LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình gia nhập WTO đã tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân thì vấn đề lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tối đa hoá lợi nhuận ngày càng diễn ra gay gắt và quyết liệt hơn bao giờ hết. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luô
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty TNHH Thiết bị bán dẫn và đo lường điều biến độ rộng xung Phát Minh - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chiếm vị thế nhất định so với các doanh nghiệp Việt Nam về nguồn lực tài chính, về khoa học công nghệ và về công tác quản lý…. Bên cạnh đó là những khó khăn nhất định, các doanh nghiệp muốn xâm nhập sâu, rộng vào thị trường Việt Nam buộc phải hiểu kỹ hơn về môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, về văn hoá xã hội để thấy được thị hiếu của người Việt. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối các thiết bị công nghiệp thì việc nghiên cứu thị trường Việt Nam là rất quan trọng để có thể đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của mình. Có một chiến lược hợp lý là điều mà các doanh nghiệp luôn luôn mong đợi.
Công ty TNHH Thiết bị bán dẫn và đo lường điều biến độ rộng xung Phát Minh – Chi nhánh Hà Nội là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập vào tháng 09/2006. Đây là nhà phân phối được uỷ quyền tại Việt Nam của hai tập đoàn sản xuất hàng đầu Nhật Bản là YASKAWA ELECTRIC chuyên về biến tần(inverter), bộ điều khiển AC servo và TDK-LAMBDA chuyên về bộ nguồn switching power supply, bộ lọc nhiễu(Noise Filter)… Được thành lập muộn hơn so hai chi nhánh là chi nhánh TP Hồ Chí Minh và chi nhánh Đồng Nai nhưng đây là một đơn vị hạch toán độc lập.Trong 2 năm hoạt động tại thị trường Miền Bắc doanh số của chi nhánh liên tục tăng và đạt chỉ tiêu kế hoạch: Trong năm 2006 doanh thu của chi nhánh là 120 nghìn USD, năm 2007 là 500 nghìn USD đạt 80% chỉ tiêu đề ra. Doanh thu của chi nhánh chiếm 20% doanh thu toàn công ty. Hiện nay, thị phần mà chi nhánh có được tại Miền Bắc là 3%, đây là một con số rất khả quan mà doanh nghiệp có được. Trong chiến lược của mình công ty đã xác định mục tiêu thị phần, thương hiệu, chất lượng dịch vụ tốt là cầu nối giữa doanh nghiệp với khách hàng , vấn đề thoả mãn nhu cầu của khách hàng được đặt nên hàng đầu. Đó là cách để giúp doanh nghiệp tiến đến gần khách hàng hơn nữa.
Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi mà chi nhánh có được thì chi nhánh cũng gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định: Mới xuất hiện tại thị trường Miền Bắc nên vấn đề tìm kiếm khách hàng, đặc biệt là những khách hàng thân thiện là không dễ dàng bởi tạo dựng được lòng tin ở họ là rất khó; hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp thiết bị bán dẫn và đo lường tại khu vực phía Bắc là gần 40 công ty và đang có chiều hướng tiếp tục gia tăng trong thời gian tới; ngoài ra với diễn biến khá phức tạp của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây khiến cho các nhà đầu tư trở nên dè dặt hơn khi quyết định rót vốn vào Việt Nam, nhiều dự án phải kéo dài thêm thời gian cũng là một bất lợi cho chi nhánh khi không thể đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ sản phẩm của mình trong hiện tại và trong tương lai.
Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là mục tiêu hàng đầu của chi nhánh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Qua thời gian thực tập tại công ty em thấy vấn đề tiêu thụ sản phẩm là mối quan tâm lớn nhất của công ty, cùng với nguồn tài liệu thu thập được trong thời gian qua là cơ sở để em chọn vấn đề “ Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty TNHH Thiết bị bán dẫn và đo lường điều biến độ rộng xung Phát Minh- chi nhánh Hà Nội ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các sơ đồ, bảng biểu và phụ lục, bài viết được chia thành 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH thiết bị bán dẫn và đo lường điều biến độ rộng xung Phát Minh – chi nhánh Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH thiết bị bán dẫn và đo lường điều biến độ rộng xung Phát Minh – chi nhánh Hà Nội trong thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH thiết bị bán dẫn và đo lường điều biến độ rộng xung Phát Minh – chi nhánh Hà Nội.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và những điều kiện khác trong quá trình thực tập tại doanh nghiệp nên bài viết của em còn nhiều hạn chế. Em mong nhận được sự góp ý kiến của các anh chị trong phòng kế hoạch của doanh nghiệp, các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Thanh Hà trong suốt thời gian qua để em có thể hoàn thiện bài viết này!
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY TNHH THIẾT BỊ BÁN DẪN VÀ ĐO LƯỜNG ĐIỀU BIẾN ĐỘ RỘNG XUNG PHÁT MINH – CHI NHÁNH HÀ NỘI
1.1. CÁC VẤN ĐỀ VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM:
1.1.1.Khái niệm:
1.1.1.1.Thị trường:
Theo quan niệm Marketing thị trường là nơi diễn ra các cuộc trao đổi giữa người mua và người bán. Người mua là người có mong muốn, có khả năng mua và sẵn sàng mua một sản phẩm nào đó. Người bán là người có khả năng cung ứng và sẵn sàng cung ứng một sản phẩm nào đó.Như vậy, quy mô của thị trường là phụ thuộc vào cầu của người tiêu dùng. Khi cầu của người tiêu dùng về một sản phẩm nào đó là cao ( cầu về lương thực thực phẩm, cầu về đồ dùng cá nhân…) thì quy mô của thị trường sẽ được mở rộng. Và ngược lại, quy mô thị trường sẽ bị thu hẹp khi những nhu cầu đó giảm đi đáng kể.
1.1.1.2. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm:
Có rất nhiều quan điểm về đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Mỗi quan điểm đều đưa ra một cách nhìn nhận khác nhau về công tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.Xét trên góc độ kinh tế thì đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm bao gồm nhiều khâu khác nhau như dự báo sự phát triển của thị trường, nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa chủng loại và mẫu mã sản phẩm, xác lập các kênh phân phối đến người tiêu dùng…Sự phối hợp giữa các khâu này là hết sức nhịp nhàng. Việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm không chỉ xuất hiện và đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn cuối của quá trình sản xuất kinh doanh mà nó còn giúp doanh nghiệp có được mục tiêu chính xác trong quá trình lập kế hoạch bán hàng cho giai đoạn sau. Để có thể đẩy mạnh được công tác tiêu thụ sản phẩm thì việc nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng là hết sức quan trọng. Nó giúp doanh nghiệp biết được mình nên làm gì để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Như chúng ta đã biết chu kỳ sống của một sản phẩm gồm 4 giai đoạn khác nhau: giai đoạn giới thiệu, giai đoạn phát triển, giai đoạn chín muồi và giai đoạn suy thoái.Mức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ đạt mức cao nhất trong giai đoạn chín muồi và bắt đầu sụt giảm lớn trong giai đoạn suy thoái. Khi đó buộc doanh nghiệp sẽ phải đưa ra quyết định thải loại hàng để đưa ra sản phẩm mới hay giữ lại sản phẩm nhưng tập trung vào việc tìm kiếm thị trường mới cho sản phẩm đó. Ở thị trường mới, chu kỳ sống của sản phẩm đó sẽ được kéo dài hơn.
1.1.2. Đặc điểm của thị trường:
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở. Khi ra nhập WTO các doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi hơn bởi môi trường cạnh tranh trở nên bình đẳng hơn và lành mạnh hơn( cùng với những thuận lợi là khó khăn nhất định khi mà nền kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. Các tập đoàn, các tổ chức đa quốc gia sẽ tiến hành tìm kiếm và xâm nhập vào thị trường mới ). Đối với các doanh nghiệp chuyên nhập khẩu linh kiện, thiết bị được sản xuất từ nước ngoài thì sẽ giảm được chi phí nhập khẩu với mức thuế suất đánh vào hàng hoá đó đã giảm đi đáng kể, cùng với đó là sự phá bỏ dần của các hạn ngạch nhập khẩu. Doanh nghiệp nước ngoài cũng thuận lợi hơn khi đầu tư vào thị trường Việt Nam bởi chính sách mở cửa đầu tư ngày càng hoàn thiện và thông thoáng hơn( khuyến khích đầu tư ). Chính điều đó đã gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam .
Thị trường luôn luôn diễn biến đầy phức tạp, khó dự đoán nên khi quyết định đầu tư vào đâu các doanh nghiệp phải tìm hiểu thật kỹ yếu tố kinh tế, xã hội, nhu cầu của chính cư dân sống trong vùng đó.
