở một số thị trường mới nổi thì không nhất thiết phải có đại
diện người sở hữu trái phiếu khi đã có các công ty định mức tín nhiệm và việc chỉ
- 19 -
định đại diện người sở hữu trái phiếu chỉ phải thực hiện trong trường hợp phát hành
trái phiếu có bảo đảm.
¾ Các tổ chức kinh doanh trái phiếu: Các tổ chức tài chính trung gian
được kinh doanh trái phiếu theo quy định của pháp luật. Các tổ chức này
chủ yếu hoạt động trên thị trường thứ cấp, có chức năng làm trung gian
môi giới cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán trái phiếu để
hưởng phí môi giới và thực hiện các giao dịch mua bán trái phiếu cho
chính mình để kiếm lời. Các tổ chức kinh doanh trái phiếu này còn cung
cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, hay các dịch vụ
khác có liên qua._.n đến hoạt động giao dịch trái phiếu. Các tổ chức kinh
doanh trái phiếu có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính thanh
khoản của trái phiếu trên thị trường.
¾ Các tổ chức định mức tín nhiệm: Đây là tổ chức được hình thành nhằm
mục đích đánh giá mức độ tín nhiệm của các tổ chức phát hành và xếp
hạng theo mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán để các nhà đầu tư có
được những thông tin cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra các quy định đầu tư
cần thiết, chủ yếu là trong trường hợp đầu tư vào trái phiếu.
Thang điểm đánh giá mức độ tín nhiệm của các công ty xếp hạn tín nhiệm:
Moody’s S&P Nội dung
Aaa AAA Điểm tối cao. Khoản nợ của công ty được đánh giá vào hạng
mạnh nhất, có khả năng thanh toán cả gốc và lãi cực mạnh
Aa A Điểm cao. Mức độ này được đánh giá là cao trong việc trả nợ
cả gốc và lãi,chỉ khác với mức trên rất nhỏ
A A Điểm trung bình khá. Khoản nợ này được đánh giá là có khả
năng thanh toán nợ gốc mạnh, nhạy cảm hơn với các tác động
bất lợi của điều kiện và hoàn cảnh kinh tế so với các nhóm
trên.
Baa BBB Điểm trung bình. Khoản nợ này được đánh giá là có khả năng
vừa đủ mạnh để hoàn trả nợ gốc và lãi, nhạy cảm mạnh hơn
trước các tác động bất lợi của các điều kiện và hoàn cảnh so
với các nhóm trên.
Ba BB Điểm đầu cơ. Khoản nợ này được đánh giá là ít rủi ro vỡ nợ,
song lại phải đối mặt với khả năng thanh toán gốc và lãi thấp
do những điều kiện tài chính kinh tế bấp bênh của nhà phát
- 20 -
hành.
B BB Điểm đầu cơ rõ rang.khoản nợ này dễ bị rủi ro phá sản hơn,
nhưng hiện tại nó vẫn có khả năng thanh toán cả gốc và lãi.
Caa CCC Khoản nợ này được đánh giá là có khả năng rủi ro vỡ nợ
lớn,việc thanh toán gốc và lãi phụ thuộc vào điều kiện tài
chính, kinh tế của nhà phát hành.
Ca CC Khoản nợ này có tính chất đầu cơ cao nhưng lại thường bị vỡ
nợ hoặc những khiếm khuyết đáng lưu ý khác.
C C Khoản nợ được xác định ở mức độ tín nhiệm này có khả năng
thanh toán cả gốc và lãi thấp, khả năng vỡ nợ lớn.
D Khoản nợ này có khả năng vỡ nợ cực lớn, hoặc sẽ bị vỡ nợ khi
đến hạn thanh toán.
e. Các nhà điều hành thị trường: Chính phủ có trách nhiệm thiết lập cách đo
lường kinh tế vĩ mô và khung pháp lý tốt nhằm tạo ra môi trường phát triển
lành mạnh. Thực hiện việc giám sát hoạt động thị trường, phát hiện trường
hợp gian lận trong giao dịch để cảnh báo cho nhà đầu tư, ổn định thị trường.
Sở giao dịch chứng khoán: cung cấp nơi giao dịch cho các chứng khoán đã
phát hành và thúc đẩy việc niêm yết các đợt phát hành mới.
1.2.4. Các tiêu chí phát triển thị trường trái phiếu bền vững
Có đủ các nhà tạo lập thị trường. Một thị trường trái phiếu bền vững là một
thị trường mà trong đó có đầy đủ các chủ thể tham gia vào thị trường. Các chủ
thể này bao gồm các nhà đầu tư, các định chế tài chính trung gian, các tổ chức
định mức tín nhiệm, cơ quan thanh toán, bù trừ và lưu ký, nhà quản lý thị
trường… Quy mô tham gia của nhà đầu tư phải đủ lớn có như vậy lãi suất đặt
thầu mới mang tín đại diện cho thị trường.
Tính thanh khoản trái phiếu, sàn giao dịch. Thị trường trái phiếu cần có
một sàn giao dịch để tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Các trái phiếu cần
được chuẩn hóa về thời hạn, lãi suất để dễ dàng được niêm yết. Khi tính thanh
khoản trái phiếu được cải thiện, các nhà đầu tư mới cảm nhận được sức hấp
dẫn để tham gia vào thị trường.
Mức huy động vốn tương xứng với nền kinh tế. Thị trường trái phiếu được
tạo lập nhằm mục đích huy động vốn cho nền kinh tế. Do đó, việc phát triển
thị trường trái phiếu một cách hiệu quả sẽ là một kênh khai thông dòng vốn và
đưa dòng vốn huy động vào hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh. Chính vì
- 21 -
vậy, một thị trường trái phiếu phát triển phải là một thị trường cho phép các
chủ thể đi vay vốn trên thị trường một cách dễ dàng.
Lãi suất trái phiếu định hướng cho chính sách lãi suất. Trái phiếu không
những là công cụ huy động vốn mà còn là một công cụ quan trọng đối với
chính sách lãi suất. Ở các nước phát triển, lãi suất TPCP được xem như là mức
chuẩn để hình thành lãi suất của các công cụ khác…Từ đó hình thành nên
đường cong lãi suất chuẩn.
Hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Bất cứ một công cụ tài chính nào cũng cần
đến một hệ thống pháp lý nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Các văn
bản pháp luật quy định về các yêu cầu phát hành trái phiếu, cơ chế hoạt động
của thị trường trái phiếu; trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi thành viên trên thị
trường; xử lý các tranh chấp; hình thức thanh toán, đối tượng tham gia đấu
thầu.
1.3. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
Sự xuất hiện của thị trường trái phiếu trong hệ thống thị trường tài chính là
một yếu tố khách quan và góp phần làm đồng bộ hóa các khu vực thị trường. Vai trò
của thị trường trái phiếu thể hiện ở chỗ:
1.3.1.Vai trò của thị trường trái phiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế
• Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả. Thị
trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn trung và dài hạn, thực hiện
chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho
nền kinh tế. Đây là thị trường có khả năng huy động các nguồn vốn phân tán,
tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư.
Đối với nhà nước, toàn bộ các khoản chi tiêu đều trông chờ vào các khoản thu
của ngân sách (trong đó chủ yếu là nguồn thu từ thuế), nhưng khi ngân sách thu
không đủ chi, ngân sách Nhà nước luôn đứng trước nguy cơ thâm hụt. Chính phủ
rất cần nguồn tài chính để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp
thiếu hụt ngân sách quốc gia. Tài trợ bằng cách in tiền rất dễ triển khai nhưng
thường để lại hậu quả khó lường cả trước mắt lẫn lâu dài, cả cho mọi thành phần
kinh tế, dân cư và Chính phủ. Vì vậy Chính phủ phải huy động vốn thông qua việc
phát hành trái phiếu. Tùy theo mục đích sử dụng, Chính phủ có thể phát hành trái
phiếu nội tệ hay ngoại tệ và với các kỳ hạn khác nhau.
- 22 -
• Thị trường TPCP phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ. Trên
thị trường vốn, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt là TPCP với
đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên thị trường, góp phần
hình thành lãi suất trên thị trường.
Trái phiếu do Chính phủ phát hành thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong
lưu thông từ các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian.
Vốn này được đưa vào sử dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng
hóa cho xã hội. Nhờ vậy, mà cân đối tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ
vòng quay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền
tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước.
Ngân hàng trung ương (NHTƯ) cũng thực hiện mua bán ngắn hạn TPCP để
thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Khi NHTƯ cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong
lưu thông về thì NHTƯ bán trái phiếu ra, ngược lại khi cần thiết phải đưa tiền vào
lưu thông thì NHTƯ mua trái phiếu về. Mục đích góp phần thực hiện chính sách tài
chính quốc gia khắc phục tình hình lạm phát, bảo đảm được khối lượng tiền tệ trong
lưu thông một cách hợp lý.
