Phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay

phần I: khái quát chung về thị trường chứng khoán 1. lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Bắt đầu từ thời Trung cổ ở một số nước phương Tây đã xuất hiện những hình thức sơ khai của thị trường chưng khoán. Những thành phố có vị trí địa lí thuận lợi các lái buôn và các thương gia đã tụ họp trong các phiên chợ để thương lượng trao đổi hàng hoá. Các cuộc trao đổi này chỉ có trao đổi miệng với nhau chứ không cần giấy tờ cũng không cần có hàng hoá hay mẫu mã trước mắt. Mới đ

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu chỉ là các cá nhân riêng lẻ sau đó tụ họp thành chợ hàng hoá về sau nó trở thành một thị trường. Phiên họp đầu tiên của thị trường chứng khoán diễn ra vào năm 1453 tại một quảng trường gần ngôi nhà của một nhà buôn môi giới mang tên Vander Burse tại thành phố Bruges của nước Bỉ. Tuy nhiên đến năm 1547 thị trấn Brugesmaats đi sự phồn vinh bởi vì eo biển Evin, cửa biển nơi dãn các con tàu thuyền vào buôn bán ở thị trấn này đã bị cát biển lấp mất. Lần đầu tiên vào năm 1531 ở Anvers một thành phố cổ của Bỉ đã triển khai các nghiệp vụ về chứng khoán. Thị trường này khá phát triển cho đến khi Tây Ba Nha xâm chiếm Anvers các vua chúa Tây Ba Nha và Pháp chấm dứt trả nợ thị trường chứng khoán dần suy sụp vào cuối thế kỷ thứ XVI. Theo hình mẫu của thị trường chứng khoán Anvers người ta lập thị trường chứng khoán ở các thành phố: Lion (Pháp-1545), Luân đôn (Anh-1566)... và Amtécđam (Hàlan-1608). Vào thế kỷ XVIII thị trường chứng khoán Amtécđam có tới 44 loại chứng khoán được gioa dịch bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu. ở Anh sở giao dịch vốn xuất hiện vào năm 1773, ở Mỹ thị trường chứng khoán được hình thành vào năm 1792. Nhìn chung thị trường chứng khoán phát triển khá mạnh vào nửa cuối thế kỷ XIX trong mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển nội thương và ngoại thương. Từ thế kỷ thứ XX thị trường chứng khoán Niu Yoóc đóng vai trò quan trọng nhất (1990-giá trị giao dịch 397,7 tỷ USD), quy mô lớn thứ hai là Tokyo (1990-giá trị gao dịch 300 tỷ USD). Nhưng đến năm 1929 cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm cho thị trường chứng khoán NiuYóoc, thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản lâm vào khủng hoảng. Sau chiến tranh thế giới lần II các thị trường chứng khoán được phục hồi và phát triển. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính 1987 một lần nữa làm cho thị trường chứng khoán chao đảo. Và gần đây vào cuôí năm 1997 đầu năm 1998 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã làm cho thị trường chứng khoán các nước trong khu vực khủng hoảng trầm trọng phải đóng cửa nhiều ngày. Trải qua các cuộc khủng hoảng và cho đến nay thị trường chứng khoán đang phục hồi và tiếp tục phát triển ở hầu hết các nước và ngày càng chứng tỏ vai trò to lớn trong nền kinh tế của mỗi quốc gia và trên thế giới. 2. thị trường chứng khoán và các nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán không phải là cơ quan mua vào bán ra các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán cũng không sở hữu chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ là nơi giao dịch, ở đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới chứng khoán. Như vậy, thị trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch mua -bán chứng khoán của những người muốn mua hay bán chứng khoán mà là của những người môi giới, thị trường chứng khoán cũng không liên quan đến giá cả các loại chứng khoán. Giá chứng khoán được hình thành theo hệ thống bán đấu giá hai chiều: người môi giới mua cạnh tranh với những người môi giới khác để đạt giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh với những người môi giới khác để đạt được gá cao nhất. thị trường chứng khoán là thị trường do mang tính tự do nhất trong các loại thị trường. 