1.1.3. Phân loại thị trường:
1.1.3.1. Phân theo địa lý:
Tùy theo quy mô và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn vùng địa lý cho mình. Một doanh nghiệp có thể hoạt động trong một vùng địa lý nhỏ hẹp nào đó( tỉnh, thành phố), một khu vực rộng lớn hơn( Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam), một quốc gia( Việt Nam, Lào, Trung Quốc…) hay mở rộng mạng lưới sang nhiều quốc gia khác tùy theo quy mô, tuỳ theo tính chất sản phẩm mà mình có. Khi quyết định chọn đâu là thị trường mục tiêu, doanh nghiệp cần phải hiểu thật rõ yếu tố chính trị- xã hội của khu vực đó( môi trường chính trị, Pháp luật có thuận lợi doanh nghiệp mới tránh được mức độ rủi ro lớn trong kinh doanh ); doanh nghiệp cần phải hiểu thu nhập, nhu cầu, tâm lý… của khách hàng tại chính thị trường đó. Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng để doanh nghiệp quyết định nên đầu tư vào đâu đó là địa hình. Ở những vùng có mạng lưới giao thông phát triển sẽ tập trung rất nhiều doanh nghiệp hoạt động ở đó, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn. Ngược lại, những vùng mà khó khăn cho công tác vận chuyển sẽ có ít các khu công nghiệp hơn, các doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc nhiều bởi chi phí vận chuyển là khá lớn. Ví dụ: những hãng sản xuất ôtô như Toyota, Ford…thì khách hàng mà họ hướng tới đó là những người có thu nhập cao nên các đại lý của họ thường đặt tại các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... Còn đối với các hãng sản xuất hàng hoá thông thường như hãng chuyên sản xuất thức ăn cho gia súc như hãng Con Cò thì thị trường mà nó hướng tới là các vùng nông nghiệp, nơi mà có đến gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
1.1.3.2. Phân theo yếu tố tâm lý:
Yếu tố tâm lý là vô cùng quan trọng. Nó giúp doanh nghiệp xác định một cách chính xác khách hàng mà mình hướng tới là ai?.Người mua được chia ra thành những nhóm khác nhau bởi họ thuộc những tầng lớp khác nhau, bởi lối sống, trào lưu và thị hiếu của họ khác nhau. Ta thấy, các tầng xã hội là khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, uy tín xã hội cũng như một số khác biệt về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử giao tiếp và thị hiếu…nên sản phẩm mà họ hướng tới có sự khác biệt. Độ tuổi cũng tạo ra sự nhìn nhận khác nhau với sản phẩm( điều này đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm thời trang ). Một ví dụ cho sự tác động của yếu tố tâm lý là thị trường xe máy, những người có thu nhập thấp và trung bình thường mua những dòng xe như Wave( wave S, wave RS…), Dream… bởi họ thích độ bền và tính tiết kiệm nhiên liệu của nó. Những người có thu nhập cao thường chọn dòng xe như Spacy, Vespa, SH, Air blade… bởi nó thể hiện đẳng cấp của họ. Những hãng thời trang thường rất chú trọng đến trào lưu, thị hiếu của người tiêu dùng. Thị hiếu được hiểu là: Một kiểu cách, một mô hình hay một mốt nào đó trong lối sống mà lôi cuốn được một số đông người theo nó trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Thị hiếu khiến cho cuộc sống của mỗi người trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn bởi chính sự khác biệt mà nó đem lại cho người tiêu dùng. Thị hiếu hiện nay thường có hai cấp mà các nhà sản xuất kinh doanh cần phải quan tâm, khai thác và khuếch trương nó để thoả mãn các nhu cầu ngày càng trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn của xã hội: thị hiếu có chọn lọc và thị hiếu không chọn lọc. Đối với những người theo thị hiếu có chọn lọc thì họ đòi hỏi chất lượng của sản phẩm, mẫu mã, chủng loại hơn là giá cả mà nhà sản xuất đưa ra chào bán. Đối thị hiếu không chọn lọc mang tính chất đua đòi, a dua là chính. Thị hiếu này dễ khai thác thông qua quảng cáo rộng khắp.Đối với ngành thời trang, chu kỳ sống của sản phẩm thường ngắn bởi sự thay đổi liên tục của thị hiếu.
1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1.Môi trường vĩ mô:
- Khái niệm:
Như chúng ta đã biết môi trường vĩ mô là những nhân tố nằm ngoài ngành nhưng lại có sức ảnh hưởng lớn đến mức cầu của ngành đó và qua đó tác động đến lợi nhuận của công ty trong suốt quá trình hoạt động. Những nhân tố này biến động không ngừng tạo ra những cơ hội và thách thức với doanh nghiệp. Thấy được tầm quan trọng của các nhân tố vĩ mô, các doanh nghiệp cần có công tác dự báo thật chính xác sự biến động của môi trường vĩ mô để có một chiến lược hợp lý cho chính mình.
Sơ đồ 1: Sơ đồ môi trường vĩ mô để phân tích:
Các DN nội bộ
Sản phẩm thay thế
Nhà cung cấp
Đối thủ tiềm ẩn
Khách hàng
Kinh tế
Chính trị
Xã hội
Công nghệ
Các DN nội bộ
Sản phẩm thay thế
Nhà cung cấp
Đối thủ tiềm ẩn
Khách hàng
Kinh tế
Chính trị
Xã hội
Công nghệ
Nguồn:Giáo trình CLKD
1.2.1.1.Môi trường kinh tế chính trị:
1.2.1.1.1. Yếu tố kinh tế của môi trường vĩ mô:
1.2.1.1.1.1. Thu nhập:
Thu nhập sẽ quyết định rất nhiều đến địa vị kinh tế, địa vị xã hội,đến phong cách sinh hoạt, trào lưu, thị hiếu và đến lối sống của mỗi cá nhân. Mỗi người ngoài nhu cầu vật chất thì còn nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất là nhu cầu cơ bản mà mỗi cá nhân, cá nhân chỉ có thể sống và tồn tại khi được đáp ứng một mức nào đó của nhu cầu vật chất. Nhu cầu tinh thần sẽ được thể hiện rõ nét khi mà thu nhập của họ ngày càng cao( nhu cầu được đi du lịch nhiều hơn, được tiếp cận với dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục có chất lượng…).Khi thu nhập cao, con người ngày càng có nhu cầu sử dụng những loại hàng hoá xa xỉ phẩm nhiều hơn. Khách hàng không chỉ chú trọng đến số lượng sản phẩm mà còn chú trọng đến chất lượng sản phẩm nhiều. Một sản phẩm có 3 cấp độ: Cấp độ ý tưởng( đó là những lợi ích cơ bản mà sản phẩm đó mang lại cho khách hàng của mình ), cấp độ thực hiện ( đó là đặc tính kỹ thuật, là bao gói, chỉ tiêu chất lượng, nhãn hiệu,mẫu mã…), cấp độ bổ sung( các dịch vụ bảo hành, sửa chữa, lắp đặt…).Để sản xuất ra những loại hàng hoá vừa bền, vừa đẹp, nhiều công dụng buộc các xí nghiệp phải đổi mới máy móc, thiết bị( đổi mới công nghệ sản xuất ), kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm hơn.Điều đó đã tạo điều kiện cho các công ty trong ngành sản xuất, cung ứng thiết bị công nghiệp phát triển.
1.2.1.1.1.2. Tỷ lệ lãi suất:
Tỷ lệ lãi suất sẽ tác động khá lớn đến mức cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp.Khi lãi suất tiền gửi mà cao người tiêu dùng sẽ có nhu cầu tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng ít hơn( cắt giảm chi tiêu và gia tăng tiết kiệm ). Đối với những khách hàng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hoá của mình thì sự thay đổi của lãi xuất là vô cùng quan trọng( thị trường nhà cửa, ô tô, trang thiết bị sản xuất…được bán theo phương thức trả chậm, trả góp ).Còn đối với doanh nghiệp khi mà lãi suất tiền vay cao doanh nghiệp sẽ dè dặt hơn khi vay tiền để mở rộng quy mô sản xuất( bởi nếu gặp phải rủi ro trong kinh doanh thì doanh nghiệp khó có khả năng thanh toán các khoản nợ của mình ).Khi lãi suất tiền vay cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí về vốn, về mức đầu tư. Doanh nghiệp phải hết sức thật trọng khi đưa ra chiến lược kinh doanh của mình.Với mỗi mức vay khác nhau( vay 3 tháng, vay 6 tháng, 1 năm…)có một mức lãi suất tiền vay khác nhau.
Trong thời gian qua mức lãi suất huy động từ 12% đã giảm xuống còn 11% kể từ ngày 02 -04 -2008., đây vẫn là một mức lãi suất rất cao. Trong tháng 04-2008, lãi suất cho vay qua đêm ở mức 5%-7%/năm, kỳ hạn 1 tuần là 7%-7.5%/năm, tháng là 9%-10%/năm. Mức lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng là 10.13% với ngân hàng thương mại nhà nước và 11.78% với ngân hàng thương mại cổ phần.Lãi suất cho vay tại khối quốc doanh ngân hàng khoảng 14.6%, trung và dài hạn là khoảng 13.5%-16.2%. Mức lãi suất cho vay đã giảm đi đáng kể.
