Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong khoảng hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam, việc phát triển thị trường lao động chưa được quan tâm xứng đáng. Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác – Lênin thì muốn phát triển nền kinh tế thị trường thì cần phải phát triển các loại thị trường như: thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ… và thị trường lao động. Như vậy có thể nói thị trường lao động là một yếu tố cấu thành và là một yếu tố quan trọng để phát
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3195 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phát triển Thị trường lao động tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng thì thị trường lao động với tư cách là yếu tố cấu thành của thị trường các yếu tố sản xuất tuy đã có nhiều thành tựu nhưng nhìn chung chưa đạt hiệu quả cao do những thành kiến mang tính nhận thức về hàng hóa sức lao động sau một thời gian dài thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Việc coi sức lao động là hàng hóa để mua – bán chưa thực sự được thông suốt trong quần chúng nhân dân và cả trong mọt bộ phận lãnh đạo. Nhà nước vẫn có những tác động nhất định gây ảnh hưởng đến việc phân bổ lao động. Vì vậy, trong suốt một thời gian dài việc sử dụng lao động của chúng ta không phản ánh đúng sự thật về cân bằng cung cầu lao động.
Thêm vào đó có rất nhiều người quan niệm rằng chỉ làm việc trong các cơ quan Nhà nước và các cơ quan thuộc thành phần kinh tế tập thể thì mới coi là có việc làm. Vì vậy trong suốt một thời gian dài thị trường lao động phi Nhà nước bị đóng băng, chỗ thì quá thừa lao động, chỗ lại thiếu lao động trầm trọng, người lao động không được công bằng… làm ảnh hưởng to lớn đối với nền kinh tế. Người lao động đi lao động ở các nước như Đài Loan, Singgapo, Hồng Kông, Hàn Quốc…bị bóc lột sức lao động, đánh đập là một vấn đề nhức nhối và nan giải.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, trước tình hình kinh tế - chính trị trong và ngoài nước có nhiều biến chuyển biến tích cực thì việc phát triển thị trường lao động ở nước ta nói chung và ở Hà Nội nói riêng đã và đang là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân lao động. Thị trường lao động bây giờ không chỉ tồn tại trên giấy tờ nữa mà đã được tất cả mọi người công nhận. Sức lao động đã dần được coi là hàng hóa, điều đó thể hiện qua việc công nhận quyền tự do tìm việc của người lao động và quyền tự do thuê mướn lao động của người sử dụng lao động.
Thực tế những năm gần đây, thị trường lao động còn tồn tại rất nhiều những yếu kém, ngoài tác động của việc tăng nhanh dân số và hậu quả của việc giáo dục và định hướng việc làm trong quần chúng nhân dân còn nhiều sai lầm khiến cho thị trường lao động gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển và hoàn thiện. Vì vậy thất nghiệp và việc làm luôn là mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và của cả nhân dân lao động. Sau một thời gian dài dân số tăng nhanh, hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với vần đề thừa lao động. Tuy nhiên lại có hiện tượng thiếu hụt lao động ở một số ngành nghề. Không chỉ có vậy mà chất lượng lao động cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm.
Do tính cấp thiết của giải quyết việc làm cho thành phố Hà Nội nên tác giả đã chọn đề tài: “Phát triển thị trường lao động tại Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Phát triển thị trường lao động là một vấn đề không mới, từ lâu đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các nhà nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Các công trình được công bố như:
Nolwen Henaff, Jean – Yves Martin, Lao động việc làm và nguồn nhân lực Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB Thế giới, 2004.
TS. Nguyễn Thị Thơm: Thị trường lao động Việt Nam: thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2006.
TSKH. Phạm Đức Chính: Thị trường lao động: cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2005.
TS. Nguyễn Hữu Dũng: Thị trường lao động và định hướng nghề cho thanh niên, NXB Lao động xã hội, năm 2005.
Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam, NXB Lao động xã hội, năm 2001.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm, thực trạng thị trường lao động ở Hà Nội hiện nay đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lao động có trình độ cao, lao động lành nghề đầy đủ năng lực và phẩm chất xây dựng ngày càng hoàn thiện hơn thị trường lao động ở Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Để đạt được mục đích nghiên cứu đó đề tài luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển thị trường lao động.
Đánh giá thực trạng phát triển thị trường lao động ở thành phố Hà Nội thời gian qua.
Đề ra phương hướng và giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động tại Hà Nội tới năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ một đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học, em nghiên cứu vấn đề phát triển thị trường lao động ở phạm vi thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2007 và đề ra giải pháp phát triển đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng bộ thành phố hà Nội về những vấn đề phát triển nguồn lao động. Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tư tưởng, quan niệm của các nhà khoa, các tác giả đi trước về vấn đề trên.
* Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê tính toán kết hợp với phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm rút ra những kết luận hữu ích góp phần làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Các kết luận đều được khảo nghiệm trên cả hai phương diện lý uận và thực tiễn.
6. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Khái quát về thị trường lao động.
Chương II: Thực trạng phát triển thị trường lao động ở thành phố Hà Nội thời gian qua.
Chương III. Phương hướng, giải pháp phát triển thị trường lao động tại thành phố hà Nội giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2015.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
1.1.Thị trường lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường lao động.
1.1.1. Bản chất và đặc điểm của thị trường lao động.
1.1.1.1. Khái niệm thị trường lao động.
Thị trường lao động là phạm trù kinh tế - xã hội, bao gồm một cơ chế xã hội tiến triển riêng biệt thực hiện đồng bộ những quan hệ lao động xã hội xác định và thúc đẩy việc xác lập và tuân theo cân bằng quyền lợi giữa người lao động, chủ doanh nghiệp và Nhà nước. Thị trường lao động là một thành phần cấu thành phức tạp và không thể tách rời của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hiện đang còn có nhiều cách hiều khác nhau về bản chất của thị trường lao động. Dưới đây là một số cách tiếp cận cơ bản:
Theo Adam Smith: “ thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động giữa một bên là người mua dịch vụ lao động với một bên là người bán dịch vụ lao động”. Như vậy theo định nghĩa này thì đối tượng để trao đổi trên thị trường chính là dịch vụ lao động.
Theo David Berg: “ thị trường là tập hợp những sự thỏa thuận, trong đó người mua và người bán trao đổi với nhau loại hàng hóa và dịch vụ nào đó”. Như vậy, theo ông thị trường không bó hẹp bởi một không gian nhất định mà bất cứ đâu có sự trao đổi thỏa thuận mua bán hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Thị trường lao động là sự thỏa thuận trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Theo Mác: “ Lao động chỉ xuất hiện sau khi tiến hành mua – bán sức lao động trên thị trường thông qua hoạt động mua – bán sức lao động”. Như vậy cái mà người ta mua – bán là sức lao động chứ không phải là lao động. Những phân tích của Mác nhằm phơi bày bản chất bóc lột của Chủ nghĩa tư bản.
Theo Tổ chức Lao Động Quốc Tế ILO thì: “ Thị trường lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”.
Theo quan điểm của Đảng đề ra trong đại hội Đảng IX thì: Thị trường lao động là nơi mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức lao động trong một phạm vi nhất định.
Như vậy, có rất nhiều các quan niệm khác nhau về thị trường lao động và trong khóa luận này thị trường lao động được hiểu là: “ thị trường lao động là môi trường thực hiện các quan hệ mua – bán sức lao động thông qua các hình thức thỏa thuận về tiền công và điều kiện lao động”.
Lao động là phạm trù trừu tượng không thể cân, đo, đếm được . Vì vậy, không thể là hàng hóa trên thị trường sức lao động. Thị trường lao động khác thị trường hàng hóa. Về bản chất, thị trường lao động là thị trường sức lao động trong những điều kiện lao động và quan hệ lao động cụ thể. Thị trường lao động được cấu thành bởi ba bộ phận: cung, cầu và giá cả sức lao động.
Cung về sức lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Từ khía cạnh thực tiễn, cung về sức lao động được hiểu là cung về lao động, và được tính bằng khối lượng người lao động ( số lượng, chất lượng và cơ cấu của lực lượng lao động ) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất định.
Cung lao động bao gồm cung tiềm năng, cung thực tế và cung hiệu dụng về lao động.
Cung tiềm năng về lao động: bao gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, những người đang đi học, những người làm nội trợ hoặc không có nhu cầu lao động và tình trạng khác.
Cung thực tế về lao động: bao gồm cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp. Cung thực tế về lao động chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
Cung hiệu dụng về lao động là những người đang làm thuê hoặc đang đi tìm việc làm thuê.
Cầu sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, một ngành, một doanh nghiệp… trong một khoảng thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng người thuê mướn lao động trên thị trường lao động gồm: số chỗ làm việc đang có và sẽ có. Trên thực tế, cầu về sức lao động được hiểu là cầu về lao động.
Cầu lao động bao gồm: cầu tiềm năng, cầu thực tế và cầu hiệu dụng về lao động.
Cầu tiềm năng về lao động: là số lao động tương ứng với tổng số việc làm có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm trong tương lai như: vốn, đất, tư liệu sản xuất, công nghệ…
Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại một thời điểm nhất định, bao gồm cả chỗ việc làm đã được lấp đầy và chỗ làm việc trống.
Cầu hiệu dụng về lao động là số chỗ làm việc trống đang có nhu cầu thuê mướn lao động.
Giá cả sức lao động, về bản chất là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động là do giá trị tư liệu sinh hoạt mà sức lao động cần để sản xuất, duy trì và phát triển quy định. Số tiền chi trả cho những tư liệu sinh hoạt ấy tạo thành giá cả hàng hóa sức lao động.
Giá cả hàng hóa sức lao động thể hiện dưới dạng tiền công, tiền lương cũng chịu tác động của quy luật cung cầu, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác biệt như: năng suất lao động, trình độ của người lao động và điều kiện làm việc.
Tiền công, tiền lương, trình độ của người lao động, điều kiện làm việc được xác lập trong hợp đồng lao động được ký kết giữa hai bên: người lao động và người sử dụng lao động. Những yếu tố đó được xác lập nhờ các cơ chế tương tác của quan hệ lao động, là cơ chế hai bên ( người lao động và người sử dụng lao động ); và cơ chế ba bên ( người lao động, người sử dụng lao động và Chính phủ ).
1.1.1.2. Nhận thức về thị trường lao động ở Việt Nam.
a. Trước đổi mới:
Trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, lao động không được coi là một loại hàng hóa đặc biệt, không được
mua, bán, trao đổi trên thị trường và do đó không có thị trường lao động theo đúng nghĩa của nó.
Trong khu vực kinh tế Nhà nước, quan hệ lao động tồn tại dưới hình thức chủ yếu là quan hệ trực tiếp giữa Nhà nước và người lao động. Nhà nước tuyển lao động theo chế độ biến chế suốt đời. Các yếu tố cơ bản của sự trao đổi lao động như quan hệ cung cầu và giá cả lao động không phải là quan hệ thị trường mà là quan hệ mệnh lệnh hành chính. Các mối quan hệ này không dựa trên nguyên tắc thị trường mà hoàn toàn bị chi phối bởi các mệnh lệnh hành chính. Tiền lương, tiền công không được coi là giá cả sức lao động. Nhà nước trực tiếp trả lương và các chế độ khác cho người lao động tùy thuộc vào khả năng ngân sách Nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách “ mọi người đều có việc làm” với mức tiền lương thấp dựa trên nguyên tắc phân phối bình quân. Vấn đề thất nghiệp không đặt ra, nhưng thiếu việc làm trong toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội là phổ biến.
