Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Ở Việt Nam, BH PNT đã bắt đầu hình thành từ năm 1965. Từ 1965 đến 1994 là thời kỳ BH PNT hoàn toàn hoạt động độc quyền với một DNBH Nhà nước duy nhất . Do vậy, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế rất hạn chế. Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành BH Việt Nam được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP,ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1993 về KDBH. Theo đó, đã ra đời một số công ty BH và TTBH Việt Nam mới bắt đầu hình thành, hoạt

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động và bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, TTBH nói chung và TTBH phi nhân thọ nói riêng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục, đổi mới.Mặt khác, trong su thế hội nhập kinh tế quốc tế và trong điều kiện nước ta ra nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm.... Vì vậy, rất cần thiết phải có những đổi mới toàn diện, tạo nên bước phát triển đột phá trong ngành BH phi nhân thọ. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã chọn chủ đề :“Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài Ở Việt Nam, TTBH phi nhân thọ mới được hình thành từ năm 1994. Ngành BHTM nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất non trẻ, nhìn chung còn là lĩnh vực mới mẻ. Do đó, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, mới chỉ dừng lại ở một số chuyên đề, hội thảo ở một lĩnh vực nhất định của TTBH phi nhân thọ. Một vài luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu về thị trường bảo hiểm Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ nghiên cứu trên lĩnh vực Maketing, lịch sử kinh tế… và cũng chỉ trong một vài lĩnh vực cụ thể. Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể đặc biệt là trên góc độ Kinh tế chính trị và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. PGS –TS Phương Ngọc Thạch đã viết chuyên đề về thị trường bảo hiểm: vấn đề và kiến nghị, song mới chỉ nói riêng về bảo hiểm con người và bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu. Ths. Nguyễn Tiến với chuyên đề: Mở cửa TTBH Việt Nam - thực trạng và giải pháp. Chuyên đề không đánh giá mà chỉ bàn về những quan điểm của Chính phủ trong việc phát triển TTBH, xoay quanh việc mở cửa TTBH. Tác giả Trần Đình Ba, với đề tài BH phi nhân thọ trong quá trình mở cửa TTBH Việt Nam mới chỉ đề cập đến vấn đề tăng doanh thu phí bảo hiểm. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam của tác giả Trần Trung Tính (2002), nghiên cứu trong lĩnh vực maketing của TTBH nói chung. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Quá trình phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2004 - thực trạng và giải pháp, của tác giả Trịnh Thị Xuân Dung ( 2005), nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử kinh tế và cũng chỉ tập trung nghiên cứu những DNBH lớn trong điều kiện thực tế của thời gian nghiên cứu. Nhìn chung các luận văn trên mới chỉ nghiên cứu TTBH trong phạm vi “đóng” mà không đặt nó trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, các luận văn đó cũng chỉ tập trung nghiên cứu về mặt kinh doanh BH mà chưa chú trọng đến mảng đầu tư vốn nhàn dỗi vào nền kinh tế của các DNBH. Điểm khác biệt của luận văn là nghiên cứu toàn diện, tổng thể TTBH phi nhân thọ dưới góc độ kinh tế chính trị và đặt nó trong điều kiện hội nhập KT quốc tế. Đồng thời nghiên cứu đầy đủ cả KDBH và đầu tư trở lại nền kinh tế cũng như vị trí, vai trò của các DNBH phi nhân thọ với tư cách là trung gian tài chính trong thị trường tài chính. 3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học của luận văn: - Góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận về BH phi nhân thọ và TTBH PNT. Vận dụng những vấn đề đó vào điều kiện thực tế ở Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng TTBH phi nhân thọ ở Việt nam trong thời gian từ 1994 đến 2005.Khảo sát kinh nghiệm TTBH một số nước. - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTBH PNT. - Đề xuất những phương án, giải pháp nhằm phát triển TTBH phi nhân thọ ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận chung về TTBH phi nhân thọ. Những nhân tố để phát triển TTBH phi nhân thọ. Phạm vi: Nghiên cứu toàn bộ TTBH PNT Việt Nam từ 1994 đến 2005. 5. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử với phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, phương pháp so sánh, hệ thống hóa cũng được sử dụng để thực hiện luận văn. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn - Làm rõ những vấn đề chung về BH PNT và TTBH phi nhân thọ. - Trình bày một số kinh nghiệm về phát triển TTBH PNT ở các nước trên thế giới, có thể vận dụng vào phát triển TTBH PNT ở Việt Nam. - Qua phân tích thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm cải thiện môi trường KDBH PNT ở Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBH PNT, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực KDBH PNT để phát triển thị TTBH PNT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm phi nhân thọ và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. Chương 3: Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. KẾT LUẬN Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 1.1. BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP 1.1.1. Những vấn đề chung về bảo hiểm thương mại và bảo hiểm phi nhân thọ Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên, xã hội và cũng luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra như: Bão, lụt, động đất, sóng thần, rét, hạn hán, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, mất trộm, mất cắp tài sản, ốm đau dịch bệnh, mất việc làm, hỏa hoạn, bạo lực… đều có ảnh hưởng đến thu nhập và hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…gây tác động xấu đến KT XH nói chung. Để đối phó, xử lý các rủi ro con người có các biện pháp khác nhau. Có thể là kiểm soát, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro, nhưng trên thực tế có nhiều loại rủi ro bất ngờ không thể kiểm soát được. Biện pháp khác là chấp nhận rủi ro tức là tự khắc phục hậu quả.Cũng có thể chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng -đây chính là bảo hiểm.BH là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Như vậy, BH ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.1.1. Khái niệm và nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại a) Khái niệm: Có rất nhiều cách khái niệm về BHTM.Tùy thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực mà các khái niệm có một số điểm khác nhau: - Theo ủy ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa kỳ thì: Bảo hiểm là việc tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những rủi ro gây ra chúng cho những người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường cho những tổn thất này, cung cấp các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra, hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến rủi ro. - Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: Bảo hiểm là sự thỏa thuận, qua đó một bên ( Người bảo hiểm) cam kết sẽ thanh toán cho bên kia ( Người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm), một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất về tài chính cho Người được bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ Người tham gia bảo hiểm đến Người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, Người bảo hiểm đòi Người được bảo hiểm một khoản tiền đó là phí bảo hiểm. - Một cách toàn diện hơn người Pháp cho rằng: Bảo hiểm là một hoạt động, thông qua đó một cá hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả nếu rủi ro xảy ra, nhờ vào khoản đóng góp cho mình hay cho người khác. Khoản bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhiệm, tổ chức này có trách nhiệm trước các rủi ro và bù trừ chúng theo qui luật thống kê. Dù BHTM được khái niệm bằng cách nào nhưng nó đều thể hiện bản chất của BH nói chung đó là sự san sẻ rủi ro trên cơ sở số lớn của các cá nhân và tổ chức xã hội thông qua hoạt động của các tổ chức BH. Nói cách khác BH là phương sách xử lý tủi ro, nhờ đó việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh của các DNBH. b) Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại *) Nguyên tắc số đông bù số ít: KDBH là việc người BH tìm kiếm lợi ích kinh tế dựa trên cơ sở hợp đồng BH, mà theo đó đổi lấy phí BH, người BH cam kết thực hiện bồi thường, hoặc trả tiền BH cho người được BH khi có sự kiện BH xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí BH mà các DNBH nhận được. Để làm được điều này, hoạt động của BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào. Các DNBH thông qua việc huy động bằng hình thức phí BH, thành lập nên quỹ bồi thường để chi trả cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia BH. Các DNBH đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BH thì quỹ BH tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm BH chỉ có thể được triển khai có hiệu quả khi có nhiều nhu cầu về cùng loại dịch vụ đó. *) Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm: Về nguyên tắc, những rủi ro có thể được BH là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được và những nguyên nhân gây ra rủi ro phải là khách quan và không cố ý. Vì vậy, các DNBH thường không nhận BH cho các trường hợp tổn thất gây ra do hành vi cố ý của người tham gia BH (ví dụ cố ý tự tử), những tổn thất đã xảy ra, hoặc chắc chắn sẽ xảy ra ( ví dụ hao mòn tự nhiên, giảm giá trị thương mại..), hay những tổn thất bởi người tham gia BH vi phạm nghiêm trọng pháp luật…Để đảm bảo nguyên tắc này, trong các điều khoản của hợp đồng BH luôn qui định các rủi ro bị loại trừ. Nguyên tắc này nhằm tránh việc bồi thường cho những tổn thất có thể thấy trước hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Đồng thời làm giảm sác xuất rủi ro trong khi tính toán và đưa ra mức phí BH chính xác, hợp lý. Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các DNBH mà chính những người tham gia BH cũng được hưởng mức phí BH hợp lý và cảm thấy công bằng hơn khi mua BH. *)Nguyên tắc phân tán rủi ro: Các DNBH có chức năng huy động và thành lập quỹ BH trên cơ sở sự đóng góp của nhiều người. Đây là một quỹ tài chính lớn và dùng để thực hiện cam kết bồi thường và chi trả BH. Tuy nhiên các DNBH cũng phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn mà không phải lúc nào DNBH cũng đảm bảo được khả năng thanh toán ( có thể thấy điều này ở các DNBH có qui mô nhỏ, hoặc mới thành lập). Vì lý do trên, các nhà BHTM thường không nhận những rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của mình. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kỵ là phải từ chối nhận BH, đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro đó là đồng BH và tái BH. Nếu trong đồng BH, nhiều DNBH cùng nhận BH cho một rủi ro lớn thì tái BH lại là phương thức trong đó, một DNBH nhận BH cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt phần rủi ro cho một hoặc nhiều DNBH khác. *) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Nguyên tắc này đòi hỏi các DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện điều khoản để soạn thảo hợp đồng đảm bảo cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà BH là sản phẩm dịch vụ và là sản phẩm “vô hình”. Người mua chỉ có trong tay một hợp đồng, một cam kết chứ không hề có một sản phẩm cụ thể. Vì vậy, chất lượng sản phẩm có được đảm bảo hay không, quyền lợi của người mua có được đầy đủ công bằng hay không…đều chủ yếu dựa vào sự trung thực từ phía các DNBH. Ngược lại, nguyên tắc này cũng đòi hỏi người tham gia BH phải trung thực khi kê khai về những đối tượng trước khi tham gia BH, để xác định mức phí phù hợp, cũng như phải trung thực khi khai báo rủi ro trong khi đòi bồi thường. Mọi hành vi gian lận, không trung thực, nhằm trục lợi BH sẽ bị pháp luật xử lý. *) Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia BH phải có một số quan hệ với đối tượng tham gia BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản và quyền nghĩa vụ nuôi,cấp dưỡng đối với đối tượng được BH. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại nhằm thu lợi từ một hợp đồng BH. Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, còn có một số nguyên tắc đó là nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán…áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. 1.1.1.2 Bảo hiểm phi nhân thọ và phân loại bảo hiểm phi nhân thọ a) Bảo hiểm phi nhân thọ: Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào đưa ra một khái niệm riêng cho BH phi nhân thọ. Song có thể hiểu khái niệm về BH phi nhân thọ chính là khái niệm BH thương mại, bởi lẽ: Nguyên tắc hoạt động, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BHTM cũng chính là những nguyên tắc, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BH PNT . Đối tượng bao gồm các loại tài sản (hữu hình và vô hình), con người và một số trách nhiệm phát sinh do mối quan hệ giữa con người với con người. Vì vậy, theo tiêu thức đối tượng, BHTM gồm có: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người (bao gồm con người PNT và BH nhân thọ). Như vậy, có thể hiểu BHTM hoạt động trên hai lĩnh vực PNT và nhân thọ - trong đó BH nhân thọ chỉ là một hình thức của BH con người.( BH nhân thọ là sự cam kết trong đó người BH sẽ trả cho người tham gia BH một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra, còn người tham gia BH phải nộp phí BH theo qui định của hợp đồng. BH nhân thọ là quá trình BH các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người, đồng thời nó còn có tính chất tiết kiệm). BH PNT không có tính tiết kiệm và chỉ BH rủi ro khách quan, bất ngờ. Chúng ta có thể thấy rõ điều muốn nói ở trên qua sơ đồ sau: BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI BHIỂM TÀI SẢN BHIỂM TNDSỰ BHIỂM CON NGƯƠÌ BH CON NGƯỜI PNT BHIỂM NHÂN THỌ BHIỂM PHI NHÂN THỌ b) Phân loại bảo hiểm phi nhân thọ: Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm ý nghĩa mà các sản phẩm BH được phân chia thành các nhóm như sau: *) Nếu căn cứ theo hình thức tham gia, BH phi nhân thọ có hai loại: Bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Phần lớn các sản phẩm BH PNT là BH tự nguyện. Việc tham gia BH hay không phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia BH. Các DNBH đáp ứng được hay không cũng tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của DN đó. Trong khi đó, BH bắt buộc bao gồm các sản phẩm BH mà pháp luật qui định các tổ chức cá nhân phải tham gia BH và các DNBH phải phục vụ theo một số điều khoản, mức phí và mức trách nhiệm BH theo qui định của nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại BH bắt buộc như: BH bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách trên xe, BH trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật, BH trách nhiệm nghề nghiệp của DN môi giới BH, một số loại BH cháy nổ. *) Nếu căn cứ theo đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ có ba loại: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người phi nhân thọ. - Bảo hiểm tài sản: Là loại BH có đối tượng là tài sản ( có thể là hữu hình hoặc vô hình). Những tài sản hữu hình tồn tại dưới hình thể vật chất ( nhà cửa, phương tiện vận chuyển, đường xá, cầu cống bến cảng, cây trồng vật nuôi…) và tài sản vô hình là phát minh, sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa…Với sự đa dạng đó, cho đến nay không phải tất cả các loại tài sản đều đã có thể được BH, song cũng đã hình thành nhiều loại BH tài sản khác nhau. Hiện nay, ở Việt nam có những nghiệp vụ BH tài sản cơ bản sau: + Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; BH hàng hóa vận chuyển nội địa. + BH thân tàu ( tàu biển, tàu hoạt động nội thủy, sông hồ,thuyền đánh cá) + Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. + Bảo hiểm thân máy bay. + Bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng; Bảo hiểm lắp đặt. + Bảo hiểm tài sản trong vận chuyển dầu, thăm dò khai thác dầu khí. + Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. + Bảo hiểm nông nghiệp ( cây trồng vật nuôi). + Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. + Một số nghiệp vụ khác: BH tiền trong két, nhà tư nhân,trộm cắp,tín dụng … Đặc trưng cơ bản của BH tài sản: Người được BH có thể do chủ sở hữu hoặc người được giao quyền chiếm hữu sử dụng, người thừa kế. BH tài sản có thể nhận BH một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản , không BH lớn hơn giá trị tài sản đó. Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường không thể lớn hơn thiệt hại của tài sản đó trong một sự cố BH. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS): TNDS là một loại trách nhiệm pháp lý, nó phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. TNDS được coi là biện pháp cưỡng chế, nó được áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật. Nhìn chung TNDS là trách nhiệm bồi thường thiệt hại .Tại điều 3.10 Bộ Luật dân sự nước ta đã chỉ rõ: “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra. Người gây thiệt hại… phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại”.TNDS có hai loại TNDS theo hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Một số nghiệp vụ BH TNDS cơ bản: + BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 và hành khách trên xe. + Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe. + Bảo hiểm TNDS của chủ tàu biển. + Bảo hiểm TNDS của chủ hãng hàng không + Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm. + Bảo hiểm TNDS của chủ thầu đối với người thứ ba trong xây lắp. Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm TNDS: Đối tượng BH trong BH TNDS mang tính trìu tượng: Khi thiết lập hợp đồng thì đối tượng BH chưa xuất hiện. Nó chỉ biểu hiện cụ thể khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Phương thức BH có thể là có giới hạn (được ấn định trong hợp đồng), hoặc không giới hạn (không ấn định trước mà bồi thường theo phát sinh trách nhiệm) - Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại BH có mục đích thanh toán những khoản trợ cấp hoặc số tiền ấn định cho người được BH hoặc người được thụ hưởng BH, trong trường hợp xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được BH. Những rủi ro trong BH con người PNT là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, tử vong. Vì lý do giá trị con người là không thể xác định bằng tiền, nên trong BH con người không có khái niệm BH trùng, và thuật ngữ “chi trả BH” hoặc “thanh toán tiền BH” được thay thế cho “bồi thường bảo hiểm”. - Một số loại BH con người ở Việt Nam hiện nay: BH tai nạn con người, BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, BH sinh mạng cá nhân, BH toàn diện học sinh, BH tai nạn hành khách, BH tai nạn thuyền viên, BH khách du lịch….. - Đặc trưng của BH con người PNT: Đối tượng của BH con người PNT là tính mạng, sức khỏe: Đây là một phạm trù phi giá trị hóa.Số tiền BH, được ấn định trước trên hợp đồng BH. Khi có sự kiện BH, các khoản tiền BH được thanh toán mang tính chất khoán chứ không phải là bồi thường thiệt hại. Việc phân loại như trên sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm BH khác nhau. Mặt khác, nó giúp các DNBH quản lý tốt nghiệp vụ và tiến hành tổ chức kinh doanh khoa học và có hiệu quả cao hơn. 1.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ a) Đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ - Quá trình hoạt động KDBH phi nhân thọ, là quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ của các DNBH. - Trên phương diện xử lý rủi ro, BH là loại biện pháp rất có hiệu quả. Cơ chế hoạt động là chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Cơ chế đó khiến cho việc gánh chịu rủi ro, đặc biệt là những rủi ro trầm trọng vượt quá khả năng chống đỡ của mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức trở nên dễ dàng hơn. - Đã có ý kiến cho rằng, ở một góc độ nào đó BH PNT là “kinh doanh rủi ro”điều này đúng nhưng chưa đủ. Một trong những đặc điểm của BH PNT là chỉ nhận BH cho những rủi ro có thể xảy ra và gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,sức khỏe..mà không có tính chất tiết kiệm như BH nhân thọ.Điều đó cũng có nghĩa chỉ khi các rủi ro được BH gây thiệt hại cho người được BH thì mới được bồi thường. Khi hết thời hạn BH mà không có rủi ro xảy ra thì người được BH hết quyền lợi và đương nhiên sẽ không được trả lại số phí BH đã đóng. - Thời hạn của hợp đồng BH phi nhân thọ thường là 01 năm hoặc ngắn hơn ( ngoại trừ một số hợp đồng trong BH xây dựng lắp đặt có thời hạn theo thời gian xây dựng công trình). Thậm chí có những hợp đồng BH chỉ có hiệu lực vài tháng ( ví dụ BH hàng hoá xuất nhập khẩu), vài ngày ( BH vận chuyển hàng hóa, BH du lịch), hoặc chỉ và giờ ( BH tai nạn hành khách, BH du lịch). - Nếu BH nhân thọ áp dụng kỹ thuật tồn tích, thì bảo hiểm con người phi nhân thọ lại áp dụng kỹ thuật phân chia trong quản lý quỹ tài chính BH. b) Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ - BH PNT góp phần đảm bảo ổn định đời sống, ổn định tài chính, từ đó ổn định về tinh thần cho người tham gia BH và mang lại sự an toàn cho xã hội. Khi gặp rủi ro thiên tai hay tai nạn bất ngờ, các cá nhân, DN sẽ bị tổn thất về kinh tế hoặc thiệt hại về người.Tổn thất đó sẽ được BH bồi thường hoặc trợ cấp về tài chính, để người tham gia BH nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh. Từ việc hỗ trợ tài chính, BH còn đáp ứng các nhu cầu về đảm bảo an toàn cho người tham gia BH, đưa đến cho họ sự tin cậy về sự an toàn và một chỗ dựa tinh thần. - Do tính chất nghề nghiệp và xuất phát từ chính lợi ích của các DNBH phi nhân thọ, đòi hỏi họ phải có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá rủi ro, thống kê tai nạn, xác định các nguyên nhân và đề ra các biện pháp kiểm soát , ngăn ngừa giảm thiểu rủi ro cho toàn xã hội. Để thực hiện điều đó, các DNBH PNT thường xuyên tiến hành các hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo của mỗi cá nhân mỗi DN. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối mỗi con người và toàn xã hội. - Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động KDBH PNT là tạo lập, quản lý quỹ tài chính đủ lớn, nhằm chủ động đối phó với rủi ro và góp phần làm giảm “tổng rủi ro” của xã hội. Trong cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi cá nhân hay tổ chức, DN khó mà xác định được có những rủi ro gì mà họ sẽ gặp phải và mức độ thiệt hại là như thế nào, bởi lẽ rủi ro luôn là ngẫu nhiên và bất ngờ. Vì vậy, họ khó có thể định trước được kế hoạch tài chính để đối phó với những thiệt hại đó. Tuy nhiên, các DNBH có thể tính toán xác suất rủi ro trên cơ sở quy luật số lớn, từ đó có kế hoạch tài chính tương đối phù hợp với những hậu quả của các rủi ro có thể gây nên. - BH PNT là “ tấm lá chắn” hữu hiệu cho các DN, thông qua việc ổn định giá thành sản phẩm. Thật vậy, khi không may gặp rủi ro bất ngờ, DN sẽ bị thiệt hại về tài chính và chắc chắn sẽ đẩy chi phí của DN tăng lên. Khi đó nếu giữ nguyên giá để cạnh tranh, thì sẽ bị giảm lợi nhuận thậm chí bị lỗ. Ngược lại nếu tăng giá thì sẽ mất cạnh tranh về giá. Tác động này là rất lớn nếu DN gặp những thiệt hại lớn do rủi ro. Đây là bài toán rất khó hóa giải,nhất là đối với các DN vừa và nhỏ có số vốn hạn chế dễ bị “ chèn ép” về giá. Bài toán đó sẽ được các DNBH PNT hóa giải một cách đơn giản nếu các DN tham gia BH. - BH PNT góp phần ổn định chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các tổ chức, đơn vị hoạt động bằng nguồn ngân sách Nhà nước có thể tham gia BH. Thay vì bỏ ra số phí BH “ tương đối nhỏ”, mà ngân sách Nhà nước không phải chi ra số tiền có thể rất lớn để trợ cấp cho các thành viên khi gặp rủi ro. Mặt khác, BH PNT cũng còn đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua các loại thuế. - BH PNT có thể cung cấp một số vốn không nhỏ để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Với đặc điểm trong KDBH : phí nộp trước, việc bồi thường, trả tiền BH chỉ phải thực hiện sau đó một thời gian. Vì vậy, lượng vốn phần lớn có thời gian tạm thời nhàn rỗi sẽ được đem đầu tư vào nền kinh tế. Thực tế ở nhiều quốc gia phát triển, các tổ chức BH hoạt động rất mạnh trên thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường vốn. Đóng vai trò là một rung gian tài chính, các tổ chức BH thu hút vốn, cung ứng vốn, thúc đẩy nhanh sự luân chuyển về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. - Bảo hiểm phi nhân thọ cũng góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái BH. - Cuối cùng BH PNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi cấ nhân,tổ chức xã hội;giúp họ yên tâm trong cuộc sống sinh hoạt và trong sản xuất kinh doanh. Bởi vì với một giá khiêm tốn ( phí BH), BH PNT có thể giúp đỡ các gia đình các tổ chức, DN khắc phục những hậu quả khôn lường mà rủi ro gây ra. - BH PNT- một trung gian tài chính trong thị trường tài chính: Cũng như các thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Không có trung gian tài chính, thị trường tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn, bởi lẽ nó thực hiện việc “ kết nối” những món tiền nhàn rỗi với những người đi vay một cách nhanh chóng, hiệu quả và an toàn nhất. Các doanh nghiệp BHTM, trong đó có DNBH phi nhân thọ là một trong những trung gian tài chính quan trọng trong thị trường tài chính. Các DNBH phi nhân thọ thực hiện trung gian tài chính bằng tích tụ, tập trung một quỹ tiền tệ từ nguồn thu phí BH của khách hàng. Nguồn vốn này phần lớn là có thời gian tạm thời nhàn rỗi và dùng để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức: Mua công trái, trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư bất động sản, cho vay ủy thác…. Như vậy, các DNBH PNT đã góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy nhanh sự luân chuyển của vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm phi nhân thọ 1.1.2.1. Bảo hiểm phi nhân thọ trên thế giới: Trên thế giới, BH đã có lịch sử hơn nửa thiên niên kỷ phát triển. Sự ra đời và quá trình phát triển của nó được ghi nhận bởi những dấu ấn đáng chú ý sau: - Ai Cập (khoảng 2.500 năm trước công nguyên) những người thợ đẽo đá đã biết lập quỹ tương trợ để giúp đỡ những người gặp hoạn nạn. - Babylone (khoảng 1700 năm trước công nguyên) và Athènes (khoảng 500 năm trước công nguyên) xuất hiện hệ thống vay mượn với lãi suất rất cao, có khi lên đến 400% nhằm phục vụ cho việc buôn bán và vận chuyển hàng hóa. Hình thức cho vay với “mạo hiểm lớn”. Điểm đáng chú ý ở quan hệ cho vay mượn là nếu hàng hoá có rủi ro, tổn thất thì người vay không phải trả khoản tiền đã vay. Thực chất đó là một sự kết hợp giữa hoạt động vay mượn và ý đồ BH. - Rôme: Hệ thống cho vay dựa trên những điều kiện tương tự đã được thiết lập, lãi suất tối đa lên đến 50%. - Tuy nhiên quan hệ vay mượn đó đã bị lạm dụng và sau này bị cấm như một hình thức cho vay nặng lãi. Từ đó đã dần dần hình thành nên một hệ thống mới: các nhóm nhà buôn chấp nhận trả một khoản tiến nhất định để được đảm bảo giá trị tàu thuyền và hàng hoá chuyên chở. - Thế kỷ 14, những thỏa thuận BH đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt động giao lưu, buôn bán hàng hoá bằng đường biển đã rất phát triển vào thời kỳ đó. Bản hợp đồng cổ nhất còn được lưu giữ đến ngày nay được phát hành tại Gênes - Italia vào năm 1347. - Những thoả thuận BH trong lĩnh vực hàng hải đó có nội dung cơ bản là: một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hoá, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng thì bên kia (nhà bảo hiểm) sẽ trả cho họ một khoản tiền phù hợp. Những thỏa thuận đó đã đánh dấu chính thức cho sự khởi đầu của BH phi nhân thọ. Kể từ thời điểm đó trong xã hội đã xuất hiện các tổ chức BH (công ty BH đầu tiên của ngành vận tải biển và đường bộ được thành lập năm 1424 tại Gênes). - Những tổ chức BH bắt đầu đứng ra cung cấp một loại dịch vụ đặc biệt trong xã hội, họ ký kết các hợp đồng BH, đảm bảo cho các khách hàng trước rủi ro. Hoạt động BH của họ mang tính kinh doanh, hoàn toàn khác với công việc dự trữ, dự phòng. - Sau BH hàng hải phải nói đến BH hỏa hoạn. Tại những thành thị đông đúc của thế kỷ 17 ở Châu Âu, hầu hết nhà cửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để sưởi, đun nấu và chiếu sáng. Vì thế rủi ro nhà cửa bị bắt lửa rất lớn (Năm 1666 vụ hỏa hoạn ở London đã thiêu cháy khoảng 1.300 nóc nhà, trong đó có đến 87 nhà thờ). BH hỏa hoạn đã ra đời sau sự cố đó. Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ BH đã xuất hiện và phát triển rất nhanh: BH ô tô, máy bay, trách nhiệm dân sự… - Ngày nay BH đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. BHTM nói chung và BH PNT nói riêng đang giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển.(Theo tạp chí SIGMA số 4/1997 của SWISS: Nếu tính bình quân/năm, người Nhật đã chi tiêu nhiều nhất về bảo hiểm: 5.088USD/người dân. Đứng thứ hai là Thụy Sỹ: 4.507USD/người.Phần lớn các nước công nghiệp đạt mức 1.200USD đến 2.400USD/người.Các nước công nghiệp hóa thườngở mức dưới 100USD/người) 1.1.2.2.Bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam: BH PNT Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. Hoạt động BH đã có ít nhiều ngay từ thời kỳ nước ta còn bị Pháp đô hộ và ở miền Nam, song thời điểm đáng chú ý là sự ra đời của Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) ngày 17/12/1964 và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965. Trong suốt một thời gian dài, Bảo Việt hoạt động với cơ chế độc quyền. Cho đến ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/NĐ-CP về KDBH, đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển TTBH ở nước ta. Bắt đầu từ năm 1994 Việt Nam mới thực sự có TTBH. 1.1.3. Sự cần thiết khách quan phải phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.3.1. Bảo hiểm phi nhân thọ góp phần tạo ra môi trường và kích thích kinh tế - xã hội phát triển. - Quỹ BH PNT dùng để bồi thường những thiệt hại cho người tham gia BH, giúp họ ổn định tài chính và đời sống khi không may gặp rủi ro.Từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển. - Nhờ có quỹ BH PNT mà ngân sách nhà nước thay vì phải trợ cấp để khắc phục những hậu quả do rủi do bất ngờ là chi một khoản tiền nhỏ đóng góp vào quỹ BH. Do đó, có điều kiện để đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. - Quỹ BH nhàn rỗi của BH phi nhân thọ được sử dụng để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nguồn tài chính đáng kể góp phần làm phong phú nguồ._.n vốn cho thị trường tài chính. - BH không chỉ góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo việc làm cho người lao động mà còn góp phần tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, tức là góp phần làm tăng tổng sản phẩm trong nước ( GDP); nói cách khác nó góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Cũng cần thấy rằng, sự phát triển kinh tế xã hội có tác động tích cực đến sự phát triển của bảo hiểm nói chung, BHPNT nói riêng.Giữa BH và phát triển KT- XH có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển. Bởi lẽ: Kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân càng cao thì nhu cầu về BH càng lớn. Điều đó đã trở thành qui luật, và như vậy sự phát triển của BH phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. - Kinh tế phát triển, thu nhập của người lao động được nâng cao, mọi nhu cầu của con người càng phát triển, trong đó có nhu cầu đảm bảo cho cuộc sống, sức khỏe, tài sản. Hay nói cách khác khả năng và điều kiện để tham gia các loại hình BH càng nhiều. - Kinh tế phát triển, chính trị ổn định thì hệ thống pháp lý pháp lý được hoàn thiện, tạo nên môi trường kinh doanh tốt. Đó cũng là điều kiện làm cho BHTM nói chung và BH PNT nói riêng kinh doanh có hiệu quả và phát triển. - Kinh tế - xã hội phát triển thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, các hoạt động trong đời sống văn hóa- nghệ thuật phong phú… thúc đẩy các nghiệp vụ BH mới ra đời, làm phong phú, đa dạng thêm hoạt động BH. - Kinh tế phát triển, cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế làm cho BH PNT cũng mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà cả quốc tế. 1.1.3.2. Vai trò của TTBH phi nhân thọ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - BH PNT là một dịch vụ tài chính. TTBH PNT là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của thị trường tài chính. Vì vậy, TTBH nói chung và TTBH phi nhân thọ nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường tài chính. Đây là điều kiện và cơ sở để thúc đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Thị trường BH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Một mặt nó là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư nước ngoài nói chung. Mặt khác, cơ sở hạ tầng và các yếu tố của TTBH phi nhân thọ phát triển sẽ thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực KDBH phi nhân thọ.Từ đó, thúc đẩy KTXH phát triển. - Thị trường BH phi nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tích cực trong việc nâng cao năng lực về mọi mặt của các DNBH. Đồng thời tạo cho các DNBH trong nước có điều kiện và nhiều cơ hội để mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài. - Trong quá trình hội nhập, TTBH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đồng thời nó tạo ra cơ sở và điều kiện để các DNBH PNT nước ngoài đầu tư tích cực và hiệu quả vào nền kinh tế. 1.1.3.3. Phát triển TTBH phi nhân thọ vừa đáp ứng nhu cầu vừa thúc đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Tự do hóa thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ BH là xu thế chung của thế giới mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Mặt khác trong quá trình hội nhập quốc tế, tất yếu sẽ diễn ra phân công lao động quốc tế, sự giao lưu về mọi mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…quá trình này đòi hỏi phải có hệ thống dịch vụ tài chính đi kèm, trong đó không thể thiếu dịch vụ về bảo hiểm. Vì vậy, phát triển TTBH phi nhân thọ là yêu cầu và xu thế chung của thế giới. - Để đẩy nhanh quá trình hội nhập và thực hiện phân công lao động quốc tế một cách có hiệu quả. Một trong những yêu cầu cấp thiết là phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, trong đó nội dung quan trọng là xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường. TTBH phi nhân thọ là một bộ phận của thị trường tài chính. Do đó, phát triển TTBH phi nhân thọ là do đòi hỏi của