1.2.1.1.1.3. Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái được hiểu là sự so sánh về giá trị giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền của một quốc gia khác. Hàng hoá trong nước sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn nếu giá trị của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ là thấp hơn. Khi hàng hoá trong nước trở nên dẻ hơn một cách tương đối với hàng hoá nước ngoài thì người tiêu dùng sẽ có nhu cầu mua sắm hàng hoá trong nước hơn. Ngược lại, sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước sẽ sụt giảm khi mà giá trị của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ là gia tăng đáng kể. Đối với các doanh nghiệp mà chi phí sản xuất, doanh thu được tính bằng ngoại tệ ( tính bằng đồng USD, đồng JPY…) thì sự biến động không ngừng giữa USD/ VNĐ, JPY/ VNĐ…làm cho doanh nghiệp khó có thể xác định một cách chính xác được lợi nhuận mà mình có được trong năm là bao nhiêu. Trong thời gian qua, sự biến động khó lường của đồng USD theo chiều hướng xấu đã khiến nhiều doanh nghiệp ngưng mở rộng quy mô sản xuất, nhiều dự án phải kéo dài thêm thời gian bởi chi phí vật liệu xây dựng tăng lên một cách đột ngột khiến cho các nhà thầu lo ngại.
1.2.1.1.1.4. Tỷ lệ lạm phát:
Lạm phát có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của một nền kinh tế. Với những nền kinh tế đang trong thời kỳ của sự phát triển nhanh rất dễ gặp phải lạm phát. Lạm phát khiến cho giá trị của đồng tiền biến đổi không lường và tỷ lệ lãi suất liên tục tăng theo thời gian. Chính điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Lạm phát cao làm cho việc đầu tư trở nên may rủi hơn bao giờ hết. Một quốc gia có mức lạm phát cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì đương nhiên quốc gia đó tăng trưởng là âm.Trong năm 2007, Việt Nam tăng trưởng là 8.5% còn lạm phát là 12.3%. Theo thống kê, trong quý I của năm 2008 tốc độ tăng của GDP là gần 7.4%, trong khi đó lạm phát cao. Giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng 2.91% so tháng trước. So với tháng 12/2006 giá năm 2007 tăng 12.63%, giá tiêu dùng bình quân năm 2007 tăng so năm 2006 là 8.3%. Giá tiêu dùng trong tháng 3 năm 2008 đã tăng 9.19% so với tháng 12 của năm 2007. Trong năm 2007 nước ta tiếp tục phát triển ổn định theo chiều hướng tích cực và hội nhập ngày càng sâu rộng và đầy đủ hơn. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn tự do thương mại sẽ được đẩy nhanh hơn. Thương mại thế giới tiếp tục phát triển, môi trường phát triển thuận lợi cho đầu tư,lưu chuyển hàng hoá.Trong năm 2007, vốn đầu tư nước ngoài tăng khá ước đạt khoảng20.3 tỷ USD tăng 69.3% so năm 2006 và vượt 56.3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17.86 tỷ USD.Chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi mà các doanh nghiệp đã trở nên dè dặt hơn trong việc đầu tư càng đẩy nền kinh tế vào tình trạng kém phát triển và bất ổn định về chính trị và ở một mức độ nào đó nền kinh tế sẽ bị suy thoái. Khi nền kinh tế trở nên bất ổn về kinh tế dẫn đến bất ổn về chính trị.
1.2.1.1.2.Yếu tố chính trị của môi trường vĩ mô:
1.2.1.1.2.1. Về chính sách:
Các chính sách mà một quốc gia đặt ra có thể đem lại những thuận lợi cũng như khó khăn đối với doanh nghiệp.Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp nước ngoài trước khi quyết định có nên đăng kí hoạt động kinh doanh hay không họ phải có những xem xét rất kỹ lưỡng về cơ chế, chính sách mà chính phủ của quốc gia đó đề ra( những quy định của chính phủ về sử dụng lao động, về thuế thu nhập doanh nghiệp….). Một chính sách cần có đầy đủ 3 tính: Tính đúng đắn của chính sách, tính ổn định của chính sách và tính kịp thời của chính sách.
- Tính đúng đắn của chính sách:
Tất cả các chính sách mà chính phủ ban hành khi đưa vào cuộc sống đều tạo ra những ảnh hưởng nhất định. Vì vậy, khi ban hành một chính sách nào đó cần tìm hiểu và nghiên cứu một cách kĩ lưỡng tính đúng đắn của nó. Độ nhạy bén của chính sách sẽ quyết định đến mức độ ảnh hưởng mà chính sách mang đến. Một chính sách tốt và đúng đắn sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển như chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một trong những vấn đề mà DNV&N mong muốn đó là có một cơ chế tài chính hỗ trợ. Do đặc điểm của loại hình doanh nghiệp mà các doanh nghiệp này thường thiếu vốn của ngân hàng do thiếu tài sản thế chấp. Chính phủ có thể tiến hành các hình thức trợ giúp các doanh nghiệp như xây dựng các quỹ bảo lãnh tín dụng hoặc dựa vào hiệu quả dự án kinh doanh mà coi như đó là tài sản thế chấp. Mức thuế suất đối với các doanh nghiệp này cũng được áp dụng một cách hợp lý để các doanh nghiệp có thể phát triển tốt.
Một chính sách khác như chính sách thuế. Ở Việt Nam hiện nay có 10 sắc thuế: Thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất - nhập khẩu, thuế thu nhập của doanh nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, thuế tài nguyên, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Việc đánh thuế cần dựa trên những nguyên tắc nhất định của nó: tính công bằng và tính hiệu quả.Công bằng được thể hiện ở công bằng ngang và công bằng dọc. Điều này sẽ tạo ra tính hợp lý và những người chịu thuế cảm thấy công bằng hơn khi thực hiện nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Tính hiệu quả được thể hiện ở chỗ đánh mức thuế suất khác nhau đối với các loại hàng hoá khác nhau( mức thuế suất cao đối với các loại hàng hoá có mức cung và cầu ít co giãn như: rượu, thuốc lá, đất đai…Nhưng cũng cần phải chú ý, đối với sản phẩm có cầu ít co giãn như lương thực nếu đánh thuế cao sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu và mức sống của số đông dân cư; mức thuế suất thấp hơn với các loại hàng hoá mà có cung và cầu co giãn lớn )
- Tính kịp thời của chính sách:
Một chính sách được ban hành đúng thời điểm sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển của KT – XH của một quốc gia. Một ví dụ cho tính kịp thời của chính sách là vấn đề lạm phát: Một trong những thành công lớn của đất nước trong thời kỳ đổi mới là đã khống chế và đẩy lùi được mức lạm phát kỷ lục. Năm 1986, mức lạm phát là 714% và kéo dài trong suốt 2 năm tiếp theo( đây là mức lạm phát kỷ lục từ trước đến thời điểm 1986). Năm1989, Chính phủ đã ban hành một loạt các chính sách nhằm kiềm chế lạm phát. Từ 03/1989, ngân hàng tiến hành nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn chỉ số lạm phát hàng tháng. Nếu như tháng 1 và tháng 2 năm 1989 chỉ số giá chỉ tăng lần lượt là 7.4% và 9.2% thì lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng và không kỳ hạn đã được điều chỉnh lên đến 12% và 9%.Biện pháp đó đã thu hút được số tiền thừa trong dân, số dư tiền gửi tiết kiệm tăng lên nhanh chóng và nó đã làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách lãi suất thực dương đã làm cho cán cân thanh toán ngoại tệ bắt đầu có khả năng dự trữ ngoại tệ. Mức phát hành tiền giấy đã giảm và lạm phát đã được kiềm chế phần nào( tỷ lệ lạm phát chỉ còn 34.8% vào năm 1990).
- Tính ổn định của chính sách:
Chính sách khi ban hành phải có tính ổn định bởi khi ban hành một chính sách nào đó thì các công dân phải có thời gian nhất định để có thể thích ứng với chính sách đó.
1.2.1.1.2.2. Về vai trò của chính phủ:
Chính phủ có vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế.Trong lịch sử hiện đại, chính phủ đóng vai trò ngày càng nhiều. Khi mở rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước bởi những khuyết tật mà thị trường gặp phải..Trong nền kinh tế thị trường chính phủ có 4 chức năng cơ bản: phân bổ nguồn tài nguyên hợp lý, phân phối lại thu nhập, xác định các chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thiết lập hệ thống pháp luật. Chính phủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có thể hoạt động tốt và phát huy một cách tối đa năng lực của mình. Đồng thời, chính phủ cũng đưa ra những định hướng cơ bản cho nền kinh tế nên ưu tiên những gì trong từng thời kỳ nhất định. Chính phủ sẽ điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ của mình như: Thuế, tín dụng, trợ giá…Chính phủ sẽ tiến hành điều tiết thông qua việc ban hành các hệ thống chính sách và điều hành chính sách đó.
