Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam

Tài liệu Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam: MỞ ĐẦU * * * 1_ Tính cấp thiết của đề tài Phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là TPCP được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến năm 2020. Với mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đang thực hiện, nhu cầu vốn đầu tư xã hội hàng năm ở Việt Nam ước chừng cần khoảng 39% GDP. Để huy động được nguồn vốn này, Chính Phủ Việt Nam hiện đang nỗ lực thực hiện việc thu hút vốn qua nhiều kênh huy động khác nhau,... Ebook Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong đó kênh huy động vốn qua thị trường trái phiếu Chính Phủ là một ưu tiên quan trọng. Để thị trường trái phiếu Chính Phủ đáp ứng được mục tiêu huy động vốn cho nền kinh tế, cần phải đưa ra được các biện pháp giải quyết phù hợp, phối hợp đồng đều giữa hai mảng thị trường phát hành và thị trường giao dịch TPCP. Chính vì vậy, Đề tài “ phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam “ được viết với mục tiêu tập trung vào nghiên cứu lý thuyết kết hợp thực tiễn đối với thị trường TPCP nhằm tạo lập một thị trường giao dịch hiệu quả tại Việt Nam. 2_ Mục đích nghiên cứu Bài viết nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam hiện nay, qua đó làm sáng tỏ những vấn đề về lí luận và đánh giá thực trạng thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam , từ đây đề ra những giải pháp nhằm phát triển thị trường TPCP. 3_ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu : Thị trường trái phiếu Chính Phủ Phạm vi nghiên cứu: Thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam những năm vừa qua. 4_ Phương pháp nghiên cứu Dựa trên nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nghiên cứu từ lí luận chung về thị trường trái phiếu Chính Phủ và vai trò của thị trường TPCP trong nền kinh tế, đến thực trạng hoạt động của thị trường TPCP hiện nay, từ đó, đề ra những giải pháp nhằm phát triển thị trường TPCP. 5_ Những đóng góp của đề tài Bài viết đã hệ thống hóa một số vấn đề lí luận cơ bản về thị trường TPCP. Phân tích và luận giải có căn cứ khoa học về thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam, đưa ra những đánh giá về kết quả đạt được cũng như những tồn tại của thị trường. Nêu lên những nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại của thị trường TPCP ở Việt Nam. 6_ Kết cấu bài nghiên cứu Bài viết “ Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam” được chia làm 3 chương: Chương 1: Các vấn đề cơ bản về thị trường trái phiếu Chính Phủ Chương 2: Thực trạng thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam. Chương 1: Các vấn đề cơ bản về thị trường trái phiếu Chính Phủ 1.1. Khái quát về trái phiếu Chính Phủ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trái phiếu Chính Phủ 1.1.1.1. Khái niệm Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán(người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Như vậy, thực chất là với trái phiếu, trái chủ là người cho vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người cho vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Nếu một công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu, người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản đối với công ty đó. Quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của trái chủ được ưu tiên trước cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường. Đây sẽ là sự đảm bảo quan trọng cho các nhà đầu tư và như vậy trái phiếu có mức độ rủi ro thấp hơn so với cổ phiếu. Trái phiếu Chính Phủ do Chính Phủ phát hành. Những trái phiếu này được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà Nước hoặc để xây dựng các công trình công cộng, hoặc để giải quyết những khó khăn về tài chính. Trái phiếu Chính Phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu Chính Phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.Mệnh giá của trái phiếu có thể được ghi bằng đồng ngoại tệ hoặc đồng bản tệ. Nếu trái phiếu Chính Phủ được phát hành trong nước thì đó là bộ phận hình thành những khoản nợ trong nước. Nếu trái phiếu Chính Phủ được phát hành tại nước ngoài thì hình thành một khoản nợ nước ngoài. Trái phiếu Chính Phủ được đảm bảo chắc chắn bởi uy tín của Chính Phủ và tài sản của quốc gia, trái phiếu Chính Phủ có khả năng cầm cố, và chuyển nhượng. Các tổ chức nhân đạo, các tổ chức tôn giáo, các công ty phục vụ cho mục đích công cộng thường ưu tiên mua trước và được miễn giảm phí giao dịch. Hệ thống ngân hàng là người trợ giúp đắc lực của nhà nước trong quá trình phát hành và thanh toán trái phiếu Chính Phủ. 1.1.1.2. Đặc điểm của trái phiếu Chính Phủ Thông qua khái niệm về trái phiếu Chính Phủ ở trên, ta thấy TPCP là công cụ vay nợ đặc biệt của Chính Phủ, nó có độ an toàn cao. Vì nó đặc biệt nên ngoài những đặc điểm chung của trái phiếu, TPCP còn có những đặc điểm riêng đó là: TPCP là loại trái phiếu có độ rủi ro thấp nhất. Vì nó có nguồn ngân sách Nhà Nước đảm bảo Là loại trái phiếu có uy tín cao, an toàn nhất trên thị trường Quy mô phát hành và giao dịch lớn chính vì vậy TPCP có ảnh hưởng lớn đến thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung Do TPCP là công cụ an toàn, khối lượng phát hành lớn, có nhiều ưu đãi, do đó chủ yếu TPCP do trung gian tài chính nắm giữ. 1.1.2. Phân loại trái phiếu Chính Phủ Có rất nhiều cách phân loại trái phiếu Chính Phủ, tùy theo từng mục đích mà có cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu này ta chỉ nghiên cứu trái phiếu dài hạn. 1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể ủy quyền phát hành Theo điều 4 Nghị định 141/2003/NĐ-CP, TPCP bao gồm: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc. Tín phiếu kho bạc là: loại trái phiếu Chính Phủ có thời hạn dưới 1 năm, phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ. Trái phiếu kho bạc là: loại trái phiếu Chính Phủ có thời hạn từ 1 năm trở lên được phát hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt. Trái phiếu đầu tư là: loại trái phiếu Chính Phủ có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm các loại sau: + Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách đầu tư, năm trong kế hoặch đầu tư đã được Chính Phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch + Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm được Chính Phủ phê duyệt. Trái phiếu công trình trung ương là: loại trái phiếu Chính Phủ có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do Kho bạc Nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính Phủ, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Trái phiếu ngoại tệ là: loại trái phiếu Chính Phủ, có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do Bộ Tài Chính phát hành cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ tướng Chính Phủ. Đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi. Công trái xây dựng Tổ quốc do Chính Phủ phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước. 1.1.2.2. Phân loại theo thời gian đáo hạn Do trái phiếu Chính Phủ phát hành có kỳ hạn 1 năm trở lên, nên khi phân loại TPCP theo thời gian đáo hạn có những loại sau: Trái phiếu ngắn hạn (Shorts) có thời hạn từ 1 đến 5 năm; Trái phiếu trung hạn (Mediums) có thời hạn từ 5 đến 15 năm; Trái phiếu dài hạn (Longs) có thời hạn hơn 15 năm; Trái phiếu vô hạn (Perpetuities) không có ghi ngày đáo hạn. 1.1.2.3. Phân loại khác Theo hình thức sử dụng vốn: Trái phiếu