Mục lục
lời mở đầu
Ngày nay người ta có hàng trăm cách đầu tư để tìm lợi nhuận cao nhất từ những số vốn nhỏ nhất. Tương ứng, có hàng trăm cách huy động vốn cho đầu tư phát triển. Phần lớn những cách đầu tư và tạo vốn đơn giản và có hiệu quả nhất được thực hiện thông qua thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính đặc trưng của cơ chế thị trường. Chỉ có nền kinh tế theo cơ chế thị trường, thì mới có thị trường chứng khoán (TTCK) đúng nghĩa. Và ngược lại, một thị tr
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường chứng khoán hoạt động có hiệu quả cũng đủ nói lên đó là một nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường.
Thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn , phục vụ công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hường xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta .
Với mong muốn tìm hiểu TTCK nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng nhằm đóng góp một phần sức lực vào công cuộc đổi mới đất nước em chọn đề tài "Phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam". Song do trình độ còn hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong được sự lưu ý đóng góp ý kiến bổ sung của thầy để đề tài được hoàn thiện hơn .
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần 1: đại cương về thị trường chứng khoán
1 . Thị trường chứng khoán (TTCK)
1.1. Khái niệm
Thị trường chứng khoán (Securities Market) là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu công ty và một số giấy tờ có khác. Như vậy thị trường chứng khoán bao gồm cả hoạt động mua bán chính thức và không chính thức, cả hoạt động mua bán chứng khoán trong sở giao dịch và ngoài sở giao dịch.
1.2. Bản chất của TTCK trong nền kinh tế thị trường hiện đại
Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, TTCK được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành chứng khoán và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành từ thị trường sơ cấp. Xét về mặt hình thức các hoạt động trao đổi mua bán chuyển nhượng các chứng khoán chỉ là việc thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán; còn xét về thực chất đây chính là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ, tức là quá trình chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Các quan hệ mua bán chứng khoán, trên TTCK phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán. Chủ thể tham gia TTCK với tư cách là ngưòi bỏ vốn đầu tư, anh ta là chủ sở hữu tư bản ; còn khi tham gia với tư cách là người sử dụng vốn đầu tư, anh ta thực hiện chức năng của tư bản kinh doanh. Do đó TTCK xét về mặt bản chất, không chỉ phản ánh các quan hệ trao đổi mua bán một số lượng nhất định các tư liệu sản xuất và các khoản vốn bằng tiền, mà là các quyền sở hữu về tư bản. Tư bản hiện nay được lưu thông như một loại hàng hoá thông thường có giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường hàng hoá là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
Phiên chợ đầu tiên của thị trường chứng khoán diễn ra vào năm 1453 tại quảng trường gần ngôi nhà của nhà buôn môi giới mang tên Vanber ở Bruges ( Bỉ ) .Tại đó có 1 bảng hiệu hình 3 túi da với 1 từ tiếng Pháp “Bourse” tức là “ Mậu dịch trường “ hay còn gọi là “sở giao dịch” .
“ Mậu dịch trường “ là 1 bảng hiệu chung , 3 túi da đặc trưng cho 3 nội dung là: Mậu dịch trường hàng hóa , Mậu dịch trường ngoại tệ , Mậu dịch trường giá khoán động sản .
Năm 1547 , “Mậu dịch trường “ ở Bruges bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers , một hải cảng lớn của Bỉ thời đó . Giữa thế kỉ 16 , viên quan đại thần tài chính Anh quốc Theomes Gresham đến đây thị sát và sau đó thiết lập “Mậu dịch trường” tại London . Các “ Mậu dịch trường “ khác cũng được lần lượt thành lập tại Pháp , Đức và Bắc Âu .
2. Chứng khoán- hàng hoá của TTCK
2.1. Khái niệm
Trong hệ thống thị trường, mỗi loại thị trường có một loại đối tượng giao dịch riêng của nó. Trên thị trường chứng khoán đối tượng giao dịch chính của nó là chứng khoán.
Chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá. Tức là giấy tờ ghi nhận khoản tiền tệ mà người sở hữu chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoản lợi tức nhất định theo kì hạn. Hay nói cách khác, là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu.