- Ban hành hệ thống các chính sách:
Chính phủ sẽ ban hành các chính sách để điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chính sách mà chính phủ ban hành sẽ tạo ra ảnh hưởng nhất định đối với một doanh nghiệp, có thể là ảnh hưởng tích cực như chính sách khuyến khích xuất khẩu với mức thuế suất thấp.. hoặc tiêu cực như tiến hành đánh thuế môi trường( điều này ảnh hưởng lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất như: nhà máy sản xuất giấy, sợi…mức độ ô nhiễm mà nhà máy này gây ra là lớn.Nhưng xét cho cùng thì những chính sách đó đều đem lại mục đích tốt đẹp cho xã hội như việc đánh thuế môi trường buộc các doanh nghiệp phải tìm cách lượng phế thải của mình hoặc thay đổi công nghệ, dây chuyền sản xuất của mình.
- Điều hành chính sách:
Khi chính sách được ban hành, chính phủ sẽ tiến hành điều hành chính sách đó. Việc điều hành chính sách nhằm giúp doanh nghiệp kiểm soát được mức độ thực hiện của các doanh nghiệp, mặt khác nó giúp cho chính phủ thấy được tính hiệu quả mà chính sách đó mang lại( thông thường một chính sách khi ban hành theo thời gian sẽ bộc lộ nhiều thiếu xót và chính phủ phải tiến hành sửa đổi, bổ sung ).
1.2.1.2. Môi trường luật pháp:
Môi trường pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường nào đó buộc phải tuân thủ pháp luật mà quốc gia đó đặt ra( đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư của nước ngoài thì việc tìm hiểu thật kỹ về môi trường pháp luật là điều được đặt lên hàng đầu ).
1.2.1.2.1. Cải cách hành chính:
Công tác cải cách hành chính mà trước hết là các thủ tục hành chính đã có tiến bộ nhất định:tiến hành đơn giản hoá các thủ tục, tăng cường phân cấp giải quyết công việc cho doanh nghiệp và nhân dân như đăng kí kinh doanh, chứng nhận quyền sử dụng nhà đất…Tuy nhiên đây vẫn là một khâu yếu, cải cách hành chính còn chậm chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh kế. Tình trạng lợi dụng chức quyền, nhũng nhiễu gây phiền hà cho doanh nghiệp. Trong thời gian tới chính phủ tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công tác cải cách hành chính.
1.2.1.2.2. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân:
Môi trường pháp luật không chỉ để cải cách hành chính, cải thiện môi trường pháp lý mà còn để phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Việc thường xuyên sửa đổi Luật doanh nghiệp đã đem đến sự công bằng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân. Hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách về kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn tạo điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp bình đẳng hơn trong kinh doanh. Nhà nước tiến hành cắt giảm thuế đối hàng công nghiệp, thuế bình quân giảm trong vòng 4-6 năm tới còn 12,6%. Trong Luật DN của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005 với 10 chương và 172 điều đã quy định về doanh nghiệp, quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và DNTN thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau.
Thực tế trong 4 năm tiến hành đổi mới Luật DN (2003-2006) đã thu được những kết quả đáng khích lệ như:
- Về cơ bản, công dân được quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm, giải phóng được tư duy, sáng tạo về ý tưởng kinh doanh, tạo ra sự thay đổi tích cực trong quan niệm xã hội về doanh nghiệp, củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư.
- Đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, bãi bỏ hàng trăm giấy phép kinh doanh và quy định pháp luật không phù hợp về điều kiện kinh doanh và thiết lập một hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh Nghiệp đã tạo bước đột phá về cải cách hành chính góp phần nâng cao tính thống nhất, nhất quán và bình đẳng.
- Tạo sân chơi bình đẳng không phân biệt đối xử đối các loại hình doanh nghiệp dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp.
- Phát triển đáng kể sức cạnh tranh, một nhân tố không thể thiếu trong nền KTTT đặt ra yêu cầu thúc đẩy phát triển không chỉ thị trường sản phẩm, dịch vụ mà còn thị trường khác.
- Quyền tự do kinh doanh được thừa nhận và bảo đảm kết hợp với thay đổi tích cực của hệ thống pháp luật về kinh doanh tạo điều kiện tích cực để chủ động hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều hạn chế cần giải quyết:
+ Tác động của Luật Doanh Nghiệp chưa đều giữa các khu vực, còn nhiều rào cản đối doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh nhất là trong huy động vốn và tiếp cận được với mặt hàng kinh doanh, trong tính thuế và nộp thuế.
+ Sự phối hợp giữa Nhà Nước chưa đều còn một số văn bản chưa ban hành. Các văn bản về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh vẫn chưa tập hợp thành hệ thống thẩm quyền, thủ tục và điều điện cấp giấy phép kinh doanh còn bất cập.
+ Cơ quan đăng ký kinh doanh của cả TW, tỉnh còn yếu chưa hoàn thành nhiệm vụ, quản lý nhà nước còn lúng túng.
+ Tất cả những thay đổi trong Luật Doanh Nghiệp đều có ảnh hưởng trực tiếp đến việc kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian tới
1.2.1.3. Môi trường văn hóa, xã hội:
1.2.1.3.1. Yếu tố văn hoá:
Văn hoá là một khái niệm đa nghĩa. Nếu các nhà triết học cho rằng: văn hoá là những giá trị vật chất, giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình lịch sử và nó đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển lịch sử của xã hội.Còn theo UNESCO định nghĩa: văn hoá là những sáng tạo đầy sống động của các cá nhân và của cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Theo thời gian, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống giá trị, truyền thống và thị hiếu, cái đặc trưng đầy riêng biệt của mỗi dân tộc. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Hiểu rõ được tầm quan trọng của văn hoá với mỗi quốc gia, các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia kinh doanh luôn tìm mọi biện pháp để hoà nhập với nền văn hoá của chính quốc gia đó nhằm tránh được những xung đột không đáng có.
1.2.1.3.2. Yếu tố xã hội:
Khi nói đến xã hội ta phải đề cập đến những hoạt động và những quan hệ xã hội. Những hoạt động xã hội ở đây gồm có: lao động để tạo ra của cải cho xã hội,hoạt động quản lý, giao tiếp. Còn quan hệ xã hội là quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội. Quan hệ xã hội rất phức tạp và chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh là một bộ phận cấu thành trong hoạt động chung của con người nên nó chịu sự chi phối của xã hội.
1.2.1.4. Tác động ngày càng sâu và rộng của khoa học và công nghệ:
Khoa học và công nghệ tạo điều kiện cho nền kinh tế từ phát triển theo chiều rộng chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Khi phát triển kinh tế theo chiều rộng sẽ dẫn đến sử dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên( đầu vào cho sản xuất ) dẫn đến nguồn tài nguyên của một quốc gia sẽ bị cạn kiệt dần, môi trường bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng. Đến một mức độ nào đó, quốc gia đó sẽ phải nhập khẩu nguồn nguy._.ên liệu đó để bù đắp cho phần bị hao hụt. Dưới ánh sáng của khoa học và công nghệ đã làm cho nền kinh tế chuyển hướng từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu( bởi sự ra đời của những máy móc, thiết bị mới với công suất cao hơn cho phép tiết kiệm hơn nguồn nguyên liệu…).. Khoa học và công nghệ sẽ giúp các doanh nghiệp gia tăng sức cạnh tranh của mình. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng mong muốn tối đa hoá lợi nhuận. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần phải tối đa hoá doanh thu và tối thiểu hoá chi phí đầu vào. Doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm hơn khi mà chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn( nhiều tính năng hơn, bền hơn…), bao bì, mẫu mã được cải thiện và bắt mắt hơn. Tất cả sẽ thành hiện thực khi có sự tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Doanh nghiệp sẽ đủ sức và sẵn sàng tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường khi có trong tay những bí quyết công nghệ và vị thế của họ sẽ được nâng cao( sự gia tăng thị phần so với đối thủ cạnh tranh ).
1.2.2. Môi trường vi mô( môi trường ngành ):
Sơ đồ 2: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp:
Cạnh tranh nội bộ
Đối thủ
tiềm ẩn
Khách hàng
Nhà cung cấp
Sản phẩm thay thế
Nguồn: Giáo trình CLKD
1.2.2.1.Đối thủ cạnh tranh (các công ty trong ngành):
Đây là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng đối thủ cạnh tranh thực tiếp của mình chính là các doanh nghiệp trong ngành. Tính chất của cuộc cạnh tranh có gay gắt hay không phụ thuộc nhiều vào cấu trúc của ngành( số lượng, quy mô của các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành ).Nếu là ngành hợp nhất( ngành tập trung, độc quyền ) sẽ bao gồm một số ít các công ty lớn hay một vài công ty độc quyền( dưới sự bảo trợ của chính phủ ) có quy mô lớn. Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này chủ yếu cạnh tranh về uy tín và thương hiệu bởi họ hiểu một cuộc chiến về giá cả là luôn đem lại bất lợi. Một số ngành độc quyền như ngành sản xuất điện, ngành cung cấp nước sạch, ngành sản xuất ô tô( với các hãng như Ford, Toyota, Mercerdes, Nissan…). Đối với ngành phân tán thì cuộc chiến về giá là không thể tránh khỏi( ngành phân tán là những ngành số lượng doanh nghiệp tham gia là lớn nhưng không có doanh nghiệp nào giữ vai trò thống trị ). Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong ngành này thường có quy mô nhỏ và họ không có trong tay sức mạnh của thị trường nên buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận mức giá của thị trường.