kho bạc gắn với việc thực hiện những chính sách tài khóa, trái phiếu đầu tư huy động vốn cho các công trình thuộc diện ngân sách nhà nước cấp phát… Theo cách tính lãi: Lãi suất trái phiếu phát hành được xác định trên cơ sở kết quả của từng phiên đấu thầu. Lãi suất trái phiếu có thể áp dụng cố định cho cả kỳ hạn trái phiếu hoặc thả nổi hàng năm theo sự biến động của lãi suất trên thị trường tài chính, tiền tệ. Trường hợp áp dụng lãi suất thả nổi, căn cứ ý kiến thoả thuận của Bộ Tài Chính, tổ chức phát hành công bố mức lãi suất tham chiếu trước khi đấu thầu. Lãi suất chính thức sẽ được công bố trước theo từng thời gian hoặc vào các thời điểm thanh toán lãi trái phiếu trên cơ sở lãi suất tham chiếu tại thời điểm công bố. Theo hình thức biểu hiện: Trái phiếu đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ; có ghi tên hoặc không ghi tên. Đối với hình thức chứng chỉ: Bộ Tài Chính quy định nội dung để tổ chức phát hành in và phân phối cho các tổ chức trúng thầu. Đối với hình thức bút toán ghi sổ: Do Trung tâm Giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán) và các tổ chức lưu ký ghi và quản lý sổ sách. Theo tiêu thức quản lí: có trái phiếu ghi danh và trái phiếu vô danh Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay. Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính. Tuy nhiên, cho dù phân loại theo hình thức nào thì TPCP cũng có những đặc điểm giống trái phiếu khác về mệnh giá, lãi suất, kì hạn. Mệnh giá( giá trị danh nghĩa hay giá trị bề mặt ) là giá trị ghi trên trái phiếu, nó xác định tổng số tiền gốc mà trái chủ được nhận cho tới hết thời hạn của trái phiếu. Khác với cổ phần, mệnh giá trái phiếu là yếu tố được xác lập rất rõ ràng, vì đây là cơ sở đặt nền móng cho các quan hệ nghĩa vụ suốt chiều dài tồn tại của trái phiếu. Mệnh giá trái phiếu thường được định chuẩn ở các số càng chẵn càng tốt, tuỳ theo giá trị đồng bạc ở mỗi nước, đồng thời cũng là để giúp cho việc giao dịch thuận tiện. Thường mỗi thị trường sẽ có những mệnh giá được chuộng nhất và được khuyến khích sử dụng. Ví dụ ở Mỹ hiện nay, khi nói đến trái phiếu trong TTCK thì dân chúng có thói quen liên tưởng ngay đến loại 1.000USD. Loại 5.000USD cũng phổ biến nhưng không bằng loại 1.000USD. Những loại nhỏ hơn 1.000USD gọi là "baby bond" (trái phiếu nhỏ lẻ) được các công ty cần huy động vét (thường là để lập quỹ hoàn trái hoặc hoán nợ cho các loại trái phiếu trả lãi cao đã huy động trước đó) nhưng không nhỏ hơn 1.000USD. Các baby bond phải chịu phí giao dịch đắt hơn. Tại Việt Nam, trong thời gian khởi động để chuẩn bị cho việc ra đời TTCK, ta cũng đang quan tâm đến một mệnh giá đồng bộ để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật trong giao dịch. Có thể nói, Ngân Hàng Đầu Tư Phát Triển VN (BIDV) là nhà phát hành tiên phong loại trái phiếu tiêu chuẩn này, vào tháng 11 và 12 năm 1999, với các mệnh giá chuẩn là 10.000.000 VNĐ và 1000 USD. Lãi suất: Đây là thành tố xác định quyền lợi về thu nhập định kỳ (phần cứng) cho người sở hữu trái phiếu (chủ nợ). Tiền lãi, theo thông lệ đã phổ biến, được trả cứ nửa năm một lần, nên khi tính toán ta cần chia đôi lãi năm ra hai phần bằng nhau. Chẳng hạn trái phiếu mệnh giá 10.000.000đ, lợi suất danh nghĩa (nominal yield = lãi suất = rate of interest) là 10% thì mỗi sáu tháng trái phiếu đó nhận được 500.000đ, và từ đó tính ra tháng, ra ngày. Lãi suất chia làm 2 loại: lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế. Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất ghi trên trái phiếu. Nó quy định mức lợi tức mà trái chủ được hưởng so với mệnh giá của trái phiếu. Như vậy, bất kể điều gì xảy ra đối với giá của một trái phiếu coupon có lãi suất hàng năm 8% và mệnh giá 1000 USD, nó sẽ vẫn được trả 80 USD lợi tức hàng năm cho đến khi đáo hạn Lãi suất thực tế: được xem xét trong mối liên hệ giá trị thời gian của tiền. Lãi suất thực tế (lãi suất hiệu quả) là lãi suất mà bạn thực sự thu được từ một khoản đầu tư hoặc phải trả cho một khoản vay sau khi tính đến tác động của lãi suất ghép. Thông thường cái mà chúng ta hay nhìn thấy là lãi suất danh nghĩa, còn lãi suất thực tế sẽ được tính toán từ lãi suất danh nghĩa theo một số phương pháp nhất định. Lãi suất danh nghĩa gắn liền với phương pháp tính lãi đơn giản, còn lãi suất thực tế là kết quả của phương pháp tính lãi kép. Kỳ hạn: Là độ dài thời gian cho đến khi người phát hành trái phiếu trả lại toàn bộ tiền gốc cho trái chủ và nhận lại trái phiếu. Với tất cả các loại trái phiếu bình thường, việc hoàn trả lại tiền gốc sẽ được thực hiện vào ngày đáo hạn (maturity). Ngày đáo hạn còn là cơ sở quan trọng để xác định các kỳ trả lãi. Kỳ trả lãi được xác định mỗi năm hai lần. Ví dụ: trái phiếu J&J, trả lãi vào ngày 1 tháng Giêng và 1 tháng Bảy; trái phiếu F&A trả lãi vào ngày 1 tháng Hai và 1 tháng Tám; J&D trả lãi ngày 1 tháng Sáu và 1 tháng Chạp (dương lịch),… Tại các thị trường phát triển, việc quy định số ngày trong năm và phương pháp đếm ngày được chuẩn hoá tuỳ theo loại trái phiếu. Ở Mỹ trái phiếu công ty và trái phiếu đô thị được tính theo năm có 360 ngày và tháng có 30 ngày (kể cả tháng Hai). Nhưng trái phiếu Chính Phủ thì lại tính một năm là 365 ngày và tháng tính theo ngày lịch thực tế. Có 3 loại cơ cấu đáo hạn căn bản của một đợt phát hành trái phiếu: Loại trái phiếu có thời hạn cố định (term bonds) đáo hạn tất cả cùng một lúc. Loại trái phiếu đáo hạn theo nhóm (serial bonds) từng kỳ, loại này được phát hành một đợt nhưng có kỳ đáo hạn khác nhau theo lịch trình định trước. Ví dụ: một trái phiếu đô thị có lượng phát hành 100 tỷ đồng có lịch đáo hạn mỗi năm 5 tỷ suốt trong chiều dài tồn tại của đợt đó là 20 năm. Loại trái phiếu đáo hạn kết hợp (balloon bonds) đáo hạn từng phần nhưng đa phần là vào kỳ cuối cùng. Ví dụ một đợt phát hành trái phiếu "balloon" có thể mỗi năm thu hồi 3% giá trị phát hành ban đầu trong vòng 20 năm, rồi sau đó tất toán 40% còn lại vào năm đáo hạn. Từ balloon cho ta khái niệm phần phình ra nằm ở cuối trái bóng. Để phù hợp với kế hoạch sử dụng tài chính và tính toán hiệu quả kinh tế, một nhà phát hành có thể bán trái phiếu trải ra qua vài ba năm, họ sẽ thu xếp đợt phát hành theo từng sê- ri tách biệt. 1.2. Thị trường trái phiếu Chính Phủ 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thị trường trái phiếu Chính Phủ Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường chứng khoán, mà TTCK lại là một bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường tài chính. Chính vì vậy, trước khi tìm hiểu về thị trường TPCP ta sẽ tìm hiểu qua vài nét về thị trường tài chính. 