• Thị trường trái phiếu phát triển làm cho thị trường vốn hoàn thiện và đa dạng
hơn. Thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn
đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị trường vững
chắc mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân hàng, thị
trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị trường trái phiếu
thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị trường vốn.
Huy động vốn qua loại hình trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống
ngân hàng. Đặc biệt là thị trường trái phiếu công ty vừa có thể huy động được
nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội.
Nếu trước đây doanh nghiệp chỉ có nguồn vay duy nhất từ ngân hàng, với sự tồn tại
và phát triển hoạt động của thị trường TPDN đã tạo thêm cho các doanh nghiệp
nguồn cung tín dụng hữu hiệu. Gánh nặng và rủi ro cho vay của các ngân hàng được
san sẻ cho các nhà đầu tư trái phiếu trên thị trường. Như vậy, thị trường TPDN có
thể đa dạng hóa nhiều rủi ro hơn hình thức tài trợ qua ngân hàng, nhờ đó việc tài trợ
dài hạn cho các dự án rủi ro cao có thể thực hiện được. Còn giúp làm giảm chi phí
vốn cho nền kinh tế.
Phát triển thị trường trái phiếu sẽ làm giảm sự huy động qua hệ thống ngân
hàng, điều này tạo sự cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay vốn của ngân
hàng, làm giảm nhẹ các “sai lệch kép” và do đó hạ thấp nguy cơ nền kinh tế đối mặt
- 23 -
với khủng khoảng về cán cân vốn như tình hình ở các nước Châu Á trong cuộc
khủng hoảng tài chính 1997-1998.
• Thị trường trái phiếu giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả chức năng quản lý
vĩ mô nền kinh tế-xã hội. Đối với Chính phủ, một trong những chức năng
nhiệm vụ quan trọng là quản lý vĩ mô nền kinh tế đảm bảo vai trò của “người
trọng tài” tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội
phát triển bền vững. Thông qua phát hành trái phiếu và đầu tư bằng vốn TPCP
góp phần nâng cao hiệu quả của việc phân phối và tái phân phối nguồn lực tài
chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
1.3.2. Vai trò của thị trường trái phiếu đối với hoạt động của doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Đối
với doanh nghiệp, thường có ba cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát hành
trái phiếu và phát hành cổ phiếu. Đối với từng phương thức huy động vốn đều có
những thế mạnh riêng, tùy theo tình hình cụ thể của nền kinh tế và của doanh
nghiệp, để từ đó doanh nghiệp đưa ra quyết định phương thức tài trợ tối ưu nhất.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở Việt Nam thường huy động bằng cách vay ngân
hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu dù rằng việc phát hành
trái phiếu có nhiều ưu điểm:
• Thứ nhất, phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một
nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn
hơn. Mặc dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể
cho doanh nghiệp vay với thời hạn dài hơn, nhưng với các dự án lớn ngân
hàng lại bị giới hạn đầu tư. Cụ thể, khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng phát
hành trái phiếu không bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương
án sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng
hoàn trả lãi và vốn gốc cho những người đi vay. Trái lại, phương thức vay
ngân hàng, số vốn tối đa doanh nghiệp được vay lại phụ thuộc vào nguồn vốn
của ngân hàng cho vay, nếu số vốn doanh nghiệp cần huy động quá lớn, việc
cho vay phải được tiến hành qua phương thức đồng tài trợ phức tạp hơn nhiều.
Mặt khác, doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn có ưu điểm về thời hạn vay
hơn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong việc xác
định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm đến kênh huy động vốn này
thì sẽ có lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với
doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai.
- 24 -
• Thứ hai, trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng phát hành cổ phiếu
rộng rãi sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh
nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ phiếu, vì không muốn
lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư khi phải trả cổ tức cao theo
hiệu quả kinh doanh… thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu. Vì thế,
doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn chế trong
phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là công cụ huy
động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết
thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối
với cổ đổng nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại.
• Thứ ba, chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ
phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào
trái phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp
hơn cổ phiếu. Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc
vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ
tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải
thể hoặc bị phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ
đông. Chính vì thế, nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp
hơn cổ phiếu và tương ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn
đối với cổ phiếu.
Để tham gia thị trường trái phiếu với tư cách là nhà phát hành, các doanh
nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt
động, hệ thống kế toán – kiểm toán, định mức tín nhiệm… Điều này đặc biệt quan
trọng và không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng
một cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên sở giao dịch chứng khoán.
Trái phiếu của doanh nghiệp phát hành càng chất lượng thì càng thu hút được nhiều
nhà đầu tư và ngược lại. Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp đòi
hỏi doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu
tư. Đây cũng có thể coi là một tác động mang tính gián tiếp của thị trường trái phiếu
đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói
chung.
- 25 -
Thông qua chi đầu tư bằng vốn TPCP, khi Chính phủ đầu tư vào ngành, lĩnh
vực nào sẽ giúp thúc đẩy hoạt động đầu tư vào ngành, lĩnh vực đó của thành phần
kinh tế phi nhà nước.
1.3.3. Vai trò của thị trường trái phiếu đối với các chủ thể đầu tư
Thị trường trái phiếu góp phần làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính, cung
cấp cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu tư
phù hợp với những rủi ro khác nhau. TPCP với độ rủi ro thấp nhưng lãi suất không
hấp dẫn bằng TPDN. Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ
suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi ro cao hơn. Thị trường trái phiếu với
các loại trái phiếu và kỳ hạn khác nhau tạo thêm cho nhà đầu tư sự lựa chọn phương
án đầu tư phù hợp.
Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ được nhận
lại vốn góp ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là
khoản thu cố định. Khi đầu tư vào TPDN, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc
vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không
giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Thêm
một đặc điểm nữa, nếu công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả
nợ trước các cổ đông. Vì vậy đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư không
thích mạo hiểm.
1.4. KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU Ở CÁC NƯỚC
1.4.1.Quy mô giao dịch thị trường trái phiếu Châu Á
Tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành của các quốc gia Châu Á (bao gồm ở cả
thị trường vốn quốc gia và quốc tế) tăng mạnh đạt gần 1.100 tỷ USD vào cuối năm
2001, bằng hơn một nửa so với tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành ở tất cả các
quốc gia mới nổi. Tuy nhiên, giá trị trái phiếu đang lưu hành ở tất cả các quốc gia
mới nổi cũng chỉ chiếm 5,6% thị trường trái phiếu toàn cầu. So sánh với các khu
vực khác, khu vực các nước châu Á mới nổi phát hành trái phiếu quốc tế ít hơn
(tương ứng 13% tổng lượng trái phiếu quốc tế của các nước châu Á) và các nước
mới nổi ở Châu Á phát hành nhiều TPCP hơn ở thị trường trong nước. Tuy nhiên
cũng không phải là cao hơn 50% tổng lượng trái phiếu chính phủ của khu vực, và
trái phiếu doanh nghiệp chiếm 20% đối với các tổ chức tài chính và 17% đối với các
doanh nghiệp. Tương tự như các thị trường khác: khoảng 49% là TPCP trong nước,
22% là trái phiếu của các tổ chức tài chính, 11% là TPDN và khoảng 18% là trái
- 26 -
phiếu quốc tế. Ngược lại ở các nước Châu Mỹ La Tinh thì phát hành trái phiếu quốc
tế nhiều hơn (32% được nắm giữ bởi các nhà đầu tư quốc tế) và TPCP quốc gia
chiếm 55%, và chỉ có một phần nhỏ dành cho khu vực tư (khoảng 13%). Tương tự,
các nước Đông Âu, Trung Đông, Châu Phi cũng phát hành nhiều trái phiếu quốc tế
hơn (23%) và TPCP ở thị trường trong nước (73%) và chỉ có 4% dành cho khu vực
tư.
Xét theo tương quan quy mô thị trường trái phiếu trong nước với GDP, thì khu
vực châu Á bằng khoảng 38%. Trong đó, thị trường TPDN chiếm 8%. Ngược lại,
thị trường trái phiếu Mỹ bằng 150% GDP và thị trường TPDN bằng khoảng 24%,
thị trường TPDN Nhật Bản bằng 17% GDP của Nhật, trong khi ở Úc thì thị trường
TPDN bằng khoảng 10% GDP.