Cầu về sản phẩm cũng là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến tính chất của cuộc cạnh tranh. Khi cầu sản phẩm đang ở giai đoạn tăng trưởng thì sức ép cạnh tranh sẽ được giảm đi đáng kể bởi các công ty đạt được doanh thu lớn và quy mô của ngành được mở rộng. Khi cầu về sản phẩm giảm ( do thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi hay do họ có nhu cầu tìm đến những sản phẩm thay thế khác cũng thoả mãn mức độ thoả dụng của họ ) sẽ dẫn đến một cuộc chiến gay gắt hơn giữa các công ty bởi các công ty muốn tăng trưởng buộc họ phải lấy đi thị phần của các công ty khác. Lúc này, một cuộc chiến về giá rất dễ xảy ra và các doanh nghiệp thường cố gắng đưa ra những sản phẩm mới thay thế sản phẩm đó khi nó đang ở giai đoạn suy thoái.
Sự tồn tại của các rào cản rút lui là một yếu tố không thể thiếu khiến cho cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Rào cản rút lui bao gồm: thứ nhất là rào cản về mặt cam kết với người lao động( khi quyết định phá sản buộc doanh nghiệp sẽ phải bồi thường một khoản lớn tiền lương cho người lao động khi mà hợp đồng của họ với công ty chưa kết thúc ), thứ hai là vấn đề uy tín, vị thế thị trường, thứ ba là rào cản về mặt thiết bị, máy móc mang tính đặc thù của ngành( các thiết bị này chuyên dùng để sản xuất ra một sản phẩm nào đó, khi chúng được đưa vào ngành khác không thể sử dụng được nên công ty không thể bán chúng. Công ty sẽ chịu một khoản thiệt hại lớn từ máy móc, thiết bị này ). Thứ tư là do sức ép từ phía chính phủ và người lao động. Có những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thua lỗ nhưng buộc vẫn phải giữ lại. Thứ năm là do ràng buộc về mặt chiến lược, nhất là những ngành mang tính chất bổ trợ lẫn nhau.
1.2.2.2. Nhà cung cấp:
Nhà cung cấp là người nắm trong tay quyền lực đàm phán. Mức độ ảnh hưởng của nhà cung cấp đến doanh nghiệp lớn hay nhỏ phụ thuộc rất lớn vào quy mô tương đối của doanh nghiệp và nhà cung ứng. Khi mà số lượng của doanh nghiệp là lớn, nhà cung ứng là ít hơn thì quyền lực đàm phán của nhà cung ứng tăng lên đáng kể. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp muốn chuyển đổi nhà cung ứng cũng rất khó khăn bởi chi phí chuyển đổi là rất lớn. Đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp cần mua nhưng lại có rất ít sản phẩm có thể thay thế được thì doanh nghiệp phải chịu rất nhiều sức ép từ giá của nhà cung cấp.
1.2.2.3. Khách hàng:
Người mua là cái đích mà tất cả các doanh nghiệp đều hướng tới. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm là để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Khách hàng nắm trong tay quyền lực đàm phán. Nếu quyền lực đàm phán của khách hàng là lớn thì doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn hơn cho việc bán sản phẩm trên thị trường và ngược lại. Đối với những loại hàng hoá mà có nhiều sản phẩm thay thế như café, đường…thì quyền lực đàm phán từ phía khách hàng là khá lớn. Nếu số lượng khách hàng là lớn, trong khi chỉ có một số ít các doanh nghiệp cung cấp hàng hoá đó thì doanh nghiệp được phép tạo ra sức ép về giá đối với khách hàng của mình. Ở Việt Nam, số lượng siêu thị là còn khá ít nên khi đi mua sắm sản phẩm hàng hoá tại siêu thị gần như không có sự mặc cả về giá giữa khách hàng và siêu thị. Khi khách hàng đặt mua với số lượng lớn họ được phép yêu cầu giảm giá hàng bán, đây là trường hợp phổ biến.
1.2.2.4. Đối thủ tiềm ẩn:
Đối thủ tiềm ẩn được coi là những “ kẻ thù giấu mặt ”. Họ là những doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong ngành nhưng trong tương lai có thể tham gia vào ngành. Khi có sự ra nhập mới của một doanh nghiệp nào đó sẽ khiến cho cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên hấp dẫn hơn, gay go và quyết liệt hơn bởi các doanh nghiệp hiện tại sẽ phải san sẻ thị phần của mình. Chính điều đó khiến cho các doanh nghiệp trong ngành luôn tìm cách hạn chế một mức tối đa đối thủ tiềm ẩn của mình. Số lượng đối thủ tiềm ẩn sẽ nhiều khi mà ngành đó là đang hấp dẫn. Ở Việt Nam, thị trường viễn thông đang phát triển rất sôi nổi. Xét trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp điện thoại di động ngoài những hãng lớn như Nokia, Samsung, Motorola…còn nhiều hãng nữa cũng tham gia vào thị trường. Dự báo trong thời gian tới, các hãng sản xuất điện thoại di động của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc… sẽ tham gia vào thị trường Việt Nam nhiều.
Sự tồn tại của các rào cản ra nhập ngành sẽ làm giảm bớt đối thủ tiềm ẩn. Các rào cản ra nhập ngành gồm có rào cản về mặt kỹ thuật( đó là các trang bị, phương tiện kinh tế, các bí quyết công nghệ…), rào cản về mặt thương mại, mặt tài chính, rào cản về nguồn lực quý hiếm( nguồn nguyên liệu quý hiếm ) và cuối cùng là sự phản kháng của các đối thủ hiện tại. Các doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường đòi hỏi phải có tiềm lực tài chính để có đủ sức cạnh tranh. Rào cản về mặt thương mại cũng rất quan trọng bởi các doanh nghiệp muốn tạo dựng hình ảnh, uy tín của mình buộc sản phẩm của họ phải được kiểm chứng qua thời gian. Khi khách hàng đã trở nên khá thân thiết với sản phẩm của doanh nghiệp rất khó để có thể thuyết phục họ dung sản phẩm khác. Đối với thị trường xe gắn máy ở Việt Nam, người tiêu dùng đã quá quen thuộc với dòng xe của các hãng lớn như Honda, Yamaha bởi chất lượng, dịch vụ, mẫu mã. Một điều khá quan trọng khiến doanh nghiệp gần gũi với khách hàng hơn đó là công tác PR( hãng xe Honda đã làm rất tốt điều này ).
1.2.2.5 Sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế được hiểu là những sản phẩm của ngành khác nhưng lại có khả năng thoả mãn cùng một nhu cầu với sản phẩm hiện tại của ngành như chè là sản phẩm thay thế của café, bia là sản phẩm thay thế của rượu…Đối với một doanh nghiệp chuyên sản xuất và cung ứng loại sản phẩm mà có nhiều sản phẩm thay thế thì họ sẽ phải chịu một áp lực khá lớn. Lợi nhuận, thị phần của công ty sẽ sụt giảm đáng kể nếu người tiêu dùng thay đổi sở thích của mình (thay vì uống café họ chuyển sang uống chè và các loại nước giải khát khác). Lúc này, buộc các doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược của mình. Họ có thể dùng một vài hình thức như khuyến mãi lớn, giảm giá hàng bán, thay đổi mẫu mã, bao bì cho sản phẩm của mình.
1.2.3.Các nhân tố thuộc về chính bản thân doanh nghiệp:
1.2.3.1. Tiềm lực tài chính:
Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có tiềm lực tài chính. Hàng năm, doanh nghiệp hoạt động và thu về lợi nhuận. Nguồn lợi nhuận mà doanh nghiệp có được dùng để chia cho các cổ đông, dùng để tái đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hàng năm, các doanh nghiệp đều đưa ra kế hoạch tài chính bởi mục đích của kế hoạch tài chính là xây dựng hệ thống quản lý tài chính hiệu quả để đạt được các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào đó có sức mạnh về tiềm lực tài chính doanh nghiệp đó sẽ có được lợi thế nhất định trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
1.2.3.2. Chất lượng sản phẩm:
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào đó thì chất lượng sản phẩm là một yếu tố vô cùng quan trọng. Chất lượng sản phẩm liên quan đến giá bán của sản phẩm đó( cao hay thấp) và liên quan đến khối lượng sản phẩm được tiêu thụ( ít hay nhiều ). Khi mà nền kinh tế càng phát triển các khách hàng sẽ quan tâm đến chất lượng của sản phẩm nhiều hơn. Nhờ chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có uy tín, hình ảnh, tạo sự khác biệt với các doanh nghiệp khác và quan trọng hơn là doanh nghiệp tạo dựng được một mối quan hệ khăng khít với khách hàng đặc biệt là những khách hàng thân mật, thường xuyên của công ty.