1.2.1.1. Khái niệm, cấu trúc của thị trường tài chính Thị trường tài chính là nơi diễn ra sự luân chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính. Hoạt động trên thị trường tài chính có những hiệu ứng trực tiếp tới sự giàu có của các cá nhân, tới hành vi của các doanh nghiệp và người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Cấu trúc của thị trường tài chính: Tùy theo các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại thị trường tài chính theo nhiều cách khác nhau: Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn. Thị trường vốn là thị trườngmua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn. So với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường vốn có tính thanh khoản kém hơn và đội rủi ro cao hơn, do đó chúng có mức lợi tức cao hơn. Căn cứ vào cách thức huy động vốn, thị trường tài chính được chia ra thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần. Thị trường nợ là thị trường mua bán các công cụ nợ như trái phiếu, các khoản cho vay,…Thị trường nợ có đặc trưng là các công cụ giao dịch đều có kỳ hạn nhât định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tùy theo cam kết nợ giữa chủ nợ và người mắc nợ. sự hoạt động trên thị trường nợ phụ thuộc rất lớn vào biến động của lãi suất ngân hàng. Thị trường vốn cổ phần là thị trường mua bán các cổ phần của công ty cổ phần. Đặc trưng của thị trường này là các công cụ trên thị trường này không có kỳ hạn mà chỉ có thời điểm phát hành, không có ngày mãn hạn. Người mua cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lại cổ phiếu trên thị trường hoặc khi công ty tuyên bố phá sản. Khác với thị trường nợ, hoạt động của thị trường vốn cổ phần chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần. Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các công cụ tài chính được phát hành lần đầu và được bán cho người đầu tiên mua chúng. Do là phát hành lần đầu nên thị trường này còn được gọi là thị trường cấp một. Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch các công cụ tài chính sau khi chúng đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường thứ hai 1.2.1.2. Khái niệm, đặc điểm thị trường trái phiếu Chính Phủ Sau khi đã hiểu rõ về thị trường tài chính ta có thể khái quát về thị trường trái phiếu Chính Phủ đó là: Thị trường trái phiếu Chính Phủ là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, qua đó Chính Phủ có thể huy động được vốn, bù đắp thâm hụt ngân sách và đầu tư cơ sở hạ tầng Thị trường TPCP là nơi diễn ra các giao dịch mua – bán, trao đổi TPCP, việc này diễn ra cả trên thị trường phát hành và thị trường giao dịch Người có vốn _ Hộ gia đình _ tổ chức kinh tế _ nước ngoài Người cần vốn Chính Phủ Vốn Vốn TT TPCP Vốn TGTC Vốn (Nguồn: GT TTCK – Khoa NH – TC, ĐH KTQD) Quy mô của thị trường TPCP thường lớn hơn so với thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu. Ở Mỹ, thị trường chứng khoán cung ứng 30% vốn trực tiếp trong đó 2% từ cổ phiếu, 4% từ TPDN, 24% từ TPCP. Bảng 1.1: Các dòng vốn qua hệ thống tài chính đầu tư vào TPCP 1.2.2. Phân loại thị trường trái phiếu Chính Phủ 1.2.2.1. Thị trường phát hành trái phiếu Chính Phủ Thị trường phát hành trái phiếu Chính Phủ( thị trường sơ cấp) là thị trường mua bán trái phiếu Chính Phủ mới phát hành. Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu mua trái phiếu Chính Phủ mới phát hành Vai trò của thị trường phát hành TPCP - Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn mà Chính Phủ cần sẽ được huy động thông qua thị trường phát hành. - Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn. Đặc điểm của thị trường phát hành TPCP - Thị trường phát hành trái phiếu Chính Phủ là thị trường tạo vốn cho Chính Phủ và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường phát hành trái phiếu Chính Phủ làm tăng vốn đầu tư. - Những người bán trái phiếu Chính Phủ trên thị trường trái phiếu Chính Phủ là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước - Thị trường phát hành chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất định, trong thời gian hạn định. 1.2.2.2. Thị trường giao dịch trái phiếu Chính Phủ Thị trường giao dịch TPCP là nơi giao dịch TPCP đã được phát hành trên thị trường phát hành. Là thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu trái phiếu. Thị trường giao dịch đảm bảo tính thanh khoản cho TPCP đã phát hành. Đặc điểm của thị trường giao dịch TPCP - Trên thị trường giao dịch TPCP, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành trái phiếu mà vận chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường. Thị trường giao dịch TPCP là một bộ phận quan trọng của thị  trường trái phiếu TPCP, gắn bó chặt chẽ với thị trường phát hành. - Giao dịch trên thị trường giao dịch phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái phiếu Chính Phủ trên thị trường giao dịch do cung và cầu quyết định. - Thị trường giao dịch TPCP là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường giao dịch 1.2.2.3. Mối liên hệ giữa thị trường phát hành và thị trường giao dịch TPCP Thị trường phát hành TPCP là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường giao dịch TPCP vì đó là nơi cung cấp hàng hóa TPCP trên thị trường giao dịch. Không có thị trường phát hành thì không thể có sự xuất hiện của thị trường giao dịch. Thị trường giao dịch là một loại thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn chưa có một thị trường phát hành rộng rãi, vững chắc. Ngược lại, thị trường giao dịch đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường phát hành, vì một khi trái phiếu Chính Phủ đã được phát hành ra trên thị trường, nếu không có một thị trường giao dịch TPCP để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho TPCP thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu Chính Phủ. Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường giao dịch làm cho lưu động hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu Chính Phủ thành tiền mặt. 1.2.3. Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ 1.2.3.1. Khái niệm Phát triển là sự thay đổi cả về lượng và chất của chủ thể nghiên cứu theo hướng tích cực. Mục tiêu của thị trường TPCP là huy động vốn cho ngân sách Nhà Nước và thực hiện mục tiêu chính sách tài chính, đồng thời tạo công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư. Thị trường sẽ đạt mục tiêu khi tạo khả năng tích tụ, tập trung tiền cho ngân sách Nhà Nước, chuyển thời hạn vốn, góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế, tránh lạm phát…Nhưng để đạt được mục tiêu đó, thì thị trường phải hoạt động với lượng vốn lớn, tính thanh khoản cao, khối lượng giao dịch lớn, chi phí giao dịch nhỏ, có sự tham gia ngày càng đông của các nhà đầu tư, đặc biệt nhà đầu tư có tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật giao dịch hiện đại, phương thức giao dịch tiên tiến, khả năng linh hoạt lớn, khả năng kiểm soát thị trường tốt…Như vậy, phát triển thị trường TPCP là sự thay đổi các yếu tố của thị trường theo hướng tích cực nhằm thực hiện tốt hơn chức năng của thị trường trái phiếu Chính Phủ. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trường TPCP Đánh giá sự phát triển của thị trường TPCP ta dựa trên hai yếu tố: Các yếu tố định tính, và các yếu tố định lượng Các yếu tố định lượng: + Doanh số phát hành, giao dịch: Thị trường TPCP càng phát triển thì lượng vốn huy động được từ việc phát hành, giao dịch TPCP sẽ càng lớn và ngược lại, nếu lượng vốn huy động được từ việc phát hành, giao dịch TPCP là không đáng kể thì điều đó có nghĩa là thị trường TPCP còn rất nhỏ bé và chưa phát triển. + Số lượng và sự đa dạng về hàng hóa trên thị trường TPCP: sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính Phủ được thể hiện bởi số lượng TPCP phát hành, giao dịch trên thị trường và sự phong phú về chủng loại hàng hóa trên thị trường, đa dạng về kỳ hạn TPCP. Nếu hàng hóa trên thị trường trái phiếu Chính Phủ đa dạng sẽ giúp nhà đầu tư có nhiều lựa chọn hơn, và sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn. + Tần suất phát hành, giao dịch TPCP: tần suất phát hành, giao dịch TPCP phải hợp lí, chưa hẳn tần suất lớn đã là tốt, lượng cung trái phiếu lớn mà cầu trái phiếu nhỏ thì sẽ làm cho các đợt phát hành bị thất bại. Cần tập trung phát hành TPCP theo lô lớn. + Phí giao dịch: Để thị trường