Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
ACH
Trung tâm thanh toán bù trừ tự động
ATM
Máy rút tiền tự động
BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CNTT
Công nghệ thông tin
E - Banking
Dịch vụ ngân hàng điện tử
L/C
Thư tín dụng
NH
Ngân hàng
nhnn
Ngân hàng nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
nhtw
Ngân hàng trung ương
TCKT
Tổ chức kinh tế
TCTD
Tổ chức tín dụng
TK
Tài khoản
TKTG
Tài khoản tiền gửi
TTĐTLNH
Thanh toán điện tử liên ngân hàng
ttkdtm
Thanh toán không
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dùng tiền mặt
TW
Trung ương
UNC
Uỷ nhiệm chi
UNT
Uỷ nhiệm thu
Danh mục các bảng biểu
Bảng 2.1
Tỷ trọng của các phương tiện TTKDTM của các NHTM Việt Nam (2002-2006)
39
Biểu 2.1
Tỷ trọng giao dịch thanh toán qua các kênh năm 2007
45
Bảng 2.2
Một số chỉ tiêu về tình hình huy động vốn của BIDV Đông Đô (2006-2008)
52
Bảng 2.3
Tình hình hoạt động tín dụng của BIDV Đông Đô (2006-2008)
54
Bảng 2.4
Kết quả kinh doanh của BIDV Đông Đô (2006-2008)
57
Bảng 2.5
Tình hình thanh toán tại BIDV Đông Đô (2006-2008)
59
Bảng 2.6
Tình hình TTKDTM tại BIDV Đông Đô theo đối tượng thanh toán (2006-2008)
61
Bảng 2.7
Tình hình TTKDTM tại BIDV Đông Đô (2006-2008)
62
Bảng 2.8
Tình hình thanh toán bằng Séc tại BIDV Đông Đô (2006-2008)
62
Biểu 2.2
Tốc độ tăng trưởng dịch vụ thanh toán bằng UNC tại BIDV Đông Đô (2006-2008)
67
Lời mở đầu
Dịch vụ thanh toán là loại dịch vụ mà ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp cho nền kinh tế để đáp ứng yêu cầu thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, dịch vụ thanh toán của ngân hàng (NH) ngày càng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển đã kéo theo các phương tiện thanh toán phát triển, phương tiện này là sự kế thừa và phát triển của phương tiện trước đó. Khắc phục những nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là phương tiện thanh toán mới ưu việt hơn, đáp ứng một cách tốt hơn cho yêu cầu của sự phát triển kinh tế.
Nhận rõ được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán nhất là TTKDTM, trong những năm qua, ngành NH nói chung và hệ thống NH Đầu tư và Phát triển (BIDV) nói riêng đã tập trung chỉ đạo, cải tiến về cơ chế nghiệp vụ và hiện đại hoá công nghệ thanh toán nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới.
Trong thời gian thực tập tại BIDV Đông Đô, em nhận thấy TTKDTM là một trong những hoạt động quan trọng của chi nhánh. Trong những năm qua, do có sự cải tiến công nghệ thanh toán cũng như được sự quan tâm của Ban lãnh đạo và sự nỗ lực hết mình của toàn bộ cán bộ công nhân viên tại chi nhánh, đặc biệt là cán bộ kế toán đã giúp cho dịch vụ TTKDTM tại chi nhánh ngày càng phát triển, thu hút được một khối lượng lớn khách hàng tham gia vào quá trình thanh toán, giúp cho doanh số TTKDTM của chi nhánh đạt được ngày càng cao. Đồng thời, hoạt động kinh doanh chung của chi nhánh đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tốt đẹp đó, hoạt động TTKDTM tại BIDV Đông Đô cũng gặp phải những khó khăn vướng mắc cần phải được giải quyết một cách kịp thời. Chính vì vậy, trên cơ sở những lý luận chung đã được học và thực tiễn tại BIDV Đông Đô, em chọn đề tài “Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
Em hy vọng rằng việc nghiên cứu đề tài này sẽ cho một cái nhìn tổng quan về thực trạng của hoạt động TTKDTM ở các NHTM Việt Nam nói chung và ở BIDV Đông Đô nói riêng trong thời gian qua. Qua đó có thể đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ này trong những năm tới.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
Chương 2: Thực trạng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại BIDV Đông Đô
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại BIDV Đông Đô
Chương 1
Tổng quan về dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt
Tổng quan về dịch vụ thanh toán
Tiền và chức năng của tiền
Khái niệm tiền
Các nhà kinh tế học coi tiền là bất cứ phương tiện nào được thừa nhận để thanh toán chung cho việc mua bán, trao đổi hàng hoá - dịch vụ hoặc trong việc thanh toán các khoản nợ.
Chức năng của tiền
Bản chất của tiền được hiểu một cách đầy đủ thông qua các chức năng của nó. Theo quan điểm của Frederic S. Mishkin, tiền tệ thực hiện 3 chức năng cơ bản sau: phương tiện trao đổi, phương tiện định giá và phương tiện dự trữ giá trị.
Phương tiện trao đổi: tiền là phương tiện mà thông qua đó, các hàng hoá và dịch vụ được trao đổi cho nhau. Việc dùng tiền làm phương tiện trao đổi giúp khắc phục được những hạn chế của quá trình trao đổi trực tiếp (hàng đổi hàng) nhờ đó tiết kiệm được chi phí giao dịch liên quan đến việc tìm kiếm, chờ đợi tác nhân có nhu cầu trao đổi. Điều này góp phần làm tăng tính hiệu quả của quá trình sản xuất xã hội khi thúc đẩy chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội.
Phương tiện định giá: tiền được dùng để đo giá trị các hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế, để biểu thị giá cả hàng hoá và dịch vụ. Khi chưa có tiền, việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ diễn ra rất phức tạp vì không có đơn vị chung để đánh giá giá trị của chúng, do đó cần phải có rất nhiều loại giá khác nhau. Việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá đã giảm được số giá cần xem xét, từ đó giảm được chi phí, thời gian để giao dịch và lợi ích này lại càng tăng lên khi nền kinh tế trở nên phức tạp (có nhiều hàng hoá cần trao đổi). Vì vậy, chức năng này cũng góp phần vào việc tăng cường tính hiệu quả của xã hội.
Phương tiện dự trữ giá trị: mọi người thường không sử dụng hết thu nhập của mình ngay lập tức mà sẽ giữ lại cho nhu cầu chi tiêu trong tương lai. Trong thực tế, có nhiều tài sản không phải là tiền được sử dụng làm phương tiện dự trữ giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, nhà đất,…Việc sử dụng những tài sản này để dự trữ thường có mức sinh lời cao hơn sử dụng tiền. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều tích luỹ tiền với một tỷ lệ nhất định bởi sự an toàn và “tính lỏng” của tiền. Tiền có tính lỏng nhất vì tiền không cần chuyển thành thứ khác khi được sử dụng để trao đổi hàng hoá - dịch vụ. Trong khi đó, các tài sản khác phải mất chi phí giao dịch để chuyển đổi thành tiền rồi mới được sử dụng vào trong quá trình trao đổi hàng hoá - dịch vụ.