Thị trường trái phiếu Châu Á đang dần trở thành một nguồn tài trợ quan trọng
cho cả khu vực công lẫn khu vực tư. Năm 1997, thị trường trái phiếu trong nước chỉ
cung cấp chưa được 3% nguồn vốn cần huy động cho các tổ chức, pháp nhân nhưng
đến năm 2001 tỷ lệ này đã lên đến 38%. Lượng vốn huy động từ thị trường trái
phiếu trong nước 150 tỷ USD đã gần bắt kịp lượng vốn huy động từ kênh ngân hàng
trong nước 180 tỷ USD.
Ở Châu Á, thị trường TPDN lớn nhất là Malaysia (bằng gần 51% GDP năm
2001), và Hàn Quốc (28% GDP). Chi phí phát hành trái phiếu ở Malaysia thấp hơn
chi phí vay ngân hàng. Việc phát hành trái phiếu đã dần thay thế bắt kịp hoạt động
tín dụng ngân hàng trong việc tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp kể từ năm
1997. Còn ở Hàn Quốc, phát hành TPDN lại tập trung giữa các tập đoàn kinh tế lớn
và được đảm bảo bởi các ngân hàng thương mại thông qua các công ty tín thác đầu
tư thuộc sở hữu của ngân hàng. Sự liên thông này dễ dẫn đến sự sụp đổ của thị
trường trái phiếu khi mà các tập đoàn kinh tế này phá sản. Các nhà chính quyền đã
một lần nữa ủng hộ việc xây dựng thị trường trái phiếu trong nước suốt thời kỳ bất
ổn kể từ năm 1997-1998.
Bên cạnh việc phát hành nhiều hơn các loại chứng khoán chính phủ, các chính
phủ ở nhiều quốc gia đang phát triển được kiến nghị là cần bổ sung thêm nhiều
thước đo nữa để cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thị trường, bao gồm cả việc thành
lập các nhà kinh doanh sơ cấp, nâng cao hoạt động giao dịch, hệ thống thanh toán
bù trừ. Hoạt động của thị trường thứ cấp được đo lường bằng khối lượng giao dịch
đã phát triển mạnh trong các năm gần đây. Sự phát triển của hoạt động giao dịch
trong thị trường thứ cấp là điều đáng chú ý nhất ở Malaysia và Hàn Quốc.
- 27 -
Mặc dù thị trường trái phiếu của Châu Á đã có những bước phát triển đáng
khích lệ nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, nổi cộm nhất là các vấn đề các tiêu
chuẩn của một thị trường trưởng thành chưa phát triển: quy mô, thanh khoản, pha
loãng và độ sâu. Vấn đề chính vấp phải là một thị trường trái phiếu hiện đại đòi hỏi
các quy tắc chuẩn mực quốc tế tốt nhất trong phạm vi rộng ở các lĩnh vực liên quan.
Khung pháp luật và điều chỉnh cần được chuẩn hóa nhằm xây dựng nền tảng và hạ
tầng cơ sở thị trường, hỗ trợ thị trường phát triển như hoạt động repo, phái sinh
cũng như là sự hiện diện của các nhà đầu tư trưởng thành, có kinh nghiệm. Thực tế
thách thức chính đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu Châu Á là đạt đến
một mức cạnh tranh nhất định trên toàn diện các lĩnh vực, nhất là khi thị trường trái
phiếu Châu Á thanh khoản không tốt, đặc biệt là TPDN. Chúng vẫn tồn tại gián
đoạn và cô lập lẫn nhau, và trong trường hợp của Trung Quốc, với cùng một quốc
gia. Ở Trung Quốc, sự gián đoạn tồn tại giữa nhà đầu tư, các công cụ đầu tư và cơ
chế giao dịch. Nhà đầu tư ở một số các quốc gia không được phép được đầu tư ra
thị trường ngoài và nhà đầu tư quốc tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và chi
phí cao trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá khi đầu tư vào các trái phiếu trong nước.
Đồng thời có rất nhiều tiêu chuẩn bị thiếu trong lĩnh vực ký hợp đồng trái phiếu,
hợp đồng bảo lãnh phát hành, các quy tắc thanh toán bù trừ, các quy định về thị
trường và thuế. Thiếu cả các vấn đề về sự minh bạch liên quan quản trị xung đột
doanh nghiệp, khó khăn trong việc định giá rủi ro tín dụng, sự chậm trễ trong việc
xây dựng văn hóa tín dụng. Cần phải nhận thức được sự ảnh hưởng của các yếu tố
này đến quyết định đầu tư, thay vì chỉ chăm chăm quan tâm đến vấn đề phân tích tín
dụng một cách nghiêm ngặt. Mặc dù tương quan thì một lượng lớn TPCP sẽ giúp
tạo ra một tham số chuẩn (benchmark) cho thị trường trái phiếu trong nước, tuy
nhiên nhiều nhà phát hành TPDN có thể không dùng đến tham số chuẩn này.
Nói chung, các vấn đề vấn tồn tại và vươn tới một thị trường trái phiếu phát
triển vẫn còn xa, các nhà làm chính quyền vẫn cần phải tập trung bổ sung các công
cụ, chuẩn mực, tạo điều kiện cho cả hai thị trường sơ cấp và thứ cấp.
- 28 -
1.4.2.Quy mô giao dịch và kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu Malaysia
Thị trường vốn của Malaysia đang ngày một phát triển mạnh mẽ, cả về quy
mô thị trường lẫn các loại công cụ tài chính và tính hiệu quả. Quá trình phát triển
này đang ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với sự tăng trưởng kinh tế. Sở
dĩ thị trường vốn Malaysia có được sự phát triển như vậy là nhờ vào hệ thống cơ sở
hạ tầng thị trường tốt, hệ thống luật pháp đầy đủ và toàn diện, khung pháp lý rõ ràng.
Điều kiện cơ bản cho sự phát triển của thị trường vốn chính là sự ổn định về chính trị
và các chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, từ đó mới có thể tạo ra một môi trường hấp
dẫn cho tăng trưởng kinh tế với sự ổn định về giá cả. Điều kiện quan trọng không
kém chính là tỷ lệ tiết kiệm cao và có nền tảng nhà đầu tư trong nước lớn.
Thị trường trái phiếu Malaysia là một trong số những thị trường trái phiếu
phát triển hơn ở trong khu vực: cả về sự gia tăng quy mô thị trường, hoạt động phát
hành và giao dịch TPDN, TPCP năng động, việc giới thiệu các công cụ tài chính
mới (ví dụ như các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản) và những tiến bộ của
hệ thống luật pháp là những điều đáng ghi nhận trong nền kinh tế năng động này.
Năm 2004, thị trường trái phiếu Malaysia chủ yếu là trái phiếu theo truyền
thống chiếm 75%, chỉ có 25% là thị trường trái phiếu đạo Hồi, trái phiếu khu vực
công chiếm 53%, trái phiếu khu vực tư chiếm 47%.
Malaysia là thị trường trái phiếu có quy mô lớn nhất tính theo tương quan với
GDP so với các quốc gia Châu Á khác. Malaysia chiếm 8% quy mô tổng thị trường
trái phiếu Châu Á, đây là một tỷ trọng tương đối so với toàn thị trường Châu Á.
Tổng giá trị trái phiếu định danh bằng đồng Ringgit đang lưu hành trên thị trường
tăng trưởng 10.7% lên 363 tỷ ringgit vào năm 2004, gần bằng 81% GDP của quốc
gia. Tính theo giá trị vốn hóa thị trường, thì trường trái phiếu Malaysia xếp thứ 3
sau Hàn Quốc và Trung Quốc.
- 29 -
Hình 1.2: Thị trường trái phiếu Malaysia
Qui mô thị trường trái phiếu châu Á: 1.43 ngàn tỷ USD
34%
5%
38%
4%
4%
2%
5%
8%
Trung Quốc
Thái
Nam Hàn Quốc
Hồng Kông
Indonesia
Malaysia
Philippines
Singapore
Nguồn: BIS, dữ liệu vào 31/12/2004
TỔNG LƯỢNG TRÁI PHIẾU ĐANG LƯU HÀNH
103
117
125
149
175
142
161
153
179
188
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2000 2001 2002 2003 2004
Năm
tỷ
R
M Khu vực nhà nước
Khu vực tư
Nguồn: Báo cáo hàng năm BNM 2004
THỊ TRƯỜNG NỢ ĐẠO HỒI
4 4.3 5 6.9 10
15.1
20
34.7
50.2
62.7
76.8
82.7
0
20
40
60
80
100
120
1999 2000 2001 2002 2003 2004
Năm
tỷ
R
M Tư nhân
Nhà nước
Tỷ lệ tăng trưởng 1999 2000 2001 2002 2003 2004
% 0 62.5 41.7 26 24.8 12.6
Nguồn: Thống kê BNM
- 30 -
Năm 2004, Ngân hàng Trung Ương Malaysia, Bank Negara Malaysia (BNM),
đã xem lại hướng dẫn việc phát hành lần đầu đối với các chứng khoán có tài sản
đảm bảo, song song đó là việc phát hành thêm các hướng dẫn đối với các chủ thể
đại diện định giá trái phiếu và hệ thống đăng ký đấu giá điện tử năm 2006. Tháng
4/2007, BNM đã xem lại hướng dẫn của mình đối với việc phát hành các sản phẩm
cấu trúc.