sự phát triển đồng bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Trong quá trình hội nhập, phát triển TTBH phi nhân thọ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực KDBH phi nhân thọ nói riêng.Nó không chỉ tạo nên một xã hội an toàn, ổn định, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội mà còn tạo cho nền kinh tế một nguồn vốn đầu tư phát triển không nhỏ. Từ đó tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, hay nói cách khác nó góp phần làm tăng trưởng kinh tế quốc dân.. - Quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hóa đã tạo ra cho toàn thế giới trở thành một ngôi nhà chung mà biên giới sẽ chỉ là “đường biên giới mềm”.Mặt khác khi kinh tế xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về đảm bảo đời sống, tài sản, tính mạng ngày càng cao, việc xây dựng một thế giới an toàn, ổn định theo một chuẩn mực quốc tế là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong điều kiện hội nhập. Hơn thế nữa, bảo hiểm phi nhân thọ là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi ro BH không giới hạn trong phạm vi một nước, các DNBH phải thực hiện liên kết đồng BH, tái BH để phân tán rủi ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do vậy TTBH các nước chịu tác động lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau.Vì vậy phát triển TTBH phi nhân thọ là đòi hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - BH là một trong những nội dung quan trọng trong đàm phán và thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế trong quá trình tự do hoá thương mại nói chung và dịch vụ tài chính, BH nói riêng. (Ở Việt Nam đó là những cam kết trong quan hệ thương mại song phương và đa phương của Việt Nam với các nước trong khối ASEAN, hiệp định thương mại Việt Mỹ, các cam kết về dịch vụ tài chính của Tổ chức thương mại quốc tế WTO... ). Vì vậy, rất cần thiết phải phát triển TTBH cho phù hợp với thông lệ, các cam kết và tiêu chuẩn quốc tế. - BH phi nhân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo toàn vốn đầu tư, đảm bảo tính mạng và tài sản khác, cũng như nghĩa vụ trước pháp luật cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, nó là yếu tố không thể thiếu trong môi trường đầu tư nước ngoài. Vì vậy, muốn tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và hoàn thiện cần thiết phải phát triển TTBH, trong đó có TTBH phi nhân thọ. Tóm lại: TTBH phi nhân thọ và sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, cần thiết phải phát triển TTBH một cách toàn diện, vững chắc và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Có như vậy, BH phi nhân thọ mới thực sự là “ tấm lá chắn” hữu hiệu cho mọi cá nhân tổ chức, đồng thời là một kênh huy động vốn đáng kể cho nền kinh tế và là một yếu tố quan trọng trong môi trường đầu tư nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 1.2. NỘI DUNG VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 1.2.1. Đặc điểm, phân loại và sản phẩm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.1.1.Khái niệm Thị trường bảo hiểm theo nghĩa hẹp là sự tiếp xúc giữa những người có cùng mục đích giao dịch mua bán các sản phẩm bảo hiểm. Theo thuật ngữ bảo hiểm, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. TTBH không nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể. Như vậy có thể thấy TTBH không có không gian xác định. 1.2.1.2. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ - TTBH phi nhân thọ ra đời muộn hơn so với các thị trường khác, bởi lẽ nhu cầu BH chỉ phát sinh khi có một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Khi kinh tế - xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, thu nhập và đời sống được cải thiện, môi trường pháp lý đã ổn định, các loại thị trường khác như thị trường hàng hoá tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động.. đã hình thành , thì mới phát sinh nhu cầu BH và từ đó hình thành nên TTBH. - TTBH PNT có phạm vi hoạt động rất rộng lớn và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi vì đối tượng của BH PNT rất đa dạng, phong phú, đó là các loại tài sản hữu hình và vô hình, toàn bộ các thành viên trong xã hội, các phát sinh trách nhiệm do mối quan hệ giữa con người với con người gây ra. - TTBH PNT là một thị trường mang tính đặc thù. Bởi lẽ, sản phẩm của BH PNT là sản phẩm vô hình, sản phẩm này luôn gắn liền với những rủi ro bất ngờ không thể dự đoán trước được, chỉ khi gặp sự cố rủi ro mà được bồi thường hay trả tiền BH thì người mua mới dùng đến “giá trị sử dụng” của sản phẩm . Mặt khác, đây là một loại dịch vụ đặc biệt, đó là dịch vụ “an toàn”, vì thế ngoài ý nghĩa về kinh tế, nó còn có ý nghĩa xã hội và nhân văn. Vì vậy, ở một số lĩnh vực, nhà nước luôn can thiệp cụ thể vào hoạt động của thị trường này (Qui định một số loại hình BH bắt buộc, thậm chí còn qui định cả điều khoản, biểu phí, mức trách nhiệm BH..). Điều này chỉ có trong hoạt động KDBH mới có. - Cuối cùng, trong su hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các DNBH có su hướng liên kết với nhau để cùng nhau phát triển. Một mặt liên kết để tìm ra tiếng nói chung, tránh gây thiệt hại cho nhau, tăng cường sức mạnh để cạnh tranh, liên kết để trao đổi kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiến tiến để cùng nhau phát triển. Mặt khác, liên kết để đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh thông qua việc đồng BH, tái BH. Đây là một trong những su hướng phát triển của các DNBH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 1.2.1.3. Phân loại thị trường bảo hiểm phi nhân thọ TTBH có thể phân lọai theo nhiều tiêu thức khác nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu như phân loại thị trường theo địa lý, theo nhân khẩu học, phân loại theo tâm lý người tiêu dùng hoặc theo hành vi của người tiêu dùng.Song để xác định thị trường mục tiêu và tương lai phát triển của thị trường sản phẩm, người ta sử dụng cách phân loại thị trường theo khả năng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội. Theo tiêu thức này, TTBH được chia thành: a) Thị trường của doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ khách hàng mua sản phẩm của DN.Thị trường này được đo bằng doanh số thực hiện của các DNBH. b) Thị trường thực tế: Bao gồm toàn bộ khách hàng hiện tại của một loại sản phẩm, nghĩa là bao gồm thị trường của DN và thị trường cạnh tranh.Các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh gay gắt với nhau để chiếm lĩnh và giữ vững thị phần của mình trong thị trường thực tế. c) Thị trường tiềm năng: Bao gồm toàn bộ các khách hàng có khả năng mua sản phẩm ( khả năng thanh toán và các điều kiện khác). Như vậy, thị trường này bao gồm thị trường thực tế và bộ phận khách hàng tiềm năng. Đó là những trong tương lai của các DNBH. DN nào là người đầu tiên khai thác vào các bộ phận khách hàng tiềm năng sẽ không có đối thủ cạnh tranh và có khả năng mở rộng nhanh chóng thị trường của mình.Lẽ đương nhiên, khi thị trường thực tế bằng thị trường tiềm năng thì thị trường sản phẩm trở nên bão hòa. d) Thị trường lý thuyết: Bao gồm toàn bộ những người quan tâm tới sản phẩm.Trong thị trường lý thuyết có cả khách hàng hiện tại, khách hành tương lai và cả những người không tiêu dùng tương đối. Việc nghiên cứu thị trường lý thuyết giúp cho DN tìm hiểu những khả năng khai thác thị trường khác nhau, để xác định các chiến lược ngắn hạn và dài hạn trong kinh doanh. Phân loại thị trường để phục vụ cho mục đích nghiên cứu thị trường nhằm nắm bắt thường xuyên kịp thời đầy đủ thông tin về thị trường giúp các DNBH nhận biết, đón đầu được các thời cơ, cũng như đánh giá, dự đoán và phòng tránh các rủi ro , để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. 1.2.1.4.Sản phẩm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và đặc thù của nó - Sản phẩm BH là sản phẩm không định hình: Đó là sự đảm bảo về mặt vật chất trước những rủi ro cho khách hàng. Ở tại thời điểm bán, sản phẩm mà các DNBH cung cấp chỉ là lời hứa, lời cam kết bồi thường hay trả tiền BH, khi có sự cố BH xảy ra. Đó là những sản phẩm vô hình mà người mua không cảm nhận được nó bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngửi hoặc nếm thử.. còn người bán thì không chỉ ra được màu sắc, kích thước hay hình dạng của nó. Vì vậy, các DNBH cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Để khắc phục khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của khách hàng, các DNBH cố gắng mô tả sản phẩm một cách đầy đủ, dễ hiểu và ấn tượng, làm cho khách hàng chú ý đến các lợi ích có liên quan đến sản phẩm - Sản phẩm BH là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch” và là sản phẩm “ không mong đợi”: Lợi ích của sản phẩm BH phi nhân thọ đối với khách hàng là việc bồi thường hay trả tiền BH khi có sự cố xảy ra. Nhưng lợi ích này cũng bấp bênh và xê dịch theo thời gian, bởi lẽ khi mua BH người mua không nhận được lợi ích tức thì của sản phẩm mà phải sau một thời gian.Người mua cũng chỉ được hưởng “giá trị sử dụng” của sản phẩm sau khi gặp rủi ro và được bồi thường hay trả tiền BH. Đặc điểm này khiến cho người mua BH “ không mong đợi” được hưởng “ giá trị sử dụng” của sản phẩm BH. - Sản phẩm BH là sản phẩm của “chu kỳ kinh doanh đảo ngược”:Các DNBH nhận phí BH của người tham gia BH trước và sau đó một thời gian mới thực hiện nghĩa vụ với người được BH khi có sự cố xảy ra ( ngược với các DN kinh doanh khác là phải bỏ vốn ra trước). Do vậy, khi bán sản phẩm, không thể không thể tính được chính xác hiệu quả của nó.Khả năng sinh lợi của sản phẩm BH chỉ được đánh giá trong một thời hạn trung bình và tốt nhất thường trong một thời gian dài.Vì vậy việc đổi mới hay thiết kế một sản phẩm BH mới chỉ có thể thực hiện sau một thời gian khá dài, khi những kết quả đã xác định. - Sản phẩm BH là sản phẩm dễ bắt chước: Một sản phẩm BH ra đời được thể hiện bằng qui tắc, điều khoản và hợp đồng BH, nhưng dù nó là bản gốc cũng không được cấp bằng phát minh sáng chế và không được bảo hộ về bản quyền.Các đối thủ cạnh tranh có thể sao chép lại của các DN khác (ngoại trừ tên và các tờ rơi quảng cáo) mà không hề bị xử lý. Để chống lại việc bắt chước, sao chép, các DNBH cần làm chủ được việc định phí BH, đào tạo về thương mại và kỹ thuật cho nhân viên, phát triển tin học phục vụ cho việc quản lý hợp đồng. 1.2.2. Vai trò của nhà nước và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc phát triển TTBH PNT Nhà nước bao quát toàn bộ hoạt động kinh doanh BH và đóng vai trọng quan trọng, quyết định sự phát triển của TTBH, cụ thể: *) Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý: Ban hành hệ thống chính sách pháp luật về hoạt động KDBH.Xây dựng chiến lược và qui hoạch phát triển TTBH. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các tổ chức BH. Áp dụng các biện pháp cần thiết để tổ chức BH đảm bảo các yêu cầu về tài chính và thực hiện cáccam kết với người được BH.Tạo điều kiện thúc đẩy TTBH phát triển. *) Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế xã hội: Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TTBH, bởi kinh tế xã hội càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm càng tăng. Nhà nước tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin và dự báo tình hình TTBH trong và ngoài nước giúp cho các DNBH chủ động trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước tạo điều kiện và cơ chế để các DNBH nâng cao năng lực về mọi mặt (tài chính, năng lực kinh doanh, công nghệ, trình độ cán bộ…) Nhà nước tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ BH. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống và trình độ dân trí, đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển TTBH. *) Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế quốc tế cho hoạt động KDBH: Nhà nước ban hành chính sách đầu tư nước ngoài về lĩnh vực bảo hiểm. Tham gia ký kết các điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế về BH, đồng thời quản lý hoạt động của các tổ chức bảo hiểm ở nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho việc giao lưu, hợp tác, chuyển giao công nghệ về BH, thúc đẩy TTBH phát triển có hiệu quả trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Thứ nhất, môi trường pháp lý: Hệ thống chính sách, pháp luật tạo ra môi trường, điều kiện cho các DN hoạt động. Nó đảm bảo cho các DNBH được cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng. Đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người tham gia BH, từ đó thúc đẩy TTBH phát triển. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về hoạt động KDBH là điều kiện cần thiết để phát triển TTBH. Thứ hai, môi trường KT XH: Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu ăn, ở, mặc được đáp ứng đầy đủ thì nhu cầu cần được bảo vệ càng trở nên quan trọng. Nói cách khác, khi kinh tế phát triển, sẽ có ảnh hưởng tích cực đến TTBH phi nhân thọ. Bên cạnh yếu tố kinh tế, các yếu tố văn hóa cũng có một số tác động đến TTBH phi nhân thọ.Văn hoá là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến nhu cầu và hành vi của người tiêu dùng. Thứ ba, số lượng, loại hình các DNBH, các kênh phân phối sản phẩm, sự đa dạng phong phú của các sản phẩm BH phi nhân thọ, quyết định qui mô TTBH. Mặt khác, trong xã hội có nhiều tầng lớp dân cư, có nhiều đối tượng khác nhau về độ tuổi, nghề nghiệp, về mức sống…Vì thế, sự đa dạng phong phú của các sản phẩm BH phi nhân thọ nhằm dáp ứng mọi nhu cầu, mọi đối tượng, mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Có như vậy thì thị trường BHTM nói chung và thị trường BH phi nhân thọ nói riêng mới phát triển được. Thứ tư, năng lực và chiến lược kinh doanh của các DNBH: Qui mô vốn, trình độ quản, trình độ quản lý, trình độ khoa học công nghệ trình độ cán bộ, phạm vi và phương thức họat động, cũng như các chính sách khách hàng, sự hợp tác liên kết giữa các DNBH có ảnh hưởng lớn đến TTBH phi nhân thọ. Chiến lược kinh doanh của các DNBH PNT bao gồm các bộ phận chủ yếu là maketing, tài chính, kỹ thuật nghiệp vụ và tổ chức nhân sự.Trong chiến lược kinh doanh, các yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển TTBH phi nhân thọ là: Sản phẩm, giá cả, chất lượng phục vụ và truyền thông quảng cáo. Thứ năm, trình độ dân trí, sự hiểu biết ý nghĩa tác dụng và sự cần thiết của BH, mức sống và thói quen mua BH của người dân là một nhân tố xã hội ảnh hưởng tới sự phát triển của TTBH phi nhân thọ.Trình độ dân trí và mức sôáng quyết định lượng khách hàng tiềm năng: Khách hàng tiềm năng bao gồm khách hàng thực tế đang tham gia mua BH và bộ phận khách hàng trong tương lai sẽ tham gia mua BH.Qui mô, số lượng, chất lượng của khách hàng tiềm năng có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến TTBH. Cuối cùng sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là nhân tố tích cực ảnh hưởng đến sự phát triển của TTBH phi nhân thọ. Việc mở cửa hội nhập, tạo ra cơ hội để các DNBH tiếp cận với kinh nghiệm, công nghệ BH tiên tiến trên thế giới, tiếp cận với TTBH nước ngoài, đồng thời cũng thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực BH phi nhân thọ. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra một số thách thức cho sự phát triển của TTBH PNT trong nước. 1.2.3. Cơ chế hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.3.1. Các chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm phi nhân thọ - Người mua ( khách hàng): Là những cá nhân tổ chức, DN có nhu cầu mua bảo hiểm cho tài sản, tính mạng sức khỏe hay trách nhiệm dân sự trước pháp luật. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại (đã tham gia mua BH) và khách hàng tiềm năng ( có thể mua BH trong tương lai). Khách hàng tiềm năng phải thỏa mãn các điều kiện: Có nhu cầu về bảo hiểm; Có khả năng tài chính; Là đối tượng thỏa mãn các điều kiện của sản phẩm BH; và người bán có thể tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với họ. - Người bán: Là các DN kinh doanh các sản phẩm BH phi nhân thọ. - Các tổ chức trung gian: Là cầu nối giữa người mua và người bán. Có thể là công ty môi giới BH, hoặc đại lý BH phi nhân thọ. Họ được các DNBH ủy quyền phân phối các sản phẩm BH và một số các hoạt động khác. 1.2.3.2.Cung cầu, cạnh tranh và giá cả của TTBH phi nhân thọ a)Cung cầu: Cầu của TTBH là tổng lượng các nhu cầu về sản phẩm BH đã và sẽ được chấp nhận (mua) bởi một số khách hàng xác định. Đó chính là sức mua của người tiêu dùng về một loại BH nào đó mà họ đã và sẽ mua. Cung của TTBH là tổng lượng các hợp đồng BH mà các DNBH cung ứng ra thị trường để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng. Chỉ khi Cung và cầu sản phẩm BH phù hợp với nhau thì hợp đồng BH mới có thể được ký kết. Trong TTBH phi nhân thọ cung cầu luôn luôn biến động. Cung về BH hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Trong khi nhu cầu về BH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ( nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính, thu nhập, trình độ dân trí, thói quen mua BH…). Nhưng nhìn chung, nhu cầu về bảo hiểm ngày càng tăng lên theo sự phát triển của kinh tế - xã hội. b) Cạnh tranh: Là đặc trưng của thị trường nói chung, nhưng ở TTBH phi nhân thọ cạnh tranh thường “ quyết liệt” hơn, đôi khi phải dùng nhiều “ thủ thuật”, “ chiến thuật” trong cạnh tranh. Bởi vì, như ở phần trên đã nêu sản phẩm BH là sản phẩm dễ bắt chước, nên sản phẩm nào được thị trường chấp nhận và kinh doanh có hiệu quả là các DNBH “ tấn công” một cách quyết liệt, bằng mọi hình thức tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mại…, bằng mọi biện pháp giảm phí BH, tăng chi phí, mở rộng quyền lợi cho khách hàng… để chiếm lĩnh thị trường. Điều này, một mặt làm cho TTBH sôi động nên, thúc đẩy sự phát triển của TTBH, nhưng mặt khác dễ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh là xấu đi tình tình chung của TTBH. Cũng do cạnh tranh làm cho thị phần của các DNBH luôn thay đổi. Nếu DNBH nào giữ vững được khách hàng hiện có, mở rộng và phát triển được nhiều khách hàng mới, đồng thời thu hút được khách hàng của đối thủ cạnh tranh thì sẽ vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Ngược lại, thị phần sẽ giảm đi nhanh chóng và kéo theo thương hiệu cũng như uy tín sẽ giảm dần. Cùng với cạnh tranh là liên kết.Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. Liên kết thường diễn ra giữa các DN mới, các DN vưà và nhỏ để tạo ra sức mạnh cạnh tranh. Liên kết giữa các DN có thể mạnh để hòa hoãn, cùng phát triển. Liên kết còn là nhu cầu của TTBH mới hình thành phát triển, trong điều kiện thị trường thế giới đã ổn định. Liên kết là xu hướng của hội nhập. c) Giá cả: Trong TTBH PNT, giá cả (phí BH) phụ thuộc vào nhiều yếu tố và có thể thay đổi theo thời gian. Trước hết, giá BH phụ thuộc vào qui luật chung đó là theo cung cầu, cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào mức phí chuẩn để bù đắp cho chi trả bồi thường và chi phí khác. Mức phí chuẩn này được tính toán theo qui luật số lớn nên nó phụ thuộc vào lượng khách hàng tiềm năng và xác suất rủi ro trong từng thời kỳ. Tiếp theo, giá BH có thể thay đổi theo thời gian vì xác suất rủi ro và mức độ thiệt hại có thể thay đổi theo thời gian. Mặt khác, trình độ, phương thức quản lý, hiệu quả đầu tư của các DNBH ở mỗi thời kỳ khác nhau cũng có thể ảnh hưởng tới giá BH. d) Cơ chế điều tiết thị trường: TTBH chịu sự tác động của các qui luật chung của thị trường là qui luật cung cầu, cạnh tranh…Ngoài ra, nó còn bị chi phối bởi qui luật riêng có của nó là qui luật “ số đông bù số ít”, “ phân tán rủi ro” và cùng với cạnh tranh là liên kết giữa các DNBH… Các qui luật đó đều biểu hiện hoạt động của mình thông qua giá cả (hay phí BH). Nói một cách cụ thể hơn, đó là một hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, sự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung- cầu, cạnh tranh, liên kết… trực tiếp phát huy tác dụng để điều tiết TTBH PNT. Cung và cầu là hai lực lượng trong TTBH PNT. Sự tác động giữa chúng hình thành nên giá cả cân bằng ( theo ngôn ngữ BH gọi là mức phí cơ bản). Tương quan cung và cầu điều chỉnh giá cả thị trường. Sự biến đổi tương quan giữa khả năng cung cấp các dịch vụ BH và nhu cầu mua BH dẫ đến sự lên xuống của giá cả ( hay phí BH). Ngược lại, giá cả BH được điều tiết theo quan hệ cung cầu. khi KT-XH càng phát triển nhu cầu BH PNT càng tăng lên, các điều kiện đảm bảo cho đời sống sinh hoạt và sản xuất được tăng cường ( tức là xác suất rủi ro giảm), thì giá cả ( hay phí BH) có xu hướng giảm. Ngoài ra, phí BH còn bị ảnh hưởng bởi chính sách của nhà nước như chính sách đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH, tỷ giá, lãi suất, chính sách thuế… Cạnh tranh trong TTBH PNT là cạnh tranh giữa các chủ thể với nhau ( các DNBH, tổ chức môi giới, đại lý BH), nhằm chiếm lĩnh thị trường nâng cao thị phần. Do sản phẩm BH là dễ bắt chước và không được bảo hộ bản quyền, nên trong cạnh tranh ngoài việc tuyên truyền quảng bá, đầu tư công nghệ.., thì biện pháp hữu hiệu là giảm giá ( phí BH), mở rộng quyền lợi BH cho khách hàng. Cùng với cạnh tranh, TTBH PNT luôn diễn ra sự liên kết giữa các DNBH, đây là qui luật vốn có của TTBH. Sự liên kết tốt cũng tạo cơ sở cho việc đồng BH, tái BH được suôn sẻ và là điều kiện để giảm phí BH. Trong một môi trường cạnh tranh càng gay gắt, các DNBH càng phải biết tận dụng qui luật liên kết để điều tiết, tổ chức hợp lý, một mặt để tăng năng lực cạnh tranh, tránh gây thiệt hại cho nhau, mặt khác đáp ứng được nhu cầu phát triển và xu hướng hội nhập quốc tế, nhằm thúc đẩy TTBH PNT phát triển. Qui luật “số đông bù số ít” là qui luật đặc thù của TTBH PNT. Qui luật này mang tính tương trợ, cùng nhau san sẻ rủi ro của những người tham gia BH. Bởi lẽ, BH PNT là một hệ thống qua đó một số người đồng ý góp vào một quỹ chung ( với số phí tương đối nhỏ), được dùng được chia sẻ các chi phí tổn thất của số ít người gặp rủi ro (có thể rất lớn). Đây cũng là biểu hiện của qui luật “ phân tán rủi ro” trong hoạt động BH. Hai qui luật này phải được tận dụng triệt để trong KDBH. Nếu các qui luật này không phát huy tác dụng thì hoạt động BH không tồn tại, hya nói cách khác, các DNBH sẽ phá sản. Ngược lại, nếu các qui luật này được vận hành tốt, là điều kiện để các DNBH PNT giảm giá ( phí BH), mở rộng quyền lợi cho người mua BH. Đây là điều kiện tiên quyết để chiếm lĩnh thị trường có hiệu quả nhất. 1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TRÊN THẾ GIỚI Nhìn chung, các nước đều thành lập cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động KDBH. Hầu hết các cơ quan này đều nằm trong Bộ Tài Chính (người đứng đầu do Thủ tướng (hoặcTổng thống) bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài Chính). Nhưng các cơ quan này hoạt động độc lập , không chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài Chính. Ở một số nước Châu á (Singapore, Philippin..)cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động KDBH có tên là Ủy ban giám sát BH (Insurance Commisoner).Các nước như Anh, Nhật Bản, cơ quan này trực thuộc vụ quản lý ngành ( thường thì trực thuộc vụ quản lý các ngân hàng). Ở Việt Nam hiện nay Bộ Tài Chính là cơ quan của Chính phủ trực tiếp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động KDBH.