TPCP trở nên sôi động thì phí giao dịch thấp là một nhân tố thu hút nhà đầu tư. + Thời gian giao dịch: Thời gian giao dịch càng rút ngắn càng thể hiện sự phát triển của thị trường TPCP. Thời gian giao dịch ngắn thể hiện trình độ công nghệ được nâng cao, thị trường hoạt động chuyên nghiệp hơn. + Thành viên tham gia vào thị trường TPCP: một thị trường TPCP phát triển là thị trường có sự tham gia của nhiều công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, các quỹ đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài, nhà tạo lập thị trường… Các yếu tố định tính + Mức độ linh hoạt của thị trường: thể hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa các phương thức giao dịch, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPCP + Khả năng kiểm soát thị trường: một thị trường phát triển tốt đồng nghĩa với việc thị trường đó được quản lý và giám sát một cách có hiệu quả. Giao dịch trên thị trường trở nên minh bạch, trung thực, tránh hiện tượng gian lận, thao túng giá cả…. + Tính thanh khoản của TPCP: Thị trường TPCP có phát triển thì khả năng thanh khoản của trái phiếu Chính Phủ mới cao. Do đó, để đánh giá một thị trường TPCP có phát triển hay không ta có thể xem xét đến tính thanh khoản của trái phiếu. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ Thị trường trái phiếu Chính Phủ là một thị trường đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường TPCP có một ý nghĩa vô cùng to lớn, nó giúp Chính Phủ có những bước đi nhằm giúp cho thị trường trái phiếu phát triển và hoạt động một cách có hiệu quả. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường TPCP được chia làm 2 nhân tố chính: 1.3.1. Các nhân tố vĩ mô 1.3.1.1. Nhân tố về sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế Đây là nhân tố quan trọng nhất, nó quyết định tới sự phát triển của thị trường tài chính nói chung cũng như thị trường TPCP nói riêng của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Cùng với sự ổn định về chính trị thì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô đặc biệt là thị trường tài chính là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số lạm phát, tỷ giá hối đoái,… mang yếu tố quyết định khi tiến hành hoạch định chiến lược phát triển hệ thống tài chính trong đó có thị trường TPCP.Ngoài ra, các chính sách tài chính tiền tệ cũng có tác động tới sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của Chính Phủ. Với một quốc gia có sự ổn định về chính trị và kinh tế sẽ làm cho đời sống, thu nhập của toàn xã hội được nâng cao, phần tích lũy ngày càng lớn, dẫn đến nhu cầu đầu tư tăng cao, khi Chính Phủ tiến hành thu hút vốn phục vụ cho mục đích đầu tư phát triển bằng cách phát hành trái phiếu thì các nhà đầu tư sẽ rất an tâm trong việc bỏ vốn vào đầu tư trung và dài hạn. Trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển TTCK, Chính Phủ sẽ tổ chức tiến hành phát hành TPCP làm mặt hàng chính cho thị trường. Thêm vào đó, việc tiến hành mua bán TPCP thường xuyên trên thị trường sơ cấp sẽ giúp cho tính thanh khoản của TPCP được nâng cao và làm nguồn vốn khả dụng của các tổ chức nắm giữ TPCP được tăng lên, từ đó tạo ra một khung lãi suất chuẩn cho các loại trái phiếu khác giúp các nhà đầu tư có những sự lựa chọn đầu tư vốn của mình một cách chính xác và có hiệu quả hơn. Nếu một quốc gia không có sự ổn định về chính trị và kinh tế sẽ kéo theo đời sống của người dân cũng gặp khó khăn, điều này đồng nghĩa với việc Chính Phủ sẽ không huy động được vốn và thị trường TPCP sẽ không phát triển được. Như vậy, Sự ổn định về chính trị và kinh tế là một yếu tố hết sức quan trọng cho sự phát triển của thị trường TPCP. 1.3.1.2. Nhân tố pháp lý Để thị trường TPCP có thể hoạt động và phát triển được thì điều kiện trước tiên là phải có hệ thống các quy định về pháp luật đối với chính sách phát triển kinh tế theo từng giai đoạn cụ thể. Để môi trường pháp lý phát huy hiệu lực đối với hoạt động của thị trường, cần thiết phải có sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ quan quản lý nhà nước và đảm bảo có một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Hệ thống chính sách có tác động rất lớn đến bản thân TTCK và hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính sách có thể kéo theo các tác động tốt hoặc xấu tới TTCK nói chung và thị trường TPCP nói riêng, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm. Môi trường pháp luật là yếu tố quan trọng tác động tới TTCK. Do vậy môi trường pháp lý cần đuợc xem xét trên các góc độ: Hệ thống hành lang pháp lý của TTCK được xây dựng như thế nào, có đủ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đầu tư hay không? Những mặt khuyến khích, ưu đãi, hạn chế được quy định trong hệ thống pháp luật ra sao? Và Sự ổn định của hệ thống luật pháp, khả năng sửa đổi và ảnh hưởng của chúng đến TTCK như thế nào? 1.3.1.3. Nhân tố thuộc về mô hình tổ chức thị trường Mô hình tổ chức thị trường TPCP có tác động rất quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động của các nhà đầu tư tham gia vào thị trường, tạo cho thị trường TPCP luôn sôi động và hiệu quả. Mô hình tổ chức thị trường TPCP nếu được xác lập phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường, đồng thời, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản thực hiện tốt chức năng quản lý, giám sát thị trường TPCP. Ngược lại, nếu mô hình tổ chức thị trường TPCP không được xác lập phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của thị trường, làm cho thị trường hoạt động kém hiệu quả, không sôi động… 1.3.1.4. Các nhân tố khác Ngoài các nhân tố trên, còn có 3 nhân tố vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư trên TTCK nói chung và trên thị trường TPCP nói riêng Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái thay đổi không chỉ ảnh hưởng tới thị trường ngoại hối mà còn tác động tới thị trường trái phiếu. Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư vào thị trường trái phiếu, nếu tỷ giá hối đoái tăng mạnh sẽ làm nảy sinh lí do khiến các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường trái phiếu. Khi một lượng vốn lớn nhanh chóng bị rút khỏi thị trường sẽ làm giảm giá trái phiếu và điều này sẽ tác động làm tăng lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ trở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp. Do vậy, vấn đề hiện nay là cần phải duy trì tỷ giá hối đoái ở mức cân bằng. Lạm phát: là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới doanh nghiệp. trong thực tế, cứ tăng trưởng kinh tế cao ._.thì thường kéo theo lạm phát. Hiện tượng này gần như là một nguyên lý mà các nhà kinh tế, kế hoạch, tài chính quốc gia phải luôn luôn quan tâm để hài hoà giữa phát triển và kiểm soát lạm phát, trong đó việc cân đối liều lượng, thời điểm, phương thức áp dụng các biện pháp là rất quan trọng. Lạm phát cao làm đồng tiền mất giá, kéo theo lãi suất tiết kiệm tăng cao, nhà đầu tư sẽ phân vân giữa đầu tư vào thị trường trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Lạm phát thuần túy (lạm phát ngầm) không nguy hiểm cho TTCK vì tiền mua cổ phiếu thực chất là đầu tư vào hiện vật. Lãi suất: Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Vì vậy, khi lãi suất cao, giá trái phiếu thấp có thể là một cơ hội tốt để mua vào trái phiếu. Khi kinh tế phát triển mà không có lạm phát lớn thì trái phiếu dài hạn là đối thủ cạnh tranh trực tiếp số một của cổ phiếu. Lãi suất cao thu hút dân chúng đầu tư vào trái phiếu, kể