1.2.3.3. Uy tín của doanh nghiệp:
Uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp là cái không dễ dàng có được. Khi đã tạo dựng được lòng tin ở khách hàng doanh nghiệp sẽ thường xuyên nhận được các hợp đồng hơn và sẽ giảm được áp lực cạnh tranh từ các đối thủ trong ngành và từ đối thủ tiềm ẩn. Cocacola, Pesi là hai hãng sản xuất nước nước ngọt hàng đầu thế giới, uy tín và tên tuổi của họ đã được khẳng định từ rất lâu.
1.2.3.4. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực:
Nguồn nhân sự là không thể thiếu đối với doanh nghiệp. Ngày nay, các doanh nghiệp bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến chất lượng nguồn nhân sự( chất lượng lao động là trình độ, kỹ năng, sức khoẻ, tác phong, tinh thần, thái độ, tính kỷ luật trong lao động ). Đối với một doanh nghiệp, công tác quản lý nhân sự là vô cùng quan trọng . Quản lý nhân sự sẽ giúp cho doanh nghiệp đảm bảo một số lượng thích hợp những người lao động với trình độ và kỹ năng và được tuyển vào làm đúng vị trí nhằm phát huy tối đa năng lực mà mình có.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY TNHH THIẾT BỊ BÁN DẪN VÀ ĐO LƯỜNG ĐIỀU BIẾN ĐỘ RỘNG XUNG PHÁT MINH - CHI NHÁNH HÀ NỘI
1.3.1.Do ngành nghề kinh doanh và chức năng của công ty:
1.3.1.1. Ngành nghề kinh doanh:
+ Mua bán thiết bị máy móc ngành công nghiệp, đo lường, điện tử, bán dẫn (không tái chế phế thải, phi mạ điện, gia công cơ khí tại trụ sở).
+ Đại lý mua bán, ký gửi hàng hoá ( doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật).
+ Dịch vụ kỹ thuật: thiết kế và lắp đặt các hệ thống tự động, hệ thống hoạt động đồng bộ nhiều biến tần và các dự án về nguồn điện… theo yêu cầu của khách hàng; bảo trì, sửa chữa các loại máy móc thiết bị đo lường, biến tần, bộ nguồn, UPS của tất cả các nhãn hiệu khác trên thế giới( với quy trình sửa chữa chuyên nghiệp, kỹ thuật viên nhiều kinh nghiệm được đào tạo bởi YASKAWA ENGINEERING & NEMIC- LAMBDA dưới sự giám sát của các chuyên gia Nhật Bản tại công ty cùng sự hỗ trợ của các thiết bị đo lường chính xác cao độ, máy móc sau khi sửa chữa luôn đạt đến chuẩn mực cao nhất.
1.3.1.2. Chức năng của công ty:
- Cung cấp thiết bị và dây chuyền sản xuất tự động hoá cho các xí nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp: Khu công nghiệp Đại An, Quế Võ, Từ Sơn, Phố Nối A…
- Phân phối thiết bị sản phẩm của hai thương hiệu hàng đầu Nhật Bản là YASKAWA ELECTRIC, TDK-LAMBDA
1.3.2. Do thị phần của công ty:
Hiện nay, thị phần mà Chi nhánh có được là 3% tại khu vực thị trường phía Bắc.Với khoảng 40 công ty hoạt động trong lĩnh vực này tại khu vực thị trường phía Bắc thì việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm để gia tăng miếng bánh thị phần của chi nhánh là thực sự cần thiết.Thị phần có lớn chi nhánh mới đủ sức cạnh tranh với các công ty khách hoạt động trong nghành, đồng thời qua đó giảm bớt sức ép từ phía các đối thủ tiềm ẩn.
1.3.3. Do doanh thu của công ty:
Trong giai đoạn 2006-2007 doanh thu mà công ty đạt được tuy chưa cao nhưng đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Doanh nghiệp sẽ tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để gia tăng doanh thu và lợi nhuận trong thời gian tới.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY TNHH THIẾT BỊ BÁN DẪN VÀ ĐO LƯỜNG ĐIỀU BIẾN ĐỘ RỘNG XUNG PHÁT MINH - CHI NHÁNH HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY VÀ CHI NHÁNH:
2.1.1. Ngày thành lập:
Công ty TNHH thiết bị bán dẫn và điều biến độ rộng Phát Minh là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập vào 12/2003 với tên giao dịch quốc tế là:” P.W.M Semiconductor & instruments Co., Ltd.” Khi mới thành lập trụ sở chính của công ty được đặt tại 197 Nguyễn Thái Bình- Quận 1- Thành Phố Hồ Chí Minh- Việt Nam. Đến cuối năm 2007 công ty chuyển trụ sở chính về Tầng 2 toà nhà Thái Huy - 307/4 đường Nguyễn Văn Trỗi - Quận Tân Bình- thành phố Hồ Chí Minh - Việt Nam, tel:08.8445985,08.8445987,e-mail:info@pwm.com.vn (e-mail cũ là: Thangqtruong@yahoo.com, Website: Đây là nhà phân phối được uỷ quyền tại Việt Nam của hai tập đoàn sản. xuất hàng đầu Nhật Bản là:
- YASKAWA ELECTRIC là nhà sản xuất lớn nhất thế giới về biến tần( inverter ), bộ điều khiển AC servo, robot… Với hơn 90 năm kinh nghiệm( từ 1915 ) trong ngành chế tạo thiết bị chuyên về điều khiển chuyển động, các sản phẩm YASKAWA luôn đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật cao nhất với tiêu chuẩn chất lượng và giá cả hợp lý.
- TDK-LAMBDA là chuyên gia về bộ nguồn switching power supply, bộ lọc nhiễu(Noise Filter)…TDK-LAMBDA cung cấp các sản phẩm cho mọi ứng dụng khả thi và mọi nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp luôn luôn tận tâm trong vai trò của người tiên phong về kỹ thuật, TDK-LAMBDA sẽ tiếp tục mở rộng các ứng dụng cho những giải pháp về nguồn điện.
Sau 1 năm triển khai hoạt động tại thị trường Việt Nam mà chủ yếu là ở Miền Nam công ty đã bước đầu có được sự thuận lợi nhất định , công ty quyết định mở thêm những chi nhánh mới nhằm mở rộng mạng lưới phân phối trên toàn quốc.
+ Đến 12/2004 công ty quyết định mở thêm một chi nhánh mới tại Đồng Nai.
+ Đến 09/2006 chi nhánh mới tại thành phố Hà Nội được thành lập với người đại diện doanh nghiệp- chi nhánh Hà Nội là Ngô Văn Lưu. Trụ sở của chi nhánh được đặt tại Phòng 1412-17T10 - Trung Hoà - Nhân Chính( Số điện thoại:04.2811365 )
2.1.2.Sản phẩm kinh doanh:
Các thiết bị máy móc ngành công nghiệp như:
- Bộ nguồn LCS Power supplies với các sản phẩm: LCS 35-5,LCS 35-12,LCS 35-24,LCS 50-5,LCS 50-12,LCS 50-24,LCS 100-5,LCS 100-12,LCS 100-24.
- Bộ lọc nhiễu Noise Filter với các sản phẩm: PBF series( PBF- 1206- 22…). Đây là thiết bị được thiết kế thoả mãn các tiêu chuẩn EM như: VCCI, CISPR, VDE…sản phẩm này có chức năng làm giảm nhiễu do truyền dẫn và bức xạ trên đường vào từ bộ nguồn, nó là đầu nối đơn giản với thiết kế nhỏ gọn dễ tháo lắp bằng jack ghim, MBS1210- 22, MC12 Series, MAS Series,MX 13 series( đây là một sản phẩm thuận tiện để gắn trong tủ điều khiển, ứng dụng để lọc nhiễu phát ra từ các bộ NC Servo & AC Servo.
- HWS power supplies: HWS Series specification.
- Other power supplies: HK10A-5/A,HK15A-5/A,HK25A-5/A,
HK50A-5/A,HK100A-5/A, DLP75-24-1, DLP100-24-1.
- Biến tần J7 inverters với các sản phẩm: CIMR-J7AA20P1,CIMR-J7AA20P2,CIMR-J7AA40P4… Chức năng tự động tăng mô men động cơ khi mo men tải tăng( có thể làm tăng đến mức 150% mo men định mức cho motor tại 3Hz. Chức năng giới hạn dòng điện ở tốc độ cao để biến tần không bị quá dòng, bù trượt dốc motor, phát hiện quá mo men, dò tìm tốc độ.