(Ngày 15/05/1992, Bộ Tài Chính đã ra quyết định số 233/TC/QĐ/TCCB, thành lập phòng quản lý BH, trực thuộc Vụ tài chính các Ngân hàng và Tổ chức tài chính.Đến 20/8/2003, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 134/2003/QĐ-BTC, thành lập Vụ Bảo hiểm). 1.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở một số nước Xu thế hiện nay là tự do hoá thương mại dịch vụ trong đó có dịch vụ BH. Tuy nhiên, quá trình này được tiến hành theo các bước đi và mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Dưới đây là kinh nghiệm và xu hướng phát triển TTBH PNT ở một số nước trong khu vực. 1.3.2.1.Trên thị trường bảo hiểm Châu Á – Thái Bình Dương Tiến trình tự do hoá và hội nhập sẽ ảnh hưởng tích cực tới TTBH PNT khu vực Châu Á–Thái Bình Dương, một phần là do có sự chuyển giao các nguồn tài chính. Các kỹ năng và bí quyết công nghệ cuả các công ty đa quốc gia. Các sản phẩm BH phức tạp hơn sẽ xuất hiện, thúc đẩy nhanh sự phát triển của TTBH. - Xu thế chung của TTBH Châu Á – Thái Bình Dương là giảm dần các số lượng DNBH PNT có 100% vốn của Nhà nước ( Như ở Singappore, Thái Lan, Trung Quốc đã cổ phần hóa Công ty bảo hiểm Nhân dân TQ vào 2003). - Để tăng cường năng lực tài chính: Các DNBH PNT có thể phát hành cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán, hoặc các DN ở những thị trường kém phát triển có thể liên kết, sát nhập để đối phó với áp lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, tự do hóa (Ở Hồng Kông có 110 Công ty BH PNT, song chỉ 10 công ty hàng đầu đã chiếm thị phần 37-40% vào năm 2003, ở Thái Lan có 70 Công ty BH PNT, nhưng chỉ 10 công ty hàng đầu đã chiếm trên 50% thị phần, các công ty còn lại chỉ chiếm trung bình mỗi công ty 2% thị phần).Vì vậy, dưới áp lực cạnh tranh khốc liệt, nếu không muốn dời bỏ thị trường thì các công ty nhỏ tất yếu phải liên kết, sát nhập lại với nhau để tồn tại. - Về kinh nghiệm trong cơ chế quản lý vốn: Thay vì cơ chế quản lý vốn dựa trên khả năng thanh toán, một số nước như Úc, Nhật Bản, Singappore, Đài Loan đã và đang chuyển sang cơ chế quản lý vốn dựa trên phân tích rủi ro, nhằm xã định tốt yêu cầu tối thiểu về vốn sao cho phù hợp với yêu cầu kinh doanh và cơ cấu rủi ro của DN đó, tạo ra thế chủ động và từ đó sẽ hoạt động có hiệu quả hơn. 1.3.2.2. Trung Quốc: Trong suốt 50 năm kể từ khi nước CHND Trung Hoa được thành lập (1949), trên TTBH Trung Quốc chỉ có duy nhất công ty BH PNT - Công ty BH nhân dân Trung Quốc (PICC). Từ năm 1992, Trung Quốc đã từng bước thực hiện chính sách mở cửa trong lĩnh vực BH PNT như là một phần của toàn bộ chiến lược hội nhập kinh tế của nước này sau khi gia nhập "Hiệp định chung về thuế quan và thương mại"(GATT).Kế hoạch phát triển và mở cửa TTBH PNT Trung Quốc được tiến hành dựa trên các nguyên tắc sau: - Một là, ưu tiên cấp giấy phép cho các công ty BH PNT nội địa. Việc cấp giấy phép cho các công ty BH PNT nước ngoài được tiến hành "từng bước". - Hai là, khuyến khích thành lập công ty BH PNT dưới hình thức công ty cổ phần để phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao khả năng huy động vốn. - Ba là, phát triển ngành BH phi nhân thọ một cách tích cực và vững chắc. Để đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động KDBH trong điều kiện có sự tham gia của các công ty BH nước ngoài, Chính phủ đã đặt ra những hạn chế khi cấp giấy phép cho các công ty BH nước ngoài. Cụ thể là: + Hạn chế về lãnh thổ: Nhà nướcTrung Quốc qui định các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép hoạt động trong phạm vi lãnh thổ hạn chế tại Thượng Hải và Quảng Châu. + Điều kiện cấp giấy phép: Để được cấp giấy phép KDBH tại Trung Quốc, công ty BH nước ngoài phải tham gia hoạt động KDBH trên 30 năm tính đến ngày xin cấp giấy phép, có tổng tài sản trên 5 tỷ USD vào năm trước của năm xin cấp giấy phép và đã mở cửa văn phòng đại diện ở Trung Quốc trên 3 năm. Căn c._.XHCN Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay chưa phải là nền kinh tế thị trường đầy đủ theo đúng nghĩa của nó. Theo nhận định của Đại hội Đảng X - 2006 “ Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ. Một số thị trường: tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu; quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập ; một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm…đã ảnh hưởng không tốt đến công cuộc xây dựng phát triển đất nước”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của TTBH. Các DN đã và đang hoạt động kinh doanh nhiều khi chưa được bình đẳng, tính chủ động còn chưa cao… Cũng chính điều đó đã hạn chế việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực BH PNT nói riêng. Chính vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo một số nội dung cơ bản dưới đây: - Phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, công khai minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế và có tính thực thi cao. Nhà nước định hướng phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Ðổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển KT-XH. Khẩn trương xây dựng và thực hiện kiên quyết hệ thống pháp luật đồng bộ về phòng ngừa, phát hiện và xử lý những người có hành vi tham nhũng. - Phải tiếp tục làm rõ nội hàm của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện từng bước cơ chế thực thi thể chế này. Mỗi bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời phải đưa ra cơ chế thực thi cụ thể và có tính khả thi cao. - Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Ðại hội X của Ðảng đã chỉ rõ phương hướng phát triển và quản lý các loại thị trường cơ bản (hàng hóa và dịch vụ, tài chính, bất động sản, sức lao động, khoa học và công nghệ); với tư tưởng xuyên suốt là: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường, để các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của thị trường”. - Đổi mới cơ chế chính sách để phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả của các chủ thể trong nền kinh tế. Tạo điều kiện để đào tạo bồi dưỡng đội ngũ Doanh nhân, đội ngũ trí thức có đủ Tài – Trí-Đức đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế . - Thể chế kinh tế phải đảm bảo chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước. 3.2.2.2. Cơ chế chính sách phải tạo ra một thị trường nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng một cách đầy đủ và đồng bộ hơn: -Đó là một thị trường có sân chơi bình đẳng cho tất cả các DNBH tham gia, không phân biệt đối xử. Các vấn đề giá cả, cung cầu phải hoàn toàn do thị trường quyết định. Người tiêu dùng và công nghệ phải thực sự là hai “vương triều”điều tiết thị trường. - Phải hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào TTBH. Thị trường phải thực sự do các qui luật kinh tế khách quan điều tiết ( Qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…) - Các vấn đề về: Số lượng, chất lượng sản phẩm BH, đối tượng, lĩnh vực hoạt động…phải hoàn toàn do các DNBH và Người tham gia BH quyết định. 3.2.2.3. Nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết về BH của toàn dân. Cùng với việc phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, Nhà nước cần có chính sách tuyên truyền, giáo dục, phổ biến những kiến thức cơ bản về ý nghĩa tác dụng của BH đối với mọi tầng lớp dân cư và toàn xã hội. Nhằm dần đần tạo nên thói quen và tập quán tham gia BH trong các tầng lớp dân cư. Các hình thức tuyên truyền giáo dục đó là: - Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, giáo dục truyền thông - Thông qua các tổ chức cơ quan đoàn thể ( Hiện nay hầu như chưa làm). - Đặc biệt, thông qua các hoạt động tài trợ cứu trợ do thiên tai bão lụt, thông qua việc bồi thường bảo hiểm các vụ tổn thất lớn. Đây là hình thức tuyên truyền hữu hiêụ nhất ( Hiện nay ở Việt Nam, thông qua các hoạt động này mục đích chính chỉ để quảng bá thương hiệu, chứ hầu như không quan tâm đến việc nâng cao trình độ hiểu biết về BH của nhân dân). - Tuy nhiên, những công việc trên không phải là của riêng Nhà nước, mà trách nhiệm lớn hơn lại thuộc về các DNBH, vì nó liên quan trực tiếp đến sự phát triển của các DNBH. Do đó, nhà nước có thể có qui định về việc thực hiện trách nhiệm này của các DNBH. Hoặc cơ quan Nhà nước có thể đứng ra làm đầu mối, các DNBH phải đóng góp và thực hiện việc nâng cao trình độ hiểu biết về BH, và tạo ra thói quen, tập quán tham gia BH trong mọi tầng lớp dân cư. 3.2.2.4. Giải pháp đối với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập từ năm 1999, khi đó mới chỉ có 10 DNBH là hội viên, cho đến nay đã hội tụ được 24 hội viên chính thức và 20 hội viên tán trợ. Tôn chỉ mục đích của Hiệp hội là cầu nối giữa các DNBH với cơ quan quản lý nhà nước và người tham gia BH, và giữa các DNBH trong nước và DNBH nước ngoài. Góp phần ổn định và phát triển TTBH Việt Nam. a) Củng cố, kiện toàn tổ chức của Hiệp hội BH Việt Nam - Sửa đổi, bổ sung điều lệ của Hiệp hội để khuyến khích các DNBH tham gia tích cực vào Hiệp hội BH, gắn quyền lợi và trách nhiệm của các DNBH với Hiệp hội. Xúc tiến việc kết nạp cả những DNBH có vốn đầu tư nước ngoài tại VN vào Hiệp hội. Các hội viên dưới sự điều phối của Hiệp hội, phải đóng góp tích cực vào việc xây dựng và phát triển TTBH Việt nam toàn diện, vững chắc. - Tổ chức và hoạt động của Hiệp hội phải đảm bảo có chất lượng và đạt hiệu quả cao. Tăng cường sự hoạt động thường xuyên của các Ban bán chuyên trách, để vừa tiết kiệm được chi phí, vừa cập nhật được tình hình của thị trường và các doanh nghiệp, vì thành viên của các Ban này là đang trực tiếp hoạt động kinh doanh tại các DNBH là hội viên của Hiệp hội. - Hiện nay Hiệp hội BH Việt Nam đã đứng ra làm đầu mối để các DNBH ký kết thỏa thuận khai thác ở một số lĩnh vực nhằm làm lành mạnh hóa TTBH. Nhưng khi có những vi phạm thỏa thuận thì chưa xử lý được. Vì vậy, Hiệp hội cần xây dựng ngay cơ chế phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về KDBH để kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời các vi phạm qui chế hợp tác và những vi phạm khác trong hoạt động KDBH. - Trong thời gian tới Hiệp hội BH Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò cầu nối giữa các DNBH và Nhà nước đó là tập hợp những ý kiến về cơ chế, chính sách, pháp luật về KDBH, có kiến nghị với các cơ quan nhà nước để điều chỉnh bổ sung kịp thời, nhằm phát triển nhanh TTBH Việt Nam. Đồng thời, phải tham gia tích cực vào việc đóng góp ý kiến tham gia xây dựng chính sách và pháp luật về KDBH, và cả những văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động BH. - Hiệp hội BH Việt Nam cần phải tích cực mở rộng quan hệ với các Hiệp hội và các tổ chức bảo hiểm quốc tế, nhằm đem lại lợi ích cho các hội viên. Đồng thời là cầu nối giữa các DNBH trong nước và DNBH nước ngoài trong việc trao đổi thông tin, TTBH thế giới, học hỏi kinh nghiệm, liên kết, hợp tác đào tạo, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ về kỹ thuật…nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hoạt động có hiệu quả của các Hội viên. b) Không ngừng cải tiến và đổi mới phương thức hoạt động - Cung cấp những thông tin cập nhật về TTBH trong nước, khu vực và quốc tế kịp thời, hiệu quả nhất bằng các hình thức như: Đưa lên trang Websie, tổ chức hội thảo, các bản tin nội bộ, thông qua các ban bán chuyên