Trong 3 chức năng trên, chức năng là một phương tiện trao đổi chính là cái phân biệt tiền với những tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu hoặc nhà cửa.
Sự phát triển của các phương tiện thanh toán
Vào cuối thời kỳ La Mã cổ đại, hàng hoá được lựa chọn làm phương tiện trao đổi tuy nhiên có hạn chế là khó chia nhỏ để trả lại tiền lẻ, chịu tác động bởi yếu tố tự nhiên, không thuân tiện trong việc di chuyển giữa các vùng khác nhau,…
Sang thế kỷ XIX, vàng được chấp nhận trong lưu thông bởi những thuộc tính tự nhiên phù hợp với vai trò phương tiện trao đổi: dễ chia nhỏ, hợp nhất, bền, ít chịu tác động bởi yếu tố tự nhiên, có giá trị lớn trong một khối lượng nhỏ, dễ di chuyển hơn hàng hoá. Tuy nhiên, sự bất lợi của lưu thông vàng cũng dần bộc lộ: vàng nặng nên việc di chuyển vàng bất tiện và khi nhu cầu trao đổi hàng hoá tăng thì vàng trở nên khan hiếm, nhu cầu dự trữ vàng tăng.
Sau đó, tiền giấy và tiền xu (gọi chung là tiền mặt) được sử dụng trong lưu thông. Thực chất của loại tiền này là một chứng chỉ cam kết có thể được chuyển đổi ngang giá thành tiền kim loại hoặc một lượng kim loại quý. Tuy nhiên, loại tiền này nhanh chóng được chuyển thành tiền giấy không có bảo đảm - tiền pháp định, nghĩa là mọi người buộc phải chấp nhận nó theo quy định của Nhà nước, không có khả năng chuyển đổi thành kim loại quý. Tiền giấy có ưu thế là nhẹ hơn tiền thực rất nhiều, chi phí bảo quản và vận chuyển thấp, chi phí in ấn và đảm bảo an toàn rẻ, thuận tiện khi sử dụng. Tuy nhiên, tiền giấy chỉ có thể được chấp nhận làm trung gian trao đổi nếu lòng tin vào người có thẩm quyền phát hành nó đủ lớn và việc làm giả đồng tiền đó là khó khăn. Tiền giấy và tiền xu có nhược điểm là dễ dàng bị đánh cắp và đặc biệt khá tốn kém khi vận chuyển số lượng lớn. Để khắc phục nhược điểm này, những tiến bộ khác của hệ thống thanh toán đã diễn ra với sự phát triển của ngân hàng hiện đại, sự ra đời của Séc.
Séc là một loại hối phiếu nhận nợ chi trả ngay khi xuất trình, cho phép thực hiện giao dịch mà không cần mang theo một khoản tiền mặt lớn. Với sự ra đời của Séc, các khoản thanh toán có thể bù trừ cho nhau và cũng không cần luân chuyển tiền mặt. Việc sử dụng Séc đã làm giảm chi phí giao dịch và cải thiện hiệu quả kinh tế. Một ưu điểm khác của Séc là nó có thể được viết ra với bất kỳ số tiền nào cho tới hết số dư trên tài khoản, để thực hiện giao dịch dễ dàng hơn nhiều với số tiền lớn. Séc còn có ưu thế so với tiền mặt trong việc chống lại khả năng mất trộm và rất thuận tiện trong việc thực hiện vận chuyển, chi trả. Tuy nhiên, hệ thống thanh toán Séc cũng có một số nhược điểm. Thứ nhất, phải mất một thời gian để mang Séc từ nơi này đến nơi khác, đặc biệt khi người nhận thanh toán Séc ở khác địa bàn người chi trả Séc mà người đó cần được chi trả nhanh chóng. Với những yêu cầu cần tiền mặt ngay thì đặc điểm này của Séc không thể đáp ứng được. Thứ hai, việc xử lý chứng từ Séc tiêu tốn một khoản chi phí không nhỏ.
Với sự phát triển của công nghệ tin học cũng như máy tính và những ứng dụng của nó trong các hệ thống thanh toán, tất cả các công việc giấy tờ có thể được loại bỏ bằng các chuyển đổi hoàn toàn sang các dữ liệu điễn tử, trong đó toàn bộ các khoản thanh toán được thực hiện thông qua các thiết bị điện tử. Các phương tiện thanh toán điện tử đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới trong nhiều năm gần đây. Hệ thống thanh toán của nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) hiện nay cho phép các NH, định chế tài chính mở tài khoản tại NHTW và chuyển tiền cho nhau. Các khoản thanh toán có thể được thực hiện thông qua các trung tâm thanh toán bù trừ tự động (ACH). Hệ thống thanh toán bán lẻ này ngày càng trở nên thông dụng đối với các doanh nghiệp khi họ chi trả tiền công, tiền lương cho nhân viên. Các hộ gia đình có thể chi trả hoá đơn điện thoại, các dịch vụ công cộng, đóng bảo hiểm,…thông qua ACH. Sự phát triển của hệ thống thanh toán cùng vai trò của các NH cho phép sử dụng các phương tiện thanh toán không phải là tiền mặt để phục vụ cho nhu cầu trao đổi, luân chuyển hàng hoá. Các phương tiện đó là Séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ,…Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ điện tử và tin học cùng sự ứng dụng ngày càng rộng rãi của chúng trong ngành NH đang hứa hẹn một hệ thống thanh toán hiệu quả, ít tốn kém, trong đó việc sử dụng các phương tiện thanh toán có ứng dụng tin học, điện tử trở nên phổ biến.
Thanh toán tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt
Khái niệm, đặc điểm và vai trò
Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hoá, sự tồn tại của tiền tệ và lưu thông tiền tệ là nhân tố đặc biệt quan trọng để quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá được tiến hành, đồng thời có tác động lớn đến hiệu quả của các quá trình này. Cùng với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện và phát triển của các phương tiện thanh toán cùng với sự ra đời của ngành NH và các dịch vụ NH trong đó dịch vụ thanh toán chiếm vai trò hết sức quan trọng. Trong nền kinh tế nói chung và trong hệ thống NHTM nói riêng, dịch vụ thanh toán được thực hiện dưới 2 hình thức là thanh toán bằng tiền mặt và TTKDTM.
Thanh toán bằng tiền mặt là quá trình thanh toán tiền hàng hoá trực tiếp trong đó có một lượng tiền mặt tương ứng với giá trị vật tư hàng hoá được trao đổi, vận động ngược chiều với sự vận động của vật tư hàng hoá đó. Cách thức tiền tệ này chỉ phù hợp với nền kinh tế khi sản xuất hàng hoá còn ở trình độ thấp, sản phẩm hàng hoá dịch vụ không nhiều và hoạt động mua bán chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp. Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển, với khối lượng hàng hoá được trao đổi lớn phạm vi mua bán rộng thì cách thức thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ các nhược điểm như: chi phí in ấn, vận chuyển bảo quản và kiểm đếm lớn, tốc độ thanh toán chậm, khả năng đảm bảo an toàn không cao,... Thực tế khách quan đó đòi hỏi phải có một cách thức thanh toán mới và tiên tiến hơn. Chính vì vậy, TTKDTM đã ra đời và nhanh chóng chiếm ưu thế trong nền kinh tế.