Sự di chuyển lao động giữa các vùng, các ngành hoàn toàn do Nhà nước định đoạt. Việc di chuyển lao động gắn liền với thủ tục hành chính, chế độ hộ tịch, hộ khẩu hết sức phức tạp. Luồng di chuyển giữa các vùng nông thôn cũng như từ nông thôn ra thành thị cũng hoàn oàn bị phụ thuộc vào chương trình, kế hoạch của Nhà nước. Sự di chuyển lao động từ trong nước ra nước ngoài chỉ diễn ra trong khuôn khổ các hiệp định hay nghị định thư mà Chính Phủ ký với nước ngoài, chủ yếu là các nước trong khối SEV.
Các quan hệ lao động trong thời kỳ này chịu tác động của cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, do đó đã hạn chế nghiêm trọng đối với sự phân bổ nguồn lực lao động. Yếu tố quan trọng nhất của xã hội đã không được phát huy một cách đầy đủ.
b. Sau đổi mới ( từ 1986 đến nay ).
Chính sách giao đất cho các hộ nông dân theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 đã thực sự giải phóng lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, mở ra một thời kỳ mới trong sự phân bố và sử dụng lao động hợp lý hơn trong khu vực nông nghiệp nông thôn. Các chính sách cải cách trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại trong những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước như rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp Nhà nước, giảm biên chế… đã làm giảm lao động trong khu vực Nhà nước, hình thành một lực lượng lao động mới trên thị trường. Từ đầu những năm 90, khu vực kinh tế tư nhân được khuyến khích và phát triển. Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã tăng lên nhanh chóng. Một bộ phận lớn lao động được thu hút vào khu vực kinh tế năng động này. Đây là một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường lao động ở nước ta. Lần đầu tiên nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã đưa ra thuật ngữ: “ thị trường lao động”.
Các chính sách đổi mới kinh tế theo hướng thị trường từ cuối những năm 80 đã làm xuất hiện một cấu trúc mới trên thị trường lao động. Từ đây các yếu tố của thị trường lao động bắt đầu được tạo lập theo cơ chế thị trường. Từ đầu những năm 90, một loạt các chính sách mới đã tạo môi trường thể chế thúc đẩy hình thành thị trường lao động ở nước ta.
Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận sự tồn tại của thị trường lao động, khẳng định rõ quyền của công dân trong việc lựa chọn hình thức và nơi làm việc hợp pháp. Nhà nước thừa nhận lao động là loại hàng hóa đặc biệt được trao đổi trên thị trường. Cải cách tiền lương năm 1993 xác định các yếu tố thị trường là cơ sở của giá cả lao động, từng bước tiền tệ hóa tiền lương.
Sự ra đời của Bộ luật lao động năm 1995 là mốc quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động: “ Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ chủ doanh nghiệp nào ở bất kỳ đâu nếu không bị pháp luật cấm và chủ doanh nghiệp có quyền thuê mướn bất kỳ người lao động nào thông qua đàm phán trực tiếp hoặc thông qua các trung tâm việc làm, và có quyền gia tăng hoặc cắt giảm số lượng công nhân phù hợp với đòi hỏi của hoạt động kinh doanh phù hợp với luật pháp”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta khằng định: “ Chăm lo giải quyết việc làm cho người lao động đi đôi với việc tăng cường vai trò của Nhà nước trong tổ chức quản lý và hướng dẫn việc sử dụng, thuê mướn lao động. Cụ thể hóa và thực hiện quy định trong Bộ Luật lao động, bảo đảm quyền của người lao động tự do tìm việc làm. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động và trả lương theo hợp đồng ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta khằng định: “ Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và chính sách nhằm mở rộng thị trường lao động, tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo và việc làm cho mỗi công dân, khuyến khích người lao động học tạp, đào tạo và tự kiếm việc làm. Bảo đảm sự dịch chuyển linh hoạt của người lao động trong khu vực kinh tế Nhà nước. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, hoạt động dịch vụ giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động. Có chính sách thích hợp thu hút nhân tài và lao động có trình đọ chuyên môn cao ở trong nước và ngoài nước”.
Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta khằng định: “ Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để phát triển thị trường lao động, gắn kết cung – cầu lao động. Đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm, bảo đảm quyền của người lao động lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp. Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động này”.
Từ nhận thức về thị trường lao động, có thể thấy rằng quan điểm của Đảng ta về thị trường lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với quá trình đổi mới tư duy kinh tế và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
Thị trường lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một thị trường quan trọng của nền kinh tế đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế, sản xuất lớn, mở cửa và hội nhập.
Cơ chế hoạt động của thị trường lao động tuân thủ theo các quy luật khách quan: quy luật cung – cầu, quy luật giá trị…, đảm bảo các giao dịch trên thị trường lao động lành mạnh, hiệu quả.
Nhà nước thực hiện chức năng thể chế hóa, tổ chức và bà đỡ, kiểm soát và điều tiết thị trường lao động.
Thị trường lao động hoạt động theo quy luật khách quan, đồng thời cũng thúc đẩy mối quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ lao động theo hướng tạo dựng quan hệ hợp tác, hài hòa, đồng thuận đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
Như vậy, nhận thức này tạo điều kiện cho việc phát huy nguồn vốn quý nhất của đất nước là lao động, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chủ động hội nhập, tham gia vào thị trường lao động khu vực và quốc tế.
1.1.1.3. Đặc điểm của thị trường lao động.
Do tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động và những đặc điểm riêng của lao động trên thị trường lao động, nên thị trường lao động có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hàng hóa trao đổi trên thị trường lao động là loại hàng hóa đặc biệt.
Hàng hóa trao đổi trên thị trường là những hàng hóa sức lao động. Khác với tất cả những hàng hóa thông thường khác, đây là loại hàng hóa đặc biệt vì:
Về mặt giá trị:
Trong khi giá trị của hàng hóa thông thường được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó, thì giá trị của hàng hóa sức lao động lại được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để duy trì và phát triển nó. Cụ thể nó được tính bằng: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động và gia đình họ; chi phí đào tạo để người lao động có một nghề nhất định.
Trong khi giá trị hàng hóa thông thường sẽ giảm dần cùng với quá trình sử dụng hàng hóa đó, thì giá trị của hàng hóa sức lao động lại tăng dần cùng với quá trình sử dụng nó vì theo thời gian, trình độ thành thạo tay nghề của người lao động càng được nâng lên và nhu cầu sinh hoạt, chi tiêu cần thiết cho người lao động và gia đình họ cũng ngày càng cao.
Về mặt giá trị sử dụng:
Với hàng hóa thông thường, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cùng với quá trình sử dụng và mất đi. Còn đối với hàng hóa sức lao động thì ngược lại và đặc biệt, là khi sử dụng hàng hóa sức lao động, nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
Một số đặc điểm khác:
Hàng hóa sức lao động luôn gắn chặt với chủ thể mang nó, không thể tách rời được. Xét về cả mặt số lượng và chất lượng, hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào 2 quá trình: sinh đẻ và nuôi dạy, đào tạo. Hai quá trình này vừa chịu sự chi phối của nhân tố sinh học, vừa chịu sự chi phối của nhân tố kinh tế, tâm lý, xã hội.
Hàng hóa sức lao động dù đã được trao đổi hay chưa thì nó cũng đòi hỏi phải cung cấp những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định để tồn tại và phát triển.
Mỗi người lao động đều có những đặc điểm riêng biệt về khả năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, học vấn, thể lực, nguồn gốc, động lực, nhu cầu…
Thứ hai là, cung của thị trường lao động có nhiều điểm khác biệt so với cung của các loại thị trường khác:
Cung của các loại thị trường khác gắn liền với sản xuất còn cung của thị trường lao động chịu sự chi phối trực tiếp của yếu tố dân số và không thể vượt khỏi giới hạn này. Thông thường quy mô dân số lớn thì cung lao động sẽ cao, tốc độ tăng dân số cao và cơ cấu dân số trẻ thì cung lao động trong tương lai sẽ tăng.
Trong khi số lượng cung lao động của các loại thị trường khác có thể tăng, giảm nhanh chóng, đột ngột thì cung của thị trường lao động lại không thể, vì nó phụ thuộc vào sự sinh đẻ của con người và quá trình nuôi dạy, đào tạo lại người lao động.
Nếu cơ cấu cung của thị trường khác dễ dàng thay đổi và thay đổi nhanh chóng thì cơ cấu cung của thị trường lao động thì không dễ dàng thay đổi và phải có thời gian.
Thứ ba là, giá cả của hàng hóa sức lao động tương đối ổn định và ít có khả năng phản ứng linh hoạt trước sự biến động của cung – cầu trên thị trường như các hàng hóa thông thường.
Về lý thuyết, giá cả sức lao động do cung – cầu trên thị trường quyết định như bất kỳ một loại hàng hóa nào khác. Khi tiền công cao thì mức cung cao, trong khi đó thì mức cầu lại giảm và thị trường lao động sẽ cân bằng khi cung – cầu gặp nhau. Tuy nhiên, trong thực tế thị trường lao động không bao giờ hoàn hảo. Tiền công thường ít thay đổi dù mức cầu giảm hay mức cung tăng và chính vì thế luôn luôn tồn tại hiện tượng thất nghiệp. Tính cạnh tranh không hoàn hảo của thị trường lao động có nguồn gốc từ sự độc quyền cả ở phía người bán lẫn người mua. Về phía người bán sự độc quyền xảy ra khi sức lao động khan hiếm. Còn sự độc quyền của người mua thể hiện rất rõ khi cung lao động dư thừa. Tính cạnh tranh không hoàn hảo của thị trường lao động còn thể hiện ít nhiều ở tính cá biệt là nó không thể đem ra mua – bán theo phương thức đấu giá ở các sở giao dịch như các hàng hóa thông thường khác. Mặt khác việc thuê mướn lao động thường là dài hạn nên tiền công tương đối ổn định và ít có khả năng phản ứng linh hoạt trước sự biến động của cung – cầu trên thị trường như các hàng hóa khác.
Tóm lại, những đặc điểm trên của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước phải có sự quản lý đặc biệt đối với loại thị trường này. Bởi lẽ nó không đơn thuần là vấn đề kinh tế và vẫn là vấn đề chính trị, xã hội, con người.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường lao động.
1.1.2.1. Nhân tố ảnh hưởng đến cung lao động.
Thứ nhất là nhóm nhân tố về nhân khẩu.
Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số ( tự nhiên và cơ học ) và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Do vậy những thay đổi về dân số như: sinh đẻ, tử vong, di cư sau khoảng thời gian nhất định sẽ làm thay đổi quy mô nguồn lao động, cơ cấu dân số theo độ tuổi, giới tính, phân bố dân số theo độ tuổi lao động, theo vùng địa lý. Trong đó tỷ suất sinh có tác động đến quy mô nguồn lao động sau 15 năm, tỷ suất chết có thể tác động ngay đến nguồn lao động.
Tố độ tăng dân số cao sẽ làm giảm chất lượng cung lao động do xuất đầu tư phát triển cho một người ( giáo dục, đào tạo, y tế ) giảm.
Một nhân tố cũng rất quan trọng trong nhóm nhân tố nhân khẩu ảnh hưởng đến cung lao động là di dân.
Di dân được coi là dòng dân cư di chuyển, thay đổi chỗ ở và phân bố trong vùng lãnh thổ hoặc ra ngoài biên giới quốc gia. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc đưa dân đến ở và đảm bảo nguồn lao động cho hàng loạt nước và châu lục.