trách đang họat động kinh doanh trực tiếp tại các DNBH…. - Tham gia tuyên tuyền cho ngành BH trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên các diễn đàn DN.Phát hành một số ấn phẩm như“cẩm nang bảo hiểm”, hay “Một số điều cần biết khi tham gia bảo hiểm”nhằm nâng cao trình độ hiêủ biết của người dân về BH, bảo vệ quyền lợi của cả người tham gia BH và các DNBH. - Thường xuyên tổ chức hội thảo, đào tạo tập huấn nghiệp vụ ( kể cả trong và ngoài nước) nhằm góp phần nâng cao trình độ cho cán bộ hội viên.Tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm giảm thiểu các rủi ro, tai nạn bảo vệ lợi ích cho cả các DNBH và người tham gia bảo hiểm. - Tiếp tục giải quyết và ngăn chặn các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các DNBH. Hiệp hội BH Việt Nam phải thực sự là đầu mối quan trọng tích cực để các DN ký kết các thoả thuận hợp tác một cách hiệu quả ( thông qua các Qui tắc ứng xử, chế độ xử phạt..), nhằm làm lành mạnh hoá TTBH Việt Nam. *) Tính khả thi của nhóm giải pháp này: Qua quá trình đúc tổng kết lý luận và đúc rút nhữnh kinh nghiệm thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn, xác định đúng vị trí và mức độ của nền kinh tế thị trường ở nước ta, đồng thời đã đề ra những chiến lược và bước đi cụ thể nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Mặt khác, trong chiến lược phát triển TTBH Việt nam đến 2010 đã được Chính phủ phê duyệt năm 2003, đã chú trọng đề cập đến việc tăng cường hiệu quả hoạt động và nâng cao vai trò tự quản của Hiệp hội BH Việt Nam. Đồng thời nâng cao trình độ dân trí, cùng với nâng cao mức sống của nhân dân. Điều đó khảng định nhóm giải pháp này là hoàn toàn có cơ sở và mang tính khả thi. 3.2.3. Nhóm các giải pháp cho các Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (năng lực, kỹ thuật tổ chức thị trường, thông tin…..). 3.2.3.1. Không ngừng nâng cao năng lực trong kinh doanh Để TTBH phát triển vững chắc, an toàn, hiệu quả thì tổng số vốn của thị trường phải cao hơn số vốn tối thiểu, gọi là “ vốn phát triển” ( thông thường nó bằng khoảng 40% doanh thu phí BH thực giữ lại của BH phi nhân thọ). - Nhằm nâng cao năng lực tài chính, các DNBH phi nhân thọ phải chủ động tích cực trong việc tăng vốn điều lệ bằng nhiều hình thức khác nhau. + Đối với các DNBH nhà nước: Nhà nước phải có cơ chế để các doanh nghiệp bổ sung vốn ngoài việc bổ sung bằng nguồn vốn tự có. + Đối với các công ty cổ phần: Thực hiện niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, phát hành thêm cổ phiếu rộng rãi trên thị trường, hoặc có thể huy động vốn bằng các hình thức khác theo qui định của pháp luật. + Đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài: Tuỳ theo hình thức đầu tư mà nhà đầu tư có kế hoạch góp thên vốn, hoặc tự bổ sung vốn cho DN mình sao cho phù hợp với qui mô của DN và yêu cầu phát triển của thị trường. - Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn về tái BH, nhằm xây dựng cho DN mình những đối tác tái BH chiến lược, để tạo ra lợi thế trong giao dịch tái BH, tăng vị thế giao dịch, tăng hoa hồng tái, đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ trong kinh doanh. - Nâng cao trình độ quản lý và trang bị công nghệ hiện đại: Các DNBH PNT cần quan tâm chú trọng đến việc tiếp cận, học tập trình độ, công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới để có năng lực cạnh tranh với TTBH thế giới. + Áp dụng phương thức quản lý hiện đại theo tiêu chuẩn ISO 9000 (Bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng theo các chuẩn mực quốc tế.Phiên bản 1994 của nó bao gồm các bộ tiêu chuẩn thành phần (ISO 9001; 9002 và ISO 9003). + Tiến hành áp dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của DN. Các DNBH, trước hết là các DN lớn phải tập trung đầu tư xây dựng trung tâm dữ liệu, thực hiện giải pháp công nghệ thông tin. Sử dụng các phần mềm tính phí, cấp đơn BH, quản lý hợp đồng BH, Phần mềm kế toán, phần mềm quản lý đaị lý, phát triển thương mại điện tử bán hàng qua mạng …Xây dựng các địa chỉ giao dịch trên mạng Internet, để giảm bớt chi phí kinh doanh, tăng hiệu quả. - Không ngừng xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình: Đối với kinh doanh nhất là kinh doanh dịch vụ - và lại là kinh doanh những “ sản phẩm vô hình” thì đây là vấn đề rất quan trọng của các DNBH. Vì vậy, hoạt động tuyên truyền quảng cáo không chỉ đơn thuần là quảng bá cho sản phẩm của mình mà còn phải góp phần nâng cao nhận thức của toàn dân về vai trò to lớn và ý nghĩa xã hội của BH. + Quảng bá thương hiệu của các DNBH không chỉ đơn thuần như các hình thức truyền thống hiện nay là: Quảng cáo trên truyền hình, trên các tờ báo, tạp chí, phát tờ rơi… mà cần phải tiến tới quảng cáo một cách khác biệt, ấn tượng và mang tính đặc thù riêng của BH. Ví dụ: Tham gia làm phim nói về bảo hiểm, hay 1 số các trương trình tài trợ, cứu trợ cứu nạn do thiên tai, hạn hán, lũ lụt, tham gia vào các chương trình an toàn giao thông và phòng chống cháy nổ, tham gia tích cực vào hoạt động nhân đạo …. Đặc biệt, cách quảng cáo hiệu quả nhất, thực tế nhất, đi vào lòng người nhất là công tác giải quyết bồi thường hay trả tiền BH cho khách hàng phải đảm bảo nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đầy đủ quyền lợi cho khách hàng. Khách hàng phải là “ Thượng đế” cả khi mua BH và khi làm bồi thường BH. 3.2.3.2.Bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực kể cả trong và ngoài nước. - Để đáp ứng yêu cầu của phát triển và hội nhập, các DNBH phi nhân tho cần có kế hoạch đào tạo đào tạo lại nguồn nhân lực của mình thường xuyên liên tục, kể cả đào tạo trong nước và nước ngoài nhằm tiếp thu kịp thời những thông tin, những tiến bộ, những thay đổi, phát triển trên thế giới, đáp ứng yêu cầu kinh doanh cuả doanh nghiệp. - Thực chất của việc nâng cao trình độ năng lực cán bộ tập trung vào các vấn đề sau: Xác định lại số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ, từ đó có kế hoạch qui hoạch cho công tác cán bộ. Tùy theo từng đối tượng có thể thực hiện các hình thức đào tạo như: Đào tạo ngắn hạn, dài hạn,các lớp bồi dưỡng, tập huấn, nghiên cứu, khảo sát trong và ngoài nước, hội thảo, tọa đàm… - Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cũng cần tính yếu tố văn hóa trong mỗi con người để hình thành và phát triển văn hoá riêng của doanh nghiệp. Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển. Vì vậy, rất cần thiết phải xây dựng văn hoá riêng trong mỗi doanh nghiệp (Thực tế hiện nay vấn đề này thường không được coi trọng, thậm chí bị lãng quên). 3.2.3.3. Đa dạng hóa dịch vụ và nâng cao chất lượng các sản phẩm BH - Đối với các sản phẩm đang triển khai: Tiếp tục nghiên cứu phát triển và hoàn thiện các sản phẩm theo nguyên tắc gắn liền quyền lợi giữa DNBH và người tham gia BH. Có thể tăng phí BH kèm theo tăng mức trách nhiệm BH và mở rộng quyền lợi, đồng thời là công tác dịch vụ sau bán hàng tốt hơn, để gây hấp dẫn thu hút khách hàng mở rộng thị trường. - Đối với các lĩnh vực hiện nay thị trường còn bỏ trống hoặc triển khai cầm chừng như trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, các rủi ro thiên tai bão lụt, mất mùa, dịch bệnh, BH tín dụng, BH trách nhiệm chung, một số hoạt động tư vấn nghề nghiệp…..cần nghiên cứu đưa ra những sản phẩm BH mới cho phù hợp với điều kiện của từng đối tượng trên thì mới triển khai có hiệu quả. - Cần xây dựng và triển khai ngay các loại sản phẩm BH trọn gói với mức phí bảo hiểm hợp lý ( Ví dụ BH trọn gói các loại hình BH có thể cho một doanh nghiệp, tổ chức, một dự án, công trình, BH trọn gói cho một hộ gia đình). - Để nâng cao chất lượng sản phẩm, các DNBH phi nhân thọ cần tập trung tích cực vào việc đổi mới công tác giám định bồi thường và trả tiền bảo hiểm.Các chế độ bồi thường cũng như các thủ tục hồ sơ đòi bồi thường bảo hiểm, cần được phổ biến rõ ràng, công khai, đơn giản về thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro. 3.2.3.4. Phát triển nhiều kênh phân phối sản phẩm - Các sản phẩm BH được phân phối cho người mua BH qua các kênh:DN BH trực tiếp cung cấp, phân phối thông qua môi giới, đại lý BH (gián tiếp).Trên thế giới các kênh phân phối gián tiếp chiếm đến 90%tổng lượng dịch vụ bảo hiểm, các DNBH trực tiếp phân phối chỉ khoảng 10%, còn ở Việt Nam thì gần như ngược lại, có nghĩa là các kênh phân phối gián tiếp hoạt động rất yếu.Vì vậy, cần phát triển mạnh các kênh phân phối gián tiếp trong thời gian tới. - Phân phối sản phẩm qua kênh môi giới BH giúp cho cả DNBH và khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí cho các giao dịch BH. Môi giới là người tư vấn giúp khách hàng đánh giá những rủi ro cần phải BH, lựa chọn các DNBH, sản phẩm BH phù hợp. Ngoài ra, môi giới còn hỗ trợ cho việc giải quyết thương lượng bồi thường. Vì vậy, môi giới đã tạo mối quan hệ tin tưởng và tạo điều kiện cho cả hai phía các DNBH và người tham gia BH.Do đó các DNBH rất cần thiết phát triển phân phối sản phẩm quan kênh môi giới BH. - Không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm: Ngoài việc phát triển về số lượng đại lý BH, các DNBH cần chú trọng đến chất lượng đại lý cũng như các chế độ cho đại lý, có vậy mới phát triển tốt kênh phân phối này.Chất lượng đại lý phụ thuộc nhiều vào công tác đào tạo, vì vậy các DNBH cần quản lý và thực hiện tốt các chương trình đào đạo đại lý. Đồng thời đề ra các tiêu chuẩn và điều kiện đối với đại lý BH về trình độ nghiệp vụ về tư cách đạo đức nghề nghiệp, có như vậy thì TTBH mới phát triển lành mạnh. 3.2.3.5. Giải pháp để đầu tư hiệu quả vào nền kinh tế - Cần xây dựng chiến lược đầu tư gắn với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Sớm xây dựng các qui trình đầu tư và ra quyết định đầu tư chặt chẽ, đúng pháp luật để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra trong đầu tư. - Không ngừng nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư. Sớm xây dựng cho DN mình một số chuyên gia về đầu tư. Các DNBH có đủ tiêu chuẩn theo qui định của pháp luật nên thành lập các công ty quản lý quỹ đầu tư để thực hiện đầu tư một cách chuyên nghiệp và đạt hiệu quả cao. - Đa dạng hóa các danh mục đầu tư để vừa đảm bảo cân đối giữa nhu cầu thanh toán trước mắt, vừa đạt hiệu quả đầu tư. - Xác định cơ cấu đầu tư sao cho nguồn vốn đầu tư có hiêụ quả nhất. Nâng tỷ trọng đầu tư dài hạn và giảm đầu tư ngắn hạn. Cần giảm đến mức tối thiểu hình thức đầu tư bằng gửi ngân hàng.Chủ yếu tập trung vào mua cổ phiếu, góp vốn cổ phần, liên doanh liên kết..Trong điều kiện như hiện nay , tình hình lạm phát có xu hướng tăng nên giảm bớt việc mua trái phiếu chính phủ và chuyển sang đầu tư bất động sản. Tuy nhiên trong lĩnh vực này cần nhiều kinh nghiệm,kỹ năng về định giá bất động sản, hồ sơ xây dựng, khả năng thẩm định và đánh giá hiệu quả của phương án.. 3.2.3.6. Tăng cường hợp tác giao lưu với các DNBH nước ngoài Nhằm cập nhật những thông tin trên TTBH thế giới, tranh thủ học hỏi trình độ quản lý, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao các nguồn tài chính, các kỹ năng cũng như các bí quyết về công nghệ từ nước ngoài. Các DNBH Việt Nam, tùy theo khả năng của mình,cần xây dựng cho mình chính sách, hình thức phù hợp trong quan hệ hợp tác với nước ngoài.Chú trọng tới các thị trường khu vực (khối ASEAN), thị trường lớn (như Tây Âu, Nhật, Mỹ), chú trọng các đối tác có khả năng tài chính lớn, có trình độ công nghệ tiên tiến, có kinh nghiệm lâu năm và uy tín trên TTBH quốc tế. Sau đây là một số hình thức cơ bản: - Tham gia quan