2.2. Phân loại chứng khoán
2.2.1.Căn cứ sở hữu
- Chứng khoán vô danh ( Bearer securities): Là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc chuyển nhượng loại này rất đơn giản, dễ dàng, không cần phải có thủ tục pháp lý rườm rà ( trao tay).
- Chứng khoán ký danh ( Nominal/registered securities): Loại chứng khoán này có ghi rõ họ tên và chủ sở hữu.Việc chuyển nhượng chứng khoán này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành, đôi khi đòi hỏi có sự chấp nhận trước.
2.2.2. Căn cứ vào tính chất tài chính
- Chứng khoán có lợi tức ổn định ( Fixed income securities): Là loại chứng khoán có xác định tỉ lệ lãi cụ thể phải trả cho người sở hữu khi đến kỳ hạn. Ví dụ như: các loại trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi …
- Chứng khoán có lợi tức không ổn định ( variable income secu rities): Là loại chứng khoán không xác định trước tỉ lệ lãi được hưởng. Loại này tỉ lệ tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty chẳng hạn như: cổ phiếu thông thường.
2.2.3. Căn cứ vào đặc điểm của chứng khoán
- Chứng khoán vốn ( Equity securities): Là giấy chứng nhận sở hữu vốn vào công ty cổ phần, tức là các loại cổ phiếu.
- Chứng khoán nợ (Debt securities): Là giấy chứng nhận nợ có kỳ hạn, tức là nói đến các loại trái phiếu.
2.2.3.1. Cổ phiếu (Stock/share)
Cổ phiếu là loại chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một doanh nghiệp cổ phần . Có 2 loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi .
Cổ phiếu thường (common stocks):
Đây là loại cổ phiếu có đặc điểm là lợi tức của nó phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu được của công ty, tức là công ty không có định mức số lãi sẽ được chia vào cuối niên độ quyết toán. Người mua cổ phiếu thường coi như chấp nhận rủi ro,"lời ăn lỗ chịu". Mỗi cổ phiếu thường thể hiện quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công ty. Số lượng cổ phiếu mà cổ đông nắm càng nhiều thì quyền lợi sở hữu của anh ta trong công ty càng lớn. Cổ phiếu thường có một số đặc điểm sau :
- Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn do đó không có kỳ hạn và không có hoàn vốn .
- Cổ tức của cổ phiếu tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , do đó không cố định .
- Khi công ty bị phá sản , cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn lại của tàI sản thanh lý .
- Giá cổ phiếu biến động rất nhanh nhạy , đặc biệt là trên thị trường thứ cấp , do nhiều nhân tố nhưng nhân tố cơ bản nhất là hiệu quả kinh doanh và giá trị thị trường của công ty .
Cổ phiếu ưu đãi ( preferred stocks).
Hay còn gọi là cổ phiếu đặc quyền là loại cổ phiếu được hưỏng quyền ưu tiên:
- Được hưởng một mức lãi cổ phần riêng biệt có tính cố định hàng năm. Thông thường cổ tức này được in trên cổ phiếu.
- Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước loại cổ phiếu thường.
- Được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi phá sản trước loại cổ phiếu thường.
Tuy nhiên, không giống với cổ phiếu thường, người mua cổ phiếu ưu đãi thường không được hưởng quyền bỏ phiếu để bầu ra hội đồng quản trị, ban kiểm soát công ty.
Như vậy do các cổ đông ưu đãi không được quyền đầu phiếu và quyền hưởng lợi tức cổ phần bị giới hạn theo một số lượng nhất định. Chính vì thế, ngưòi ta nói rằng cổ đông ưu đãi chỉ có quyền sở hữu hữu hạn trong công ty.
Xuất phát từ những lý do trên nên giá cổ phiếu ưu đãi trên TTCK thường không giao động lên hoặc xuống nhiều như giá cổ phiếu thường. Việc ấn định cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi có hai cách: Cổ phiếu ưu đãi trả theo giá trị tuyệt đối và cổ phiếu ưu đãi trả theo tỷ lệ phần trăm (percent preferred )
2.2.3.2. Trái phiếu (Bond)
Trái phiếu là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay , đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn . Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu .
Đặc điểm trái phiếu :
- Trái phiếu là loại giấy nợ do chính phủ hay doanh nghiệp phát hành để huy động vốn dài hạn còn gọi là chứng khoán nợ , có kỳ hạn nhất định , thường 3-5 năm là trung hạn và 7-10 năm trở lên là dài hạn . Cuối kỳ đáo hạn phải trả lại vốn gốc cho trái chủ .
- Được hưởng lãi cố định và tỷ suất trái phiếu không cao nhưng phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh , ít rủi ro .
- Khi công ty bị giải thể thanh lý tài sản , người cầm trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đông.
2.3 . Các công cụ có nguồn gốc chứng khoán:
2.3.1.Các hợp đồng tương lai (Futures contracts -Futures)
Hợp đồng tương lai (thường viết là Futures) là hợp đồng mà trong đó một người bán cam kết giao một số hàng hoá nào đó hay chứng khoán và người mua sẽ trả tiền khi nhận hàng hoá đó hay chứng khoán, với môt giá nhất địng, tại một ngày nhất định trong tương lai được xác định trước ở hiện tại tại thời điểm ký kết hợp đồng. Để tránh mọi thiệt hại khi hợp đồng không được tôn trọng, cả hai bên đều được yêu cầu ký quỹ vào lùc ký hợp đồng.
Ví dụ: Một nhà đầu tư đã mua một hợp đồng tương lai 100 cổ phiếu A, có thể bù đắp hợp đồng này bằng bán một hợp đồng khác vào cùng tháng giao hàng. Tương tự, một người đã bán một hợp đồng có thể bù đắp hợp đồng đó một cách đơn giản bằng cách mua một hợp đồng khác có cùng số lượng và tháng giao hàng. Nói khác đi, một trạng thái này có thể bù đắp trạng thái kia và chênh lệch giữa giá của hai giao dịch thể hiện khoản lợi nhuận của nhà đầu tư.
2.3.2.Các quyền chọn (option)
Quyền chọn là một kiểu hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia hoặc bán một loại hàng hoá cụ thể hoặc một loại chứng khoán nào đó, với một gia nhất định trong một thời hạn nhất định. Quyền hạn này sẽ hết giá trị vào ngày kết thúc thời hạn của nó. Người mua quyền được mua hoặc được bán phải trả cho người kia một khoản tiền được gọi là tiền cược (premium) hay giá trị quyền chọn.
Quyền chọn có hai loại:
- Quyền chọn mua (call option ): là một kiểu hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền mua một loại hàng hoá cụ thể hoặc một loại chứng khoán nào đó, với một giá xác định, tại một thời hạn nhất định.
- Quyền chọn bán (put option): là một kiểu hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền bán một loại hàng hoá cụ thể hoặc một loại chứng khoán nào đó, với một giá xác định trong một thời hạn nhất định.
Các giao dịch này trong TTCK phát triển rất tấp nập. Người ta có thể làm giàu trong phút chốc hoặc bị phá sản trong giây lát cũng chủ yếu xuất phát tù giao dịch này. ở Mỹ, người ta thành lập một thị trường chuyên giao dịch về quyền lựa chọn, gọi là "sở giao dịch các hợp đồng lựa chọn Chicagô" (Chicago board ption exchange -cboe).
Tuy nhiên, tại sở giao dịch chứng khoán New York (New York stock Exchange-NYSE), cả giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock exchange-Amex)… vẫn có các loại giao dịch về quyền lựa chọn.
2.3.3.Chứng quyền (rights) và chứng khế (warrants).
- Chứng quyền (rights) : hay còn gọi là quyền tiên mãi hoặc quyền đặt mua (quyền dự tính ) là một quyền ưu đãi mà công ty cổ phần cho các cổ đông được hưởng để mua cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Thông thường, các cổ đông có chứng quyền, được quyền "mua" hoặc "đặt mua" (subscription), với giá thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Các chứng quyền thường có kỳ hạn ngắn.
Thông thường, khi một công ty cổ phần muốn tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm một số cổ phiếu mới. Công ty sẽ trao cho những người đang sở hữu cổ phiếu của công ty một số đặc quyền hay cơ hội mua những cổ phiếu mới phát hành thêm tỷ lệ với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Ví dụ : một công ty cổ phần A cho các cổ đông của nó quyền mua thêm một cổ phiếu mới ứng với 10 cổ phiếu cũ mà họ đang nắm giữ. Mỗi cổ đông được hưởng ưu đãi này sẽ được nhận một tờ chứng quyền thể hiện chính xác số lượng các trái quyền mà nó được hưởng. Các trái quyền sẽ được thực hiện (đôỉ lấy cổ phiếu ) trong một thời hạn xác định theo một giá ấn định.
Nếu một cổ đông muốn thực hiện trái quyền của mình, anh ta điền vào tờ giấy chứng quyền và gửi đến công ty. Anh ta cũng có thể gửi séc hoặc ngân phiếu theo giá trị của những cổ phiếu mà anh ta muốn mua thêm . Nói chung, dù theo cách nào thì cổ đông cũng phải thực hiện theo thời hạn được ghi trên chứng quyền. Sau ngày đó, chứng quyền không còn giá trị, tức là nó không thể được thực hiện hoặc đem bán.
- Chứng khế (Warrants) : còn gọi là quyền dự tính ưu tiên mua cổ phiếu mới hay bảo chứng phiếu. Một chứng khế thường được phát hành gắn liền với một loại chứng khoán khác, cho phép người sở hữu nó đựoc quyền mua cổ phiếu thường (hoặc chuyển đổi chứng khoán đó sang cổ phiếu thường) theo một giá định cược gọi là giá đặt mua (subscription price) trong một thời hạn nhất định. Giáđịnh trước trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng khế có kỳ hạn dài hơn chứng quyền (rights), khoảng một vài năm.
Ví dụ: Một công ty cổ phần B có cổ phiếu thường đang lưu hành trên thị trường với giá 100.000đ mỗi cổ phiếu vào ngày1-5-1996, tại thời điểm này công ty phát hành chứng khế cho phép người sở hữu nó được quyền mua cổ phiếu thường của công ty với giá 200.000đ mỗi cổ phiếu vào bất kỳ vào năm 1997 mà còn có thể được buôn bán trên giá đó, thì chứng khế sẽ rất hấp dẫn.
Các chứng khế thường được phát hành cùng với các trái phiếu hoặc các cổ phiếu ưu đãi để giúp cho việc chào bán lần đầu với những chứng khoán này tại sở giao dịch chứng khoán trở nên hấp dẫn hơn. Do các trái phiếu được hưởng lãi cố định và các cổ phiếu ưu đãi được hưởng các tỉ lệ cổ tức theo qui định, cả hai khoản này được thanh toán trước khi các cổ đông thường được nhận cổ tức của họ, nên việc phát hành các chứng khế có thể cho phép các công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu với tỷ lệ thanh toán giảm, nhờ đó tiết kiệm chi phí cho công ty.
Do các chứng khế có kỳ hạn dài nên một công ty có thể có một vài loại chứng khế lưu hành vào cùng một thời điểm.
Chứng khế thường có tính chất tách rời được, nghĩa là chứng khế có thể được mua hoặc bán tách rời khỏi chứng khoán mà nó phát hành kèm theo.
- Nói chung, các công cụ có nguồn gốc chứng khoán đã trình bày trên đều bắt nguồn từ một vài chứng khoán cơ bản. Vì vậy, phụ thuộc vào bản chất thực sự giữa công cụ có nguồn gốc chứng khoán và chứng khoán cơ bản của nó, đúng theo lôrích ta thấy, giá cả của hai loại phải dịch chuyển cùng gần nhau. Thông thưòng giá của công cụ có nguồn gốc chứng khoán được xác định trực tiếp từ chứng khoán khởi đầu. Với các quyền chọn và chứng khế người ta đã mua quyền để thực hiện với chứng khoán nguồn gốc, theo giá cả và số lượng đã được định trước, tại một thời điểm nào đó hoặc trong một thời hạn đã được định trước. Như vậy các nhân tố ảnh hưởng đến giá của công cụ có nguồn gốc chứng khoán, đó là:
- Giá của chứng khoán nguồn gốc.