Đối với nhiều nước, di cư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm việc làm có tác dụng làm giảm thất nghiệp, có nghĩa là giảm nguồn cung lao động trong nước. Đối với những nước luôn có nguồn cung lao động cao hơn cầu như ở Việt Nam, thì đưa lao động ra nước ngoài làm việc là giải pháp tối ưu cả trước mắt và lâu dài.
Lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có quy mô nhỏ vì thị trường lao động ở đây vẫn kém phát triển, nguồn lao động tại chỗ dồi dào, giá cả sức lao động rất thấp nên không khuyến khích các nhà sản xuất sử dụng lao động là người nước ngoài. Tuy nhiên, việc di chuyển của lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam đã góp phần tăng hiệu quả chuyển giao công nghệ ngoại nhập, đảm bảo chất lượng các công trình kinh tế, góp phần đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường mối liên kết với thị trường lao động khu vực và quốc tế.
Ngày nay, Việt Nam là một nước xuất khẩu lực lượng lao động lớn trong khu vực cũng như trên thế giới. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một trong những chủ trương lớn của Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề lao động – việc làm, tăng thu nhập cho đất nước và người lao động.
Thứ hai là nhóm nhân tố về kinh tế.
Tiền công, tiền lương: tiền công thực tế cao sẽ hấp dẫn người dân tham gia vào thị trường lao động làm tăng cung lao động. Khi giá cả lao động tăng cao, thời gian làm việc trung bình của một người lao động trong tuần giảm.
Giá cả sinh hoạt cũng ảnh hưởng đến cung lao động, giá cả sinh hoạt nói chung càng cao thì tỷ lệ người tham gia vào thị trường lao động càng lớn.
Điều kiện làm việc tốt, phương tiện giao thông liên lạc thuận tiện, thời gian làm việc linh hoạt sẽ lôi kéo lao động tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động.
Thứ ba là các nhân tố văn hóa – xã hội
Hệ thống giáo dục, đào tạo và dạy nghề tốt với giá cả thấp sẽ giúp người lao động có khả năng tham gia thị trường lao động hơn.
Tình trạng phân biệt, đối xử với lao động nữ, giá cả và sự phổ biến các dịch vụ nội trợ ảnh hưởng mạnh đến cung lao động nữ. Mức lương, điều kiện học tập và sự thăng tiến của phụ nữ càng cao thì họ càng sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động. Tỷ lệ sinh cao thì người phụ nữ sẽ phải giành nhiều thời gian nghỉ và chăm sóc con cái thay vì đi làm.
Hệ thống an sinh xã hội tốt ( bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp…) có thể giúp người yếu thế trong xã hội không cần tham gia thị trường lao động.
1.1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động.
Cầu lao động là cầu dẫn xuất thông qua hàng hóa. Do vậy, ngoài tiền lương cầu lao động còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như: cầu hàng hóa - dịch vụ, thái độ của Chính Phủ với mục tiêu tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chính sách công nghệ…
Tiền công, tiền lương: tiền công giảm khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động hơn so với vốn để tranh thủ lợi thế nhân công rẻ, đồng thời kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất, và vì thế lại thêm một lần nữa doanh nghiệp cần thêm lao động.
Một vấn đề nữa là những quy định của Nhà nước về tiền lương tối thiểu cũng ảnh hưởng đến cầu lao động. Khi Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu cao hơn mức cân bằng của thị trường thì cầu lao động sẽ giảm hơn và khi tiền lương tối thiểu thấp hơn mức tiền lương cân bằng trên thị trường thì cầu lao động sẽ tăng lên.
Tăng trưởng kinh tế cao dẫn đến cầu lao động cũng tăng. Tuy nhiên, mối quan hệ này còn phụ thuộc vào phương thức tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao gắn liền với thay đổi cơ cấu kinh tế, hiện đại hóa trình độ công nghệ khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao dẫn đến cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tăng nhanh, trong khi cầu về lao động nói chung tăng chậm.
Cầu lao động phụ thuộc vào chính sách công nghệ quốc gia. Trình độ công nghệ càng hiện đại thì hàm lượng chất xám càng cao dẫn đến năng suất lao động càng tăng và cắt giảm nhu cầu về lao động sống. Các nước đang phát triển thường thiếu vốn, lao động dư thừa nên sức ép về việc làm mạnh dẫn đến lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động. Các nước phát triển và một số nước lựa chọn công nghệ cao để tăng năng suất lao động có thể làm giảm cung lao động.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ đô thị hóa làm tăng tỷ lệ người tham gia thị trường lao động. Nhu cầu việc làm phụ thuộc nhiều vào cấu trúc kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Tỷ lệ người tham gia thị trường lao động ở nông thôn rất thấp. Vì vậy, việc phát triển khoa học – công nghệ, đô thị mới, các ngành kinh tế trọng điểm sẽ làm cho người lao động sang khu vực phi nông nghiệp làm việc có năng suất lao động và tiền lương cao.
Cầu lao động phụ thuộc vào khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của khu vực Chính Phủ, doanh nghiệp và dân cư. Tăng vốn đầu tư làm tăng năng suất lao động, tăng việc làm, tăng thu nhập khiến cho cầu lao động tăng.
Cầu lao động phụ thuộc vào tăng dân số quốc gia. Dân số tăng nhanh tạo ra sức ép việc làm thì quốc gia phải lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động dẫn đến số lượng cầu tăng nhưng chất lượng cầu lao động giảm.
Cầu lao động phụ thuộc vào giá cả các nguồn lực khác: các nguồn lực khác được kể ở đây là vốn, đất đai, nguyên liệu,.... những nhân tố này được gọi chung là vốn..Trong nhiều trường hợp thì vốn và lao động là hai nhân tố thay thế nhưng mặt khác chúng cũng là hai nhân tố bổ sung.
Vốn và lao động được gọi là hai nhân tố thay thế khi giá của vốn giảm dẫn đến cầu lao động giảm. Ví dụ khi giá cả của các thiết bị máy móc chuyển hàng giảm thì doanh nghiệp sẽ sử dụng các máy móc đó thay vì thuê nhân công bốc vác, cầu lao động giảm. Ngược lại khi giá của vốn giảm dẫn đến cầu lao động tăng. Đó là trường hợp khi giá nguyên vật liệu đầu vào giảm làm chi phí biên của sản xuất giảm, doanh nghiệp sẽ có xu hướng mở rộng sản xuất và thuê thêm lao động.
Các chi phí điều chỉnh lực lượng lao động cũng ảnh hưởng đến cầu lao động: điều chỉnh lực lượng lao động là việc doanh nghiệp phải làm khi sa thải hay thuê thêm nhân công. Khi sa thải nhân công thì chi phí điều chỉnh chính là kinh nghiệm, kiến thức của nhân công bị sa thải trên dây chuyền sản xuất. Khi mở rộng sản xuất cần thuê thêm nhân công thì chi phí điều chỉnh chính là chi phí cho việc tuyển mới nhân công và việc đà._.o tạo nhân công mới vào làm.
Trước mỗi quyết định điều chỉnh thì doanh nghiệp phải xét đến việc điều chỉnh này có mang lại lợi nhuận cao hơn so với việc giữ nguyên quy mô lao động hay không. Thêm vào đó doanh nghiệp cũng phải xem xét đến chi phí điều chỉnh này có hợp lý hay không. Nếu chi phí điều chỉnh quá cao so với lợi ích đạt được của việc điều chỉnh thì doanh nghiệp sẽ không điều chỉnh lao động trên quy mô lớn mà có thể chỉ điều chỉnh trên từng bộ phận cần thiết.
Cầu lao động còn phụ thuộc vào các chế độ, chính sách của Nhà nước:
Một là các quy định của Nhà nước về đảm bảo việc làm cho người lao động. Đó là việc đặt ra các quy định khắt khe về sa thải lao động hoặc đặt ra một mức phí cho doanh nghiệp khi sa thái lao động. Tất cả những hành động này nhằm làm giảm bớt việc doanh nghiệp sa thải lao động hàng loạt song nó lại làm cho cầu lao động của doanh nghiệp giảm khi kinh tế tăng trưởng vì những khó khăn mà doanh nghiệp thấy được trước nếu nền kinh tế suy thoái là khó sa thải lao động.
Thứ hai là các chính sách xã hội của Nhà nước: Chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm y tế, chế độ ngày giờ làm việc. Các chính sách này có ảnh hưởng trực tiếp đến cầu lao động của doanh nghiệp. Theo quy định của Nhà nước thì doanh nghiệp sử dụng càng nhiều lao động thì càng phải đóng bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội càng nhiều tương ứng với số nhân công doanh nghiệp đó thuê. Vì vậy doanh nghiệp phải tuỳ theo nội lực của mình mà thuê lao động cho phù hợp. Chế độ ngày giờ làm việc cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến cầu lao động. Khi Nhà nước quy định từ làm việc 6 ngày một tuần xuống còn 5 ngày một tuần thì doanh nghiệp muốn đảm bảo sản lượng trong khi các điều kiện khác không đổi phải thuê thêm nhân công.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung – cầu trên thị trường lao động.
Hiệu quả hoạt động của thị trường lao động chi phối mạnh bởi sự thông thoáng trên thị trường lao động. Mọi yếu tố cản trở tìm việc làm của người lao động hay cản trở hoạt động tuyển dụng của doanh nghiệp đều làm xấu đi mối quan hệ cung – cầu trên thị trường lao động. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cung – cầu trên thị trường lao động là quản lý Nhà nước về lao động, hệ thống thông tin về thị trường lao động, hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm.
Quản lý Nhà nước về lao động giúp Chính phủ nắm được tình hình cung – cầu trên thị trường, làm cơ sở quyết định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch phân bổ và sử dụng lao động xã hội.
Hệ thống giao dịch và thông tin thị trường lao động phát triển sẽ nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về lao động, đồng thời điều tiết cung – cầu lao động thông qua việc xúc tiến quá trình tìm việc, tuyển dụng.
Sự phát triển hệ thống thông tin, giao dịch lao động lại phụ thuộc nhiều vào thái độ khuyến khích đầu tư của Chính phủ đối với các dự án trong lĩnh vực này. Quy hoạch các vùng kinh tế hợp lý sẽ giúp các địa phương mở rộng sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người lao động.
1.2. Phát triển thị trường lao động và các tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường lao động
1.2.1 Phát triển thị trường lao động.
Phát triển theo quan niệm triết học bao hàm sự biến đổi theo khuynh hướng tiến lên cả về mặt lượng và mặt chất của sự vật, hiện tượng và được thúc đẩy bằng các mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn bên trong là động lực chủ yếu.
Phát triển thị trường lao động bao hàm sự biến đổi hợp lý của quy mô thị trường lao động và dịch chuyển cơ cấu, mà liên hệ giữa các bộ phận cấu thành của thị trường lao động theo khuynh hướng tích cực. Như vậy, phát triển thị trường lao động có thể hiểu như sau: “ Phát triển thị trường lao động là quá trình dịch chuyển chủ động về quy mô, cơ cấu các yếu tố cầu thành và các mối liên hệ cơ bản trên thị trường lao động nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xã hội và con người”.
Từ khái niệm đó có thể thấy nội dung cơ bản của phát triển thị trường lao động bao gồm: sự kiểm soát về quy mô và nâng cao chất lượng cung lao động; tăng số lượng và chất lượng cầu lao động; sự cải thiện chế độ tiền lương và điều kiện làm việc; giảm tỷ lệ thất nghiệp; mở rộng quy mô và tăng chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ trên thị trường lao động.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường lao động.
1.2.2.1. Tiêu chí liên quan đến cung lao động.
Đánh giá cung lao động cần đánh giá cả về mặt số lượng và chất lượng.