hệ với các cơ quan, tổ chức bảo hiểm khu vực và quốc tế như Hội đồng bảo hiểm các nước ASEAN, Hiệp hội bảo hiểm Quốc tế….. - Các DNBH PNT Việt Nam có thể mở Chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nước ngoài. Đồng thời, có thể tham gia góp vốn vào các công ty BH, tái BH đang hoạt động thành công ở nước ngoài, hoặc tham gia liên doanh liên kết với các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam. - Theo su thế phát triển hiện nay, với các dịch vụ vượt quá khả năng nhận BH của mình, các DN hoàn toàn có thể mở rộng và phát triển hình thức đồng bảo hiểm với các DNBH có vốn nước ngoài. Đây là điều kiện để các DNBH trong nước tiếp thu nhanh nhất kỹ năng và bí quyết công nghệ của nước ngoài - Mỗi DNBH đều có mức giữ lại riêng cho từng dịch vụ BH. Vì vậy, việc tăng cường mở rộng quan hệ với các nhà tái BH nước ngoài, là điều kiện để cácDN tăng năng lực tái BH và khả năng quan hệ với các đối tác nước ngoài. - Đối với các công ty BH cổ phần cần tiến hành ngay việc niêm yết cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán để có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.Khi các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu cổ phiếu với tỷ lệ càng cao, các DNBH trong nước càng có điều kiện để hợp tác giao lưu với nước ngoài. *) Tính khả thi của nhóm giải pháp này: Trong điều kiện đổi mới và hội nhập kinh tế tế Quốc tế ở nước ta đang phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Việc Việt Nam sẽ thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập, đặc biệt thực hiện mở cửa theo lộ trình trong Hiệp định Thương mại Việt Mỹ và Tổ chức thương mại Quốc tế WTO, đã tạo ra những cơ hội và nhiều thách thức mới, đòi hỏi các DNBH phi nhân thọ phải không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực về mọi mặt, nhằm đứng vững và phát triển trong thị trường. Nhất là trong tình hình hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến thị trường tài chính, bảo hiểm, ngân hàng của Việt Nam. Tình hình thực tế như vậy, cùng với hai nhóm giải pháp trên cùng đồng thời được thực hiện, sẽ là điều kiện và “ chất xúc tác” quan trọng làm cho nhóm giải pháp này có tính thực thi cao. Tóm lại: Mục tiêu phát triển TTBH phi nhân thọ Việt Nam một cách toàn diện, nhanh chóng và vững chắc. Thực hiện tốt chức năng là một công cụ để bảo vệ nền kinh tế và đời sống xã hội trước những nguy cơ rủi ro và là công cụ để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, đưa ngành BHTM nó chung và BH phi nhân thọ nói riêng giữ vị trí xứng đáng trong thị trường tài chính nước nhà. Để đạt được mục tiêu trên, trong Chương 3, luận văn đã đưa ra một số định hướng và các giải pháp cụ thể. Định hướng đó là : Nhà nước ( phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật theo hướng đồng bộ, minh bạch và theo các chuẩn mực quốc tế) - Thị trường ( hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, các điều kiện khác như trình độ dân trí, họat động của Hiệp hội BH Việt Nam )- Đội ngũ các DNBH phi nhân thọ ( Phải phát triển hùng hậu: cả về số lượng, chất lượng, đủ năng lực để cạnh tranh cả trong và ngoài nước). Theo đó, các giải pháp đưa ra theo 3 nhóm cụ thể cho 3 đối tượng khác nhau đó là: Nhóm giải pháp đối với quản lý Nhà nước về KDBH - Đối với Thị trường( Môi trường, điều kiện để phát triển TTBH) – và nhóm giải pháp đối với các DNBH phi nhân thọ. Hy vọng với những định hướng và giải pháp trên, trong thời gian tới, TTBH phi nhân thọ Việt Nam sẽ là một trong những TTBH lớn mạnh, có tên tuổi và uy tín ở khu vực và trên thế giới. KẾT LUẬN Trong những năm qua, TTBH PNT Việt Nam, đã phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí có nhận định còn cho rằng “ TTBH Việt Nam phát triển nhanh nhất khu vực”.Tuy nhiên,để đánh giá một cách tổng thể,toàn diện thì TTBH PNT Việt Nam phát triển chưa cơ bản, chưa vững chắc, chưa đồng đều và đặc biệt là chưa “thành nếp”. Đồng thời mới chỉ đang “ chập chững” tập cạnh tranh khi bước vào hội nhập.Cơ sở hạ tầng về BH còn nhiều bất cập, chính sách mở cửa TTBH của Nhà nước còn rất “thận trọng”.Thị phần BH chỉ tập trung ở vài 3 DNBH lớn, các nghiệp vụ phát triển chưa đều, một số lĩnh vực còn bỏ trống, nhất là trong lĩnh vực BH nông lâm ngư nghiệp còn rất ảm đạm, năng lực cạnh tranh, trình độ quản lý và khoa học công nghệ, trình độ cán bộ, năng lực tái BH.. còn rất hạn chế. Luận văn đã làm sáng tỏ lý luận về TTBH PNT, trình bày một số kinh nghiệm của các nước trong phát triển thị trường này. Đồng thời, đã phân tích thực trạng TTBH PNT hiện nay ở nước ta, chỉ ra những thành tựu và hạn chế và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Trên cơ sở đó đã chỉ ra phương hướng và giải pháp phát triển TTBH PNT nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế ở nước ta những năm tới. Điểm khác biệt của luận văn với những công trình nghiên cứu khác là xuất phát từ thực tế nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới .Luận văn không chỉ nghiên cứu TTBH PNT chung chung mà đặt nó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm góp phần nhỏ bé giúp cho TTBH PNT Việt Nam nói chung và các DNBH PNT nói riêng, tranh thủ nắm bắt những cơ hội, chuẩn bị “ tư thế sẵn sàng” và tự tin vượt qua thách thức để không ngừng phát triển, sánh vai và hoà nhập tốt vào TTBH trên thế giới. Cuối cùng, luận văn muốn đề cập đến một vấn đề đó là: Làm thế nào để thông qua các chính sách và hoạt động đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH PNT - các trung gian tài chính này phải giữ một vị trí xứng đáng, góp phần làm phong phú, sôi động thị trường tài chính nước nhà. Qua quá trình nghiên cứu, luận văn xin đưa ra một số kiến nghị sau: - Luật kinh doanh BH hiện hành qui định có 5 loại hình doanh nghiệp BH được phép thành lập ( Nhà nước, cổ phần, DNBH liên doanh, DNBH 100% vốn nước ngoài, tổ chức BH tương hỗ), song đến ngày 24/2/2005 Chính phủ mới ra Nghị định 18/2005/NĐ-CP về thành lập hoạt động của tổ chức BH tương hỗ nên thực tế mới chỉ có 4 hình thức ra đời và hoạt động. Vì vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện ngay một số qui định còn thiếu, đồng thời có thể có thể qui định và cho phép thành lập một số loại hình DNBH khác nữa như doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH BH (trong nước) … - Một số chính sách hiện hành như hạn chế phạm vi và lĩnh vực hoạt động của các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như bảo hộ các DNBH trong nước đang kìm hãm sự phát triển của các DNBH này, tạo ra sự không bình đẳng và cạnh tranh không lành mạnh, kìm hãm sự phát triển của TTBH. Do đó, cần hạn chế đến mức tối thiểu , tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các qui đinh trên. - Tại Mục 1- Chương 4 - Luật KDBH qui định về hoạt động đại lý đó là tổ chức hay cá nhân. Nhưng trên thực tế, trong lĩnh vực BH PNT , đại lý chủ yếu là cá nhân và hoạt động còn rất hạn chế, chưa chuyên nghiệp. Để đưa hoạt động đại lý BH đi vào thực chất và chuyên nghiệp hơn, nhằm mở rộng các kênh phân phối. Trong thời gian tới, Chính phủ, Bộ tài Chính cần có qui định hướng dẫn cụ thể về hoạt động của tổ chức đại lý, có thể cho phép thành lập các Công ty đại lý BH. - Trong lĩnh vực đầu tư cho các DNBH còn rất thiếu và mới chỉ dừng lại ở việc đảm bảo duy trì khả năng thanh toán của các DNBH, chưa có định hướng hoặc khuyến khích đầu tư vào nền kinh tế cho các DNBH, do đó hoạt động đầu tư của các DNBH còn kém hiệu quả. Vì vậy, cần có sửa đổi bổ sung, từng bước nới lỏng các hạn chế đầu tư, và qui định thêm một số danh mục đầu tư, ban hành các cơ chế chính sách về đầu tư, nghiên cứu mở rộng phạm vi cơ chế đầu tư ra nước ngoài phù hợp với tiến trình hội nhập. - Nhà nước có thể cho phép các DNBH thành lập các ngân hàng thương mại, vừa để thêm một kênh phân phối sản phẩm vừa để tạo điều kiện “mở đường”cho hoạt động đầu tư của các DNBH đạt hiệu quả cao hơn. Hy vọng, luận văn có thể đóng góp một số vấn đề trong sự phát triển TTBH PNT Việt Nam trong thời gian tới. Góp phần vào thành công chung trong sự nghiệp xây dựng và triển kinh tế-xã hội đất nước./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lê Nin,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Bộ Tài Chính ( 2004), Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Tài chính, Hà Nội. 3. Bộ Tài Chính (2005), Thị trường BH Việt Nam năm 2004,NXB Tài chính,HN 4. Bộ Tài Chính (2006), Thị trường BH Việt Nam năm 2005,NXB Tài chính,HN 5. Bộ Luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Thái Văn Cách, Nguyễn Thị Quyến (1995) ( dịch), Marketng và việc áp dụng Trong bảo hiểm. 7.TS. Nguyễn Văn Định ( 2003), Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội. 8. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ( 2005), Bản tin số 1 và số 3 năm 2005. 9. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ( 2006), Bản tin số 4/2005, số 1, số 2,năm 2006. 10. Lý thuyết bảo hiểm ( 1997) – NXB Tài chính, Hà Nội. 11. Luật kinh doanh bảo hiểm ( 2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Nguyễn Trọng Nghĩa (2005),“Vấn đề đầu tư đối với doanh nghiệp bảo hiểm Hội thảo khoa học:Giải pháp đầu tư hiệu quả vào nền kinh tế của các DNBH 13. GS.TS Hồ Xuân Phương, Võ Thị Pha (1999), Bảo hiểm,NXB Tài Chính,HN 14. Phạm Thu Phương (2004),“Bảo hiểm Việt Nam sau 10 năm hoạt động”,Tạp Chí Nghiên cứu tài chính kế toán, 5 (10), tr.21-23. 15. PGS.TS Bùi Tiến Quý, TS. Mạc Văn Tiến, TS. Vũ Quang Thọ ( 1997), Một số vấn đề cơ bản về kinh tế bảo hiểm, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. PGS.TS. Hồ Sỹ Sà ( 2000), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê , Hà Nội. 17. Tổng cục thống kê (2005), Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội. 18.Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006),NXB Chính trị quốcgia,HN 19.Văn kiện ĐHđại biểu toàn quốc lần thứ VI (1987),NXB Chính trị quốc giaHN 20. VINARE (2004), “ Thị trường bảo hiểm Việt nam 2003”, Tạp chí bảo hiểm Tái bảo hiểm Việt Nam, 1(1), tr.3-6. 21. VINARE (2005), “ Thị trường bảo hiểm Việt nam 2004”, Tạp chí bảo hiểm Tái bảo hiểm Việt Nam, 1(1), tr.3-6. 22. VINARE (2005), “ Thị trường bảo hiểm Việt nam 2000-2004”, Tạp chí bảo hiểm tái bảo hiểm Việt Nam, 8(3), tr.2-5. 23. VINARE (2005), “Thực trạng và các G/pháp nâng cao hiệu quả h.động đầu Tư của các DN trên TTBH VN”, Tạp chí BH tái BH Việt Nam, 11(4), tr.1-10. 24. VINARE (2006), “ Thị trường bảo hiểm Việt nam 2005”, Tạp chí bảo hiểm Tái bảo hiểm Việt Nam, 1(1), tr.3-6. 25. VINARE (2006), “ Bài phát biểu của Chủ tịch hiệp hội BHVN”,Tạp chí bảo hiểm Tái bảo hiểm Việt Nam, 5 (2), tr.2 -3. 26. www.mof.gov.vn (2006),“ D.nghiệp BH VN đã sẵn sàng với sân chơi WTO” 27. www.baoviet.com.vn, “ Thị trường bảo hiểm Châu Á Thái bình dương”,theo Báo cáo của Moody’s - 8/2005. 28. Website: www.baohiemvn.com; www.vneconomy.com.vn; www.media.com.vn; www.gso.gov.vn; www.baohiem.pro.vn Tiếng Anh 29. Bertini, Tài liệu dự án ASSURE ( Pháp) ( 2000). 30. TS. David Bland ( 1999), Bảo hiểm Nguyên tắc và thực hành - Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh, NXB Tài chính, Hà Nội, tr.9-10, tr.20, tr.38. 31.Fredric S.Mishkin ( 2001), Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr.73 – 81. 32. Paul A.Samuelson, Wiliam D. Nordhalls ( 1997), Kinh tế học, tập 1, NXB Thống Kê, Hà Nội, tr. 67- 77. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ TOM TẮT ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29394.doc
Tài liệu liên quan