Trái phiếu theo kiểu đạo Hồi xuất hiện và đóng một vai trò lớn trong sự phát
triển thị trường vốn của Malaysia. Trái phiếu của các nước Hồi giáo trả cho người
mua một phần trong số tiền thu được từ một vụ kinh doanh mạo hiểm thay vì đơn
giản chỉ trả lãi bằng một khoản tiền nhất định theo kiểu cho vay.
Cả thị trường TPDN và TPCP đều là những thị trường năng động đối với cả
khu vực thị trường trái phiếu truyền thống lẫn thị trường trái phiếu đạo Hồi. Nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài có thể mua và bán các công cụ nợ truyền thống
cũng như các công cụ nợ theo kiểu đạo Hồi thông qua sàn giao dịch và thị trường
phi tập trung.
Các quy định ở thị trường thứ cấp thường xuyên được nới lỏng. Các quy định
đối với việc phòng ngừa rủi ro được tự do hóa để cho phép các nhà đầu tư trong
nước và ngoài nước thuận tiện trong việc thực hiện các hợp đồng về phòng ngừa rủi
ro dưới sự cho phép của các ngân hàng ngoài nước. Ở Malaysia, hầu hết các chứng
khoán đều không phải là chứng khoán tạm thời, với hệ thống chuyển nhượng chứng
khoán tự động thông qua hệ thống chuyển nhượng tự động các quỹ và chứng khoán
ngay tại chỗ của BNM. Các hướng dẫn thực hiện chuyển nhượng được thực hiện
dựa trên nền tảng “trade-by- trade”. Năm 2005, BNM và Chính quyền tiền tệ Hồng
Kông đã thiết lập kết nối hệ thống thanh toán giá trị lớn giữa Malaysia và Hồng
Kông, Trung Quốc. Việc hệ thống chuyển nhượng tự động các quỹ và chứng khoán
của BNM ngay tại chỗ và hệ thống thanh toán ròng ngay tại chỗ bằng đồng đô la
Mỹ của Hồng Kông, Trung Quốc kết nối với nhau là sự kết nối về thanh toán vượt
biên giới (payment- versus payment) trong khu vực.
Năm 2006, BNM đã thành lập trung tâm thông tin trái phiếu - một trung tâm
chứa đựng tất cả các thông tin về trái phiếu ở Malaysia.
Việc thực hiện chứng khoán hóa ở Malaysia được thực hiện bắt đầu từ năm
1986 khi chính phủ thành lập Công ty Cầm cố quốc gia (Cagamas) - chủ thể phát
hành các công cụ chứng khoán hóa lớn nhất ở Malaysia. Chức năng của nó cũng
giống như một pháp nhân đặc biệt (Special Purpose Vehicle) giữa các chủ thể cho
vay cầm cố nhà và các nhà đầu tư trong việc tài trợ vốn dài hạn. Các chứng khoán
- 31 -
được phát hành bởi Cagamas được gọi là “trái phiếu Cagamas” ở thị trường trái
phiếu trong nước.
1.4.3.Quy mô giao dịch và kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu Singapore
Thị trường trái phiếu Singapore đã và đang trở thành một thị trường vốn mở
và quan trọng ở Châu Á trong hơn một thập kỷ qua. Nó tăng trưởng cả về mặt quy
mô, mức độ sâu rộng và tính thanh khoản.
Trước năm 1998, thị trường trái phiếu của Singapore rất nhỏ và kém phát
triển. Chính phủ Singapore đã quản lý thặng dư ngân sách và không có nhu cầu tăng
vốn trong thị trường vốn. Ủy ban chứng khoán chính phủ Singapore (SGS) phát
hành trái phiếu chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu của ngân hàng về các tài sản có tính
thanh khoản thỏa theo những yêu cầu của pháp luật. Vào thời điểm này, SGS đã
thành lập chỉ có 7 năm. Do đó, thị trường trái phiếu Singapore tương đối nhỏ và thị
trường thứ cấp gần như là không sôi động. Do thiếu vắng đường cong tỷ suất sinh
lợi có tính thanh khoản, khu vực tư nhân miễn cưỡng rút ra khỏi thị trường nợ, hầu
hết các doanh nghiệp đều dựa trên các khoản vay ngân hàng và cổ phiếu để đáp ứng
những nhu cầu về vốn.
Vào tháng 2 năm 1998. Ủy ban tiền tệ của Singapore (Monetary Authority of
Singapore – MAS) đã bắt đầu một chuỗi các phương pháp để phát triển thị trường
trái phiếu của Singapore. Một vài mục tiêu được đưa ra là:
(a) Tạo ra đường cong tỷ suất sinh lợi chuẩn ở thị trường trái phiếu chính phủ
đáng tin cậy để khuyến khích việc phát hành trái phiếu ở khu vực tư nhân.
(b) Tạo điều kiện cho những nhà phát hành, cả trong nước và nước ngoài tới
những thị trường thứ cấp và sơ cấp.
(c) Thiết lập cơ sở vật chất để tạo điều kiện bù trừ chứng khoán và tiền cũng
như tạo tính thanh khoản cho các trái phiếu do SGS phát hành và TPDN dựa trên cơ
sở thanh toán ngay khi giao nhận.
Phạm vi những phương pháp phát triển thị trường trái phiếu do SGS phát hành
đã thành công khi thiết lập một đường cong tỷ suất sinh lợi chuẩn có tính thanh
khoản cao hơn. Do đó, thị trường TPCP phát triển chủ yếu về qui mô, chiều sâu và
tính thanh khoản. Điều này dẫn đến các trái phiếu do SGS phát hành đã được đưa
vào những chỉ số TPCP thế giới của JP Morgan cũng như chỉ số hợp nhất toàn cầu
của Lehman Brother. Vào tháng 1 năm 2005, thị trường trái phiếu Singapore đã trở
thành quốc gia Châu Á đầu tiên ngoài Nhật Bản tham gia vào chỉ số TPCP toàn cầu
- 32 -
- Citigroup World Government Bond Index, đó chính là dấu hiệu về sự phù hợp của
trái phiếu do SGS phát hành đối với những nhà đầu tư trên toàn cầu.
Khối lượng lớn trái phiếu do SGS phát hành vào năm 2004 là 72,2 tỷ S$, gần
gấp 4 lần vào năm 1995. Doanh thu trung bình hàng ngày tăng mạnh từ năm 1997
cùng với khối lượng giao dịch trung bình hàng ngày vào năm 1997 và 2004 lần lượt
là 1,7 tỷ S$ và 2,2 tỷ S$.
Thị trường TPDN của Singapore cũng phát triển mạnh sau thị trường TPCP
(hình 1.3C). TPDN chưa đáo hạn vào năm 2004 là 123 tỷ S$, gấp 5 lần khoảng nợ
vào năm 1995. Tổng giá trị TPDN phát hành vào năm 2004 là 78,7 tỷ S$, trong đó
21,7 tỷ S$ là trái phiếu do SGD phát hành và 57 tỷ S$ bằng các đồng tiền khác.
Những phương pháp để tự do hóa chính sách phi quốc tế của đồng tiền Singapore
dẫn đến việc phát hành ra nước ngoài chiếm nhiều hơn 11% tổng giá trị TPDN phát
hành vào năm 2004.
Hình 1.3: Thị trường TPCP Singapore (tỷ S$)
Hình 1.3A: Quy mô toàn bộ thị trường trái phiếu
Trái phiếu
Hối phiếu
Hình 1.3B: Lượng doanh thu trung bình hàng ngày: SGS và Repo (tỷ S$)
- 33 - ._.nh khiên cưỡng chủ quan hơn là
mang tính khách quan thị trường. Điều này dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu
bị hạn chế đi rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và chỉ bó hẹp trong
phạm vi một số nhỏ các nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số
nhỏ các nhà đầu tư nắm giữ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường
thứ cấp.