Số lượng cung lao động được biểu hiện qua quy mô và mức độ biến động quy mô cung lao động, bao gồm: quy mô nguồn lao động; mức độ biến động quy mô nguồn lao động; quy mô lực lượng lao động; mức độ biến động quy mô lực lượng lao động. Nguồn lao động phản ánh cung tiềm năng của thị trường lao động, còn lực lượng lao động phản ánh cung thực tế của thị trường lao động.
Vế mặt chất lượng cung lao động được đánh giá thông qua trình độ thể lực, trí lực, ý thức của người lao động, mức độ phù hợp cơ cấu cung lao động so với yêu cầu của nền kinh tế.
Các tiêu chí để đánh giá trình độ thể lực của người lao động như: chiều cao, cân nặng, thể trọng của người lao động. Tuy nhiên để đánh giá chính xác thể lực của người lao động có thể sử dụng nhiều tiêu chí gián tiếp khác như: chế độ dinh dưỡng, mức độ chăm sóc y tế, tỷ lệ người mắc bệnh, tỷ lệ chết do bệnh dịch…
Về trí lực, các tiêu chí phản ánh là: trình độ văn hóa và trình độ học vấn của dân số và của những người từ 15 tuổi trở lên. Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao chứng tỏ chất lượng cung lao động được cải thiện…
Về mặt ý thức, chất lượng cung lao động được phản ánh thông qua: tác phong làm việc, tính kỷ luật trong lao động, gìn giữ và phát huy tốt giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại là lối sống lành mạnh.
Chất lượng cung lao động còn được đánh giá thông qua mức độ phù hợp của cơ cấu cung so với yêu cầu thực tế, các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu cung là: tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động, lực lượng lao động theo tuổi, giới tính, trình độ học vấn, chuyên môn, khu vực kinh tế, khu vực thành thị, nông thôn…
1.2.2.2. Tiêu chí liên quan đến cầu lao động.
Về số lượng: cầu lao động được đánh giá thông qua số chỗ làm việc đã được lấp đầy và số chỗ làm còn trống. Tổng số chỗ làm càng nhiều thì cầu lao động càng lớn. Tuy nhiên, để xác định số chỗ làm trong một nền kinh tế là rất khó vì con số này thường xuyên biến động. Để đánh giá được mức độ biến động của cầu lao động, có thể sử dụng tiêu chí số chỗ làm mới được tạo ra.
Về chất lượng: cầu lao động được đánh giá bằng các tiêu chí như: mức độ đầu tư, trình độ khoa học công nghệ, năng suất lao động, điều kiện làm việc, thời gian làm việc, nghỉ ngơi và mức độ linh hoạt trong thời gian làm việc, thu nhập của người lao động, bảo hiểm cho người lao động, khả năng đào tạo và phát triển nguồn lao động, chính sách tuyển dụng…
Tuy nhiên trên thực tế, việc thống kê các tiêu chí trên rất phức tạp. Vì vậy người ta sử dụng các tiêu chí sau: cơ cấu lao động có việc làm phân theo tuổi, giới tính; cơ cấu lao động có việc làm thông qua thành thị, nông thôn; cơ cấu lao động có việc làm phân theo trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật; cơ cấu lao động có việc làm trong các ngành kinh tế, loại hình kinh tế; cơ cấu lao động có việc làm phân theo khu vưc kinh tế; tỷ lệ lao động thiếu việc làm….
1.2.2.3. Tiêu chí về giá cả sức lao động.
Giá cả sức lao động được đánh giá qua tiêu chí tiền công và các khoản thu nhập hợp pháp khác từ công việc như: thưởng, phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội…Trong đó tiền công, tiền lương là tiêu thức căn bản phản ánh giá cả sức lao động. Một thị trường lao động phát triển thì tiền công, tiền lương phải trở thành nguồn thu nhập chính của đại bộ phận người lao động
Đánh giá trình độ phát triển của thị trường lao động cần dựa vào tính linh hoạt của hệ thống tiền lương, mức độ phản ánh đúng của tiền lương đối với năng suất lao động, mức sống dân cư, tăng trưởng kinh tế, khả năng điều tiết và điều phối lao động của tiền lương.
1.2.2.4. Hệ thống giao dịch và thông tin thị trường lao động.
Hệ thống giao dịch và thông tin thị trường lao động là tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của thị trường lao động. Sự phát triển của hệ thống giao dịch và thông tin thị trường lao động được thể hiện thông qua: số lượng, chất lượng, tình trạng hoạt động và hiệu quả của các trung tâm thông tin giao dịch.
Về số lượng, đánh giá sự phát triển của thị trường lao động theo các tiêu chí: số lượng trung tâm giao dịch, mức độ bao phủ của các trung tâm giao dịch, quy mô của các trung tâm giao dịch trên thị trường lao động.
Về mặt chất lượng, các tiêu chí phản ánh hoạt động và hiệu quả của hệ thống thông tin giao dịch gồm:
Tỷ lệ người được tiếp cận với hệ thống thông tin thị trường lao động và tốc độ tăng của tỷ lệ này qua các năm.
Tỷ lệ người thất nghiệp được tham gia giao dịch thông qua các sàn giao dịch chính thức và tốc độ tăng trưởng của tỷ lệ này qua các năm.
Số hội chợ việc làm được tổ chức hàng năm và quy mô của hội chợ việc làm.
Số chỗ làm trống được lấp đầy nhờ các sàn giao dịch.
Như vậy, có bốn tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển của thị trường lao động đó là: tiêu chí về cung lao động, tiêu chí về cầu lao động, tiêu chí về giá cả sức lao động và tiêu chí về hệ thông giao dịch và thông tin thị trường lao động. Cần phải nắm rõ bốn tiêu chí trên để đánh giá đúng về sự phát triển của thị trường lao động.
1.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường lao động ở một số quốc gia, địa phương.
1.3.1. Trung Quốc.
Ở Trung Quốc, quá trình hình thành và phát triển thị trường lao động gắn liền với quá trình cải cách và mở cửa nền kinh tế của nước này.
Từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980: Trung Quốc tiến hành mở cửa nền kinh tế, vì thế lao động dư thừa và thiếu việc làm lớn. Biện pháp được Chính phủ Trung Quốc áp dụng lúc này là mô hình “ 3 kết hợp”, nghĩa là Nhà nước sắp xếp công việc, tập thể tổ chức công việc và cá nhân tự tìm việc làm.
Gữa những năm 1980: Trung Quốc cho phép doanh nghiệp có quyền tự do ký kết hợp đồng lao động, ngược với chế độ biên chế suốt đời trước đây. Chính cơ chế này đã tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển thị trường lao động, các trung tâm dịch vụ việc làm và dịch vụ đào tạo kỹ thuật mới xuất hiện.
Từ năm 1980 đến đầu những năm 1990: công cuộc cải cách, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước diễn ra mạnh, số lao động dôi dư lớn. Trung Quốc đã có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát triển ngành nghề mới, thu hút lao động. Các sở giao dịch lao động xuất hiện góp phần đáng kể trong việc chắp nối cung – cầu lao động.
Đến cuối những năm 1990: lao động dôi dư càng lớn hơn do Nhà nước đẩy mạnh cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước, hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản. Chính phủ Trung Quốc đã quyết định và đưa vào hoạt động “ trung tâm tái tạo việc làm” cho người lao đông.
Từ năm 2001 đến nay: trọng tâm của giai đoạn này là phát triển một thị trường lao động thực thụ, nhằm phân bổ nguồn lực lao động có hiệu quả. Họ đang cố gắng hơn nữa hoàn thiện thể chế cho thị trường lao động, thay thế quan điểm, thói quen của đại bộ phận người lao động và của người sử dụng lao động cho thích ứng với thị trường lao động.
1.3.2. Nhật Bản.
Trước đây, trong thời kỳ “ thần kỳ” của nền kinh tế Nhật bản, tỷ lệ thất nghiệp ở mức rất thấp chỉ khoảng 1%. Thế những từ đầu những năm 1990 trở lại đây, tỷ lệ thất nhiệp ở nước này ngày một gia tăng: năm 1995 là 4,7%; năm 2002 là 5,4%. Hiện tượng thất nghiệp xảy ra ở mọi lứa tuổi, mọi khu vực, trong đó tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông nghiệp và công nghiệp tăng cao.
Để giải quyết tình trạng này, Chính phủ Nhật đã:
Thành lập mạng thông tin việc làm trên phạm vi cả nước qua Internet cho 2800 công ty hỗ trợ việc làm thực hiện.
Hỗ trợ tài chính để nâng cao trình độ cho công nhân.
Chú trọng giải quyết việc làm cho người cao tuổi.
Đào tạo lại nghề cho lao động trung niên.
Chính phủ cho phép thành lập và hỗ trợ tài chính cho các trung tâm hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ nhỏ để người lao động an tâm làm việc.
Đa dạng hóa các loại hình tuyển dụng và thuê mướn công nhân.
1.3.3.Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở nhu cầu lao động của xã hội.
Thứ hai, phát triển mạnh mẽ những ngành nghề ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học – công nghệ và những ngành nghế sử dụng nhiều lao động.
Thứ ba, phát triển hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động.
Thứ tư, thực hiện cải cách chế độ tiền lương, thu nhập của người lao động.
Thứ năm, sử dụng các trung tâm tái tạo việc làm như những bước quá độ để chuyển chế độ làm việc suốt đời trong các doanh nghiệp Nhà nước sang cơ chế phân bổ lao động theo nhu cầu thị trường.
Thứ sáu, phải từng bước hoàn thiện thể chế, tổ chức các thị trường lao động.
Thứ bảy, tăng cầu lao động bằng nhiều biện pháp.
Thứ tám, phát triển hệ thông an ninh xã hội.
->> Như vậy, trên cơ sở khái quát về thị trường lao động ở chương một, sau đây là thực trạng phát triển thị trường lao động tại thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến nay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA.
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
Nằm ở vị trí trung tâm của vùng đồng bằng Sông Hồng với diện tích 920,97 km2, chiếm 0,28% diện tích cả nước. Hà Nội có dân số 3,3 triêu người ( năm 2006), trong đó dân số thành thị chiếm 62,55%, dân số nông thôn chiếm 37,45%, mật độ dân số là 3583 người/km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,15%. Hà Nội là thành phố tập trung nguồn nhân lực trí tuệ dồi dào, chiếm 62% số cán bộ khoa học và quản lý có trình độ trên đại học, giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ của cả nước hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Lượng dân đi di cư tự do vào Hà Nội chiếm 7% dân số, tạo ra lượng lớn lao động cho thủ đô.
Hà Nội gồm 9 quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai; 5 huyện: Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Sóc Sơn. Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ, thương mại, du lịch… đầu mối giao lưu kinh tế của cả nước, có vai trò kinh tế quan trọng trong khu vực. Hà Nội là nơi tập trung cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, các viện nghiên cứu khoa học, các trung tâm đào tạo, dạy nghề lớn của cả nước. Phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, phía nam giáp tỉnh Hà Tây, phía đông và đông nam giáp tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc.
Hà Nội có mạng lưới sông ngòi, ao hồ tương đối dày đặc như sông Hồng, sông Đuống, sông Cà Lô… là nguồn cung cấp nước thường xuyên cho đồng ruộng và là nơi nuôi trồng thủy sản.