- Biến tần V7 inverters, biến tần V1000 inverters, G7 inverters( với phương pháp điều khiển 3 mức thích hợp cho những loại máy cần độ chính xác cao cũng như cần sự phối hợp hoạt động đồng bộ, F7 inverters….
- Bộ điều khiển AC Servo Drives, AC Servo motor, BraKing Unit for F7….
- Bộ nguồn AC – DC 1 ngõ ra( SWS series, HWS series, FPS series…), bộ nguồn AC – DC 2 ngõ ra, Bộ nguồn AC – DC 3 ngõ ra, bộ sạc bình.
- Bộ nguồn dùng cho phòng thí nghiệm: GENESYS series, ZUP - Series, PP series, PH series, PH 300S/PH600S series.
- Các sản phẩm khác: Braking unit, PG card, Peripheral, điện trở thắng, biến trở…
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY:
2.2.1. Đối với toàn công ty:
Bảng 1: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh của công ty
trong giai đoạn 2003-2007
Đơn vị tính: Nghìn USD
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Doanh thu
375
880
1300
1800
2500
Giá vốn hàng bán
290
682
1013
1395
1950
lợi nhuận trước thuế và lãi vay
85
198
287
405
550
Lãi tiền vay
10
22
27
45
50
Lợi nhuận trước thuế
75
176
260
360
500
Thuế thu nhập doanh nghiệp(28%)
21
49.28
72.8
100.8
140
Lợi nhuận sau thuế
54
126.72
187.2
259.2
360
Nguồn: Số liệu từ Phòng KD của công ty
Bảng 2: Bảng đoanh thu của doanh nghiệp qua các năm
so với kế hoạch đặt ra
Đơn vị tính: nghìn USD
Doanh thu
Năm
Kết quả thực hiện
Kế hoạch
2003
375
470
2004
880
735
2005
1300
1180
2006
1800
1200
2007
2500
1470
2.2.1.1. Doanh thu tăng qua các năm:
Doanh thu của doanh nghiệp liên tục tăng qua các năm: Năm 2003 doanh thu là 375 nghìn USD đạt 80% chỉ tiêu( 470 nghìn USD), năm 2004 là 880 Nghìn USD đạt 120% chỉ tiêu( 735 nghìn USD ) mà doanh nghiệp đề ra, năm 2005 là 1300 Nghìn USD đạt 110% chỉ tiêu( 1180 nghìn USD ), năm 2006 là 1800 nghìn USD đạt 150% chỉ tiêu( 1200 nghìn USD ) trong đó chi nhánh Hà Nội là 120 nghìn USD, năm 2007 là 2500 nghìn USD đạt 170% chỉ tiêu( 1470 nghìn USD ) trong đó chi nhánh Hà Nội là 500 nghìn USD đạt 80% chỉ tiêu. Sau 5 năm hoạt động trong ngành cung cấp thiết bị bán dẫn và đo lường, công ty đã tạo được uy tín, hình ảnh nhất đinh trong khách hàng( đây là điều vô cùng quan trọng bởi khách hàng của doanh nghiệp thường là những tập đoàn, những công ty sản xuất lớn. Mạng lưới phân phối của doanh nghiệp rất phát triển. Doanh nghiệp có đại lý phân phối trên khắp cả nước ( tại Miền Bắc trụ sở chính được đặt tại TP Hà Nội, tại Miền Trung trụ sở chính được đặt tại Đồng Nai, Miền Nam trụ sở chính được đặt tại TP Hồ Chí Minh ). Chính điều đó đã khiến doanh thu của doanh nghiệp tăng qua thời gian. Doanh thu có bước tăng đáng kể trong năm2006, năm 2007 do trong năm 2007 nền kinh tế Việt Nam phát triển khá nóng với tốc độ tăng trưởng khoảng 8.5%, cùng với sự kiện ra nhập WTO đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi hơn(Luật Đầu tư đã có sự thay đổi, những quy định mới về việc mở các thị trường và đầu tư liên quan tới thương mại nhằm đảm bảo mức độ phù hợp với WTO). Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp luôn đặt mục tiêu chất lượng và uy tín nên hàng đầu, đó là lợi thế mà doanh nghiệp có được so với đối thủ cạnh tranh của mình. Trong chiến lược của mình công ty đã xác định mục tiêu thị phần, thương hiệu, chất lượng dịch vụ tốt là cầu nối giữa doanh nghiệp với khách hàng , vấn đề thoả mãn nhu cầu của khách hàng được đặt nên hàng đầu.
Sơ đồ 3: Doanh thu của doanh nghiệp giai đoạn 2003 - 2007
2.2.1.2.Lợi nhuận sau thuế tăng:
Nếu năm 2003 mức lợi nhuận sau thuế là 54 nghìn USD thì đến năm 2006 mức lợi nhuận là 259.2 nghìn USD và đến cuối năm 2007 mức lợi nhuận là 360 nghìn USD. Mặc dù lợi nhuận gia tăng qua các năm nhưng mức lợi nhuận sau thuế này vẫn chưa cao bởi hàng năm doanh nghiệp phải trả một khoản lãi tiền vay khá lớn( vay ngân hàng là chủ yếu ), mức thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải đóng là 28%. Doanh nghiệp đang cố gắng để mức lợi nhuận sau thuế này sẽ tăng lên một cách đáng kể bằng việc đẩy mạnh hơn nữa công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng doanh thu bán hàng.
2.2.1.3.Thị phần của doanh nghiệp:
Thị phần mà doanh nghiệp có được là 14%, là doanh nghiệp có thị phần lớn thứ 3 ở Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp thiết bị bán dẫn và đo lường( với khoảng 100 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này ). Hai đối thủ lớn nhất của doanh nghiệp là công ty TNHH Sa Giang với 17% thị phần và công ty TNHH thương mại & kinh tế Nguyễn Đức Thịnh với 17 % thị phần.
- Công ty TNHH Sa Giang thành lập năm 1997 là nhà phân phối độc quyền các sản phẩm của Mitsubishi Electric, một trong công ty phân phối sản phẩm danh tiếng nhất trong lĩnh vực thiết bị công nghiệp với trên 100 nhân viên rất năng động và nhiều kinh nghiệp. Công ty hoạt động trong các lĩnh vực chính: Thiết bị phân phối điện cho sản xuất như: ACB,MCCB…; tự động hoá trong công nghiệp; thiết bị gia dụng; điều hoà không khí. Công ty thuê các chuyên gia quản lý và hỗ trợ từ đối tác cung cấp là SETSUYOASTECCOPR đặt tại OSAKA JAPAN thuộc tập đoàn Motsubishi Electric . Đội ngũ nhân viên của công ty có chất lượng cao.
- Công ty TNHH thương mại & kĩ thuật Nguyễn Đức Thịnh địa chỉ 34/7 Bầu Cát 2- P14- Quận Tân Bình- Thành phố Hồ Chí Mính. Công ty là nhà phân phối sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật và ứng dụng duy nhất của công ty Control Techniques trên toàn cầu và kỹ sư được đào tạo, huấn luyện chuyên sâu trong kỹ thuật điều khiển và có nhiều kinh nghiệm trong những ứng dụng có liên quan đến điều khiển cho các ngành công nghiệp khác.Các quá trình sản xuất và các thiết bị máy móc công nghiệp gồm: Dây & cáp điện, thép& định hình kim loại, nhựa & cao su, cần trục & cẩu, thang máy, dệt may, hệ thống HVAC, thực phẩm & giải khát…Các sản phẩm của công ty là đa dạng với: Bộ điều khiển tốc độ động cơ AC, bộ điều khiển tốc độ động cơ DC, PCL của hãng Allen- Bradley, Human Machine interface….Doanh nghiệp luôn định hướng vào: tư vấn cho các yêu cầu ứng dụng của khách hàng; cung cấp bộ điều khiển AC, DC và sorve với chất lượng cao và kỹ thuật tiên tiến nhất; hỗ trợ bảo hành và dịch vụ hậu mãi; thiết kế hệ thống và lắp đặt.