Đường cong lãi suất (yield curve) mô tả mối quan hệ giữa thời gian đáo hạn
với lãi suất đáo hạn của trái phiếu tại một thời điểm nhất định. Thông thường,
đường cong lãi suất chuẩn được xây dựng cho các trái phiếu là trái phiếu chính phủ
hoặc các trái phiếu của các công ty có uy tín. Các trái phiếu này được coi là trái
phiếu có rủi ro thấp hoặc bằng không. Do đó, các mức lãi suất của các trái phiếu
này được sử dụng làm lãi suất chuẩn cho các trái phiếu khác. Phần chênh lệch giữa
lãi suất chuẩn và lãi suất của các trái phiếu khác phản ánh mức độ rủi ro của các trái
phiếu đó, mức chênh lệch càng lớn thì trái phiếu đó càng rủi ro.
Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp = lãi suất trái phiếu chính phủ + rủi ro của
doanh nghiệp
Vì đường cong này được hình thành từ lãi suất chính phủ nên yêu cầu đặt ra là
phải xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ đủ mạnh.
Muốn làm được điều đó, cần phải thực hiện tốt việc kế hoạch hoá công tác
phát hành và công khai hoá thông tin; đa dạng hoá kỳ hạn phát hành TPCP (từ 90
ngày đến 15 năm) và hình thành các kỳ hạn chuẩn; thực hiện tái cơ cấu lại các loại
TPCP đã phát hành. Trái phiếu chính phủ phải chuẩn hóa về số lượng, kỳ hạn cũng
- 82 -
như lãi suất, lô trái phiếu được dùng tính toán cho đường cong lãi suất phải có tính
chất giống nhau, có mức lãi suất coupon như nhau và các điều khoản phát hành
giống nhau trong cùng một ngành.
¾ Chính phủ thực hiện thu gom nhiều loại TPCP phát hành trước đây thành một
số loại TPCP có mã giao dịch giống nhau. Đồng thời phải tiến hành đổi mới
phương thức phát hành bằng cách hạn chế bán lẻ TPCP, giảm bớt tần suất phát
hành và chủ yếu tập trung vào phát hành trái phiếu theo lô lớn. Chẳng hạn như
thay vì phát hành liên tục TPCP theo lô nhỏ vài trăm tỷ đồng thì nên để dồn lại
và phát hành lô 1.000 – 2.000 tỷ đồng, có cùng ngày thanh toán, cùng một lãi
suất. Việc phát hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành
trên thị trường, giúp các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo
dõi, nắm bắt diễn biến về giá của các loại trái phiếu. Cách làm này cũng sẽ tạo
thuận lợi cho các cơ quan quản lý cũng như các nhà đầu tư trong quá trình
quản lý phát hành, giao dịch thanh toán. Tạo cơ sở cho việc yết giá mua bán
trái phiếu.
¾ Hiện nay, trái phiếu chính phủ đã từng bước được đa dạng về kỳ hạn nhưng
chủ yếu là kỳ hạn 5 năm, các loại kỳ hạn khác như (2 năm; 3 năm; 7 năm; 10
năm và 15 năm...) chưa được duy trì đều đặn, Chính phủ cần khuyến khích
phát hành trái phiếu dài hạn như 10 năm.
Ðể đạt được kết quả cao hơn, trong thời gian tới cần thiết phải triển khai đồng
bộ các giải pháp: Từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về huy động vốn
thông qua phát hành TPCP nói chung và phát hành TPCP theo lô lớn nói riêng; thiết
lập một hệ thống đại lý cấp I là các ngân hàng, công ty chứng khoán... có uy tín làm
ăn có hiệu quả, thực hiện đa dạng hóa kỳ hạn trái phiếu; công bố công khai kế
hoạch phát hành các loại trái phiếu hằng năm, hằng quý, hằng tháng; thực hiện tốt
công tác đối thoại với thị trường, tìm tiếng nói chung và sự ủng hộ tích cực của các
thành viên thị trường...
Hiện tại, ở Việt Nam chưa có đơn vị nào xây dựng đường cong lãi suất chuẩn.
Ngân hàng ngoại thương đã phối hợp với Reuters xây dựng đường cong lãi suất
chuẩn cho Việt Nam. Với sự phát triển của dịch vụ Reuters 3000 Xtra V5, Reuters
đã giới thiệu ba đường cong lãi suất chuẩn mới ở Việt Nam: đường cong lãi suất phi
rủi ro, đường cong lãi suất liên ngân hàng và đường cong thông tin về lãi suất cho
vay đồng Việt Nam. Việc công bố ra đường cong lãi suất chuẩn mở ra 1 tương lai
cho việc xác định lãi suất cho các doanh nghiệp.
- 83 -
3.2.4.2.Khuyến khích sự phát triển hệ thống định mức xếp hạng tín nhiệm
chuyên nghiệp
Đặc biệt, đối với một nền tài chính mới nổi như Việt Nam thì sự có mặt của
các công ty ĐMTN lớn trên thế giới đang là nhu cầu cấp thiết.
¾ Đối với nhà đầu tư, kết quả tín nhiệm giúp họ xác định rủi ro của một loại
chứng khoán, đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với khẩu vị rủi ro của mình.
Định mức tín nhiệm thường được sử dụng cho các quyết định mua trên thị
trường sơ cấp. Nếu rủi ro được chấp nhận, chứng khoán sẽ được mua và giữ
cho đến khi đáo hạn. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thứ
cấp trong tương lai của Việt Nam, định mức tín dụng sẽ cung cấp những chỉ
dẫn cho nhà đầu tư lúc nào nên bán chứng khoán theo biến động của thị
trường. Việc tổ chức định mức tín dụng thông báo về một tổ chức phát hành,
hoặc một nghĩa vụ nợ nào đó được xem xét để nâng hạng hay xuống hạng rất
có ích cho nhà đầu tư, vì đó là dấu hiệu cảnh báo sớm nhất giúp nhà đầu tư
điều chỉnh danh mục của mình. Ngoài ra, các báo cáo nghiên cứu, các dịch vụ
phân tích tài chính liên quan đến việc giải thích lý do phía sau quyết định xếp
hạng của các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ cung cấp những thông tin quan
trọng cho các nhà đầu tư có tổ chức hỗ trợ những nghiệp vụ của riêng họ.
¾ Đối với tổ chức phát hành Việt Nam, ĐMTN sẽ giúp các tổ chức phát hành
huy động vốn với chi phí hợp lý, hiệu quả; là một phương tiện để các công ty
quảng bá thương hiệu của mình với thị trường trong và ngoài nước. Nhà phát
hành chứng khoán không được định mức tín nhiệm thì dù cho khả năng tín
dụng mạnh đến đâu cũng chỉ thu hút được sự đầu tư tương đối. Với kết quả
xếp hạng, việc mở rộng những đợt phát hành mới đến nhà đầu tư sẽ được thực
hiện 1 cách nhanh chóng với chi phí phát hành thấp hơn. Ngoài ra, xếp hạng
tín dụng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp cải thiện tốt hơn nữa các hoạt động
quản lý, sản xuất kinh doanh, cơ cấu tài chính của mình để hấp dẫn các nhà
đầu tư, đây sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
¾ Đối với các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường, với kết quả xếp hạng
tín dụng của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính tham gia bảo lãnh phát
hành và kinh doanh chứng khoán sẽ dễ dàng xác định chiến lược định giá hợp
lý. Một chứng khoán cụ thể dễ dàng tung ra thị trường khi được định mức tín
nhiệm. Định mức tín nhiệm sẽ giúp các trung gian tài chính kiểm soát rủi ro và
xác định giá trị thị trường, lựa chọn chứng khoán đầu tư.
- 84 -
¾ Đối với các cơ quan quản lý thị trường, sự tham gia của các tổ chức định mức
tín dụng giúp giảm bớt chi phí quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước có thể
dựa trên các thông tin ĐMTN công khai để ban hành chính sách, giám sát thực
hiện, cấp phép phát hành… và quản lý tốt hơn. Với sự phát triển 1 hệ thống tín
nhiệm chuyên nghiệp, các tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín không chỉ
thực hiện định mức các trái phiếu doanh nghiệp mà còn xếp hạng cả trái phiếu
Chính phủ. Giúp Chính phủ không chỉ huy động vốn trong nước mà còn có thể
huy động vốn ở nước ngoài.