Hà Nội nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ trung bình mùa đông 17,2độ C, ít năm nhiệt độ xuống dưới mức 7 độ C. Trung bình mùa hạ 29,2độ C, ít năm nhiệt độ trên mức 39độ C. Nhiệt độ trung bình cả năm 23,2độ C. Mưa trung bình hàng năm 1900 mm. Với khí hậu như vậy thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, cơ cấu cây trồng phong phú, tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao.
Hà Nội được Đảng, Nhà Nước xác định là vùng kinh tế trọng điểm của phía Bắc, một đỉnh của tam giác tăng trưởng kinh tế gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước và quốc tế., từ đây có các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Hà Nội cũng nằm gần hệ thống cảng biển lớn như Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông. Vị trí đó tạo những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trao đổi buôn bán hàng hóa, gắn với thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt là đối với thị trường Đông Á và Đông Nam Á, tăng cường tiềm lực kinh tế, phát triển du lịch dịch vụ, ngành sản xuất vật liệu xây dựng, ngành cơ khí chế tạo tương đối hiện đại.
Với những điều kiện tự nhiên và địa lý như vậy cho phép Hà Nội khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
* Tăng trưởng kinh tế của Hà Nội.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Hà Nội năm 2006 là 11% đến năm 2007 GDP của thành phố đã là 12,1% ( tăng 1,1% ) cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước ( cả nước 8,5% ).
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hà Nội.
Hơn 20 năm thực hiện chủ trương đổi mới của Ðảng, cơ cấu kinh tế của thủ đô Hà Nội đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nhiều lĩnh vực, sản phẩm từng bước được nâng cao, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng chung của cả nước.
Năm 2006 cơ cấu kinh tế tế của Hà Nội là: Công nghiệp chiếm 41,2%, Dịch vụ chiếm 57,6%, nông nghiệp chiếm 1,2%.
* Đầu tư.
Năm 2002 có 673 dự án về công nghệ và dịch vụ, tạo việc làm cho gần 50.000 lao động. Năm 2003 tổng đầu tư xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đạt 10.802 tỷ đồng. Trong đó vốn trong nước chiếm 85,8%, vốn nước ngoài chiếm 14,2%. Cấp đăng ký kinh doanh cho 2.970 doanh nghiệp với số vốn đăng ký khoảng 6.500 tỷ.
Năm 2006 tổng đầu tư xã hội trên địa bàn đạt 41900 tỷ đồng, tăng gấp 4 lần so với năm 2003. Trong năm 2006, Hà Nội thu hút được 182 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 1,2 tỷ USD và có khoảng 9700 doanh nghiệp trong nước đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký khoảng 28 nghìn tỷ đồng. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 35117 tỷ đồng, bằng 101% dự toán năm và tăng 14% so với năm 2005.
* Việc làm.
Trong 5 năm từ năm 2001 đến năm 2005 toàn thành phố đã giải quyết được việc làm cho 356.295 người, bình quân 71.259 người/năm. Trong đó số người có công việc ổn định là 180.966 người chiếm 50,8% tổng số lao động được giải quyết việc làm; số người công việc không ổn định là 175.329 người chiếm 49,2% tổng số lao động được giải quyết việc làm.
Công tác giải quyết việc làm đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ngành quan tâm, coi là một trong những vấn đề bức xúc của thành phố. Thành phố đã thực hiện lồng ghép chương trình giải quyết việc làm với các chương trình kinh tế - xã hội khác như: chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình người nghèo phát triển kinh tế…
Đẩy mạnh sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị, công nghệ tạo ra môi trường cạnh tranh nhằm phát triển sản xuất và thu hút lao động.
Thành phố cũng xây dựng các chính sách ưu đãi về đầu tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Hà Nội nhằm tạo nguồn xuất khẩu lao động tại chỗ.
* Y tế.
Theo đánh giá của bảo hiểm xã hội thành phố, mặc dù việc thu bảo hiểm xã hội được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành nhưng kết quả còn quá thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các đơn vị, doanh nghiệp chưa thực hiện đúng qui định về việc trích nộp bảo hiểm.
Mặt khác bảo hiểm xã hội các quận, huyện chưa năng động, thường xuyên bám sát cơ sở để đốc thu và cán bộ bảo hiểm xã hội chưa thực sự chủ động trong công việc. Một số bảo hiểm xã hội cơ sở đã chú trọng tới công tác khai thác, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội song hiệu quả chưa cao.
Để tăng nguồn thu, bảo hiểm xã hội Hà Nội tập trung khai thác thu bảo hiểm khu vực ngoài quốc doanh, yêu cầu các đơn vị này tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội thành phố còn tăng cường kiểm tra, thanh tra liên ngành tại các đơn vị sử dụng lao động, kịp thời phát hiện những thiếu sót, điều chỉnh những bất cập trong công tác quản lý và giải quyết chế độ bảo hiểm kịp thời.
Đến nay, thành phố Hà Nội đã có 621.550 người được cấp sổ bảo hiểm xã hội. Một số khu vực đạt tỷ lệ cao trong thu bảo hiểm xã hội là khối hành chính sự nghiệp 98,9 tỷ đồng, khối liên doanh và văn phòng đại diện 67,6 tỷ đồng, các doanh nghiệp nhà nước 52,6 tỷ đồng... Sắp tới, bảo hiểm xã hội Hà Nội yêu cầu các đơn vị đẩy mạnh việc đốc thu, phấn đấu đưa tổng thu trong nửa đầu năm 2006 lên 722 tỷ đồng.
* Giáo dục.
Trong những năm qua chất lượng giáo dục đào tạo Hà Nội tiếp tục giữ vững vị trí hàng đầu của cả nước về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thủ đô và đất nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 2000- 2005, quy mô đào tạo đã tăng gấp 3 lần với 1,2 vạn học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng và 1,8 vạn học sinh vào trung học chuyên nghiệp. Phổ cập trung học phổ thông đạt 75% thành niên trong độ tuổi. Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục từ 20% tổng chi ngân sách năm 2000 tăng lên 22,5% năm 2005. Năm học 2007-2008, ngành giáo dục thành phố tiếp tục tập trung chỉ đạo giữ vững chất lượng giáo dục toàn diện, nâng cao chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn. Thực hiện chương trình đổi mới sách giáo khoa giáo dục phổ thông, thực hiện tốt công bằng trong giáo dục đào tạo, tích cực chuẩn bị các điều kiện cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.Giáo dục mầm non năm học 2007-2008 có 366 trường (tăng 10 trường so năm học trước), số trẻ đi học nhà trẻ là 21,9 ngàn cháu (tăng 4,6% so năm học trước), đạt 17% số trẻ trong độ tuổi; 114,9 ngàn cháu đi mẫu giáo (tăng 5,7%) đạt 87% số trẻ trong độ tuổi. Giáo dục tiểu học năm học 2007-2008 có 280 trường tiểu học (tăng 3 trrường so năm học trước) với 6352 lớp học và 201,6 ngàn học sinh (giảm 0,16% so năm học trước), công tác phổ cập giáo dục đúng độ tuổi được duy trì với hiệu quả cao. Số học sinh tuyển vào học lớp 1 là 46,8 ngàn học sinh, đạt 99,9% trẻ trong độ tuổi, huy động được tối đa số trẻ tàn tật có sức khoẻ tới các lớp học hoà nhập hoặc chuyên biệt với số lượng 1,7 ngàn học sinh. Tổ chức học 2 buổi/ngày được triển khai ở tất cả các quận huyện đạt tỷ lệ 91% tăng 6% so năm học trước.Giáo dục phổ thông trung học cơ sở năm học 2007-2008 có 219 trường (tăng 5 trường so năm học trước) với 4514 lớp học và 174,9 ngàn học sinh. Tuyển mới được 43,4 ngàn học sinh hoàn thành tiểu học vào học lớp 6, huy động được 405 học sinh khuyết tật đến lớp học tập trung và hoà nhập, tổ chức học 2 buổi/ngày cho 65,1 ngàn học sinh, đạt tỷ lệ 35,9% và tăng 8,4% so năm học trước.Giáo dục trung học phổ thông năm học 2007-2008 có 103 trường (tăng 3 trường so năm học trước) với 2677 lớp học và 119,9 ngàn học sinh (tăng 2,4%) trong đó tuyển mới vào lớp 10 là 42,3 ngàn học sinh đạt tỷ lệ 94%. Huy động được 16 học sinh khuyết tật đến lớp học tập trung và hoà nhập.Giáo dục thường xuyên: hiện nay Thành phố Hà Nội có 16 trung tâm giáo dục thường xuyên, 12 trường bổ túc văn hoá và 231 trung tâm học tập cộng đồng với 17,5 ngàn học sinh. Năm học 2007-2008 có 5000 học viên vào lớp 10 và 6,3 ngàn học viên hoàn thành trương chình bổ túc dự thi tốt nghiệp. Công tác chống mù chữ và tái mù chữ được chỉ đạo tốt, hiện có 792 học viên theo học trong đó xóa mù chữ được 20 học viên và bổ túc tiểu học được 772 học viên.Công tác đào tạo từ xa và bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học tiếp tục được chỉ đạo có hiệu quả hiện có 93 trung tâm ngoại ngữ, 82 trung tâm tin học được Sở GDĐT Hà Nội quản lý với 23 ngàn học viên ngoại ngữ và 15 ngàn học viên tin học, đào tạo từ xa 1,5 ngàn người.
Xây dựng và triển khai chính sách thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ và nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng công tác khuyến học. Đây là những tiền đề quan trọng tạo ra đỗi ngũ những người lao động, nhà quản lý, người kinh doanh có trình độ chuyên môn. Bên cạnh những thành tựu đó Hà Nội vẫn còn một số những hạn chế như quy hoạch mạng lưới chưa thật hợp lý, cơ sở vật chất tuy đã được kiên cố hóa cao nhưng chưa đáp ững yêu cầu của việc nâng cao chất lượng; nhận thức của một số cấp ủy Đảng, chính quyền và xã hội về vị trí giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa được chuyển thành sự quan tâm đầu tư tương xứng về bgâb lực, tài lực, chất lượng giáo dục chưa đồng đều, một số hiện tượng như dạy thêm học thêm, thu chi sai quy định chưa được khắc phục triệt để, mối quan hệ giữa phát triển quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo giữa nhu cầu học tập của nhân dân và điều kiện kinh tế - xã hội chưa được giải quyết tốt.
* Cơ sở hạ tầng
Bên cạnh những thành quả đáng khích lệ về kinh tế, công tác quản lý, xây dựng đô thị cũng chuyển biến tích cực. Thành phố đã phối hợp triển khai nghiên cứu vùng thủ đô, tập trung xây dựng và điều chỉnh các quy hoạch kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng quận, huyện, ngành. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thủ đô Hà Nội năm 2030 và tầm nhìn năm 2050; quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội giai đoạn 2010, 2020… Quản lý trật tự xây dựng được tăng cường; hiện tượng lấn chiếm đất công, sử dụng đất sai mục đích, xây dựng trái phép giảm; việc thu hồi đất để hoang hóa, sử dụng sai mục đích được quan tâm chỉ đạo; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở trên địa bàn thành phố được đẩy mạnh và đạt kết quả khá. Đang xây dựng thêm 40 khu đô thị mới và nhiều chung cư cao tầng hiện đại, xây dựng mới trên 6 triệu m2 nhà ở, nâng diện tích nhà ở bình quân đầu người lên 7,5m2. Chỉ đạo xây dựng 70 tuyến phố văn minh, tạo diện mạo mới cho đô thị.