2.1. Cơ cấu thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng Sở gao dịch chứng khoán (Sở chứng khoán ). Thông thường trong một Sở giao dịch chứng khoán có hai loại thị trường cùng đồng thời tham gia - gọi là cơ cấu của một thị trường chứng khoán, gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 2.1.1. Thị trường sơ cấp: là thị trường chứng khoán được phát hành ra lần đầu, nhằm mục đích: - Tạo lập doanh nghiệp cổ phần. - Doanh nghiệp huy thêm vốn. - Các cấp chính quyền phát hành kỳ phiếu... Trên thị trường sơ cấp phát hành lần đầu các chứng khoán đưa vào lưu thông, đó là giai đoạn động viên vốn tài chính. Việc phát hành lần đầu các chứng khoán là giai đoạn phức tạp nhất, vì nếu xác định không đúng các điều kiện phát hành có thể làm cho chứng khoán không tiêu thụ được và gây mất uy tín cho người phát hành. Do vậy, đại đa số trường hợp tổ chức phát hành chứng khoán đều có sự tham gia của ngân hàng đầu tư, các ngân hàng khác và các công ty chuyên doanh. Trên thực tế có nhiều cách phát hành chứng khoán, song phổ biến nhất là qua giao dịch chứng khoán, qua Ngân hàng, qua cách bán đấu giá hay bán trực tiếp cho các nhà đầu tư. Có cả công bố trên boá chí và phát thanh có sự thoả thuận trước với các nhà đầu tư. Việc lôi quấn được các ngân hàng có uy tín vào mua trái phiếu là rất quan trọng vì danh tiếng của họ khi quảng cáo phát hành sẽ đảm bảo chắc chắn, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Tuỳ thuộc cung - cầu, giá chứng khoán ở thị trừơng sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá danh nghĩa. Có loại trái phiếu được thu nhập ấn định sẵn so với giá danh nghĩa và ấn định thời hạn lưu hành. Ngoài ra với loại chứng khoán thanh toán thu nhập bình thường, thì giá trị thị trường phụ thuộc vào thời gian ngắn lúc thanh toán. 2.1.2. Thị trường thứ cấp: Là các loại chứng khoán được phát hành ( qua thị trường sơ cấp ) được mua đi bán lại. Các nhà đầu tư có thể bán chứng khoán vào bất cứ lúc nào, hình thức này linh hoạt, mềm dẻo hơn so với tín dụng thông thường. Thị trường thứ cấp có một số dạng: Sở giao dịch chứng khoán thông thường, "thị trường gắn với Sở giao dịch chứng khoán". Thị trường Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường này có cơ chế rất phức tạp, làm môi giới cho sự biến động cung - cầu, cho phép xác định giá hiện thực của cổ phiếu, trái phiếu. Không có thị trường này thì các chứng khán không thể giữ được vai trò quan trọng của chúng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Người ta còn phân biệt Sở giao dịch chứng khoán chính thức và chứng khoán không chính thức. ở Sở giao dịch chỉ cho phép bán ra chứng khoán của các hãng độc quyền lớn. ở Sở giao dịch không chính thức bán ra bất kỳ chứng khoán nào. Các tổ chức này có điều lệ xác định nguyên tắc tổ chức, quản lý thành phần hội viên, điều kiện thu nạp và các chức năng của cơ quan chứng khoán chứng khoán. Cơ quan lãnh đạo thường là uỷ ban chứng khoán. Thành viên là các khoán định viên và những người môi giới chứng khoán chính thức. Sở giao dịch chứng khoán làm tăng cường quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Thông qua Sở giao dịch chứng khoán nhiều khoản tiếc kiệm nhỏ các loại cũng biến thành vốn tư bản, đó là các khoản do ngân hàng và các cơ quan tiếc kiệm thu nhập được, những khoản này được chuyển sang chứng khoán thúc đẩy gia tăng tầng lớp người thực lợi. Trong điều kiện hiện đại Sở giao dịch chứng khoán là cư quan thúc đẩy tăng cường đầu cơ chứng khoán. Thị trường thứ cấp là công việc hàng ngày của bất cứ thị trường chứng khoán nào: đó là việc mua bán chứng khoán đã phát hành, gồm có cổ phiếu và cổ phần giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân hoặc mong muốn nào đó để thay đổi những quyết định đầu tư của mình. Đây là mmột thị trường thường thu hút sự chú ý củan dân chúng và nó là nơi giao dịch hàng ngày giữa các nhà môi giới chứng khoán và thân chủ của họ. Trong một thị trường với bất kỳ một quy mô nào đều có một chỉ số theo dõi giá cả được nhiều người biết đến như là một các phong vũ biểu của thị trường trong nước hay quốc tế. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thường phụ thuộc lẫn nhau. Hiển nhiên, thị trường thứ cấp sẽ không tồn tại nếu không có sự phát hành chứng khoán khả nhượng tại thị trưoừng sơ cấp. Sự thành công của thị trường thứ cấp còn chi phối sự thành công của thị trường sơ cấp. Như vậy, thị trường chứng khoán bao gồm cả hai thị trường thứ cấp và sơ cấp. 2.2. Các loại chứng khoán được mua bán trên thị trường chứng khoán. Chứng khoán là một danh từ chung để chỉ các loại chứng thư: cổ phiếu, trái phiếu.. 2.2.1. Cổ phiếu: Cổ phiếu là loại chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông với một doanh nghiệp cổ phần. Cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Người có cổ phiếu có các quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty, được chia lãi theo kết quả kinh doanh, được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý và phải chịu trách nhiệm về sự lỗ lãi, phá sản của công ty. Cổ phiếu có thể được phát hành lúc vận động thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần gọi thêm vốn để mở rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh. Đặc tính của cổ phiếu là chủ sở hữu có thể được hưởng lợi nhiều hơn giá trị ghi trên cổ phiêú (mệnh giá) nhưng cũng có thể không được chia lời, thậm chí mất luôn cả số vốn đã bỏ ra, nếu công ty làm ăn không có hiệu quả. Tóm lại, lợi ích của người có cổ phiếu hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. 2.2.2. Trái phiếu: Khác với cổ phiếu trái phiếu đem lại cho người đầu tư ,tư cách chủ nợ của công ty (trái phiếu công ty) hay chính phủ (trái phiếu chính phủ). Người vay là người phát hành trái phiếu sẽ cam kết với chủ nợ ba điều chủ yếu hay là ba thông số chính của một trái phiếu đó là: 1 - Mệnh giá cổ phiếu: Khoản vay sẽ được hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Mệnh giá của trái phiếu có thể chính là giá bán cũng có thể cao hơn hay thấp hơn. 2 - Lãi suất cuống phiếu: Là tỷ lệ lãi hàng năm ổn định trên mệnh giá trái phiếu. Lãi suất này cố trong suốt thời hạn của trái phiếu và có thể được thanh toán mỗi năm một lần hay nhiều lần tuỳ thoả thuận. 3 - Thời hạn của trái phiếu: Tại thời điểm mà bên phát hành phải hoàn tất việc thanh toán các khoản lãi định kỳ đồng thời hoàn trả mệnh giá trái phiếu. Thị trường chứng khoán cho phép người vay có thể phát hành những trái phiếu có thời hạn khác nhau, người đầu tư không nhất thiết phải chờ đến khi trái phiếu đáo hạn mới được nhận lại vốn gốc của mình mà có thể trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán. 2.3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán. 2.3.1. Nguyên tắc trung gian của mua bán chứng khoán. Thị trường chứng khoán hoặt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện, mà do các trung gan môi giới gọi là kinh kỹ thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoặt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc trung gian này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ được lợi ích của người tiết kiệm và đầu tư (người mua chứng khoán). Vì những người tiết kiệm và đầu tư không thể xét đoán được giá trị thực sự của từng loại chứng khoán, và cũng không có thể cự đoán được một cách chính xác giá trị tương lai của nó. Do đó, nếu không có những nhà môi giới có những sự phân tích cần thiết dựa trên những yếu tố xác đáng để có những nhận xét kỹ lưỡng thì người mua chứng khoán có thể bị lầm lẫn hoặc bị lừa gạt. Xét về tính chất kinh doanh, kinh kỹ có hai loại: môi giới chứng khoán và chuyên gia chứng khoán . Môi giới chứng khoán: Là loại kinh kỹ chỉ được thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn hoa hồng. Thương gia chứng khoán: Còn gọi là kinh doanh chứng khoán, là loại kinh kỹ thực hiện mua và bán cho chính mình, hưởng lời từ các loại nghiệp vụ đó. Người môi giới và thương gia chứng khoán tại sàn giao dịch chứng khoán là những người đại diện cho các công ty môi giới chứng khoán. Nói chung các cong ty môi giới chứng khoán đều đồng thời thực hiện hai loại nghiệp vụ: vừa là người môi giới vừa là người kinh doanh. 