TTKDTM là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích từ tài khoản (TK) của người chi trả để chuyển vào TK của người thụ hưởng mở tại NH, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của NH. Giá trị chuyển nhượng qua các bút toán trên sổ sách tại tổ chức làm dịch vụ thanh toán được gọi là tiền ghi sổ. Dịch vụ TTKDTM được thực hiện theo uỷ nhiệm của khách hàng bằng hợp đồng thoả thuận với NH - uỷ nhiệm dịch vụ thanh toán dài hạn, định kỳ hoặc từng lần bằng pháp luật, giấy tờ chuyên dùng có tính chuyên nghiệp và phổ cập.
Đặc điểm của TTKDTM
Thứ nhất, dịch vụ TTKDTM độc lập so với sự vận động của vật tư hàng hoá cả về thời gian và không gian. Khác với thanh toán bằng tiền mặt do khách hàng tự thực hiện một cách trực tiếp theo kiểu “giao hàng, nhận tiền”, dịch vụ TTKDTM qua NH cho phép việc giao hàng được tiến hành ở nơi này, trong thời gian này nhưng việc thanh toán có thể thực hiện ở nơi khác, trong thời gian khác. Đặc điểm này cho phép dịch vụ TTKDTM có thể thực hiện với khối lượng giá trị không hạn chế. TK NH chính là cơ sở để thực hiện dịch vụ TTKDTM.
Thứ hai, trong dịch vụ TTKDTM, vật môi giới (tiền mặt) không xuất hiện như trong thanh toán bằng tiền mặt (H-T-T) mà chỉ xuất hiện dưới hình thức tiền tệ kế toán (tiền ghi sổ) và được ghi chép trên các chứng từ, sổ sách kế toán. Với đặc điểm này, mỗi bên tham gia thanh toán (mà chủ yếu là người mua) bắt buộc phải mở TK tại NH và phải có tiền trên TK đó. Nếu không thì việc thanh toán sẽ không thể tiến hành được. Ngoài ra, do khách hàng phải mở TK tại NH nên vấn đề kiểm soát của NH trong việc tổ chức thanh toán là cần thiết để đảm bảo đặc điểm kỹ thuật và tính chuyên nghiệp của dịch vụ này.
Thứ ba, trong tổ chức dịch vụ TTKDTM, NH đóng vai trò rất quan trọng, là người tổ chức và hoàn thành thực hiện các khoản thanh toán mà khách hàng uỷ nhiệm. Ngoài hai hoặc nhiều đơn vị mua bán tham gia trong thanh toán thì NH là người “thứ ba” môi giới kinh doanh chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện kết thúc quá trình mua bán và trả tiền các đối tác. Bởi vì chỉ có NH - người quản lý tài khoản tiền gửi (TKTG) của các đơn vị mới được phép trích chuyển tài khoản giữa các đơn vị. Với nghiệp vụ đặc biệt này, NH trở thành một “trung tâm môi giới thanh toán” cho xã hội.
Thứ tư, dịch vụ TTKDTM có đặc điểm phổ biến như các dịch vụ khác của nền kinh tế: trừu tượng, không thể dự trữ, chỉ xuất hiện khi có uỷ nhiệm của khách hàng đưa tới NH.
Vai trò của TTKDTM
Giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí cần thiết cho lưu thông tiền mặt (in ấn, kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản tiền).
An toàn trong giao dịch thanh toán, tránh rủi ro trong việc lưu hành và cất trữ tiền mặt: việc cất trữ quá nhiều tiền mặt đôi khi có thể gây ra những tổn thất không lường trước được như hoả hoạn, thiên tai,…có thể làm cho tiền giấy bị huỷ hoại hoàn toàn. Nạn làm tiền giả đang ngày càng phổ biến về quy mô và tinh vi về chất lượng đã và đang gây thiệt hại lớn về an ninh kinh tế - xã hội cho các nước trên thế giới. Với các phương tiện thanh toán điện tử, người sử dụng không còn phải quá lo lắng về những rủi ro trên. Điều quan trọng nhất mà họ phải quan tâm là ghi nhớ những thông tin mật của mình và không được làm lộ thông tin cho những người không đáng tin cậy.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nền kinh tế, giúp các NHTM thực hiện chức năng tạo tiền và góp phần tăng doanh thu của các NHTM: việc sử dụng các phương tiện TTKDTM hỗ trợ cho khả năng huy động vốn chi phí thấp từ nguồn tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM, giúp hệ thống NH đa dạng hoá nguồn doanh thu từ phí dịch vụ thanh toán, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ các luồng vốn chu chuyển giữa các khu vực kinh tế. Đồng thời, thông qua TTKDTM, các NH nắm bắt được một cách chính xác, hợp lý tình hình thiếu vốn của các bên tham gia thanh toán để kịp thời cho vay, phát tiền vay đúng mục đích và có vật tư hàng hoá đảm bảo.
- Góp phần mở rộng đối tượng thanh toán, tăng doanh số thanh toán của các NHTM: tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn có hiệu quả, chính xác, tin cậy và tiết kiệm thời gian, qua đó tạo lập niềm tin của công chúng vào hoạt động của hệ thống NH. Từ đó, mọi người dân, mọi doanh nghiệp đều tham gia vào hệ thống thanh toán của NH. Như vậy, TTKDTM giúp NH thực hiện được việc mở rộng đối tượng thanh toán, tăng doanh số thanh toán, mở rộng phạm vi thanh toán trong và ngoài nước, qua đó làm tăng lợi nhuận của NH giúp NH giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động giao dịch thương mại, đặc biệt là thương mại điện tử: với những đối tác mua bán từ xa, rất thuận tiện cho bên bán hàng có thể kiểm tra xem liệu thật sự bên mua hàng có đáp ứng được điều kiện thanh toán hay không thông qua kiểm tra TK của khách hàng đó. Ngược lại, bên mua hàng có thể thanh toán một cách nhanh chóng và qua đó gián tiếp có thể nhận hàng nhanh hơn, phục vụ tốt hơn hoạt động kinh doanh của mình.
Giúp NHNN quản lý được lượng cung tiền trong nền kinh tế qua việc quản lý thu nhập của các cá nhân, tổ chức do họ mở tài khoản và thực hiện các dịch vụ TTKDTM qua NH. Từ đó, NHNN có thể đưa ra chính sách tiền tệ hợp lý và phù hợp hơn với tình hình thực tế, nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ với việc ổn định và phát triển nền kinh tế.