- Giá thực hiện.
- Sự giao động của công cụ có nguồn gốc chứng khoán.
- Thời gian còn lại cho đến khi đáo hạn.
- Sự sẵn có của công cụ và kỹ thuật thay thế tương tự.
- Các lãi suất tương đối và các chi phí để giữ công cụ có nguồn gốc chứng khoán.
3. Cơ cấu của thị trường chứng khoán
3.1. Xét về phương diện pháp lý:
Thị trường chứng khoán chính thức (Thestock exchange).
Hay còn gọi là thị trường chứng khoán tập trung là thị trường hoạt động theo đúng các quy luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu (listed or registered securities) hay được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được các cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian qua các kinh kỷ và các công ty kinh kỷ tức là đã hội đủ các điều kiện đã định.
Chứng khoán biệt lệ là loại được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, do chính phủ các cơ quan công quyền, thành phố, quận, huyện, thị phát hành và bảo đảm.
TTCK chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt và giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự giám sát của hội đồng chứng khoán. TTCK chủ yếu được thể hiện bằng các sở giao dịch chứng khoán (Stock exchange).
Thị trường chứng khoán phi chính thức (Over-the- counter market viết tắt OTC)
Hay còn gọi là thị trường chứng khoán phi tập trung, là thị trường mua bán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dịch chứng khoán . ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài (hội đồng chứng khoán ), không có ngày giờ ngày thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận giữa ngưòi mua và ngưòi bán.
Các chứng khoán liên hệ ở đây thường là loại chứng khoán không đặc biệt, ít người biết đến hay ít ngưòi mua bán.
3.2. Xét về quá trình luân chuyển của chứng khoán:
Thị trường sơ cấp (primary market)
Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đâù, kéo theo sự tăng thêm quy mô đầu tư vốn. Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại thị trường này là nguồn tiết kiệm của dân chúng cũng như của một số tổ chức phi tài chính. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
Thị trường thứ cấp (secondary market) :
Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, là nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán tiếp theo sau lần đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp.
- Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là về mục đích của từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết kiệm vào công cuộc phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất nhộn nhịp nhưng không làm tăng thêm quy mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
* Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví như hai bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền mặt sẽ bị khó khăn, khiến cho người đầu tư sẽ bị dè dặt khi mua chứng khoán. Do đó thị trường sơ cấp sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghiã về mặt lý thuyết. Trong thực tế tổ chức TTCK không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị thứ cấp . Nghĩa là , trong một TTCK vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp . Vừa có mua bán các loại chứng khoán mới phát hành vừa có chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại .
Tuy nhiên, điểm cần chú là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát hành, là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm bảo thị trưòng chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế.
3.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch
Thị trưòng giao ngay: (spot market)
Còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày dao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo một quy định.
Thị trường thị trường tương lai (future Market):
Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ nhất định ở tương lai.
4 . Chức năng và vai trò của TTCK
4.1 . Chức năng của TTCK
4.1.1 . Huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vốn cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua TTCK, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. TTCK đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của TTCK . Chẳng hạn, những TTCK lớn như Luân Đôn, Niu Yoóc, Paris, Tokyo,… thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những TTCK từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tầm cỡ quốc tế. Cho nên biến động của thị trường tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại , mà còn ảnh hưởng tới TTCK nước khác.
4.1.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ), về tình hình cung- cầu thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan , từ đó cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lụa chọn phong phú . Từ đó góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia .
4.1.3. Tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính sách vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ảnh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác , giá của các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng , đầu tư đang tăng trưởng và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế . Chính phủ có thể mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra chính phủ có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế .
4.2 . Vai trò của TTCK
4.2.1. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK,các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn .Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư . Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt,an toàn của vốn đầu tư .TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường .
4.2.2. Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp
Thông qua giá chứng khoán,hoạt động của các doanh nghiếp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác , giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện ,từ đó cũng tạo ra được một môI trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , kích thích áp dụng công nghệ mới,cải tiến sản phẩm.
Sự biến động không ngừng của giá chứng khoán ,đặc biệt là giá của cổ phiếu ,nhà đầu tư có thể đánh giá doanh nghiệp một cách khách quan và khoa học tại bất kỳ thời điểm nào .
4.2.3. Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển
TTCK hỗ trợ việc thành lập và phát triển các công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin ,định giá doanh nghiệp ,bảo lãnh phát hành,phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng ,tạo tính thanh khoản cho chúng và như thế thu hút các nhà đầu tư đến góp vốn vào công ty cổ phần .
Ngược lại chính sự phát triển của mô hình công ty cổ phần đã làm phong phú và đa dạng các loại hàng hoá trên TTCK ,thúc đẩy sự phát triển sôi động của TTCK .
Có thể nói TTCK và công ty cổ phần là 2 định chế song hành hỗ trợ nhau cùng phát triển .
4.2.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
TTCK không những thu hút các nguồn vốn trong nội địa mà còn giúp Chính phủ và doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra thị trường vốn quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ .Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán (FPI) là an toàn và hiệu quả vì các chủ thể phát hành được toàn quyền sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của các nhà đầu tư nước ngoài .
5. Các đối tượng tham gia TTCK
5.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty hay các tổ chức tài chính.
5.2. Nhà đầu tư
Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khoán cho mình.
5.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
5.3.1. Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành tư doanh, môi giới, quản lí danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán
5.3.2. Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán.
5.4 . Các tổ chức có liên quan đến TTCK
5.4.1. Cơ quan quản lí nhà nước
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB - Securities Investment Boart ), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán ( SEC - Securities And Exchange Comission ) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán ( ESC - Exchange Surveillance Comission ) thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Finan cial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996.
5.4.2. Sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán (SGDCK):
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức " câu lạc bộ mini " hay được tổ chức theo chế độ hội viên.Đây là hình thức tổ chức SGDCK có hình thức tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của SGDCK tự tổ chức và quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưói hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do Uỷ ban chứng khoán bổ nhiệm.
Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán ( còn gọi là công ty môi giới chứng khoán ). Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường hoặc theo dõi định kỳ. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nhgiêm minh,nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên uỷ ban chứng khoán để điêù tra xử lý.
5.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số chức năng chính sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về kinh doanh chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong nghành chứng khoán.
5.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ.
5.4.5. Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm.
6. Hoạt động của TTCK.
6.1. Các nghiệp vụ của thị trường chứng khoán
6.1.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán chính là việc mua đi bán lại các loại giấy tờ có giá để kiếm lời hoặc để chuyển vốn đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác hoặc hạn chế những thiệt hại cho từng công ty, từng cá nhân. Đối với các cá nhân, các công ty nhỏ không có đại diện của mình tại sở giao dịch chứng khoán, việc mua bán chứng khoán của họ đều phải thông qua các hãng môi giới và các ngân hàng. Khách hàng có thể sử dụng 3 loại lệnh sau:
- Lệnh giới hạn: Theo lệnh này khách hàng đã ấn định sẵn giá cả của các giấy tờ tại một điểm hoặc trong một giới hạn khoảng nào đó.
- Lệnh thị trường: Được sử dụng khi khách hàng không có những thông tin đầy đủ rõ rệt về giá cả các loại chứng khoán mà họ định mua hay định bán, do đó họ ra lệnh mua hay bán các chứng khoán theo giá thị trường.
- Lệnh dừng: Là lệnh được sử dụng khi người kinh doanh chứng khoán muốn bảo vệ lợi nhuận đã thu được về mặt danh nghĩa hoặc hạn chế thua lỗ trong trường hợp phán đoán của người kinh doanh không phù hợp với thị trường.
Lệnh dừng có hai loại:
- Lệnh dừng bán: Được sử dụng để bảo vệ số lợi nhuận của người kinh doanh khi họ phán đoán giá một loại chứng khoán nào đó có xu hướng tăng lên nhưng thực tế thì lại hạ xuống tới một mức nào đó.
- Lệnh dừng mua: Được sử dụng để hạn chế thua lỗ trong trường hợp người kinh doanh thực hiện việc bán trước mua sau. Họ phán đoán giá một loại chứng khoán n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0802.doc