2.3.2. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán. Việc định gía chứng khoán trên thị trường chứng khoán hoàn toàn thuộc về các nhà kinh kỹ. Mỗi kinh kỹ định giá mỗi loại chứng khoán tại một thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật riêng của mình và tuỳ thuộc vào số cung cầu chứng khoán có trên thị trường. Việc định giá chứng khoán được thực hiện qua một sự thương lượng giữa những kinh kỹ cần mua và những kinh kỹ cần bán. Giá cả chứng khoán sẽ được xác định khi hai bên đã thống nhất. Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường chứng khoán không ai có thể can thiệp về sự tác động qua lại của số cung và cầu, và cũng không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán. Vì thế người ta nói thị trường chứng khoán là thị trường tự do mang tính tự do nhất trong các loại thị truường. 2.3.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành số lượng chứng khoán và giá cả từng loại chứng khoán (giá rao bán, giao mua, giá kết thúc của phiên giao dịch và giá cả trước đó) đều được thông báo thông qua thị trường và báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng chứng khoán được mua bán và giá cả đã thống nhất được lập tức thông báo ngay. Đó là nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán, người mua chứng khoán dễ dàng chọn lựa loại chứng khoán theo ý thích của mình. 2.4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. 2.4.1. Nhà phát hành chứng khoán. Là những người muốn huy động vốn trên thị trường bằng cách phát hành và bán các chứng khoán bao gồm các công ty chính phủ và các chính qutền địa phương. Các công ty muốn huy động vốn đầu tư thường phát hành trái phiếu công ty hoặc cổ phiếu.Chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ nhằm huy động tiền để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu địa phương để huy động tiền để thực hiện các mục tiêu của địa phương. 2.4.2. Nhà đầu tư chứng khoán. Là những người có tiền nhàn rỗi, muốn đầu tư bằng cách mua chứng khoán trên thị trường những người này rất đông gồm các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các quỹ đầu tư... 2.4.3. Các tổ chức trung gian. Nhà kinh doanh và môi giới chứng khoán: Là những người hoạt động dưới danh nghĩa của một công ty chứng khoán. Họ là những người có chuyên môn cao và rất thành thạo trong phân tích và giao dịch chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán chỉ có các nhân viên của các công ty chứng khoán mới được phép trực tiếp giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trườn tập trung. Trong những người này có hai loại hoạt động: Loại chuyên mua bán chứng khoán cho người khác để ăn hoa hồng gọi là môi giới chứng khoán: Loại mua bán chứng khoán cho chính mình gọi là kinh doanh chứng khoán. Người tổ chức thị trường và nguòi điều hoà và quản lý thị trường: là những tổ chức chủ yếu tạo nên thị trường chứng khoán, bảo đảm toàn bộ về phương diện kỹ thuật và nghiệp vụ của nghành công nghiệp chứng khoán. 3. chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán. 3.1. Chức năng của thị trường chứng khoán. Thứ nhất: Thị trường chứng khoán là cầu nối liền giữa những người thừa vốn và những người thiếu vốn thông qua mua bán cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường. Thị trường chứng khoán sinh ra để huy động vón nhàn dỗi phát triển sản xuất góp phần tạo công ăn việc làm ổn định đời sống dân cư, ổn định xã hội. Thư hai: Thị trường chứng khoán tự động điều hoà giữa những nơi thừa sang nơi thiếu vốn góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Thứ ba: Thị trường chứng khoán đảm bảo thông tin chính xác kịp thời cho các nhà đầu tư và nhà kinh doanh chứng khoán về tình hình cung - cầu, thị giá của chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan. Thứ tư: Thị trường chứng khoán đảm bảo cho các loại chứng khoán được phép lưu hành có nơi mua bán thuận tiện theo quy luật cung cầu như mọi hàng hoá khác. 3.2. Vai trò của thị trường chứng khoán. 3.2.1. Những mặt tích cực. Thứ nhất: Là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiếc kiệm vào công cuộc đầu tư: Thị trường chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các cơ sở tài chính, tín dụng huy động dài hạn nguồn vốn tiết kiệm và để dành trong dân chúng. Vì thị trường chứng khoán, một định chế giải quyết được các yếu điểm các tổ chức tài chính tín dụng: Người có chứng khoán khi cần tiền có thể đưa chứng khoán ra thị trường bán lại. Thứ hai: Giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển xã hội: Bất cứ nhà nước nào cũng phải có ngân sách để thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội. Để có vốn cho chi tiêu Nhà nước phải thu thuế, thu phí...Nhưng thông thường không đủ chi tiêu do đó Nhà nước phải phát hành chứng khoán (trái phiếu) trên thị trường chứng khoán _một hình thức Nhà nước vay tiền của dân. Thứ ba: Là công cụ giảm áp lực lạm phát: Ngân hàng Nhà nước với vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với laĩ suất cao để thu hút bớt số tiền lưu thông từ đó làm giảm lạm phát. Thứ tư: Thu hút vốn từ nước ngoài: Thông qua thị trường chứng khoán các nhà đầu tư nước ngoài có thể bỏ vốn đầu tư bằng cách mua bán chứng khoán ăn chênh lệch hoặc các doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần rồi đem bán cổ phần trên thị trường chứng khoán. Như vậy thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một phương thức đầu tư rất hữu hiệu. Thứ năm: Thị trường chứng khoán lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước, các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người có vốn người (người sở hữu chứng khoán) không sợ vốn của mình bị bất động vì khi cần họ sẽ bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này để thu tiền về để chi tiêu hoặc đầu tư vào loại cổ phiếu trái phiếu khác. Một khi đầu tư vào chứng khoán dễ dàng và có lợi đối với mọi tầng lớp dân chúng thì các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực bất động hoá để tham gia vào quá trình đầu tư. Thứ sáu: Thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn. Nhờ có thị trường chứng khoán các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Ban quản lý thị trường chứng khoán chỉ chấp nhận những cổ phiếu, trái phiếu của những công ty có đủ điều kiện kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh có doanh lợi ...và công chúnh cũng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Với sự lựa chọn tự do cuả người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa luật lệ của thị trường chứng khoán bắt buộc các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán phải công bố công khai báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh hàng quý, hàng năm...qua đó công chúng có cơ hội nhận định, đánh giá được công ty. Việc mua cổ phiếu của công ty một cách tự do khiến người có cổ phiếu trở thành chủ sở hữu công ty, họ có thể kiểm soát công ty mộ cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý công ty và nhận biết được khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của thị trường chứng khoán. Từ đó thúc đẩy công ty phải làm ăn đàng hoàng hơn, tốt hơn. 3.2.2. Những mặt tiêu cực. Thương gia chứng khoán thường đẩy giá lên hoặc dìm giá xuống để thu lợi gây thiệt hại cho những người chỉ có số chứng khoán