Để định mức tín nhiệm thực sự hiệu quả và chuyên nghiệp, các tổ chức tín
nhiệm VN cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
¾ Thứ nhất, các tổ chức ĐMTN phải có tính độc lập, Chính phủ cần xây dựng
các văn bản pháp lý quy định tư cách đạo đức quản lý lãnh đạo của các tổ chức
ĐMTN. Do bởi các tổ chức phát hành luôn muốn có xếp hạng tín dụng cao, họ
sẵn sàng hối lộ các tổ chức ĐMTN che dấu những vấn đề khó khăn của công
ty, dẫn đến các kết quả báo cáo sai lệch, làm trầm trọng thêm sự bất cân xứng
thông tin giữa các nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Việc đánh giá tín nhiệm
liên quan đến ý kiến chủ quan của con người, vì vậy, viêc phân tích đánh giá
cần được phân tích tổng hợp qua hệ thống tự động hóa hiện đại, các tiêu chuẩn
đánh giá quốc tế của các nước phát triển, nhằm làm tăng tính khách quan cho
kết quả.
¾ Thứ hai, về cơ cấu quản lý, qua nhiều kinh nghiệm của thế giới cho thấy, mô
hình tổ chức hoạt động của ĐMTN ở các nước đều chủ yếu là doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Đáng chú ý là không
có nước nào áp dụng mô hình tổ chức định mức tín dụng thuộc sở hữu nhà
nước hoàn toàn. Căn cứ vào điều kiện kinh tế của VN và xem xét đến tính chất
hoạt động linh hoạt, cơ chế quản lý tương đối dân chủ, khả năng huy động vốn
dễ dàng và một số ưu điểm của của công ty cổ phần, loại hình tổ chức hoạt
động của các tổ chức ĐMTN VN trong giai đoạn này là công ty cổ phần trước
mắt là công ty cổ phần nội bộ hoạt động tuân thủ theo các quy định hiện hành
của luật doanh nghiệp. Sau thời gian, các công ty nội bộ này có thể được phép
phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết giao dịch trên thị trường để trở
thành công ty đại chúng. Bên cạnh đó, có thể cho phép mở rộng loại hình tổ
chức và hoạt động của ĐMTN sang loại hình doanh nghiệp khác như doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Chính phủ cũng cần ban hành
văn bản quy định việc góp vốn của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh
- 85 -
vực này. Cụ thể có thể cho phép tổ chức nước ngoài có kinh nghiệm trong
định mức tín nhiệm được góp vốn thành lập tổ chức ĐMTN nhưng tỷ lệ góp
vốn của bên nước ngoài sẽ ngang bằng với hoặc nhỏ hơn tỷ lệ cổ đông trong
nước. Thông qua việc tham gia của tổ chức nước ngoài chúng ta có thể tranh
thủ học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm đồng thời là tiền
đề để mở rộng quy mô sang các nước trong khu vực sau này.
¾ Thứ ba, về mô hình tổ chức đánh giá hoạt động, hiện nay nền kinh tế của Việt
Nam còn yếu kém về trình độ cũng như các điều kiện phát triển, vì vậy, các tổ
chức ĐMTN có thể xây dựng mô hình tổ chức theo Thái Lan, hay Hàn Quốc.
Cơ cấu tổ chức của ĐMTN sẽ được phân ra nhiệm vụ của từng phòng ban.
¾ Thứ tư, về phương thức xếp hạng, quá trình ĐMTN phải đảm bảo tính chính
xác và tính đạt tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với tình hình kinh tế của Việt
Nam. Hiện nay, trong điều kiện Việt Nam, các chỉ số phi tài chính chiếm tới
60% trong một bản báo cáo tín nhiệm. Rất nhiều khi, những chỉ số phi tài
chính này đã đưa khách hàng tới quyết định đầu tư, làm ăn với đối tác tưởng
chừng như không có cơ hội (do năng lực về vốn, cơ sở hạ tầng, về “danh
tiếng”…).
Tại Mỹ, S&P là một chỉ số đáng tin cậy luôn được các quỹ đầu tư tin dùng.
S&P 500 gồm 500 mã cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất của Hoa Kỳ được tính
toán và công bố bởi Công ty Standard & Poors, trong đó 400 công ty ngành công
nghiệp, 20 công ty ngành giao thông vận tải, 40 công ty ngành phục vụ, 40 công ty
ngành tài chính. Với S&P 500 các nhà đầu tư có thể lựa chọn được trong phạm vi
hẹp đó, để đầu tư nhanh chóng, thay vì tự khảo sát điều tra một cách không chuyên
nghiệp. Hoặc Fortune 500 - Danh sách xếp hạng top 500 công ty đại chúng hàng
đầu của Hoa Kỳ dựa trên tổng doanh thu do tạp chí Fortune đưa ra. Fortune 500 là
danh hiệu đo lường sức mạnh của các DN dựa trên doanh thu, nên có hạn chế trong
việc phản ánh thực chất của các DN cũng như tương quan thứ hạng. Bên cạnh đó,
Fortune cũng có công bố các danh sách xếp hạng khác nhau dựa trên các chỉ tiêu cụ
thể như: top 100 về doanh thu, top các công ty có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao
(top revenue growth), DN có số nhân công cao (big employer), công ty có tốc độ
tăng trưởng lợi nhuận cao (high profit growth)…
Với hiện trạng hiện nay của VN, một mô hình như Forbes 500 hay Fortune
500 (tất nhiên không rập khuôn), cũng là điều nhiều nhà đầu tư đang mong mỏi.
Tuy vậy, áp dụng mô hình hiện đại như vậy không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn,
nếu theo mô hình Forbes 500 và chỉ dựa trên những chỉ tiêu hiện tại để đánh giá
- 86 -
như: doanh thu, tài sản, tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận và số lao động thì vẫn gặp
nhiều hạn chế như: tài sản của các DNNN rất khó xác định và thường không tính đủ
(vấn đề về sở hữu đất đai, vấn đề cấp phát vốn của Nhà nước, vấn đề công nợ của
các DNNN…) hoặc sự mất cân bằng giữa lao động trong các ngành như dệt may và
tài chính ngân hàng… đồng thời cả sự hạn chế về hệ thống cơ sở dữ liệu, sự không
thống nhất trong mô hình quản lý hạch toán của các tổng công ty nhà nước và các
đơn vị thành viên. Nền kinh tế của Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi, do
vậy sẽ gây khó khăn cho việc xác định mô hình sở hữu cũng như tổng hợp dữ liệu.
Về tổng thể, vẫn có thể đưa ra bức tranh tổng quát về xếp hạng doanh nghiệp, tuy
nhiên, kết quả đưa ra sẽ có nhiều sai lệch.
Vì vậy, các tổ chức ĐMTN với hiện trạng cơ sở dữ liệu cũng như tình hình
thực tế các doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam, mô hình đánh giá của Standard &
Poors, Moodys… là phù hợp nhất.
¾ Thứ năm, các tổ chức ĐMTN phải đảm bảo tính bảo mật thông tin, đây là
nguyên tắc cốt lõi đối với hoạt động của các ĐMTN. Để cung cấp 1 báo cáo
tín nhiệm chính xác, các tổ chức ĐMTN thường yêu cầu thông tin chi tiết, đặc
biệt là thông tin về tình hình hoạt động và tài chính của tổ chức phát hành.
Thông thường những thông tin đầu vào cho việc ĐMTN là thông tin nội bộ, ở
mức chi tiết và toàn diện hơn các thông tin công bố công khai, nếu như các
thông tin này bị tiết lộ, các tổ chức phát hành có thể bị tổn thất nghiêm trọng.
Để bảo vệ quyền lợi của tổ chức phát hành, Chính phủ cần ban hành một số
quy định đối với các ĐMTN về việc giữ bí mật những thông tin nội bộ, nếu
không các tổ chức phát hành có thể e ngại sử dụng dịch vụ ĐMTN hoặc có xu
hướng cung cấp thông tin không đúng sự thật nếu việc ĐMTN là bắt buộc để
phát hành trái phiếu.
Điều lý tưởng nhất cho sự phát triển của một thị trường trái phiếu doanh
nghiệp là trên thị trường đó phải có nhiều tổ chức ĐMTN cùng đồng thời hoạt động,
có như vậy mới thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tổ chức này về mặt hiệu quả và chất
lượng chuyên môn, đồng thời cho phép những người sử dụng dịch vụ xếp hạng tín
nhiệm so sánh các đánh giá xếp hạng khác nhau mà về bản chất vốn là những ý kiến
phần nào mang tính chủ quan. Một hệ thống tín dụng chuyên nghiệp sẽ góp phần
giải quyết vấn đề bấy lâu nay, rủi ro của doanh nghiệp được xác định, từ đó không
chỉ giúp các doanh nghiệp huy động vốn với chi phí hợp lý mà còn giúp nhà đầu tư
có thể kiểm soát rủi ro, có quyết định phù hợp.