Góp phần hạn chế các giao dịch bất hợp pháp: TTKDTM giúp tăng doanh thu cho ngân sách Nhà nước nhờ tăng doanh thu thuế, làm giảm các hoạt động ngầm trong nền kinh tế. Thông qua việc cung ứng dịch vụ TTKDTM, NHTM có thể đóng góp vào việc phát hiện những hiện tượng “rửa tiền” hay những nguồn tiền phi pháp khác.
Với những vai trò hết sức quan trọng nêu trên, dịch vụ TTKDTM đã trở thành một hình thức thanh toán không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Mặt khác, trước xu thế toàn cầu hoá và sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT), dịch vụ TTKDTM không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà đã vươn ra toàn cầu. Vì vậy, các phương tiện TTKDTM thường xuyên được cải tiến và hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Nhược điểm của TTKDTM so với thanh toán bằng tiền mặt
Thứ nhất, dịch vụ TTKDTM phụ thuộc vào đơn vị trung gian là các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (thường là các NHTM). Do đó, nhiều khi người có tiền không thể chủ động hoàn toàn trong hoạt động thanh toán của mình. Người sử dụng dịch vụ TTKDTM phụ thuộc vào thời gian, địa điểm làm việc cũng như quy chế hoạt động thanh toán của NHTM. Trong nhiều trường hợp, điều này trở nên rất bất tiện.
Thứ hai, đối với các khoản thanh toán nhỏ lẻ, với khoảng cách địa lý gần thì thanh toán bằng tiền mặt chiếm ưu thế về sự nhanh chóng, thuận tiện hơn hẳn so với TTKDTM. Nếu thanh toán bằng tiền mặt, người mua và người bán có thể thanh toán với nhau nhanh chóng với chi phí giao dịch thấp hơn so với TTKDTM.
Thứ ba, để sử dụng dịch vụ TTKDTM, khách hàng phải mở TK và để một số dư nhất định trong TK tại NHTM. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của NHTM không phải luôn luôn tuyệt đối an toàn. Điều này chứng tỏ TTKDTM đôi khi cũng thiếu an toàn hơn giữ tiền mặt. Trong quá trình thực hiện TTKDTM, các NHTM cũng có thể gặp phải những sai sót, sự cố làm ảnh hưởng đến tốc độ thanh toán. Ngoài ra, các hoạt động tội phạm trong lĩnh vực NH đang có xu hướng ngày càng gia tăng cũng là nguyên nhân tạo sự bất an cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ TTKDTM.
Mối quan hệ giữa thanh toán tiền mặt và TTKDTM
Giữa thanh toán bằng tiền mặt và TTKDTM có mối liên hệ chặt chẽ và thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau. Việc khách hàng nộp tiền mặt hàng ngày vào TK ở NH làm cơ sở tạo ra số dư tiền ghi sổ trên TK thanh toán. Từ cơ sở này, chủ TK uỷ nhiệm cho NH thực hiện các nhiệm vụ TTKDTM như chuyển tiền liên NH, phát hành Séc, thanh toán bù trừ, trả nợ NH,… Đồng thời, số dư tiền gửi trên TK là cơ sở để NH cung ứng dịch vụ tiền mặt cho khách hàng.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, nhu cầu trao đổi ngày càng tăng và phạm vi trao đổi hàng hoá đã không còn giới hạn trong một khu vực địa lý, một vùng lãnh thổ hay một quốc gia. Sự nảy sinh nhu cầu trao đổi vượt ra khỏi giới hạn về mặt địa lý này làm cho TTKDTM đã phát huy được những lợi thế ưu việt hơn hẳn so với thanh toán bằng tiền mặt. TTKDTM đang có xu hướng ngày càng tăng cả về khối lượng lẫn tỷ trọng. Tuy nhiên, TTKDTM cũng có những hạn chế nhất định so với thanh toán bằng tiền mặt nên thanh toán bằng tiền mặt vẫn là cần thiết và tất yếu để khắc phục những hạn chế của TTKDTM.
Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động thoanh toán của một nền kinh tế muốn vận hành thông suốt thì phải có cả thanh toán bằng tiền mặt và TTKDTM. NHTM với tư cách là tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bắt buộc phải tổ chức tốt cả hai loại hình dịch vụ này. Một mặt vì lợi ích của nền kinh tế và dân cư. Mặt khác, đó là giải pháp chiến lược giúp NHTM mở rộng thị trường khai thác vốn, cung cấp tín dụng và các dịch vụ khác của NHTM. TTKDTM là một phương pháp sử dụng tiền tệ hợp lý và là công cụ quan trọng để thực hiện công tác quản lý kinh tế của Nhà nước. Việc làm đó có phát huy được tác dụng tốt hay không cũng phải dựa trên cơ sở tổ chức tốt lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Mối quan hệ giữa hai hình thức chu chuyển tiền tệ này trong việc tổ chức hoạt động thanh toán có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Các phương tiện TTKDTM chủ yếu của ngân hàng thương mại
Hiện nay, các phương tiện TTKDTM chủ yếu của các NHTM là : Séc, Uỷ nhiệm chi (UNC), Uỷ nhiệm thu (UNT), Thư tín dụng (L/C), Thẻ ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng điện tử (E- Banking). Mỗi một phương tiện thanh toán đều có những ưu, nhược điểm riêng. Do vậy, mỗi tổ chức, cá nhân, tuỳ theo yêu cầu của mình mà lựa chọn phương tiện thanh toán phù hợp.
Séc
Khái niệm
Séc là lệnh chi trả tiền của chủ TK, được lập theo quy định của pháp luật, yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trích một số tiền từ TKTG thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên Séc hoặc trả cho người cầm Séc.
Séc được lập trên mẫu in sẵn do chủ TK phát hành giao trực tiếp cho người bán để thanh toán tiền vật tư, hàng hoá, chi phí, dịch vụ,…
Đặc điểm
Khách hàng là người mua tự phát hành Séc và tự trao đổi trực tiếp để trả tiền cho người bán. Công đoạn này không có sự tham gia của NH.
NH chỉ làm các dịch vụ theo uỷ quyền của khách hàng về mở TK phát hành Séc cho khách hàng, bán Séc cho khách hàng, quản lý số dư TK và thanh toán Séc khi khách hàng (người bán hàng hoá, dịch vụ) nộp vào. Nhờ có dịch vụ này, khách hàng mua không phải dùng tiền mặt mà dùng Séc thay thế trực tiếp và người bán nộp Séc vào NH thay vì nộp tiền mặt vào TK ở NH để tăng tiền gửi NH của mình.
Séc có tính thời hạn. Séc chỉ có giá trị thanh toán trong thời hạn có hiệu lực. Thời hạn này được quy định tuỳ thuộc vào mỗi nước và cho từng loại Séc riêng biệt.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm
+ Thông qua việc bù trừ các khoản thanh toán, Séc góp phần làm giảm chi phí giao dịch và cải thiện hiệu quả kinh tế.
+ Người mua có thể sử dụng Séc để thanh toán mà chưa cần ngay lập tức đến sự can thiệp của NH. Vì vậy, Séc có thể được thanh toán mọi nơi, mọi lúc, rất thuận tiện cho người phát hành.