ít ỏi vì trên thị trường chứng khoán giá cả hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu auyết định qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán. Mặt khác, có tình trạng đầu cơ hàng hoá gây nên sự khan hiếm hàng hoá một cách giả tạo, dẫn đến giá cả chứng khoán tăng gấp nhiều lần giá trị chính thức của nó. Khi sự việc được làm sáng tỏ thì hầu hết các loại chứng khoán đều được đăng ký bán ra nhưng không có người mua dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán. phần II: thực trạng và phương hướng để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán ở việt nam. 1. Thực trạng thị trường chứng khoán việt nam trong thời gian quA. Sự ra đời và đi vào hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt nam, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống nhân hàng khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước thực hiện đường lối "xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Tuy quy mô thị trường còn nhỏ bé vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn nhưng đây là bước thí điểm, tập dược quan trọng để các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức quốc gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, điều đó tạo nên tiền đè vững trắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán Việt nam. Tình hình biến động của thị trường chứng khoán. Ngày 20/07/2000 Trung tâm Giao dịch chứng khoán đầu tiên ở Việt nam chính thức khai trương đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh. Và trung tâm thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Đến nay Trung tâm đã hoạt động được gần 3 năm. Vậy trong gần 3 năm qua hoạt động thị trường chứng khoán Việt nam biến động như thế nào? Giá cả và khối lượng hàng hoá biến động ra sao? Và đến nay đã đạt được những kết quả và có những hạn chế gì?... Để giải đáp được những câu hỏi này theo ý kiến chủ quan của tôi sự biến động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua có thể chia làm các giai đoạn như sau: Từ ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000 - 28/10/2000. Về hàng hoá: Tính đến ngày 28/10/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán có 7 loại chứng khoán được niêm yết.Tổng giá trị của 4 công ty niêm yết đạt đến 302,80 tỷ đồng trong đó: Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) 150 tỷ đồng, công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SACOM) 120 tỷ đồng, công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) 10,8 tỷ đồng, công ty cổ phần giao nhận ngoại thương (TMS) 22 tỷ đồng. Về trái phiếu: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ niêm yết 1.100 tỷ đồng bao gồm 3 loại: Loại đấu thầu đợt một (CP1-0100) 300 tỷ đồng lãi suất 6,5%/năm. Loại đấu thầu đợt hai (CP1-0200) 300 tỷ đồng lãi suất 6,6%/năm. Đợt một bảo lãnh phát hành (C P1A0100) 500 tỷ đồng lãi suất 6,6% năm. Tất cả các loại trái phiếu trên đều có kỳ hạn 5 năm. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Giá chứng khoán bị đẩy giá tăng cao liên tục trong từng phiên giao dịch, số lượng cổ phiếu đã giao dịch sau 33 phiên là 1.459.600 cổ phiếu của cả 4 công ty niêm yết và tổng giá trị giao dịch là 28.898,91 triệu đồng. Chỉ số Việt nam index tăng 28.27 điểm trong đó giá cả của các loại cổ phiếu điển hình biến động trong thời gian qua như sau: Với 5 loại cổ phiếu là REE, SAM, HAP, TMS, LAF. Bảng 1 So sánh mức giá cổ phiếu giá đóng cửa ngày 27/04/2000 so với giá tham chiếu Loại cổ phiếu Giá tham chiếu Giá đóng cửa ngày 27/10/2000 Tỷ lệ tăng (%) Mức giá (đ) Ngày REE SAM HAP TMS LAF 16.000 17.000 16.000 14.000 17.000 28/07/2000 28/07/2000 04/08/2000 04/08/2000 15/08/2000 19.100 22.800 25.000 19.500 20.500 19,4 34,1 56.25 16 20 Qua bảng số liệu trên nhận thấy giá cả của tất cả 5 loại cổ phiếu đều tăng hướng tốt phản ánh đúng cung cầu thị trường và tâm lý người đầu tư. Vậy