cả tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn vì đó là những bến đậu an toàn cho đồng vốn. Ở mức lãi suất thấp, tiền tiết kiệm được đầu tư vào cổ phiếu nhiều hơn, tính thanh khoản tăng cao làm TTCK phát triển. Khi nền kinh tế phát triển tốt thì TTCK có xu hướng đi lên và ngược lại khi kinh tế giảm sút thì TTCK đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Vì vậy, các nhà đầu tư cần phải cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời cơ để tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường chứng khoán một cách hợp lý nhất. 1.3.2. Các nhân tố vi mô 1.3.2.1. Nhân tố về các tổ chức trung gian tài chính Đây là một trong những chủ thể quan trọng của thị trường chứng khoán nói chung cũng như thị trường trái phiếu Chính Phủ nói riêng, với vai trò của mình các tổ chức phát hành, kinh doanh , và hỗ trợ cho thị trường thông qua các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành, mô giới, tư vấn…. Với sự tham gia của các trung gian tài chính đã tạo động lực thúc đẩy cho thị trường trái phiếu ngày càng phát triển mạnh mẽ. 1.3.2.2. Nhân tố về công chúng đầu tư Để thị trường TPCP hoạt động một cách có hiệu quả, cần có các chính sách tạo dựng được lòng tin cho các nhà đầu tư, giảm thiểu những sự bất ổn định hay những biến động xấu của thị trường. Thêm vào đó để duy trì lòng tin của các nhà đầu tư thì các trái phiếu được phát hành phải đảm bảo chất lượng và cần Chính Phủ phải thực hiện một cách nghiêm chỉnh các cam kết đối với các nhà đầu tư. Ngoài các yếu tố của bản thân nhà phát hành thì sự hỗ trợ của Chính Phủ, của các tổ chức trung gian tài chính cũng có ý nghĩa quan trọng tác động đến quyết định của các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường trái phiếu Chính Phủ. 1.3.2.3. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước Để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và để tạo lập một thị trường trái phiếu Chính Phủ hoạt động có hiệu quả thì các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tập trung vào công tác quản lý và giám sát thị trường một cách chặt chẽ, ngăn chặn kịp thời những hành vi trái pháp luật làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động của thị trường nhằm đảm bảo cho các giao dịch diễn ra minh bạch và công bằng với tất cả các đối tượng tham gia thị trường. Kết luận chương 1 Trái phiếu Chính Phủ trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề tương đối mới mẻ và mang tính thời sự, bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu , trong chương 1 đã đưa ra một cái nhìn tổng quan về TPCP và thị trường TPCP. Đồng thời chỉ ra sự cần thiết của thị trường TPCP trong việc tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn và khả năng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam 2.1. Khái quát quá trình phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam Lịch sử phát hành và sự hình thành phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn sau: 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1990: Giai đoạn chưa hình thành thị trường TPCP Ở thời kỳ này, nhu cầu chi tiêu cho cuộc kháng chiến là rất lớn, trong khi nguồn thu của ngân sách Nhà Nước còn hạn hẹp do chính sách giảm thuế của chính quyền cách mạng, vì vậy việc huy động vốn qua hình thức TPCP đã có ý nghĩa rất lớn, tuy nhiên, nó còn nhiều hạn chế do nguồn lực tài chính trong dân còn nhỏ, dựa trên lòng yêu nước là chính, có loại công trái không hoàn cả gốc lẫn lãi mà người dân vẫn mua, có thể thấy rằng giai đoạn này việc phát hành công trái không dựa trên quan hệ kinh tế mà là trên quan hệ chính trị, nhằm mục đích phục vụ cho chiến tranh là chính. Như vậy, ở giai đoạn này chưa tồn tại khái niệm thị trường trái phiếu Chính Phủ. 2.1.2. Giai đoạn 1990 - nay: Giai đoạn bắt đầu hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ Trong giai đoạn 1990 đến nay, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội theo các nghị quyết của đại hội đảng lần thứ VII, VIII và IX. Nền kinh tế trong giai đoạn này đã liên tục tăng trưởng và đạt được những thành tựu quan trọng. Nhiệp độ tăng GDP bình quan hàng năm giai đoạn 1991 – 1995 đạt 8,2%, giai đoạn 1996 – 2000 đạt 7,0% và giai đoạn 2001 – 2004 đạt xấp xỉ 7.3%. Để thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chủ trương, chính sách lớn trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ nói chung và công tác huy động vốn nói riêng đó là: Xây dựng chính sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản nền tài chính Nhà nước theo hướng thúc đẩy khai thác nguồn lực trong nước, xây dựng và phát triển thị trường tài chính, từng bước hình thành thị trường chứng khoán, thu hút các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Công tác huy động vốn của Chính Phủ trong giai đoạn 1991 – 2004 chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động phát hành trái phiếu Chính Phủ qua kho bạc Nhà nước, gần đây nhất là quỹ Hỗ trợ phát triển và thu hút nguồn vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài. Có thể chia thời kỳ này thành 2 giai đoạn nổi bật như sau: 2.1.2.1. Giai đoạn 1990 – 1999 Từ năm 1990, hệ thống ngân hàng hoạt động theo 2 pháp lệnh: pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Đồng thời, hệ thống kho bạc Nhà nước đã được thành lập theo quyết định số 07/HĐBT ngày 1/4/1990 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng( nay là thủ tướng Chính Phủ) dựa trên cơ sở chuyển giao nhiệm vụ quản lý quỹ thuộc ngân sách Nhà nước từ ngân hàng Nhà nước Việt Nam sang cho Bộ Tài Chính. Ngay từ khi được thành lập cho đến nay, hệ thống kho bạc Nhà nước đã tổ chức thực hiện công tác huy động vốn cho ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển bằng trái phiếu Chính Phủ. Có thể thấy rằng, việc thành lập hệ thống kho bạc Nhà nước, công tác quản lý, điều hành quỹ ngân sách Nhà nước và huy động vốn cho đầu tư phát triển đã có bước phát triển quan trọng. Và để từng bước xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực huy động vốn ho bạc Nhà nước đã soạn thảo và trình Chính Phủ, Bộ Tài Chính ban hành các nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994 về chứng khoán và thị trường chứng khoán và các quyết định, thông tư hướng dẫn, và bước đầu tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán nói chung. Thị trường TPCP nói riêng và quan trọng hơn cả là việc đổi mới nhận thức và quan điểm đối với công tác huy động vốn phục vụ mục đích chỉ tiêu cùng đầu tư phát triển của Chính Phủ Năm 1991, kho bạc Nhà nước tổ chức thí điểm phát hành tín phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng tại thành phố Hải Phòng, mở đầu cho việc tổ chức công tác huy động vốn trong thời kỳ mới. Từ năm 1992, nguồn vốn phát hành trái phiếu Chính Phủ đã góp phần tích cực trong việc chấm dứt phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là từ khi có nghị định 72/CP năm 1994 đã bước đầu cho thấy sự thay đổi trong cách tư duy của Chính Phủ trong chiến lược tạo nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ đầu tư phát triển.Trong giai đoạn này bằng những hình thức phát hành mới, công tác huy động vốn của Chính Phủ đa có những tiến bộ vượt bậc. Điều này đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện mặc dù chưa thật sự rõ nét thị trường TPCP ở Việt Nam. 2.1.2.2. Giai đoạn 2000 – 2004 Nhằm hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy thị trường TPCP phát triển. Chính Phủ đã liên tục ban hành những