Ngoài hai đối thủ chính, doanh nghiệp còn phải cạnh tranh với rất nhiều công ty khác hiện cũng đang hoạt động trong ngành này. Trong thời gian tới khi mà Luật DN được sửa đổi, bổ sung một cách hoàn chỉnh hơn sẽ tạo đà cho nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường cung cấp thiết bị ngành công nghiệp. Đó là một bất lợi đối với công ty bởi điều đó sẽ buộc họ phải san sẻ thị phần của mình. Sự kiện Việt Nam ra nhập WTO cũng tạo ra những thuận lợi và khó khăn nhất định đối với doanh nghiệp. Điểm khác biệt giữa doanh nghiệp với các công ty khác là sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã sản phẩm( biến tần, AC servo drives, Rô bốt, bộ nguồn Switching, DC – DC converters, bộ lọc nhiễu ). Hai hãng YASKAWA, TDK-LAMBDA chuyên về chế tạo các thiết bị điều khiển tự động, chuyên về bộ nguồn, ngoài hai lĩnh vực đó họ không tham gia vào các lĩnh vực khác( chiến lược chuyên môn hoá ). Tuy nhiên, xét ở một góc độ nào đó chiến lược này cũng chứa đựng rủi ro rất cao( rủi ro về mặt thị trường)
Sơ đồ 4: Thị phần của doanh nghiệp
2.2.2. Vị trí của chi nhánh Hà Nội:
2.2.2.1.Doanh thu và lợi nhuận sau thuế:
2.2.2.1.1. Về doanh thu:
Chi nhánh Hà Nội được thành lập vào tháng 09/2006( muộn hơn so chi nhánh Đồng Nai). Trong suốt quá trình hoạt động của mình, chi nhánh đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn doanh nghiệp. Trong quý IV của năm 2006 doanh thu mà chi nhánh đạt được là 120 nghìn USD, năm 2007 doanh thu chi nhánh là 500 nghìn USD chiếm 20% doanh thu toàn doanh nghiệp( doanh thu toàn doanh nghiệp là 2500 nghìn USD ), đối chi nhánh Đồng Nai doanh thu trong năm 2007 đạt khoảng 700 nghìn USD chiếm khoảng 30% doanh thu toàn doanh nghiệp. Chiếm 20% doanh thu toàn doanh nghiệp, hoạt động của chi nhánh Hà Nội đã được coi là khá thành công trong năm 2007.
Bảng 3: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Hà Nội
Trong giai đoạn 2006-2007:
Đơn vị tính: Nghìn USD
Chỉ tiêu
2006
2007
Doanh thu
120
500
Giá vốn hàng bán
89
385
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
31
115
Lãi tiền vay
7
15
Lợi nhuận trước thuế
24
100
Thuế thu nhập doanh nghiệp(28%)
6.72
28
Lợi nhuận sau thuế
17.28
72
Nguồn: Số liệu từ phòng KD của chi nhánh HN
Hoạt động từ tháng 09/2006 nhưng doanh thu của doanh nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Doanh thu của quý IV là 120 nghìn USD và của năm 2007 là 500 nghìn USD.Đã có sự gia tăng đáng kể trong doanh thu.
Bảng 4:Doanh thu của chi nhánh so với kế hoạch
Đơn vị tính: nghìn USD
Doanh thu
Năm
Kết quả thực hiện
kế hoạch
2006
120
-
2007
500
625
Nguồn: Phòng KD của chi nhánh HN
Doanh thu của doanh nghiệp vào năm 2007 là 500 nghìn USD đạt 80% chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Đây được coi là bước đầu thành công với doanh nghiệp.
2.2.2.1.2. Lợi nhuận sau thuế tăng:
Mức lợi nhuận mà chi nhánh đạt được trong năm 2007 là 72 nghìn USD. Trong thời gian này doanh nghiệp cần huy động vốn để đầu tư cho hoạt động kinh doanh của mình. Một trong hình thức huy động vốn là vay ngân hàng( ngoài ra còn huy động từ các cổ đông ).
2.2.2.1.2.1. Đối với chỉ số chi trả lãi vay của chi nhánh:
Có công thức tính: Chỉ số chi trả lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ Lãi vay. Đây là một chỉ tiêu thể hiện khả năng đảm bảo thanh toán các khoản lãi vay từ lợi nhuận của doanh nghiệp( cần chú ý rằng khi một doanh nghiệp huy động nợ cao thì rủi ro phá sản hay mất khả năng thanh toán càng lớn. Chính điều đó đã khiến người cho vay luôn đòi hỏi lãi suất cho vay cao hơn để bù đắp vào những khoản rủi ro mà họ có thể phải gánh chịu, điều đó sẽ làm cho tác dụng của đòn bẩy tài chính giảm đi và có tác dụng tiêu cực đến tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ). Chỉ số chi trả lãi vay của chi nhánh năm 2007 bằng7.67( Trong năm 2007, lợi nhuận trước thuế và lãi vay của chi nhánh là 115 nghìn USD và lãi vay là 15 nghìn USD). Do hoạt động kinh doanh của chi nhánh là đang trong giai đoạn đầu nên trong thời gian này việc huy động vốn đối với chi nhánh để tiến hành mở rộng kinh doanh là khá cần thiết. Điều đó khiến chi nhánh cần phải có những bước đi thận trọng hơn tránh dơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
2.2.2.1.2.2.Chỉ tiêu doanh lợi trên tài sản:
Công thức tính ROA = Lợi nhuận sau thuế / Tổng tài sản .Trong năm 2007, lợi nhuận sau thuế mà chi nhánh đạt được là 72 nghìn USD, tổng tài sản là 315 nghìn USD. ROA của năm 2007 là khoảng 0.29. Như vậy, một đồng tài sản bỏ ra thu được 0.29 đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp( Đây là chỉ tiêu đo lường hoạt động của một công ty trong việc sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận. Ý nghĩa của chỉ tiêu này là phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty, là cơ sở để chủ sở hữu đánh giá tác động của đòn bẩy tài chính và ra quyết định sử dụng vốn).
2.2.2.1.3. Thị phần của chi nhánh Hà Nội tại thị trường phía Bắc:
Hiện nay, khoảng 40 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành cung cấp thiết bị bán dẫn ở khu vực thị trường phía Bắc( công ty TNHH công nghệ Phi Long,Công ty TNHH Âu Lạc –ICTC Distribution chuyên phân phối các thiết bị đo lường, phân tích khí và điều khiển của Emerson tại Miền Bắc, công ty TNHH Hoàng Quốc…Thành lập muộn hơn so với các công ty khác nhưng chi nhánh luôn cố gắng để tạo lòng tin nơi khách hàng nhằm gia tăng thị phần. Hiện tại, thị phần của chi nhánh là 3%, đây được coi là một thành công đối chi nhánh, bước đầu thực hiện được mục tiêu đề ra trong chiến lược của toàn công ty.
Sơ đồ 5: Biểu đồ thị phần của chi nhánh HN tại thị trường phía Bắc
Bảng 5:Bảng doanh thu của công ty trong năm 2007
đối với từng loại khách hàng
Đơn vị: Nghìn USD
Chỉ tiêu
Doanh thu
Tỷ lệ % trong
doanh thu
Các nhà máy thuộc tập đoàn tàu thuỷ Vinashin
200
40
Các nhà máy thép
100
20
Các nhà máy chế tạo
65
13
Các nhà máy thuộc tập đoàn điện lực
60
12
Các nhà máy trong ngành công nghiệp thực phẩm
50
10
Các nhà máy khác
25
5
Nguồn: Phòng KH - DA của chi nhánh
Chi nhánh luôn chú trọng tạo kênh phân phối tại các tỉnh phát triển kinh tế bởi khách hàng chính của chi nhánh là các tập đoàn, các công ty hoạt động trong các khu công nghiệp khác nhau( Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Vĩnh Phúc…): Nomara của Nhật Bản, Đình vũ- Hải Phòng, Bắc Thăng Long, Nội Bài, Đại An, Từ Sơn, Quế Võ, Phố Nối A; các nhà máy thuộc tập đoàn Điện lực và các nhà máy sản xuất trong ngành công nghệ thực phẩm như Cocacola, bánh kẹo Hữu Nghị, bánh kẹo Kinh Đô… đây là những khách hàng lớn của doanh nghiệp. Quá trình ra nhập WTO và sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế đã tạo ra ảnh hưởng lan toả đầy mạnh mẽ của công nghệ. Các tiêu chuẩn công nghệ cao của các công ty nước ngoài đang thấm dần vào các doanh nghiệp trong nước , bằng cách này hay cách khác( tác động này đối với các công ty tư nhân vừa và nhỏ trong nước dường như lớn hơn, trong khi đối với các doanh nghiệp nhà nước hầu như không đáng kể ). Dưới ánh sang của khoa học công nghệ buộc các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị máy móc … với mục đích đem lại những sản phẩm giá vừa phải, bền, đẹp đến với người tiêu dùng trong nước, cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài ( đặc biệt là hàng hoá Trung Quốc ). Nó đã tạo đà cho các công ty hoạt động trong ngành sản xuất, phân phối thiết bị công nghiệp phát triển. Có thể nói, khách hàng của chi nhánh không phải là đại đa số người dân như những hàng hóa thong thường khác nên việc tiếp thị, quảng bá hình ảnh là khá quan trọng đối với doanh nghiệp. Việc quảng bá hình ảnh để tìm kiếm khách hàng mới sẽ làm gia tăng chi phí, điều này buộc chi nhánh phải có kế hoạch Marketing thật phù hợp và hiệu quả( là một doanh nghiệp còn khá non trẻ so với các đối thủ khác trong ngành thiết bị bán dẫn và đo lường nên từ lâu họ đã nhận thấy được vai trò rất quan trọng của công tác truyền thong trong kinh doanh nhằm tạo dựng lòng tin ở khách hàng, tìm kiếm khách hàn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33093.doc