Nhược điểm
+ Thời gian thanh toán Séc thường chậm hơn do phải mất thời gian để mang Séc từ nơi này đến nơi khác, phải nộp Séc vào NH.
+ Tính thời hạn của Séc cũng là một hạn chế do người thụ hưởng bắt buộc phải mang Séc đến NH để thanh toán trong thời hạn. Qua thời hạn đó, tờ Séc sẽ không có giá trị.
+ Séc cũng có nguy cơ rủi ro do mất mát hoặc hư hỏng,…
+ Do tại thời điểm viết Séc, người trả không biết chính xác số dư TK của mình nên có thể xảy ra trường hợp số tiền ghi trên Séc vượt quá số tiền trên TK hoặc hạn mức thấu chi của người viết Séc. Điều này làm cho Séc không thanh toán được ngay. Nếu trong thời hạn, số dư trên TK của người phát hành Séc vẫn không đủ, Séc sẽ bị trả lại và lúc đó, thủ tục thanh toán phải tiến hành lại từ đầu. Rủi ro này đôi khi liên quan đến đạo đức của người phát hành Séc.
Phân loại
Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng có các loại Séc
+ Séc vô danh: không ghi rõ tên người thụ hưởng trên tờ Séc, bất kỳ ai cầm tờ Séc cũng có thể nhận đủ số tiền ghi trên tờ Séc tại NH và Séc này có thể được chuyển nhượng tự do.
+ Séc ký danh: ghi rõ tên người thụ hưởng trên tờ Séc và Séc này được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu.
Căn cứ vào hình thức thanh toán có các loại Séc
+ Séc lĩnh tiền mặt: chỉ dùng để nhận tiền mặt tại NH. Đây là séc ký danh, có ghi cụm từ “tiền mặt” sau chữ Séc, mặt sau tờ Séc ghi rõ họ tên, số chứng minh thư của người trực tiếp lĩnh tiền mặt.
+ Séc chuyển khoản: do người chi trả phát hành để trao trực tiếp cho người thụ hưởng khi nhận hàng hoá, dịch vụ cung ứng. Séc chuyển khoản không được phép lĩnh tiền mặt. Đây là Séc ký danh có gạch 2 đường chéo song song chéo góc bên trái tờ Séc và có cụm từ “chuyển khoản” mặt trước tờ Séc. Séc chuyển khoản dùng để thanh toán giữa các chủ thể mở TK tại cùng một chi nhánh NH hoặc khác chi nhánh nhưng các chi nhánh đó có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố.
+ Séc bảo chi: Séc bảo chi là loại séc thanh toán được NH đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích trước số tiền trên séc từ TKTG của người trả tiền sang TK riêng nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho tờ séc đó. Đây là Séc ký danh, mặt trước tờ Séc có ghi cụm từ “Bảo chi”. Hình thức này được sử dụng trong trường hợp người bán không tín nhiệm người mua về mặt thanh toán. Phạm vi thanh toán của tờ séc bảo chi rộng hơn séc chuyển khoản: ngoài việc được sử dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở TK tại cùng 1 chi nhánh NH hoặc hai chi nhánh NH có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố còn được sử dụng để thanh toán giữa các khách hàng mở TK tại các chi nhánh NH cùng hệ thống trong phạm vi cả nước.
Uỷ nhiệm chi
Khái niệm
UNC là lệnh chi tiền của chủ TK lập theo mẫu in sẵn của NH, yêu cầu NH phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ TK để trả cho người thụ hưởng.
Phạm vi áp dụng
UNC được dùng để thanh toán các khoản tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền một cách rộng rãi và phổ biến trong cả nước, không phân biệt trong cùng hệ thống hay khác hệ thống NH.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm: an toàn, hiệu quả, thủ tục đơn giản đặc biệt là khi có hỗ trợ của CNTT, không gây phiền hà cho người trả tiền và chỉ sau một thời gian ngắn bên bán hàng sẽ nhận được tiền mà không phải đến NH làm thủ tục (khoảng 1 ngày làm việc).
Nhược điểm
+ Việc thu hồi vốn của bên bán bị phụ thuộc vào bên mua, nếu bên mua gặp khó khăn về tài chính thì quyền lợi của bên bán cũng bị ảnh hưởng. Nếu bên mua thiếu trách nhiệm, không sòng phẳng thì bên bán sẽ bị bên mua chiếm dụng vốn.
+ Khả năng kiểm soát của NH bị hạn chế, vì quyền chủ động chi trả phụ thuộc vào chủ TK, nếu đến hạn trả tiền mà người mua chưa trả thì NH cũng không kiểm soát được. Do vậy, hình thức thanh toán bằng UNC thường được áp dụng đối với các tổ chức kinh tế có sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ mua bán và có khả năng tài chính tương đối ổn định.
Uỷ nhiệm thu
Khái niệm
UNT (hay nhờ thu) là giấy đòi tiền do người thụ hưởng lập theo mẫu in sẵn của NH, gửi vào NH phục vụ mình để nhờ thu hộ số tiền theo lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng cho người mua.
Phạm vi áp dụng
UNT được áp dụng phổ biến trong mọi trường hợp với điều kiện 2 bên mua và bán phải thống nhất với nhau và phải thông báo bằng văn bản cho NH về việc áp dụng thể thức UNT để NH làm căn cứ tổ chức thực hiện thanh toán. Trong trường hợp TK của bên mua không đủ tiền để thanh toán thì phải chờ khi TK có đủ tiền mới thực hiện thanh toán, đồng thời tính số tiền phạt để chuyển đến cho bên bán hưởng.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm: an toàn, hiệu quả, thuận tiện cho bên mua hàng vì không phải đến NH để làm thủ tục chi trả tiền. Sau khi giao - nhận hàng, căn cứ vào hồ sơ nhờ thu của bên bán, NH sẽ làm thủ tục để trích TK của người mua hàng chuyển cho người bán hàng.
Nhược điểm: thủ tục để chi trả phức tạp, tốc độ thanh toán chậm và phụ thuộc vào số dư TKTG của người mua. Nếu người mua không đủ tiền trong TK, việc thanh toán sẽ không được thực hiện.
Thẻ ngân hàng
Khái niệm
Thẻ NH là một phương tiện thanh toán hiện đại, nó gắn liền với kỹ thuật tin học ứng dụng trong NH. Thẻ NH do NH phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các NH đại lý thanh toán hay các máy rút tiền mặt tự động (ATM).
Phạm vi áp dụng
Thẻ NH được áp dụng rất rộng rãi và không bị giới hạn về mặt không gian, thời gian. Khách hàng có thẻ NH có thể sử dụng ở bất cứ nơi nào có máy rút tiền tự động ATM hoặc tại cơ sở chấp nhận thẻ. Hình thức thẻ NH hiện nay rất được ưa chuộng trên thế giới.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm
+ Thuận tiện cho việc thanh toán, đặc biệt là các khoản thanh toán nhỏ lẻ. Người sử dụng không cần thiết phải đến NH khi sử dụng dịch vụ thanh toán thẻ. Thẻ có thể được sử dụng thanh toán ngay cả khi NH không làm việc hoặc những nơi không có trụ sở NH.