2.2. Thực trạng thị trường lao động ở thành phố Hà Nội.
2.2.1. Cung lao động.
2.2.1.1. Quy mô lực lượng lao động.
Lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc khi tìm được việc, hay bao gồm những người có việc làm và thất nghiệp.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động gồm những người thuộc lực lượng lao động với độ tuổi: nam từ 15 đến 60 tuổi; nữ từ đủ 15 đến 55 tuổi.
Lực lượng lao động chia theo giới tính
Đơn vị: người
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng số
1378999
1474783
1512542
1535520
1575951
1610723
1644016
Nam
SL
672917
721845
773540
780174
803517
825411
840652
TL
48,80
48,95
51,14
50,80
50.99
51,24
51,13
Nữ
SL
706082
752938
739002
755346
772434
785312
803364
TL
51,20
51,05
48,86
49,92
49,01
48,76
48,87
Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng lực lượng lao động từ năm 2001 đến năm 2007 tăng lên rất lớn. Năm 2001 lực lượng lao động của thành phố là 178999 người nhưng đến năm 2007 đã tăng là 1644016 người, tức là tăng lên 265017 người. Trung bình mỗi năm có 44170 người tham gia vào lực lượng lao động. Trong đó tỷ lệ lao động lao động nam có xu hướng tăng lên và lao động nữ có xu hướng giảm đi trong lực lượng lao động: năm 2001 lao động nam chiếm 48,80% lực lượng lao động nhưng đến năm 2007 chiếm 51,13%; lao động nữ năm 2001 chiếm 51,20%, năm 2007 chiếm 48,87% lực lượng lao động. Như vậy có thể nói rằng lực lượng lao động nam vẫn chiếm ưu thế về số đông so với lực lượng lao động nữ. Đó là do một bộ phận lực lượng lao động nữ có xu hướng làm nội trợ, sinh đẻ, hưởng thụ… và trong gia đình chỉ cần có nam giới tham gia vào thị trường lao động.
2.2.1.2. Tỷ lệ người tham gia lực lượng lao động.
Tỷ lệ người tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi lao động
Đơn vị: Người, %
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
LLLĐ
1378999
1474783
1512542
1535520
1575951
1610723
1644016
Trong ĐTLĐ
1311135
1390061
1448464
1467224
1504431
1556328
1592367
Tỷ lệ Trong ĐTLĐ/LLLĐ
95,08
94,26
95,77
95,55
95,46
96,62
96,86
Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
LLLĐ trong độ tuổi chiếm trong tổng lực lượng lao động của thành phố Hà Nội khá cao. Tỷ lệ LLLĐ trong độ tuổi lao động có xu hướng ngày càng tăng lên, năm 2001 tỷ lệ người tham gia LLLĐ trong độ tuổi lao động chiếm 95,08% lực lượng lao động thì đến năm 2007 đã là 96,86%, tức là tăng lên 1,78%. Trung bình mỗi năm tỷ lệ người tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 95,66%/năm.
2.2.1.3. Cơ cấu của lực lượng lao động.
* Cơ cấu của lực lượng chia theo nhóm tuổi.
Cơ cấu và số lượng lực lượng lao động trong độ tuổi
lao động theo nhóm tuổi
Đơn vị: người, %
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
LLLĐ
trong
ĐTLĐ
SL
1311135
1390061
1448464
1467224
1504431
1556328
1592367
TL
100
100
100
100
100
100
100
15 – 24
SL
213220
222848
234797
214823
204465
207626
231380
TL
16,26
16,03
16,21
14,64
13,59
13,34
14,53
25 – 34
SL
385253
406058
425995
465264
458421
486371
511966
TL
29,38
29,21
29,41
31,71
30,47
31,25
32,15
35 – 44
SL
424164
427038
419486
395869
413282
440765
423749
TL
32,35
30,72
28,96
26,98
27,47
28,32
26,61
45–55
(60)
SL
288498
334117
368186
391268
428263
421566
425272
TL
22
24,04
25,42
26,66
28,47
27,09
26,71
Ngoài ĐTLĐ
SL
67864
84722
64078
68296
71520
54395
51649
TL
5,18
6,09
4,42
4,65
4,75
3,50
3,24
Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
Từ bảng trên có thể thấy rằng, LLLĐ trong động độ tuổi từ 15 – 24 có xu hướng tăng lên về số lượng nhưng lại giảm đi về tỷ lệ: năm 2001 LLLĐ trong độ tuổi từ 15 – 24 là 213220 người chiếm 16,26% lực lượng trong độ tuổi lao động thì đến năm 2007 con số này là 231380 người chiếm 14,53%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều này là ở độ tuổi này nhiều người còn đang tham gia học tập và tham gia lực lượng quân sự.
LLLĐ trong động độ tuổi từ 25 – 34 tăng lên cả về số lượng và tỷ lệ: năm 2001 là 385253 người chiếm 29,38% đến năm 2007 tăng lên là 511966 người chiếm 32,15% lực lượng trong độ tuổi lao động. Nguyên nhân là do ở độ tuổi này nhiều người đã học tập xong và có lợi thế về trình độ chuyên môn.
LLLĐ trong động độ tuổi từ 35 – 44 giảm đi cả về số lượng và chất lượng: năm 2001 là 424164 người chiếm 32,35% đến năm 2007 con số này là 423749 người chiếm 26,61% lực lượng trong độ tuổi đó là do trong những năm gần đây Nhà nước thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và cắt ._.t triển các ngành mũi nhọn, các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động.
Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động không những có vai trò quyết định trong việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa phát triển toàn diện kinh tế - xã hội mà còn tạo điều kiện cho mỗi người có thể tìm được công việc phù hợp, có thu nhập cao hơn từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư có bản, lâu dài. Trong đào tạo chuyên môn nghề nghiệp cũng phải nhất quán theo nguyên tắc của cơ chế thị trường nhiều thành phần với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, có chọn lọc, có cạnh tranh. Người học có thể chọn thầy, chọn lớp, chọn nghề phù hợp để học. Cần phải tăng cường sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề, hạn chế những hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực này. Có chính sách ưu tiên đối với các đối tượng chính sách như: con thương binh, liệt sỹ, những người có công. Để nâng cao chất lượng nguồn lao động ở thủ đô trong những năm tới nhằm đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động chúng ta cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau đây:
Quy hoạch lại hệ thống mạng lưới đào tạo nghề theo hướng xã hội hóa tập trung xây dựng các trường nghề chất lượng cao phù hợp với nhu cầu phát triển thông qua một số giải pháp:
Nhà nước sẽ tập trung đầu tư xây dựng các trường cao đẳng nghề có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ cao mà tư nhân không có khả năng đầu tư để đào tạo công nhân kỹ thuật cao nhằm đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành công nghệ cao và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao động kỹ thuật cao.
Thực hiện cơ chế ưu đãi về tín dụng, đất đai, thủ tục đầu tư để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia công tác đào tạo nghề, tạo điều kiện cho các Tổng công ty, doanh nghiệp, quận, huyện liên kết mở thêm các cơ sở dạy nghề để dạy nghề cho người lao động theo điạ chỉ và đào tạo lại tay nghề cho đội ngũ công nhân lao động hiện có trên cơ sở tận dụng và phát huy lợi thế về đất đai, máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp.
Có chính sách thu hút tài năng, bổ sung đội ngũ giáo viên giỏi cho các trường dạy nghề:
Ưu tiên tuyển dụng học sinh tốt nghiệp đại học loại giỏi thuộc các chuyên ngành kinh tế kỹ thuật đồng thời có chính sách ưu đãi để thu hút giáo viên dạy nghề giỏi của các tỉnh về các trường, cơ sở dạy nghề thuộc Thành phố Hà Nội quản lý.
Ưu tiên đối tượng học viên tốt nghiệp bằng nghề giỏi được đào tạo liên thông lên cao đẳng, đại học và sau khi tốt nghiệp sẽ bố trí làm giáo viên dạy nghề.
Có kế hoạch hợp tác với các trường đào tạo kỹ thuật, đào tạo nghề Quốc tế nhằm tăng cường cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ cho đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề của Hà Nội. Bố trí cho các giáo viên dạy nghề của thành phố có cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng giảng dạy trong và ngoài nước.
Đổi mới chương trình đào tạo, biên soạn lại giáo trình, giáo án, đổi mới trang thiết bị dạy và học cho phù hợp với yêu cầu thực tế của doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Tăng cường chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo nghề, đặc biệt mở rộng hệ thống thông tin thị trường lao động trên phạm vi toàn thành phố nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, tăng cường đào tạo nghề dài hạn theo địa chỉ, đào tạo gắn với yêu cầu của thị trường lao động và phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động chất lượng cao.
Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý đào tạo nghề.
3.2.2. Giải pháp phát triển cầu lao động.
3.2.2.1. Chuyển đổi cơ cấu lao động.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự chuyển dịch đồng bộ trên các mặt, cả về cơ cấu ngành nghề, trình độ kỹ thuật các vùng nội, ngoại thành và các thành phần kinh tế… Tất cả đều nhất quán theo hướng vừa đảm bảo việc phát triển hiện đại, tiên tiến, vừa khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có của thủ đô và các cùng xung quanh.
Những năm tới các doanh nghiệp Nhà nước sẽ tiếp tục phát triển nhưng chủ yếu đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị, công nghệ, số lao động thu hút thêm không nhiều và chủ yếu sử dụng lao động có kỹ thuật cao. Phần lớn số lao động sẽ tiếp tục thu hút mạnh vào các cơ sở sản xuất kinh doanh ở mọi thành phần kinh tế. Mỗi năm khu vực này ở Hà Nội có thể thu hút được hơn 30000 lao động. Cần nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở cả nội thành và các vùng nông thôn, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển mạnh hơn nữa. Đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ kinh doanh nhỏ để tạo việc làm, đây là hướng cơ bản để tạo việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Liên quan đến vấn đề này là hàng loạt các biện pháp đồng bộ từ Luật Doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư, chính sách hộ khẩu, chính sách thuế, vốn… đến quy hoạch tổ chức lại các vỉa hè, chợ, quản lý đô thị… đặc biệt là đào tạo các chủ doanh nghiệp trẻ, các chủ hộ sản xuất kinh doanh, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về thị trường và quản trị doanh nghiệp.
Để thực hiện các mục tiêu trên, cần chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu nền kinh tế, tổ chức lại lao động xã hội để khai thác và phát triển tiềm năng các thành phần kinh tế. Trước hết là vấn đề việc làm ở khi vực nông nghiệp và nông thôn: Trong quá trình chuyền dịch cơ cấu kinh tế đây là khu vực thiếu việc làm và thừa lao động phổ biến nhất. Cần phải nhanh chóng đa dạng hóa việc làm, đa dạng hóa thu nhập như là hình thức phổ biến ở nông thôn. Phải giảm dần số hộ thuần nông, giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người quá thấp. Đa dạng hóa các ngành nghề, thực hiện người lao động nào giỏi việc gì làm việc ấy, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động. Giao đất ổn định lâu dài cho nông dân, phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng sản xuất, kinh doanh nông sản hàng hóa, phát triển các trang trại là hình thức tạo việc làm phổ biến và thích hợp nhất. Phát triển kinh tế hộ gia đình từ đó sẽ dẫn đến liên kết các hộ sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, các hình thức liên doanh, liên kết các Hợp tác xã tự nguyện, hình thành các xí nghiệp nhỏ ở nông thôn, khuyến khích các hộ gia đình mở mang cơ sở sản xuất kinh doanh, đầu tư công nghệ, vốn và kinh nghiệm tiếp cận thị trường, thúc đẩy việc tuyển lao động để trở thành doanh nghiệp nhỏ. Tạo việc làm phải gắn với khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống.