- 87 -
3.2.4.3.Phát triển hệ thống giao dịch trái phiếu chuyên biệt
Cho đến nay, các thị trường trái phiếu trên thế giới đã áp dụng một số hệ thống
giao dịch điển hình như sau:
¾ Hệ thống đấu giá (Auction system): Hệ thống này có thể được xây dựng
nhằm hỗ trợ cho các đợt phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Một số hệ
thống đấu giá khác thì tập trung vào đấu giá các trái phiếu do các nhà đầu tư
chào bán trên thị trường thứ cấp. Theo đó, thành viên bán trái phiếu sẽ đăng
các thông tin chi tiết về trái phiếu đang được chào bán và các điều kiện cụ thể
trong đấu giá, các thành viên tham gia đấu giá nộp đơn đấu giá và khối lượng
trái phiếu sẽ được chuyển cho những thành viên tham gia trả giá cao nhất.
¾ Hệ thống khớp lệnh( Cross-matching system): Hệ thống này nhìn chung là
cơ chế giúp cho các nhà kinh doanh trái phiếu và nàh đầu tư có tổ chức gặp
nhau trong hệ thống giao dịch điện tử. Khách hàng có thể nhập lệnh mua hoặc
bán với nhiều đối tác khác, sau đó các lệnh này sẽ được tự động khớp lệnh đối
ứng có cùng mức giá hoặc khi giá đối ứng là giá tốt nhất. trong một số trường
hợp, các nhà đầu tư có thể thỏa thuận về các điều kiện thực hiện giao dịch.
¾ Hệ thống liên định chế (inter-dealer system): Hệ thống này cho phép các nhà
kinh doanh trái phiếu thực hiện các giao dịch với các nhà kinh doanh khác
thông qua mạng lưới giao dịch điện tử của các nhà môi giới liên định chế. Đặc
trưng của hệ thống này là giao dịch ẩn danh, tức là toàn bộ thông tin sổ lệnh
được công khai, nhưng danh sách các thành vên yết giá không được tiết lộ.
điều đó có nghĩa là chỉ có những nhà môi giới mới nắm được thông tin chi tiết.
¾ Hệ thống một nhà kinh doanh (single-dealer system): Hệ thống này cho phép
nhà đầu tư thực hiện giao dịch trực tiếp với một nhà kinh doanh trái phiếu duy
nhất. Nhà kinh doanh trái phiếu này cũng hoạt động bằng nghiệp vụ tự doanh
trong hệ thống nhiều nhà kinh doanh nói trên. Các thành viên hệ thống cung
cấp mạng lưới giao dịch thông qua dịch vụ của một bên thứ ba khác, có thể là
một mạng nội bộ hoặc thông qua internet.
¾ Hệ thống nhiều nhà kinh doanh (Multi-dealer system): Hệ thống này nhà
đầu tư có cơ hội lựa chọn trên nhiều bảng giá trái phiếu của từ hai nhà kinh
doanh trở lên. Điều đó có nghĩa nhà đầu tư trái phiếu được so sánh với giá của
một loại trái phiếu từ các báo giá của nhiều thành viên hệ thống giao dịch.
Thông qua hệ thống giao dịch này cho phép hiển thị cho khách hàng các giá
chào bán hoặc chào mua tốt nhất của từng loại trái phiếu trong tất cả các mức
- 88 -
giá chào của nhiều loại trái phiếu trong hệ thống. bên cãnh đó, hệ thống này
cũng cho phép các nhà đầu tư yêu cầu lấy giá cho một loại trái phiếu từ một
hoặc nhiều nhà kinh doanh tham gia hệ thống giao dịch. Đặc biệt, các tổ chức
kinh doanh trái phiếu tham gia hệ thống này chủ yếu hoạt động tự doanh trái
phiếu.
Tất cả các loại trái phiếu giao dịch trong hệ thống đều được lưu ký tập trung
tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán. Trái phiếu giao dịch sẽ có mã giao dịch và mã
định danh riêng biệt để tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch và quản lý. Phương
thức giao dịch được áp dụng là giao dịch thỏa thuận. Thành viên có thể thực hiện
giao dịch thỏa thuận từ xa thông qua hệ thống mạng máy tính nội bộ mở rộng.
Việc tổ chức thị trường giao dịch TPCP tại Việt Nam sẽ được chia làm 2 giai đoạn:
• Giai đoạn 1 (từ năm 2007-2010): sẽ sử dụng mô hình đa định chế (multi-
dealer system). Theo đó, nhà đầu tư kết nối với nhiều nhà kinh doanh (công
ty chứng khoán môi giới) trái phiếu, cho phép xem tất cả các chào giá có trên
hệ thống tại một thời điểm để so sánh và tìm chào giá tốt nhất. Nhà đầu tư
liên hệ với nhà kinh doanh có chào giá tốt nhất để thương lượng mua/bán.
Theo mô hình này, thành viên tham gia thị trường sẽ có thành viên chính (các
công ty chứng khoán thành viên làm nghiệp vụ môi giới và tự doanh) và thành viên
phụ (các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ tự doanh). Cơ chế giao dịch sẽ
thực hiện giao dịch báo giá và thoả thuận từ xa (không có đại diện tại sàn). Hệ
thống mạng riêng biệt kết nối giữa các thành viên tham gia thị trường và nhà quản
lý. Nhà quản lý có vai trò giám sát thị trường. Các thành viên chính truy cập hệ
thống, xem thông tin trước và sau giao dịch, đưa ra các báo giá 2 chiều cho từng
loại TPCP muốn giao dịch cho chính mình hoặc cho khách hàng.
Hệ thống trên sẽ cho phép thành viên phụ tham gia yết giá và giao dịch cho
chính mình bằng cách thoả thuận trực tiếp với các thành viên chính hoặc thành viên
phụ khác để tìm giá tốt nhất. Các nhà đầu tư có thể truy cập hệ thống để tìm báo giá
tốt nhất của một loại TPCP bất kỳ do các thành viên chính yết và mức giá thực hiện
tốt nhất tại một thời điểm.
Trái phiếu sẽ được yết giá theo giá và lãi suất, với kỳ hạn thanh toán là T+1.
• Giai đoạn 2 (sau năm 2011): mô hình thị trường liên định chế (interdealer
system) sẽ được áp dụng. Mô hình này phụ thuộc vào mô hình tổ chức của
thị trường phát hành theo Dự án xây dựng một hệ thống các nhà kinh doanh
TPCP sơ cấp (PD) do Viện Nghiên cứu Nomura làm tư vấn chính (Bộ Tài
- 89 -
chính Nhật Bản tài trợ). Theo dự thảo Báo cáo mới nhất do Viện Nghiên cứu
Nomura công bố, đến sau 2010 Việt Nam có khả năng sẽ xây dựng được hệ
thống nói trên.
Để xây dựng thị trường TPCB, trước hết cần sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp lý cho thị trường giao dịch trái phiếu này. Bộ Tài chính cần đưa ra khung lãi
suất cho từng thời kỳ, đặc biệt là lãi suất của trái phiếu Chính phủ cần phản ánh sát
hơn với lãi suất thị trường và nên được điều chỉnh một cách linh hoạt. Ngoài ra, cần
đẩy mạnh phát hành trái phiếu qua các phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành,
tuy nhiên nên có sự phân chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ
hạn trái phiếu, tránh tình trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau trong cùng
thời kỳ, gây ra sự chồng chéo và làm giảm hiệu quả của đợt phát hành.
3.2.4.4.Chuẩn hóa hệ thống thông tin công bố, đơn giản hóa các thủ tục phát
hành trái phiếu
Trong thời đại ngày nay, việc sử dụng phương tiện công bố thông tin hiệu quả
nhất là trên website, các báo điện tử vì kênh thông tin này giúp nhà đầu tư dễ truy
cập khi cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay chỉ tại có các công ty niêm yết hay tổ chức
phát hành trái phiếu ra công chúng mới có thông tin được công bố qua phương tiện
này. Trong khi đó, Nghị định 52/2006/NĐ/CP có quy định thực hiện công bố thông
tin trên 3 số báo liên tiếp của một tờ báo Trung ương và một tờ báo địa phương nơi
tổ chức phát hành đặt trụ sở chính đồng thời có thể sử dụng thêm các phương tiện
khác như website, báo điện tử…. Việc quy định như vậy dẫn đến thực tế các nhà
đầu tư chỉ dễ dàng tìm thấy thông tin của những tổ chức phát hành niêm yết, còn
thông tin của những tổ chức phát hành riêng lẽ thì mờ mịt, đó là lý do khiến cho các
trái phiếu doanh nghiệp được biết đến nhưng tính thanh khoản của trái phiếu không
cao. Việc phát hành các thông tin về doanh nghiệp cần phải có nhiều biện pháp chế
tài đủ mạnh để xử lý những trường hợp tung tin thất thiệt làm sai lệch tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ phát triển khuyến khích
sự tham gia của các nhà chuyên nghiệp như ngân hàng đầu tư, luật sư, kế toán viên
và các nhà phân tích nghiên cứu để cải tiến hệ thống thông tin và nâng cao chất
lượng của thông tin.