+ Đối với thẻ được cấp hạn mức tín dụng, người sử dụng thẻ còn được thanh toán số tiền nhiều hơn số dư TK của mình đang có.
Nhược điểm: thẻ chỉ có thể thanh toán tại những nơi có điểm chấp nhận thẻ và số tiền giao dịch thanh toán bị giới hạn.
Phân loại
Phân loại theo chủ thể phát hành
+ Thẻ do NH phát hành : Visa, Master card,…
+ Thẻ do các tổ chức phi NH phát hành : American Express, Diners Club,...
Phân loại theo nội dung kinh tế
+ Thẻ ghi nợ (Thẻ loại A): người sử dụng thẻ này không phải lưu ký tiền vào TK đảm bảo thanh toán thẻ. Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư TKTG của chủ sở hữu thẻ tại NH và hạn mức thanh toán tối đa do NH phát hành thẻ quy định. Thẻ này được áp dụng đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng thanh toán thường xuyên, có tín nhiệm với NH, do Giám đốc NH phát hành thẻ xem xét và quyết định.
+ Thẻ ký quỹ thanh toán (Thẻ loại B): để được sử dụng thẻ, khách hàng phải lưu ký một số tiền nhất định vào TK đảm bảo thanh toán thẻ thông qua việc trích TKTG hoặc nộp tiền mặt, số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được ghi vào bộ nhớ của thẻ. Loại thẻ này áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
+ Thẻ tín dụng (Thẻ loại C): áp dụng đối với khách hàng đủ điều kiện được NH đồng ý cho vay. Mức tiền vay được coi như hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được t._.hanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được NH chấp thuận. NH phát hành thẻ có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền trên biên lai do NH đại lý chuyển đến.
Phân loại theo công nghệ sản xuất :
+ Thẻ từ: được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín, với hai băng từ chứa thông tin ở mặt sau của thẻ.
+ Thẻ thông minh: dựa trên kỹ thuật vi tính xử lý tin học, nhờ thẻ được gắn thêm một chíp điện tử, có cấu trúc như một máy vi tính hoàn hảo.
Thư tín dụng (L/C)
Khái niệm
Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện đươc NH mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở L/C), theo đó NH thực hiện các yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở L/C).
Trả tiền hoặc uỷ quyền cho NH khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của L/C.
Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc uỷ quyền cho NH khác trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của L/C.
Phạm vi áp dụng
L/C được dùng để thanh toán tiền hàng dịch vụ giữa hai bên mua bán mở TK ở hai NH cùng hệ thống trong trường hợp thiếu tín nhiệm lẫn nhau về mặt tài chính, hoặc việc mua bán không xảy ra một cách thường xuyên. Bên bán đòi hỏi bên mua phải đảm bảo vốn để chi trả ngay sau khi giao hàng hoá, dịch vụ.
L/C chỉ thanh toán một lần cho người bán. Sau khi thực hiện thanh toán, nếu trên TK tiền ký gửi để mở L/C vẫn còn tiền, NH sẽ lập phiếu chuyển khoản tất toán TK này vào TKTG của khách hàng. Mức tối thiểu để mở một L/C là 10 triệu đồng. Thời hạn hiệu lực của L/C là 3 tháng kể từ ngày mở L/C đến ngày người bán nộp chứng từ xin thanh toán vào NH.
Phương tiện này chủ yếu được sử dụng trong thanh toán quốc tế, nơi mà người mua và người bán thường không quen biết nhau nên họ phải thận trọng trong quá trình thanh toán.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm: an toàn, hiệu quả, thuận tiện cho cả bên mua hàng lẫn bên bán hàng, đặc biệt là khi người mua - người bán có khoảng cách địa lý xa. Nhờ có NH làm trung gian nên việc thoả thuận thanh toán rất thuận tiện, người bán dễ dàng mua được hàng khi khả năng chi trả bị hạn chế và người mua yên tâm về khả năng chi trả của bên bán.
Nhược điểm: thủ tục để chi trả phức tạp và chi phí cho dịch vụ thanh toán này là khá lớn.
Các dịch vụ Ngân hàng điện tử
Khái niệm
Mạng Internet, mạng viễn thông và các mạng thông tin khác giúp con người thực hiện toàn bộ hoặc một phần các giao dịch qua mạng một cách thuận tiện và nhanh chóng vì nó khắc phục được trở ngại về khoảng cách địa lý giữa các bên tham gia giao dịch. Các giao dịch trên gọi chung là giao dịch điện tử. Giao dịch điện tử được thực hiện bằng các phương tiện điện tử hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.
Giao dịch điện tử trong lĩnh vực NH được gọi tắt là dịch vụ NH điện tử. Các dịch vụ NH điện tử được hiểu là các nghiệp vụ, các sản phẩm dịch vụ NH truyền thống trước đây được phân phối trên các kênh mới như internet, điện thoại, mạng không dây,… Hiện nay, dịch vụ NH điện tử tồn tại dưới hai hình thức: hình thức NH trực tuyến, chỉ tồn tại trên môi trường mạng internet, cung cấp dịch vụ 100% thông qua môi trường mạng; và mô hình kết hợp giữa hệ thống NHTM truyền thống và điện tử hoá các dịch vụ truyền thống, phân phối những sản phẩm dịch vụ cũ trên những kênh phân phối mới.
Phạm vi áp dụng
Chức năng thanh toán trên kênh dịch vụ này cho phép lập các lệnh chi chuyển tiền trong nước, chuyển tiền nước ngoài, yêu cầu mua ngoại tệ,… trực tuyến qua mạng, qua điện thoại hoặc chỉ bằng một lệnh nhắn từ điện thoại cầm tay một cách nhanh chóng mà không cần khách hàng phải đến các địa điểm giao dịch của NHTM.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm
+ Về phía khách hàng: tạo cho khách hàng sự tiện nghi và luôn sẵn sàng của dịch vụ NH. Khách hàng có thể tiếp cận dịch vụ NH điện tử mọi lúc, mọi nơi. Bên cạnh đó, dịch vụ NH điện tử với công nghệ hiện đại đã tiết kiệm được thời gian và giảm chi phí dịch vụ cho khách hàng. Ngoài ra, khách hàng được NH phục vụ tân nơi với những thông tin nóng hổi nhất như biến động lãi suất, tỷ giá, tra cứu thông tin tài chính của đối tác,… Hơn nữa, với những tiêu chuẩn đã được chuẩn hoá, khách hàng được phục vụ tận tình và chính xác thay vì phải tuỳ thuộc vào thái độ phục vụ khác nhau của nhân viên NH.