3.2.2.2. Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động.
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, thị trường lao động cũng hình thành và phát triển. Thị trường lao động ra đời tất yếu hình thành hệ thống dịch vụ việc làm với vai trò cầu nối giữa cung và cầu lao động nhằm đảm bảo cho thị trường lao động phát triển ở thế cân bằng, hạn chế những tác động xấu về mặt xã hội. Chính vì vậy, các trung tâm giới thiệu việc làm có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm: vừa tạo điều kiện cho sự tiếp xúc giữa cung – cầu lao động, vừa đào tạo dạy nghề, nâng cao chất lượng lao động, hơn nữa còn cung câp thông tin và góp phần điều tiết sự hoạt động của thị trường sức lao động. Để hệ thống dịch vụ việc làm thực sự trở thành cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động góp phần điều tiết được sự hoạt động của thị trường lao động cần tác động các giải pháp như tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố, rà soát lại chức năng của trung tâm dịch vụ việc làm, đặc biệt là các trung tâm dịch vụ Nhà nước theo hướng tăng cường chức năng tư vấn và giới thiệu việc làm, thông tin và phân tích thị trường lao động, trợ cấp người thất nghiệp. Tiếp tục thực hiện cơ chế chính sách về hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm trong điều kiện có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân và các tổ chức xã hội theo hướng cấp giấy phép hoạt động có điều kiện. Chấm dứt hoạt động của các trung tâm không đủ điều kiện thực hiện các chức năng và nhiệm vụ về dịch vụ việc làm. Củng cố mạng lưới về dịch vụ việc làm trên địa bàn thành phố, trong đó chú trọng mở rộng mạng lưới các trung tâm dịch vụ việc làm ở khu vực ngoại thành, gần các khu công nghiệp để cung cấp lao động có kỹ thuật cao cho các khu công nghiệp này. Đầu tư tăng cường năng lực đào tạo nghề cho một số trung tâm dịch vụ việc làm có kinh nghiệm đào tạo nghề để có thể tham gia đào tạo nghề với các trường và trung tâm dạy nghề. Mỗi trung tâm dịch vụ việc làm tập trung vào 2 – 3 nghề ngắn hạn chủ yếu có thế mạnh, đặc biệt là đào tạo nghề bổ sung để phục vụ nhu cầu chuyển đổi nghề và nâng nghề cho người lao động.
Với mục tiêu hệ thống dịch vụ việc làm phải thực sự trở thành cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho chương trình giải quyết việc làm, thành phố cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện quy hoạch, củng cố lại hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giới thiệu việc làm phù hợp với thị trường lao động của thành phố thông qua các giải pháp sau:
Đối với hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm thành lập theo nghị định 72/CP của chính phủ:
Thành lập lại hoặc thỏa thuận thành lập lại theo nghị định 19/2005/NĐ – CP của Chính phủ, trung tâm nào đủ điều kiện, có khả năng phát triển và có phương hướng hoạt động phù hợp với thị trường lao động của thành phố cho thành lập lại, Trung tâm không đủ điều kiện và phương hướng hoạt động không rõ ràng, không phù hợp sẽ chuyển hướng hoạt động (Hệ thống này sẽ duy trì 7 trung tâm, trong đó sẽ đầu tư nâng cấp hiện đại hóa một trung tâm thành trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn tương đương với các nước phát triển trong khu vực).
Đối với hệ thống dịch vụ việc làm thuộc các doanh nghiệp hoạt động theo
luật doanh nghiệp:
Thực hiện cấp giấy phép hoạt động, giới thiệu việc làm cho các Doanh nghiệp có đủ điều kiện quy định tại Nghị định 19/2005/NĐ – CP, các Doanh nghiệp không đủ điều kiện Thành phố sẽ rút chức năng giới thiệu việc làm ghi trong giấy phép đăng ký kinh doanh ( Hệ thống này sẽ quy hoạc từ 80 – 100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu việc làm theo hướng mở rộng mạng lưới dịch vụ việc làm ra các vùng ngoại thành đặc biệt là các vùng đô thị hóa, khu công nghiệp, cụm công nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động ). Chỉ doanh nghiệp nào có giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm do sở Lao động Thương binh và Xã hội cấp mới được phép hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu việc làm.
Sau khi quy hoạch sẽ tuyên truyền rộng rãi hệ thống giới thiệu việc làm của thành phố trên phương tiện thông tin đại chúng để người lao động và người sử dụng lao động biết và liên hệ nhằm hạn chế tình trạng lộn xộn, tự phát trong hoạt động giới thiệu việc làm hiện nay.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm và các Doanh nghiệp trong lĩnh vực giới thiệu việc làm theo hướng: Tăng cường chức năng tư vấn, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, thu nhập, cung cấp và phân tích thông tin thị trường lao động nhằm trợ giúp những người thất nghiệp, thiếu việc làm.
Thứ hai, từng bước thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao động, nối mạng hệ thống giới thiệu việc làm trên địa bàn toàn thành phố, duy trì và phát triển Website “ Vieclamhanoi.net” nhằm cung cấp mọi thông tin cung – cầu lao động trên thị trường lao động cho người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển lao động, người lao dộng có nhu cầu tìm việc làm và giải đáp pháp luật cho người lao động.
Thứ ba, tăng cường vai trò Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ việc làm, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giới thiệu việc làm cho đội ngũ giám đốc và cán bộ công nhân viên trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm của các trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh nghiệp.
Thứ tư, thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động của hệ thống giới thiệu việc làm trên địa bàn thành phố nhằm phát hiện và uốn nắn các sai phạm trong hoạt động giới thiệu việc làm đồng thời xử lý nghiêm minh và kiên quyết đối với các đơn vị có sai phạm, hoạt động kém hiệu quả với các hình thức ( xử phạt hành chính, rút chức năng giới thiệu việc làm,…)
Thứ năm, Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội Hà Nội phối hợp với Bộ, Sở, Ngành có liên quan kết hợp chặt chẽ với các quận, huyện, phường, xã triển khai thực hiện việc kiểm tra thường xuyên hoạt động dịch vụ việc làm trên địa bàn, tham mưu cho ủy ban nhân dân thành phố có biện pháp xử lý đối với những cơ sở không có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm và không có tên trong hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm ở Hà Nội theo quy định tại thông tư số 08/LĐTBXH – TT ngày 10/03/1997 của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội.
3.2.2.3. Phát triển mạnh quan hệ kinh tế với các nước và xuất khẩu lao động.
Phát triển mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài là một giải pháp tăng cầu lao động trên thị trường lao động dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng và là hướng đi quan trọng để giải quyết việc làm, đồng thời còn nâng cao chất lượng nguồn lao động. Có thể nêu ra những hình thức cơ bản sau đây: đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu; nhận đầu tư trực tiếp từ nước ngoài; liên doanh, hợp tác sản xuất gia công chế biến; phát triển dịch vụ du lịch quốc tế; xuất khẩu lao động sang các nước.
Mỗi hình thức đều có những đòi hỏi riêng, đều có tác dụng trực tiếp đến giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, sản xuất và gia công hàng hóa xuất khẩu có ý nghĩa to lớn, khai thác đươc thế mạnh của ta là lao động trẻ, khéo tay, nguyên liệu trong nước phong phú… Cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các cơ sở gia công xuất khẩu ,nhất là đối với loại hàng hóa sử dụng nhiều lao động, giải quyết được nhiều việc làm cho nhiều người như may mặc, thêu, giày da, lắp ráp điện tử,… Coi đây là một trong những giải pháp quan trọng, mũi nhọn của thủ đô, vừa tạo ra tích lũy ban đầu, vừa giải quyết việc làm cho người lao động.
Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp được nhiều nước trên thế giới quan tâm và khai thác tối đa. Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là hướng quan trọng vừa giải quyết việc làm cho thanh niên, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ, phát triển kinh tế xã hội trong nước, vừa góp phần tạo việc làm nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức của người lao động. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động, đặc biệt là theo dõi việc thi tuyển, đưa đi và đánh giá hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động của các đơn vị xuất khẩu lao động và xử lý các sai phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động. Nâng cao năng lực của các đơn vị làm công tác xuất khẩu lao động trực tiếp, đặc biệt là công tác tìm kiếm thị trường va nắm bắt nhu cầu đào tạo đối với từng loại ngành nghề, thị trường cụ thể, tiến hành rà soát và đánh giá lại hệ thống xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố. Gắn hoạt động xuất khẩu lao động với công tác đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề để đảm bảo các yêu cầu về trình độ, tác phong và ngoại ngữ đối với thị trường cụ thể.
Tăng cường mối liên hệ giữa các doanh nghiệp với các cơ sở xuất khẩu lao động để tiết kiệm kinh phí đào tạo cũng như đảm bảo các phẩm chất khác của người lao động. Xây dựng các cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia vào việc đào tạo lại lao động cho xuất khẩu cũng như đảm bảo việc làm cho người lao động sau khi về nước.
Đổi mới nhận thức về tầm quan trọng của xuất khẩu lao động trong các ngành, các cấp và người lao động, đồng thời làm rõ trách nhiệm của gia đình, của các cấp cơ sở xã, phường, quận, huyện trong việc chuẩn bị nguồn lực cho xuất khẩu lao động của thành phố, nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong hoạt động xuất khẩu lao động của thành phố. Chủ động nắm bắt thông tin thị trường lao động ngoài nước và nhu cầu đi xuất khẩu của người lao động qua đăng ký ở các phường, xã đồng thời chủ động quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, trên cơ sở đó chuẩn bị sẵn sàng nguồn lao động đủ điều kiện về tay nghề, ngoại ngữ, sức khỏe,… để kịp thời đáp ứng yêu cầu lao động của các doanh nghiệp.
Gắn trách nhiệm của gia đình, cấp ủy chính quyền cơ sở để tuyển chọn lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lao động của các nước. Phối hợp với các ngân hàng chính sách xã hội thành phố, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tạo điều kiện thuận lợi để người lao động vay vốn đi xuất khẩu lao động.
Để thực hiện được những điều trên chính quyền thành phố Hà Nội cần có các giải pháp về xuất khẩu lao động sau đây:
Thứ nhất, mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu lao động, đặc biệt là lao động có trình độ tay nghề cao theo hướng mở rộng và duy trì các thị trường truyền thống phù hợp với đặc điểm của lao động Hà Nội như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,…, khai thác và tạo mở một số thị trường mới có nhiều tiềm năng, chú trọng xuất khẩu lao động chất lượng cao và chuyên gia.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu lao động, nghiên cứu thí điểm hình thức hợp tác xuất khẩu lao động giữa Hà Nội với một số vùng, thủ đô của các nước thông qua việc gắn kết hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư với xúc tiến xuất khẩu lao động.
Thứ ba, chấn chỉnh, quy hoạch, sắp xếp lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thuộc địa phương quản lý phù hợp với đề án phát triển thị trường lao đông của thành phố giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015 theo hướng: thành phố sẽ giữ lại 4-5 doanh nghiệp mạnh hoạt động có hiệu quả trên cơ sở tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, ưu tiên mở rộng mặt bằng đủ điều kiện để doanh nghiệp có cơ sở mở địa điểm đào tạo, giáo dục định hướng từ 3-4 tháng cho người lao động trước khi xuất cảnh, đồng thời hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu lao động và xúc tiến mở thị trường mới phù hợp với đặc điểm của lao động Hà Nội, những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả phải chuyển hướng kinh doanh hoặc sắp xếp lại.