nghị định thay thế cho nghị định 72/CP bằng nghị định số 01/2000/NĐ-CP, ngày 13/01/2000 và mới đây nhất là nghị định số 141/2003/NĐ-CP, ngày 20/11/2003 của Chính Phủ ban hành về quy chế phát hành trái phiếu Chính Phủ; nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 được thay thế bằng nghị định số 144/2003/NĐ-CP 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thị trường TPCP đã thực sự được xác lập bắt đầu từ tháng 7/2000 khi trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ra đời, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong dời sống kinh tế - xã hội, nó tạo ra những yêu cầu, thách thức, cũng như cơ hội mới cho công tác huy động vốn, đặc biệt là nhu cầu hàng hóa để kích thích hoạt động mua bán, trao đổi và luân chuyển vốn trên thị trường, Từ đây, trái phiếu Chính Phủ được phát hành theo những phương thức mới là đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Theo đó, các loại TPCP trung và dài hạn đã đủ tiêu chuẩn niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán. Như v ậy sự hình thành và phát triển thị trường TPCP qua các giai đoạn, đặc biệt là từ khi hệ thống kho bạc Nhà nước ra đời đến nay, đã giải quyết một số vấn đề sau: Tạo nguồn tài chính quan trọng, đáp ứng nhu cầu đầu tư của Chính Phủ phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Phát hành TPCP đã trở thành giải pháp có hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát và chấm dứt phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước Thị trường TPCP phát triển đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán. 2.2.Thực trạng thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam 2.2.1. Thị trường phát hành TPCP 2.2.1.1. Khung pháp lý điều chỉnh Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về phát hành TPCP, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương được ban hành thay thế Nghị định 01/2000 trước đây cũng tạo cơ chế khuyến khích phát hành huy động vốn qua trái phiếu. Thông tư 21/2004/BTC ngày 24/03/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn việc đấu thầu TPCP, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán giao dịch tập trung. Quyết định 46/2006/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính ngày 6/8/2006 ban hành Quy chế phát hành TPCP theo lô lớn. Quyết định 2276/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu TPCP tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội kể từ ngày 20/6/2006. Giao dịch TPCP sẽ được thực hiện tại các TTGDCK. Kể từ ngày 20/6/2006, toàn bộ hoạt động đấu thầu TPCP qua TTGDCK sẽ được thực hiện tại TTGDCK Hà Nội và sau đó được niêm yết và giao dịch trên TTGDCK Hà Nội. 2.2.1.2. Thành viên tham gia - Các thành viên đấu thầu: Trước khi ban hành quyết định 2276/2006/QĐ-BTC, TTGDCK Hà Nội có 36 thành viên đấu thầu và sau khi ban hành quyết định 2276/2006/QĐ-BTC, tính đến 14/4/2008, TTGDCK Hà Nội đã có 73 thành viên đấu thầu. - Các thành viên bảo lãnh: Tính đến 30/9/2007 có 34 thành viên bảo lãnh phát hành TPCP, trong đó có 16 thành viên là các ngân hàng thương mại. 2.2.1.3. Thực trạng hoạt động a- Tình hình đấu thầu trái phiếu Chính Phủ qua trung tâm giao dịch chứng khoán + Đấu thầu trái phiếu Chính Phủ qua sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh: Về phương thức đấu thầu TPCP: trái phiếu được đấu thầu theo hình thức cạnh tranh lãi suất hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất, trong phạm vi lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài Chính. Trong trường hợp kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất thì khối lượng trái phiếu đấu thầu không cạnh tranh lãi suất không vượt quá 30% tổng khối lượng trái phiếu thông báo phát hành của đợt đó. Số trái phiếu trúng thầu được niêm yết và giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán TP.HCM; tiền lãi trái phiếu được thanh toán định kỳ 1 năm/1 lần. TPCP do Kho bạc Nhà nước (KBNN) phát hành: Từ năm 2000- 30/6/2006, KBNN đã thực hiện 91 đợt đấu thầu TPCP qua SGCK TP.HCM với tổng khối lượng gọi thầu là 19.800 tỷ đồng. Kết quả có 74 đợt thành công với khối lượng TPCP trúng thầu là 10.578,7 tỷ đồng, đạt 53,43% so với khối lượng gọi thầu. TPCP do Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành: Từ năm 2002 - 30/6/2006, Quỹ HTPT đã thực hiện 60 đợt đấu thầu TPCP qua TTGCK TP.HCM với tổng khối lượng gọi thầu là 9.100 tỷ đồng. Kết quả chỉ có 18 đợt thành công với khối lượng TPCP trúng thầu là 1.199 tỷ đồng, đạt 13,18% so với khối lượng gọi thầu. Từ 01/7/2006 SGDCK TP.HCM không tổ chức đấu thầu TPCP, nhiệm vụ này được thực hiện thống nhất tại TTGDCK Hà Nội. + Đấu thầu trái phiếu Chính Phủ qua TTGDCK Hà Nội: Trong năm 2007, đơn vị thực hiện phát hành qua TTGDCK Hà Nội nhiều nhất là kho bạc Nhà nước với 31 phiên đấu thầu, tiếp đến là Ngân hàng phát triển Việt Nam với 7 phiên và quỹ đầu tư và phát triển đô thị Tp.HCM với 6 phiên. Trong năm 2007, không có phiên đấu thầu nào Trái phiếu thủ đô của UBND Tp. Hà Nội( năm 2006 có 1 phiên ). Bảng 2.1: Bảng tổng hợp về cơ cấu phát hành từ năm 2006 – 2007 Đơn vị: Tỷ đồng Tên tổ chức Năm 2006 Năm 2007 Số phiên KL gọi thầu KL trúng thầu Số phiên KL gọi thầu KL trúng thầu Kho bạc Nhà nước 14 4.800 3.798 31 22.000 16.180 NH phát triển VN 1 800 0 7 4.000 1.675 UBND Tp. Hà Nội 1 150 40 0 0 0 Quỹ ĐTPT đô thị Tp. HCM 5 610 430 6 3.016 1.084 Tổng cộng 21 6.360 4.268 44 29.016 18.939 ( Nguồn: Báo cáo thường niên 2007- TTGDCK Hà Nội ) Như vậy, tại TTGDCK Hà Nội mới chỉ thực hiện đấu thầu TPCP được 2 năm, trong bảng 3 là số liệu tổng hợp số lượng TPCP niêm yết tại TTGDCK Hà Nội trong 2 năm 2006, 2007 Bảng 2.2: Thống kê trái phiếu niêm yết (Tại thời điểm 31/12/2006 -31/12/2007) Tên tổ chức phát hành 31/12/2006 31/12/2007 Tổng số loại TP KL niêm yết (nghìn trái phiếu) Giá trị niêm yết (nghìnđồng) Tổng số loại TP KL niêm yết (nghìn trái phiếu) Giá trị niêm yết (triệuđồng) Kho bạc Nhà nước 26 79.000 7.900 76 338.060 33.806 NH phát triển VN 4 15.050 1.505 94 333.400 33.440 TP chính quyền địa phương 62 88.850 8.885 4 15.050 1.505 Tổng cộng 92 182.900 18.290 174 686.510 68.651 ( Nguồn: Báo cáo thường niên 2007- TTGDCK Hà Nội ). Loại TPCP ( Nguồn: Báo cáo thường niên 2007- TTGDCK Hà Nội ). b- Tình hình bảo lãnh phát hành: Song song với việc triển khai phương thức đấu thầu trái phiếu qua SGDCK Tp.HCM, Bộ Tài Chính thực hiện việc phát hành trái phiếu theo phương thức bảo lãnh, với mục đích thông qua các tổ chức bảo lãnh là các công ty CK, NHTM, công ty TC sẽ phân phối rộng rãi trái phiếu Chính Phủ đến các nhà đầu tư. Hiện nay đã có 20 đơn vị được công nhận là thành viên bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính Phủ, gồm: 14 NHTM và 6 công ty CK, TPCP được phát hành dưới hình thức ghi sổ hoặc chứng chỉ, chứng chỉ trái phiếu không ghi tên và in sẵn mệnh giá mục đích nhằm huy động nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho NSNN. Thông qua kênh phát hành này, Bộ Tài Chính đã tạo ra được một khối lượng hàng hóa có chất lượng cao đáp ứng đủ các yêu cầu kỹ thuật để được niêm yết và giao dịch tại SGDCK Tp.HCM TPCP do KBNN phát hành qua bảo lãnh từ năm 2000 đến tháng 9/2007 là 115 đợt với giá trị bảo lãnh phát hành là 33.927 tỷ đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2007, TPCP được KBNN phát hành qua bảo lãnh là 17 đợt với tổng giá trị 6.951 tỷ đồng. TPCP do Quỹ HTPT phát hành qua bảo lãnh từ năm 2002 đến 9/2007 là 218 đợt với tổng giá trị 49.859 tỷ đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2007, số đợt bảo lãnh phát hành là 34 đợt với tổng giá trị 23.895 tỷ đồng. Thông qua kênh bảo lãnh phát hành, kho bạc Nhà nước đã huy động được hàng nghìn tỷ đồng nguồn vốn dài hạn cho NSNN và cho đầu tư phát triển. TPCP phát hành qua TTGDCK đã góp phần bổ sung một lượng hàng hóa lớn cho thị trường TPCP nói riêng và TTCK nói chung trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô hoạt động. Thị trường bảo lãnh phát hành ngày càng được hoàn thiện và phát triển, trở thành điểm hẹn hấp dẫn giữa nhà phát hành trái phiếu với nhà đầu tư, thông qua thị trường này kho bạc nhà nước có thể ước lượng được cung cầu vốn trên thị trường với độ tin cậy cao, bám sát được diễn biến của lãi suất trên thị trường vốn từ đó tham mưu cho lãnh đạo Bộ Tài Chính trong việc lựa chọn phương án bảo lãnh phát hành, đảm bảo hài hòa lợi ích và quyền lợi giữa chủ thể phát hành và các nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán. Thông qua việc công khai minh bạch thông tin liên quan đến phương thức bảo lãnh phát hành, TPCP đã giúp các nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết về thời điểm phát hành, khối lượng phát hành và thời gian đáo hạn của TPCP để từ đó các nhà đầu tư có kế hoạch sử dụng và phân bổ nguồn vốn đầu tư có hiệu quả hơn. c- Tình hình bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước: _ Trái phiếu bán lẻ kỳ hạn 2 năm: Qua kinh nghiệm của đợt phát hành thí điểm trái phiếu kỳ hạn 3 năm (1994) không hiệu quả, năm 1995, Kho bạc Nhà nước đã thay đổi bằng các phát hành trái phiếu chỉ với kỳ hạn 1 năm. Tuy nhiên, sau 2 năm phát hành loại trái phiếu này đã cho thấy nó không thể đáp ứng được yêu cầu về huy động vốn phục vụ cho đầu tư phát triển. Do vậy, để khắc phục nhược điểm này, tháng 6/1999 cho đến nay Kho bạc Nhà nước đã chuyển hẳn sang tổ chức phát hành loại trái phiếu có thời hạn 2 năm có ghi tên và không in trước mệnh giá, bán cho các đối tượng là người Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc và sinh sống ở Việt Nam; Các tổ chức tín dụng hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng; Các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư hoạt động hợp pháp tại Việt Nam,các chi nhánh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế. Điều này đã cho phép kho bạc Nhà nước có thể huy động một khối lượng vốn với thời gian hợp lý và tạo điều kiện cho việc sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước được kéo dài. Tính từ năm 2000 – 2004, kho bạc Nhà nước đã huy động được 18.960 tỷ đồng với kỳ hạn 2 năm với lãi suất năm 2000: 8,9 - 10,5%/năm; 2001: 6.8 - 7.0%/năm; 2002: 7,1 – 7,4%.năm; 2003 – 2004: 8,2 - 8,4%/năm. Bảng 2.3: Kết quả huy động trái phiếu kho bạc bằng hình thức bán lẻ giai đoạn 2000 - 2004 Năm Lãi suất Khối lượng huy động ( tỷ đồng) 2000 8,9 – 10,5 4.316 2001 6,8 – 7,0 2.667 2002 7,1 – 7,4 4.117 2003 8,2 – 8,4 3.254 2004 8,2 – 8,4 4.606 Tổng cộng 18.960 ( Nguồn kho bạc nhà nước ) _ Trái phiếu chiết khấu kho bạc kỳ hạn 5 năm: Để tiếp tục phát triển thị trường vốn trong nước, đồng thời với mục đích tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt Nam, bắt đầu từ ngày 16/4 đến ngày 15/6/2001, kho bạc Nhà nước đã tiến hành phát hành thí điểm trái phiếu chiết khấu kỳ hạn 5 năm với lãi suất 7,2 %/năm tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là loại trái phiếu không ghi tê, in sẵn mệnh giá, quy định thống nhât ngày phát hành và ngày đến tới hạn thanh toán. Trái phiếu này đã được niêm yết và giao dịch tại SGDCK Tp.HCM. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: giá ngoại tệ và giá bất động sản có biến động lớn, tâm lý người dân thích đầu tư vào cổ phiếu vì lợi tức cao, cơ chế lãi suất chưa tạoneen sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư... dẫn đến giá trị huy động của đợt phát hành không được như mong muốn. Trong thời gian đó, giá trị huy động chỉ đạt khoảng 50 tỷ đồng. _ Công trái giáo dục: Nhằm mục tiêu phát triển giáo dục – đào tạo, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền, năm 2003 quốc hội, Chính Phủ đã có chủ trương phát hành 2000 tỷ đồng công trái giáo dục để hỗ trợ các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và các tỉnh có nhiều khó khăn thực hiện mục tiêu không còn phòn học ba ca, phòng học tranh tre nứa lá. Từ ngày 5/5/2003, toàn bộ hệ thống kho bạc Nhà nước đã triển khai phát hành công trái giáo dục cũng giống như công trái xây dựng tổ quốc đã phát hành năm 1999. Tuy nhiên, để khắc phục một số hạn chế của đợt phát hành trước và nhằm thu hút vốn có hiệu quả hơn, công trái giáo dục phát hành có 2 loại: in sẵn mệnh giá và không in sẵn mệnh giá. Kết quả toàn đợt thu được 2.580 tỷ đồng, vượt 29% chỉ tiêu được giao. Như vậy, Đối với kênh phát hành trực tiếp TPCP (bán lẻ) qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, số lượng phát hành hành năm không đáng kể, chỉ khoảng 2.000 tỷ đồng mỗi năm với kỳ hạn ngắn, chủ yếu là 02 năm. KBNN đã thực hiện kế hoạch từng bước giảm dần kênh bán lẻ qua hệ thống KBNN. Từ đầu năm 2007 đến nay không thực hiện phát hành theo hình thức này. d - Trái phiếu công trình trung ương và trái phiếu công trình giao thông thủy lợi Trái phiếu công trình TW: bắt đầu từ năm 2000 trở lại đây, theo quy định trái phiếu công trình trung ương được phát hành qua các kênh như : đấu thầu trên trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Như vậy, các công trình sẽ được huy động vốn dài hạn hơn, chi phí thấp hơn.Tuy đã có quy định mới về trái phiếu Chính Phủ và trái phiếu chính quyền địa phương cũng như trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh , những việc huy động vốn cho các công trình đã được phê duyệt dù là của địa phương vẫn được coi là nguồn huy động từ trái phiếu Chính Phủ. Kết quả, từ năm 2000 đến hết năm 2004, tổng giá trị huy động được cho trái phiếu công trình để thực hiện nốt kế hoạch đề ra đạt khoảng 300 tỷ đồng. Trái phiếu giao thông thủy lợi: Trong 2 năm 2003 – 2004, được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tài Chính, hệ thống kho bạc Nhà nước dã tổ chức phát hành 2 đợt trái phiếu huy động vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia thuộc lĩnh vực giao thông, thủy lợi trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, được phát hành qua cả 3 phương thức : bán trực tiếp ra công chúng qua hệ thống kho bạc Nhà nước, đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành. Việc phát hành trái phiếu giao thông thủy lợi có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế và chính trị, được các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương đặc biệt quan tâm phối hợp chỉ đạo và tích cực hưởng ứng nên chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được khối lượng vốn khá lớn đáp ứng kịp thời nhu cầu giải ngân vốn đầu tư. Đợt 1: từ 15/10/2003 – 15/12/2003, tổng khối lượng trái phiếu phát hành bằng đồng Việt Nam là 4.505 tỷ đồng, bằng đô la Mỹ là 33.034.000 USD. Đợt 2: từ 15/4/2004 – 15/6/2004, tổng khối lượng trái phiếu phát hành bằng đồng Việt Nam là 2.067 tỷ đồng, bằng đo la Mỹ là 43.665.000 USD. Đây là các đợt phát hành trái phiếu công trình có quy mô lớn nhất và có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định quan điểm đúng đắn của Chính Phủ trong việc sử dụng trái phiếu Chính Phủ để huy động các nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển. 2.2.2. Thị trường giao dịch TPCP 2.2.2.1. Khung pháp lý điều chỉnh: Trước tháng 11/2003, Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính Phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán là văn bản pháp quy cao nhất trong lĩnh vực chứng khoán, trong đó hoạt động giao dich trái phiếu được thực hiện theo cả hai phương thức là giao dịch khớp lệnh và giao dịch thỏa thuận. Đồng thời, Nghị định số 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 quy định việc phát hành TPCP theo phương thức đấu thầu qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Hiện nay hoạt động đấu thầu và giao dịch TPCP trên TTGDCK được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy sau: - Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về phát hành TPCP, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương được ban hành thay thế Nghị định 01 trước đây cũng tạo cơ chế khuyến khích phát hành huy động vốn qua trái phiếu. - Thông tư 21/2004/BTC ngày 24/03/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn việc đấu thầu TPCP, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán giao dịch tập trung. Liên quan tới hoạt động giao dịch TPCP trên các TTGDCK bao gồm các văn pháp pháp quy hiện hành sau: - Luật Chứng khoán, số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán; - Quy chế giao dịch chứng khoán tại Sở GDCK Tp. HCM và Quy chế giao dịch chứng khoán của TTGDCK Hà Nội. - Công văn số 244/UBCK-PTTT ngày 30/7/2004 của UBCKNN đồng ý triển khai phương thức giao dịch mới cho trái phiếu niêm yết trên TTGDCK TP.HCM, theo đó: chỉ thực hiện giao dịch thỏa thuận đối với trái phiếu và không giới hạn khối lượng giao dịch, biên độ dao động giá, đơn vị giao dịch cũng như đơn vị yết giá đối với trái phiếu. - Quyết định số 244/QĐ-BTC ngày 20/01/2005 của Bộ Tài Chính ban hành Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội; - Quyết định số 245/QĐ-UBCK ngày 4/5/2005 của Chủ tịch UBCKNN ban hành hướng dẫn quy định đăng ký, giao dịch chứng khoán và công bố thông tin bất thường của tổ chức đăng ký giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội; - Quyết định số 323/QĐ-UBCK ngày của UBCKNN về việc sửa đổi Quyết định 245/QĐ-UBCK về quy định giao dịch tại TTGDCK Hà Nội; Hiện nay, giao dịch TPCP trên Sở GDCK TPHCM được thực hiện theo phương thức thoả thuận, yết giá theo lãi suất; còn trên TTGDCK Hà Nội có thể thực hiện theo cả phương thức thoả thuận và báo giá, yết giá theo giá và theo lãi suất. Tất cả các nhà đầu tư đều có thể tham gia giao dịch trên thị trường thông qua các thành viên môi giới trên thị trường. 2.2.2.2. Thành viên tham gia Về thành viên trên Sở GDCK TPHCM: Thành viên trên hệ thống giao dịch trái phiếu của SGDCK Tp.HCM là các công ty chứng khoán, đồng thời là các thành viên giao dịch TPCP trên Sở GDCK TPHCM. Hiện nay có 76 công ty chứng khoán thành viên, trong đó thành viên có số vốn điều lệ thấp nhất là 9 tỷ đồng và cao nhất là 1200 tỷ. Đối tượng tham gia giao dịch TPCP chủ yếu trong giai đoạn 2001-2002 là ngân hàng thương mại (chiếm 94% khối lượng mua vào) và công ty chứng khoán (chiếm khoảng trên 90% khối lượng bán), các đối tượng khác như công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và công ty tài chính hầu như chưa tham gia vào thị trường hơặc chỉ tham gia với tỷ trọng rất thấp. Từ năm 2003 đến nay, các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các đối tượng khác đã tích cực và chủ động hơn trong việc tham gia giao dịch TPCP, tuy nhiên ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán vẫn là hai đối tượng tham gia tích cực nhất (chiếm khoảng 50% tổng khối lượng giao dịch). Tuy tỷ trọng giao dịch của quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty taì chính chỉ chiếm tỷ trọng giao dịch dưới 10% nhưng đây là tín hiệu khả quan chứng tỏ sự quan tâm của các nhà đầu tư có tổ chức ngoài ngân hàng và công ty chứng khoán vào thị trường TPCP (số liệu trong bảng 2.4). Bảng 2.4: Đối tượng giao dịch TPCP Đối tượng 2003 2004 2005 6/2006 % KL mua % KL bán % KL mua % KL bán % KL mua % KL bán % KL mua % KL bán Ngân hàng 35,49 17,68 34,05 32,67 43,47 40,33 38,63 42,58 Cty chứng khoán 24,56 78,51 43,78 63,43 46,38 53,94 48,63 51,44 Quỹ đầu tư 0,83 - 2,12 1,76 5,9 2,28 9,16 1,38 Cty bảo hiểm 35,07 0,96 17,75 0,08 2,64 1,25 3,1 4,27 Cty tài chính 3,98 2,77 0,39 0,82 0,5 0,52 0,32 0,16 Khác 0,07 0,08 1,91 1,24 1,11 1,68 0,16 0,17 ( Nguồn: Báo cáo thường niên 2007- TTGDCK Hà Nội ). Về thành viên trên TTGDCK HN: Thành viên trên hệ thống giao dịch trái phiếu của TTGDCK Hà Nội là các công ty chứng khoán, đồng thời là các thành viên giao dịch TPCP trên Sở GDCK TPHCM. Hiện nay, có 77 công ty chứng khoán thành viên. Tất cả các thành viên giao dịch trái phiếu đều được phép thực hiện nghiệp vụ môi giới và tự doanh trái phiếu. Tính tới thời điểm cuối tháng 9/2007, mới có 23/57 công ty triển khai hoạt động kinh doanh trái phiếu. Trong tổng số 160 loại trái phiếu đang niêm yết, thành viên chỉ có giao dịch đối với 76 loại TPCP. Các trái phiếu còn lại hoàn toàn không có giao dịch kể từ khi được niêm yết tính tới thời điểm cuối tháng 9/2007. Số lượng các giao dịch trái phiếu thông qua các thành viên của Trung tâm Hà Nội chưa vượt quá 482 giao dịch tính tới cuối tháng 9 /07. Phần lớn các giao dịch này là của các tổ chức đầu tư (ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm). Nhận xét chung Nhìn chung, các thành viên tham gia giao dịch TPCP trên TTGDCK Hà Nội cũng đồng thời là các thành viên giao dịch TPCP trên Sở GDCK TpHCM. Hiện tại, chỉ có một số ít thành viên tham gia giao dịch trái phiếu trên TTGDCK Hà Nội. Giao dịch trái phiếu của các thành viên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên tổng giao dịch chứng khoán của chính các thành viên có giao dịch tại TTGDCK Hà Nội. Các giao dịch trái phiếu của thành viên chỉ tập trung vào một số loại TPCP niêm yết, tần suất giao dịch thấp. Đối tượng tham gia giao dịch TPCP chưa đa dạng, đặc biệt nhà đầu tư nước ngoài (nhất là các nhà đầu tư có tổ chức) chưa quan tâm nhiều đến giao dịch TPCP. Ngoài ra, giao dịch trái phiếu đòi hỏi một lượng vốn lớn và chỉ có những nhà đầu tư có tổ chức mới có đủ năng lực tài chính để tham gia, trong khi đó nhà đầu tư có tổ chức tại thị trường thứ cấp còn ít. Đối với một số thành viên đấu thầu trái phiếu, việc mua trái phiếu chủ yếu phục vụ cho mục đích nắm giữ lâu dài chứ không phải để kinh doanh. Một số ngân hàng mua TPCP làm dự trữ bắt buộc nên tỷ lệ trái phiếu được giao dịch sau khi mua trên thị trường sơ cấp còn thấp. Thêm vào đó, số thành viên tham gia vào các đợt đấu thầu và bảo lãnh phát hành TPCP rất hạn chế về số lượng (mỗi đợt phát hành chỉ có khoảng 4 thành viên tham gia) và hạn chế về vốn cũng như kinh nghiệm; giá trị từng đợt phát hành tương đối nhỏ, manh mún và tỷ lệ phát hành thành công chưa cao. Hiện nay điều kiện để trở thành thành viên đấu thầu và bảo lãnh phát hành tương đối dễ dàng nhưng chúng ta chưa có những quy định để ràng buộc trách nhiệm tham gia của thành viên trong tất các đợt đấu thầu hoặc bảo lãnh. Điều này không chỉ gây khó khăn cho công tác phát hành mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường giao dịch thứ cấp. 2.2.2.3. Thực trạng hoạt động thị trường giao dịch TPCP (a) Sở GDCK TpHCM Hoạt động giao dịch TPCP tại Sở GDCK Tp.HCM có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn 2000-2002: Trong giai đoạn này TPCP là hàng hóa niêm yết chủ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20337.doc
Tài liệu liên quan