+ Về phía NH: thông qua những dịch vụ mới, những kênh phân phối mới, NH có thể mở rộng đối tượng khách hàng, phát triển thị phần, giảm chi phí, thu hút nguồn vốn huy động từ tiền gửi thanh toán của khách hàng, tăng thêm lợi nhuận,… Bên cạnh đó, ứng dụng và phát triển những công nghệ NH hiện đại cũng giúp cho các NH luôn tự đổi mới, hoà nhập và phát triển không chỉ ở thị trường trong nước mà còn hướng tới thị trường nước ngoài.
Nhược điểm: đòi hỏi phải có nền tảng công nghệ tốt để triển khai các loại hình dịch vụ. Những rủi ro như hacker, virus máy tính có thể có những tác hại rất lớn không chỉ đối với NH mà còn đối với khách hàng, có thể gây mất lòng tin của khách hàng đối với dịch vụ NH.
Phân loại
Hiện nay, các dịch vụ NH điện tử được các NH triển khai chủ yếu là Internet - banking, Phone - banking, Mobile - banking và Home - banking.
Internet – banking là một trong những kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ của NH đến nhà, văn phòng, trường học, đến bất kỳ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Với máy tính kết nối internet, bạn sẽ được cung cấp và được hướng dẫn về các sản phẩm, dịch vụ NH. Qua Internet - banking, bạn có thể gửi đến NH những thắc mắc, góp ý với NH và được trả lời sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên, với tính chất bảo mật không cao, dịch vụ này vẫn còn được cung cấp hạn chế và đòi hỏi quá trình xác nhận giao dịch phức tạp.
Phone - banking là hệ thống tự động trả lời hoạt động 24/24. Khách hàng nhấn vào các phím trên bàn phím điện thoại theo mã do NH quy định trước để yêu cầu hệ thống trả lời thông tin khi cần thiết. Dịch vụ này được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và phần mềm quản lý đặt tại NH, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài dịch vụ. Khi đăng ký sử dụng dịch vụ Phone - banking, khách hàng sẽ được cung cấp một mã khách hàng hoặc mã TK và tuỳ theo dịch vụ đăng ký, khách hàng có thể sử dụng dịch vụ khác nhau như cung cấp thông tin TK và bảng kê các giao dịch, báo nợ, báo có, cung cấp thông tin NH như lãi suất, tỷ giá hối đoái, chuyển tiền, thanh toán hoá đơn và dịch vụ hỗ trợ khách hàng,…
Mobile - banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ NH qua hệ thống mạng điện thoại di động. Về nguyên tắc, đây chính là quy trình thông tin được mã hoá, bảo mật và trao đổi giữa trung tâm xử lý của NH và thiết bị di động của khách hàng. Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ này để thanh toán tiền mua sắm hàng hoá dịch vụ tại các siêu thị, nhà hàng, trang web bán hàng trên mạng… Khi khách hàng gửi tin nhắn yêu cầu thanh toán theo mẫu có sẵn, NH sẽ gửi tin nhắn để xác nhận giao dịch và thực hiện trả tiền cho các đại lý. Bên cạnh đó, khách hàng còn có thể sử dụng dịch vụ này để thanh toán hoá đơn (điện, nước, điện thoại,…) hay thậm chí có thể giao dịch chứng khoán qua điện thoại di động chỉ bằng vài tin nhắn đơn giản.
Home - banking là kênh phân phối dịch vụ cho phép khách hàng thực hiện hầu hết các giao dịch với NH (nơi khách hàng mở TK) tại nhà, tại văn phòng công ty mà không cần đến NH. Dịch vụ này được xây dựng trên một trong hai nền tảng: hệ thống các phần mềm ứng dụng và nền tảng công nghệ Web thông qua hệ thống máy chủ, mạng Internet và máy tính con của khách hàng. Khách hàng có thể thực hiện các giao dịch thanh toán như chuyển khoản, thanh toán hoá đơn, chuyển tiền, tra cứu thông tin TK, thông tin về lãi suất, tỉ giá hối đoái,…một cách an toàn, bảo mật, chính xác và tiện lợi. Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng chỉ cần một máy tính và modem để kết nối vào mạng của NH qua số điện thoại và mã số truy cập do NH cấp. Đồng thời, khách hàng phải đăng ký một chữ ký số với NH. So với Internet - banking, Home - banking có tính bảo mật cao hơn bởi 2 yếu tố: thứ nhất là mô hình kết nối trực tiếp vào mạng của NH qua số điện thoại và mã số truy cập; thứ hai là việc áp dụng chữ ký số trong các giao dịch.
Một số yêu cầu về TTKDTM
Thời gian thanh toán nhanh và ổn định
Thời gian thực hiện một món thanh toán, chuyển tiền là khoảng thời gian kể từ khi chỉ định thanh toán được chủ thể trả tiền đưa ra cho đến khi chủ thể được hưởng nhận đủ tiền trên TK. Thời gian thanh toán được các chủ thể tham gia thanh toán đặc biệt quan tâm, vì nó tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khả năng quản lý và hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp, tổ chức, dân cư và bản thân các NH, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với chức năng là những trung gian thanh toán. Thời gian thanh toán càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ, nhất là hoạt động của thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán với tỷ giá, giá cả của các chứng khoán dao động từng giờ trên thị trường. Nếu một khoản thanh toán chậm trễ sẽ dẫn đến những thiệt hại lớn cho người giao dịch bởi sự biến động của tỷ giá, giá cả chứng khoán trên thị trường gây ra.
Vì vậy, tổ chức thanh toán qua NH trước hết phải đảm bảo thực hiện được yêu cầu thanh toán nhanh, ổn định để các chủ thể tham gia thanh toán có thể quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình.
Giảm chi phí thanh toán
Chi phí cho một giao dịch thanh toán là các chi phí bằng tiền và chi phí cơ hội có liên quan bao gồm: phí dịch vụ thanh toán, chi phí về thời gian giao dịch, những thủ tục giao dịch phải thực hiện,...mà người sử dụng dịch vụ TTKDTM phải chịu. Trong các giao dịch về tài chính, các chủ thể phải tính toán chi phí và lợi ích thu được khi tham gia thanh toán để lựa chọn hình thức thanh toán có lợi nhất với chi phí thấp nhất. Để phát triển dịch vụ TTKDTM thì vấn đề mà các NH, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cần đặc biệt quan tâm là giảm chi phí thanh toán. Giảm chi phí thanh toán sẽ kích thích nhu cầu thanh toán qua NH của tất cả các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Bằng cách đó, các NH, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mới có thể từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ và phát triển TTKDTM trong nền kinh tế.
Quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định
Hệ thống thanh toán qua NH phải luôn khẳng định được quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định vì đây là yêu cầu cơ bản đảm bảo cho khách hàng luôn tin tưởng khi sử dụng các phương tiện TTKDTM qua NH. Đồng thời, đây cũng là yêu cầu bắt buộc mà các giao dịch thương mại, dịch vụ trong nền kinh tế yêu cầu. Mặt khác, tổ chức thanh toán chính xác, an toàn và ổn định giúp các NH và khách hàng quản lý được nguồn vốn trong thanh toán, tránh được các rủi ro có thể xảy ra.