Để khuyến khích phát hành, bên cạnh việc minh bạch hóa thông tin, cần đơn
giản các thủ tục, thuế, lệ phí phát hành. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều
đăng kí phát hành riêng lẽ theo Nghị định 52/2006/NĐ/CP, vì việc phát hành trái
phiếu riêng lẻ được thực hiện đơn giản hơn, các doanh nghiệp chủ động xác định
khối lượng vốn cần huy động, số lượng trái chủ ít dễ kiểm soát. Vì vậy, chính phủ
- 90 -
cần xem xét lại điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng, xây dựng lại theo
hướng mở hơn, đơn giản hơn, nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát hành
trái phiếu ra công chúng.
3.2.4.5. Đa dạng hóa các chủ thể phát hành trái phiếu:
Cần có chính sách khuyến khích các tổng công ty nhà nước, các doanh
nghiệp lớn uy tín thuộc các thành phần kinh tế phát hành trái phiếu huy động vốn
dài hạn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Đặc biệt là các ngành cần vốn lớn như hàng
không, điện lực, bưu điện, dầu khí… Đây là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện rất
cần được công nghiệp hóa. tăng cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công
nghiệp hóa.
Bên cạnh việc xây dựng một khung hành lang pháp lý thích hợp thì để thu
hút các chủ thể phát hành trái phiếu, đặc biệt là các doanh nghiệp, cũng cần có
những chính sách khuyến khích lợi ích. Cụ thể như đơn giản hóa thủ tục đăng ký
phát hành trên cơ sở tự đăng ký và cáo bạch theo những tiêu chuẩn nhất định; cho
phép các chủ thể phát hành trái phiếu được sử dụng miễn phí các dịch vụ phụ trợ từ
hệ thống trang thiết bị của thị trường chứng khoán hay xem xét việc ưu đãi thuế đối
với các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK, qua đó đem lại lợi ích thiết thực cho các
doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu và dần tạo thói quen phát hành trái phiếu huy
động vốn.
3.2.4.6. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng
cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư
Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần
quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu. Chú trọng hơn nữa trong
công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các doanh nghiệp và
công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm
tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu.
Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet để
tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị
trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận
thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu.
Nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu
tư trái phiếu.
- 91 -
Kết luận chương III
Trong thời gian qua thị trường trái phiếu đã chứng minh được tiềm năng huy
động vốn của mình và Chính phủ cũng đã có nhiều giải pháp phát triển. Tuy nhiên
để thị trường trái phiếu phát huy tốt vai trò của mình, cần có những giải pháp mang
tính đồng bộ, cần có những nổ lực cụ thể và hiệu quả từ nhiều phía: Chính phủ,
Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Xây dựng lộ
trình triển khai thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường trái phiếu.
Trên cơ sở thực hiện tốt các định hướng và giải pháp đã trình bày trong phần
này, sẽ góp phần phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, đảm bảo các mục tiêu
chiến lược phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020.
- 92 -
KẾT LUẬN
Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế là một yêu cầu cấp thiết cho sự
phát triển thị trường vốn ở VN trong thời gian tới. Một trong những thị trường vốn
cần tập trung phát triển là thị trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu.
Việc phát triển thị trường trái phiếu không chỉ tập trung vào một trong hai thị
trường sơ cấp hoặc thứ cấp mà cần sự đồng bộ trên cả hai thị trường này. Đó chính
là yêu cầu mà đề tài đặt ra trong việc thực hiện các giải pháp phát triển thị trường
trái phiếu Việt Nam trong thời gian đến.
Qua phân tích thực tế hoạt động thị trường trái phiếu Việt Nam trong chương
2, cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ dư nợ trái phiếu/GDP vẫn còn thấp so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân thì có nhiều mà cũng đã đề
cập trong đề tài và cũng có thể kể đến từ những lý do khác quan là thị trường trái
phiếu còn non trẻ, với quy mô chưa phát triển, cho đến những nguyên nhân từ nội
tại nền kinh tế, nội tại thị trường như: chưa có nền tảng lãi suất chuẩn, tính cạnh
tranh của trái phiếu còn thấp, chưa xây dựng được hệ thống định mức tín nhiệm
chuyên nghiệp, thiếu đội ngũ tạo lập thị trường, khung pháp lý và hệ thống quản lý
chưa được hoàn thiện, nhận thức và kiến thức của doanh nghiệp và công chúng đầu
tư còn kém, tâm lý e ngại rủi ro…
Trong số các nguyên nhân tồn tại dẫn đến sự kém phát triển thị trường trái
phiếu VN trong thời gian qua có cả những nguyên nhân làm thị trường kém phát
triển. Chính vì vậy cần có những giải pháp khắc phục từng bước tình hình kém phát
triển này. Đồng thời đưa ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu
VN trong thời gian tới. Việc tổ chức thực hiện các giải pháp cần phải có lộ trình
nhất định, từ việc hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống quản lý tạo nền tảng cho thị
trường đến việc phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp nhằm tại
sự đa dạng hóa hàng hóa trên thị trường, kết hợp với việc hình thành các tổ chức
định mức tín nhiệm,…, đề tài “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM” được thực hiện nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái
phiếu Việt Nam.
- 93 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hội thảo Phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam được vụ Tài
chính Ngân hàng - Bộ Tài chính tổ chức.
2. Bond Market Development: The Case of Singapore
3. Developing Bond Markets in APEC Conference, June 21-22 2005
4. www.Asianbondonline.adb.org
5. Thống kê trên trang tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội -
hastc.org.vn, Sở giao dịch Tp.HCM - hsx.com.vn và trang web của Bộ tài
chính – mof.org.vn.
6. Ngân hàng phát triển Á Châu, “Asian bond monitor 2007”.
7. Ngân hàng phát triển Á Châu, “Asian bond monitor 2008”.
8. Ngân hàng Hồng Kông thượng Hải; “Vietnam Monitor 18”, 2008
- 94 -
Phụ lục:
MÔ HÌNH CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
Mô hình tổ chức của Hàn Quốc
Hội đồng quản trị
Mô hình tổ chức của Nhật Bản
Đối với mô hình tổ chức của Mỹ, do quy mô toàn cầu nên những tổ chức ĐMTN
thường có cơ cấu tổ chức kết hợp lĩnh vực và khu vực trong đó chú trọng đến phân
tích theo nhóm như mô hình của Moody’s.
Giám đốc điều hành Kiểm toán
trưởng
Bộ phận
Hỗ trợ
Quản lý
Phòng
kiểm toán
Bộ phận
định mức
Bộ phận Bộ phận
nghiên cứu Thông tin
Tín nhiệm
Giám đốc
điều hành
Bộ phận dịch vụ thông tin
Hội đồng thẩm định
Bộ phận định giá đầu tư
Bộ phận tư vấn quản trị
Bộ phận định mức tín nhiệm
Hội đồng đánh giá
Hội đồng
quản trị
- 95 -
Mô hình nhóm phân tích (Áp dụng cho việc đánh giá xếp hạng một nhà máy
sản xuất ô tô Nhật Bản)
Trợ lý
Giám đốc
Chuyên viên
về tài chính
công ty
Chuyên viên về phương
thức thanh toán L/C và
tài chính cấu trúc
Chủ tịch hội
đồng xếp hạng
Chuyên gia phụ
trách xếp hạng
Nhật Bản
Kết luận xếp
hạng của
Moody’s
Các chuyên gia
của Nhật Bản
Trưởng nhóm phân tích về lĩnh
vực ô tô
- 96 -
Cơ cấu chức năng bộ phận định mức tín nhiệm của Moody’s
Giám đốc chuyên môn
Chủ tịch hội đồng xếp
hạng công ty
Chi nhánh
Moody’s ở
London
Giám đốc xếp
hạng công ty
GĐ phụ trách chi
nhánh nước ngoài Phó chủ tịch
HĐQT phụ trách
thông tin xếp
hạng công ty
Chủ tịch hội đồng xếp
hạng tín dụng tiện ích
công cộng
GĐ phụ trách ngành
công nghiệp
Bộ phận thông tin
về thị trường
Chi nhánh
ở Tokyo
Chi nhánh
ở Sydney
GĐ phụ trách tài chính
cấu trúc
GĐ phụ trách ngành
công nghệ-năng lượng
GĐ phụ trách định chế
tài chính và xếp hạng
Chi nhánh
ở Paris
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1971.pdf