Thứ tư, có chính sách khuyến khích đủ mạnh để các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động trên địa bàn tuyển chọn lao động Hà Nội (chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động, hỗ trợ kinh phí khám sức khỏe, làm hộ chiếu cho lao động nghèo, chính sách thưởng khuyến khích đối với các doanh nghiệp dành hợp đồng và thị trường phù hợp cho lao động Hà Nội, chính sách thưởng cho các doanh nghỉệp đưa được nhiều lao động Hà Nội đi xuất khẩu lao động,…)
Thứ năm, tăng cường chức năng quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố.
Thứ sáu, chỉ đạo ủy ban nhân dân các phường, xã trong việc tín chấp cho lao động nghèo vay vốn đi xuất khẩu lao động.
Thứ bảy, hàng năm ngân sách thành phố dành một khoản kinh phí nhất định phục vụ công tác tập huấn nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền về xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố.
Thứ tám, cần đào tạo chủ doanh nghiệp. Đây là một trong những giải pháp cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Do đặc thù của nền kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chưa có đội ngũ những nhà kinh doanh lành nghề, chưa có kiến thức, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường. Đối với những người làm kinh tế tư nhân, kinh doanh nhỏ lại càng hụt hẫng trong lĩnh vực này. Cùng với những khó khăn khác thì thiếu kiến thức, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp đang là một trở ngại lớn, cản trở nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ và nhiều người muốn lập doanh nghiệp mới. Cần có các chiến lược quốc gia về đào tạo các chủ doanh nghiệp với nhiều hính thức phù hợp. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp và giúp đỡ các chủ doanh nghiệp nhỏ xác định các phương án kinh doanh, tiếp cận các nguồn vốn.
3.2.2.4. Xây dựng và kiện toàn hệ thống thông tin thị trường lao động.
Cần đẩy mạnh công tác nắm thông tin về thị trường lao động như: khảo sát thống kê về số lượng, chất lượng nguồn lao động, tổ chức hội chợ việc làm hàng năm để nắm cung cầu lao động và tạo quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động. Muốn vậy cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, thống nhất từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường gồm:
Hệ thống thông tin hướng nghiệp, dạy nghề: cung cấp các thông tin về cơ hội đào tạo, các chương trình giáo dục, đào tạo, hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp. đồng thời thông qua hệ thống này tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và bản thân người lao động về vị trí, vai trò và nhu cầu đào tạo của xã hội trong từng giai đoạn.
Hệ thống thông tin dịch vụ việc làm: thông qua Website vieclamhanoi.net cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, nhu cầu của người tìm việc, khả năng việc làm trên thị trường, đăng tải các thông tin liên quan đến chính sách lao động việc làm, tư vấn pháp luật, thi tuyển công chức, viên chức… tiến tới tổ chức hội chợ việc làm trên mạng.
Hệ thống thông tin thống kê thị trường lao động: cung cấp các thông tin về cung, cầu lao động, điều kiện việc làm, an toàn lao động, quan hệ lao động, giá trị lao động và năng xuất lao động.
Thứ hai, hàng năm ngân sách thành phố bố trí kinh phí tổ chức thu thập, cập nhật, đăng tải và xử lý thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động dưới nhiều hình thức:
Gửi phiếu cho các doanh nghiệp, cập nhật các thông tin về cung, cầu lao động trên thị trường để đăng tải trên Website.
Xây dựng cơ chế hỗ trợ miễn phí đăng tải thông tin cung – cầu lao động của Website vieclamhanoi.net để Website này thực sự trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp tuyển dụng lao động và người lao động có nhu cầu tìm việc làm, từ đó khuyến khích doanh nghiệp tự giác hợp tác trao đổi thông tin với trung tâm dịch vụ việc làm.
Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định về chế độ báo cáo định kỳ, các thông tin về lao động việc làm từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường.
Thứ ba, xây dựng đề án thành lập trung tâm giao dịch lao động và hệ thống quản lý thông tin thị trường lao động từ thành phố xuống quận, huyện và các trung tâm dịch vụ việc làm.
Thứ tư, bổ sung định xuất cán bộ chuyên trách công tác Lao động Thương binh Xã hội cho các phường, xã để duy trì chế độ quản lý, theo dõi, báo cáo công tác lao động việc làm hàng quý, năm và thông tin thị trường lao động.
Thứ năm, bố trí ngân sách tổ chức hội chợ việc làm hàng năm tại các quận, huyện đặc biệt là các quận, huyện có nhiều lao động bị mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, có nhiều doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động.
3.2.2.5. Giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Thứ nhất, đầu tư phát triển sản xuất tạo việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thực hiện phổ biến kiến thức kinh doanh, phương thức làm ăn mới, mở các lớp đào tạo chủ doanh nghiệp cho người lao động, tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động nhằm phát triển sản xuất, thu hút lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thực hiện khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới trên cơ sở dành Quỹ hỗ trợ việc làm địa phương 41,95 tỷ đồng, ưu tiên cho đối tượng ở những vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất vay vốn để chuyển nghề và tự tạo việc làm mới.
Thứ hai, xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thu hút lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vào làm việc:
Hỗ trợ các doanh nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động được vay vốn phát triển sản xuất từ nguồn Quỹ hỗ trợ việc làm địa phương.
Tạo điều kiện thông thoáng về thủ tục cho các cơ sở thu hút nhiều lao động được thuê mặt bằng trong các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ để mở rộng sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho người lao động.
Thứ ba, thành phố thành lập Quỹ đào tạo nghề để hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, nguồn hình thành quỹ trên cơ sở đóng góp của các chủ dự án, doanh nghiệp sử dụng đất, đóng góp của người lao động và trích một tỷ lệ thích hợp trong nguồn kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng trên cơ sở điều chỉnh lại mức đền bù cho phù hợp thực tế và thay đổi lại phương thức đền bù trực tiếp bằng hình thức đền bù dưới dạng cấp thẻ ưu đãi học nghề cho người lao động trong độ tuổi đảm bảo cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải sử dụng tiền đền bù cho đào tạo nghề để chuyển đổi việc làm.
Thứ tư, xây dựng và triển khai cơ chế phối hợp, giám sát để các chủ dự án nghiêm túc thực hiện Quyết định 99/2003/QĐ-UB ngày 21/08/2003 của UBND Thành phố (mỗi ha đất thu hồi, chủ dự án có trách nhiệm tuyển dụng ít nhất 10 lao động tại chỗ). Chủ đầu tư có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ sở đào tạo nghề giới thiệu lao động đi học nghề trước khi tuyển dụng lao động (thời gian đào tạo nghề từ 3- 6 tháng trước thời điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động).
3.3. Đề xuất, kiến nghị.
Cho phép Thành phố Hà Nội được vận dụng một số chính sách, chế độ tiền lương, trợ cấp xã hội… phù hợp với điều kiện của Thành phố.
Chính phủ và các Bộ, Ngành Trung ương xây dựng và triển khia kịp thời các chương trình Quốc gia về giải quyết việc làm.
Đảm bảo đầy đủ và kịp thời các nguồn kinh phí để thực hiện các chương trình mục tiêu về việc làm, đầu tư cho các cơ sở dạy nghề và các trung tâm dịch vụ việc làm, hỗ trợ kinh phí, phương tiện về thông tin thị trường lao động.
Đề nghị liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Ngân hàng sớm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với thực tế.
Để có thể tạo được nhiều việc làm, đề nghị Trung ương cho phép thành phố mở rộng đối tượng được vay vốn từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm như: các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu có nhiều lao động dôi dư, các tổ chức công đoàn thuộc doanh nghiệp Nhà nước.
Cần có chính sách công bằng đối với các doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước trong việc sử dụng đất, tránh việc đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì được Nhà nước cấp đất trong khi sử dụng không đúng mục đích, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân không được hưởng chính sách trên mặc dù nghĩa vụ thuế các bên vẫn phải thực hiện như nhau.
Có chính sách phân luồng học sinh hợp lý, khuyến khích người học nghề, phát triển dịch vụ hướng nghiệp và đào tạo nghề mới.
Có quy định cụ thể các chính sách về thuế, tín dụng… cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật, các cơ sở dạy nghề và các trung tâm dịch vụ việc làm. Đặc biệt, Chính phủ cần có chính sách thích hợp về quản lý các cơ sở dạy nghề và dịch vụ việc làm tư nhân. Đề nghị Bộ giáo dục đào tạo và tổng cục dạy nghề hỗ trợ tài liệu, chuyên gia, chương trình mẫu cho việc biên soạn chương trình, giáp trình dạy nghề.
Kết luận
Trên đây là một số vấn đề về thị trường lao động của thành phố Hà Nội. Việc phát triển thị trường lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ được tầm quan trọng của nhiệm vụ trên, trong thời gian qua, chính quyền thành phố đã có nhiều cố gắng để sửa chữa những thiếu sót mang tính chủ quan còn tồn tại bằng những chính sách, những hành động cụ thể nhằm cân bằng thị trường lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy rằng những cố gắng của thành phố, của doanh nghiệp, của người lao động là đáng ghi nhận, song do hoàn cảnh kinh tế, do nhu cầu lao động trong và ngoài nước thay đổi mỗi ngày nên chúng ta cần phải cập nhật một cách thường xuyên những cái mới để có kế hoạch phản ứng kịp thời. Trên đây em cũng đã đề cập một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động, tuy rằng chưa đầy đủ song chúng tôi hi vọng rằng những giải pháp đó sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn, khắc phục được những yếu kém mà thị trường lao động Hà Nội còn mắc phải.
Để thực hiện được những giải pháp trên đòi hỏi có sự cố gắng của thành phố, của doanh nghiệp và của cả nhân dân lao động. Những cải cách trên thị trường lao động của thành phố cần phải được tính toán thật kĩ càng sao cho vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa phải đạt được công bằng xã hội. Những tính toán của doanh nghiệp phải đảm bảo tính hợp pháp nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế cao. Những quyết định làm việc của người lao động cũng phải đảm bảo được mức sống cho mình và gia đình nhưng cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Để thực hiện được những yêu cầu trên không phải lầ vấn đề dễ dàng bởi quyền lợi của các bên ở đây là xung đột. Do vậy cần phải có sự điều chỉnh cân bằng ở mức tối ưu. Những giải pháp nêu trên chưa thể coi là lời giải cho bài toán khó này song có thể coi đó là những sự gợi ý để chúng ta tiếp tục tìm lời giải cho vấn đề phát triển thị trường lao động Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
TS. Nguyễn Thị Thơm: Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp. NXB Chính trị Quốc Gia, năm 2006.
TSKH. Phạm Đức Chính: Thị trường lao động cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc Gia, năm 2005.
Lê Xuân Bá – Nguyễn Thị Kim Dung – Trần Hữu Huân: Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật , năm 2003.
Giáo trình Kinh tế lao động, trường Đại học Kinh tế quốc dân. NXB Lao động Xã hội, năm 2000
Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam. NXB Lao động – Xã hội, năm 2001
Số liệu thống kê lao động – việc làm ở thành phố Hà Nội 2001 – 2007. Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
Giáo trình kinh tế học phát triển, đại học Kinh tế quốc dân. NXB Lao động – Xã hội, năm 2005.
Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X.
Tạp chí kinh tế và dự báo, số 10/2003.
Tạp chí con số và sự kiện, số 12/2003.
Tạp chí lao động và xã hội, số 2/9/2003
Tạp chí kinh tế và phát triển, số 71, 71, 77/2003.
Internet.
Niên giám thống kê thành phố Hà nội năm 2006, 2007.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7444.doc