tại sao lại có sự tăng giá đó? Nguyên nhân là do khái niệm đầu tư chứng khoán còn rất mới mới mẻ với chúng ta, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán còn hạn chế, người đầu tư tìm cách mua cổ phiếu bằng mọi giá họ chỉ muốn nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán còn những người nắm giữ cổ phiếu lại chưa muốn bán vì chờ diễn biến thị trường. Hoạt động giao dịch trái phiếu: Tính đến tháng 10/2000 tổng khối lượng giao dịch là 390 trái phiếu đạt 39,2 triệu đồng. Giá trái phiếu vẫn ở mức 100.800 đồng. Thời gian này thị trường trái phiếu tăng rất chậm nguyên nhân do người đầu tư không thực sự hiểu biết về lợi ích của đầu tư trái phiếu và do đầu tư vào trái phiếu không hấp dẫn bằng đầu tư vào cổ phiếu: lãi suất thấp mà phí giao dịch lại cao 0,5%. Trong thời kỳ này giá cổ phiếu HAP (56,25%) là tăng cao nhất và thấp nhất giá cổ phiếu của TMS (16%). Nhìn chung giá cả cổ phiếu trong thời kỳ này biến động theo chiều Nhận xét: Thời kỳ này hoạt động giao dịch cổ phiếu nói chung ổn định giá cả chứng khoán được quản lý trong phạm vi cho phép. Tình hình nhu cầu chứng khoán vượt cung cho thấy dấu hiệu tốt về khả năng thu hút đầu tư trên thị trường chứng khoán. Các công Tổng công ty lựa chọn niêm yết, hoạt động kinh doanh tốt và có lãi cổ phiếu được trả cổ tức cao hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên hàng hoá trên thị trường còn quá ít chưa đáp ứng được nhu cầu mua bán trên thị trường. 1.1.2. Từ ngày 28/10/2000 - 28/04/2001. Tính đến ngày 28/04/2001 Trung tâm Giao dịch chứng khoán-Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 80 phiên giao dịch đưa tổng số phiên giao dịch lên 113 phiên với tổnh giá trị giao dịch là 338,03 tỷ đồng. Có thêm hai loại chứng khoán được niêm yết đưa tổng số chứng khoán niêm yết lên 9 loại trong đó có 5 cổ phiếu của doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá. Và trong thời kỳ này có thêm hai công công ty tham gia niêm yết đó là: Công Tổng công ty giao nhận kho vận ngoại thương Sài Gòn-Transimex và công Tổng công ty chế biến nông sản xuất khẩu Long An- Lafooco, với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết 321,17 tỷ đồng. Trái phiếu phát hành thông qua đấu thầu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán kỳ hạn 5 năm, lãi suất 6,5%; 6,6% với khối lượng là 1.100 tỷ đồng, đợt một đưa vào niêm yết 83,07 tỷ đồng, đợt hai đưa vào niêm yết 75 tỷ đồng. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Trong 113 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 9.053.300 cổ phiếu tăng so với thời kỳ trước 520,26% với giá trị cổ phiếu giao dịch 327,225 tỷ đồng chiếm 96,8% và tình hình biến động giá cổ phiếu trong giai đoạn này được thể hiện rõ ở bảng dưới đây: Bảng 2 So sánh mức giá cổ phiếu giá đóng cửa ngày 27/04/2001 so với giá tham chiếu Loại cổ phiếu Giá tham chiếu Giá đóng cửa ngày 27/04/2001 Tỷ lệ tăng (%) Mức giá (đ) Ngày REE SAM HAP TMS LAF 16.000 17.000 16.000 14.000 17.000 28/07/2000 28/07/2000 04/08/2000 04/08/2000 15/08/2000 48.600 47.000 87.000 75.000 40.600 204 176 444 439 139 Nhìn chung tất cả các loại cổ phiếu đều tăng giá rất nhanh so với giá tham chiếu. mức giá tăng cao nhất là của HAP với mức giá đạt 87.000 đồng/cổ phiếu tương đương mức tăng 444% và giá cổ phiếu tăng ít nhất là của LAF đạt 40.600 đồng/cổ phiếu tương mức tăng 139%. Nguyên nhân của sự tăng giá này do: cung chứng khoán thấp hơn cầu chứng khoán; hiện tượng đầu tư theo trào lưu; mua chứng khoán để biết; cách thức phát hành cổ phiếu khi cổ phần hoá còn bát cập; việc định giá cổ phiếu quá thấp so với thực tế; một số các công Tổng công ty niêm yết trả cổ tức quá cao không chú trọng đến việc tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản suất, đã làm cho các nhà đầu tư đổ sô vào mua cổ phiếu với kỳ vọng nhận được cổ tức cao mà bất chấp những nguy cơ tiềm ẩn phía trước. Hoạt động giao dịch trên thị trường trái phiếu: Tính đến tháng 4/2001 khối lưọng trái phiếu giao dịch tăng thêm 107.600 trái phiếu đạt 107.990 nâng giá trị giao dịch lên 10,818 tỷ đồng chiếm 3,2% tổng giá trị giao dịch. Vào phiên thứ 105 giá trị trái phiếu khoảng 5,2 tỷ đồng và vào phiên thứ 115 với giá trị 1 tỷ đồng. Điều này có thể thấy rằng trái phiếu Chính phủ chưa thực sự hấp dẫn đối với người đầu tư. Mặc dù có độ an toàn cao nhưng lãi suất lại thấp hơn mặt bằng lãi suất thị trường (lãi suất ngân hàng khoảng 7% đến 8%/năm) nên không kích thích người mua. Mặc dù chúng ta đã cải tiến phương thức phát hành trên thị trường sơ cấp đảm bảo đủ tiêu chuẩn đưa vào niêm yết, nhưng lại xem nhẹ tính đại chúng của trái phiếu do đó trái phiếu tập trung vào một số Ngân hàng Thương mại lớn. Trong đó Ngân hang này chưa đẩy mạnh được dư nợ tín dụng nên chưa có nhu cầu bán ra dẫn đến trái phiếu Chính phủ gần như không giao dịch được. Nhận xét: trong thời kỳ này tình hình biến động chứng khoán (cổ phiếu) khá sâu sắc tăng cả về giá cả và số lượng cổ phiếu giao dịch. Điểm nổi bật trong thời kỳ này là giá của hầu hết các loại cổ phiếu tăng rất nhanh mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do yếu tố tâm lý và tình trạng cung chứng khoán nhỏ hơn cầu chứng khoán. Trong khi đó giá trái phiếu lại không có xu hướng biến động tốt mà giậm chân tại chỗ. Tuy nhiên tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trên thị trường có tăng nhưng mức yăng còn quá thấp do trái phiếu Chính phủ chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư. Từ ngày 28/04/2000 - 28/07/2001. Hàng hoá trên thị trường: tính đến ngày 28/07/2001 Thị trường Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thêm được 38 phiên giao dịch so với thời kỳ trước nâng tổng số phiên giao dịch lên 151 phiên với 14,2 triệu cổ phiếu và trên 500 trái phiếu đạt tổng giá trị giao dịch là 727 tỷ đồng. Đến thời điểm này có 5 loại trái phiếu chính phủ và hai loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch trên thị trường. Đã thực hiện được 8 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ thông qua thị trường giao dịch chứng khoán, trong đó đã tổ chức thành công 3 đợt đấu thầu tổng giá trị trái phiếu chính phủ trúng thầu là: 805 tỷ thời hạn lãi suất từ 6,5%/năm đến 7,3%/năm. Có 5 đợt đấu thầu không thành công vì lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo. Bên cạnh đó Kho bạc Nhà nước đã phát hành 2 đợt trái phiếu chính phủ theo hình thức bảo lãnh phát hành với tổng giá trị 700 tỷ đồng. Như vậy đến thời điểm này đã có 1500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán. Nhìn chung giá cả trái phiếu ít có sự biến động đáng kể, xu hướng giá trái phiếu đi vào ổn định. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Tại thời điểm này trên thị trường có 6 công Tổng công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu đăng ký niêm yết là 33,8 triệu cổ phiếu đạt giá trị là 338 tỷ đồng. Trong 151 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 14.2 triệu cổ phiếu, tổng giá trị giao dịch là 654,3 tỷ đồng chiếm 90%. Thị trường có xu hướng tăng giá. Các loại cổ phiếu tăng từ 4 đến 7 lần so với phiên giao dịch đầu tiên. Chỉ số Việt nam index tăng cao là 571 điểm, giá trị thị trường của 5 loại cổ phiếu đạt 2.301 tỷ đồng. Sự biến động giá cả của 5 loại cổ phiếu REE, SAM, HAP, TMS, LAF được thể hiện rõ dưới bảng sau đây: Bảng 3. So sánh mức tăng giá cổ phiếu ( Giá đóng cửa ) Loại cổ phiếu Giá ngày 27/4/2001 (đ) Giá ngày 01/7/2001 (đ) Tỷ lệ tăng (%) REE SAM HAP TMS LAF 48.600 47.000 87.000 75.000 40.600 82.500 64.500 109.000 115.000 82.000 70,75 32,23 25,29 52,32 101,97 Nhận xét: Trên bảng 3 cho thấy giá cả của 5 loại cổ phiếu đều tăng trong thời kỳ này, tuy nhiên mức độ tăn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0577.doc
Tài liệu liên quan