Giảm thiểu rủi ro trong thanh toán
Trong khi các chủ thể tham gia thanh toán quan tâm đến hiệu quả của hoạt động thanh toán, thì NHTW phải quan tâm đến các rủi ro trong hoạt động thanh toán vì nó liên quan và tác động trực tiếp đến chức năng của NHTW là đảm bảo ổn định tiền tệ và hoạt động của thị trường tài chính. Các giao dịch TTKDTM có thể xảy ra các rủi ro về pháp lý, rủi ro hoạt động, rủi ro an toàn và rủi ro thanh khoản,... Với hệ thống thanh toán hiện đại thì mối quan hệ ràng buộc giữa các chủ thể tham gia thanh toán rất chặt chẽ. Bất kỳ một sự cố tài chính nào xảy ra cho một trong các chủ thể tham gia quá trình thanh toán có thể gây ra một sự đổ vỡ dây truyền mang tính hệ thống. Vì vậy, để đảm bảo hoạt động ổn định của các NH, giảm thiểu rủi ro trong thanh toán cần xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy trình thanh toán, thiết lập quỹ dự phòng rủi ro trong thanh toán.
Hệ thống thanh toán phải là hệ thống mở
Các hệ thống thanh toán qua NH phát triển đều được thiết kế và xây dựng trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại. Hệ thống cần phải được thiết kế là hệ thống mở để các NH, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có thể kết nối trực tiếp tham gia thanh toán qua mạng trong phạm vi cả nước và với các quốc gia khác.
Các nguyên tắc trong TTKDTM
Các chủ thể tham gia thanh toán (kể cả pháp nhân và thể nhân) đều phải mở TK thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và được quyền lựa chọn tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để mở TK.
Số tiền thanh toán giữa người chi trả và người thụ hưởng phải dựa trên cơ sở lượng hàng hoá, dịch vụ đã giao giữa người mua và người bán. Người mua phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thanh toán (số dư trên TKTG thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc hạn mức thấu chi nếu có) để đáp ứng yêu cầu thanh toán đầy đủ, kịp thời khi xuất hiện yêu cầu thanh toán. Nếu người mua chậm trễ thanh toán hoặc vi phạm chế độ thanh toán thì phải chịu theo chế độ thanh toán hiện hành.
Người bán hay cung cấp dịch vụ là người được hưởng số tiền do người chi trả chuyển vào TK của mình nên phải có trách nhiệm giao hàng hay cung cấp dịch vụ kịp thời và đúng với lượng giá trị mà người mua đã thanh toán, đồng thời phải kiểm soát kỹ càng các chứng từ phát sinh trong quá trình thanh toán.
Là trung gian thanh toán giữa người mua và người bán, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải thực hiện đúng vai trò trung gian.
+ Chỉ trích tiền từ TK của người chi trả chuyển vào TK của người thụ hưởng khi có lệnh của người chi trả (thể hiện trên các chứng từ thanh toán). Trong trường hợp không cần có lệnh của người chi trả (không cần có chữ ký của chủ TK trên chứng từ) chỉ áp dụng đối với một số phương tiện thanh toán như UNT hay lệnh của Toà kinh tế.
+ Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ khách hàng mở TK, sử dụng các phương tiện thanh toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, phương thức giao nhận, vận chuyển hàng hoá. Cung cấp đầy đủ các chứng từ sử dụng trong quá trình thanh toán cho khách hàng.
+ Tổ chức hạch toán, chuyển chứng từ thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác và an toàn. Nếu để chậm trễ hay hạch toán thiếu chính xác gây thiệt hại cho khách hàng trong quá trình thanh toán thì phải chịu phạt để bồi thường cho khách hàng theo quy chế chung.
Các nhân tố tác động đến dịch vụ TTKDTM của NHTM
Các nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố: mức độ tiền tệ hoá, thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát,…thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế. Sự phát triển và ổn định của các nhân tố này là điều kiện thuận lợi để phát huy các chức năng thanh toán của NH, đồng thời tác động mạnh mẽ đến nhu cầu và cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ NH của khách hàng. Khi nền kinh tế trong nước đang trong giai đoạn tăng trưởng, các biến số vĩ mô đều có dấu hiệu tốt, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển sẽ là cơ hội tốt trong việc đẩy mạnh các hoạt động thanh toán qua NH. Bởi khi đó, sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, nhu cầu trao đổi mở rộng, quá trình mua bán diễn ra thường xuyên hơn, chi tiêu thực tế của dân cư tăng nhanh đòi hỏi công tác TTKDTM phải phát triển kịp thời, thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế.
Trong điều kiện môi trường kinh tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, các NH phải tập trung củng cố năng lực cạnh tranh của mình và phải bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng các đối thủ, cũng như các khách hàng của họ. Đó chính là điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ TTKDTM. Khi đó, nhu cầu của khách hàng được thoả mãn ở mức cao nhất đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cho NH.
Môi trường văn hoá - xã hội
Môi trường văn hoá - xã hội được hình thành từ những tổ chức và những nguồn lực khác nhau có ảnh hưởng cơ bản đến giá trị của xã hội như cách nhận thức, trình độ dân trí, trình độ văn hoá, lối sống, thói quen sử dụng và cất trữ tiền tệ và sự hiểu biết của dân chúng về hoạt động thanh toán qua NH. Khi trình độ dân trí và thu nhập được nâng lên, nhu cầu mở rộng quan hệ và trao đổi sẽ tăng theo, người dân có điều kiện tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, hiểu được tiện ích của việc sử dụng dịch vụ TTKDTM thì TTKDTM sẽ phát triển.
Sự phát triển của hệ thống thanh toán bắt nguồn từ các giao dịch thương mại mang tính xã hội và dựa trên các quy ước, tập quán, thói quen trong mua bán, thanh toán. Một xã hội mà người dân có thói quen tiêu tiền mặt, việc phát triển các hình TTKDTM của NH sẽ gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian.
Môi trường pháp lý
Kinh doanh NH là một trong những ngành kinh tế chịu sự giám sát chặt chẽ của luật pháp và các cơ quan chức năng của Chính phủ. Cơ sở pháp lý cho hệ thống thanh toán là nền tảng đảm bảo cho các chủ thể thanh toán yên tâm và tham gia tích cực vào quá trình thanh toán vì quyền lợi của họ được pháp luật bảo vệ.
Việc hoàn thiện và bổ sung hệ thống văn bản pháp quy về hoạt động TTKDTM ngày càng phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh NH trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ đảm bảo hơn quyền lợi của khách hàng. Những quy định về thủ tục thanh toán đơn giản hơn, dễ hiểu, dễ sử dụng, theo thông lệ quốc tế sẽ đẩy nhanh tốc độ thanh toán và thu hút được nhiều khách hàng tham gia.
Hệ thống các văn bản về TTKDTM quy định quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia vào quá trình thanh toán; giám sát và xử lý rủi ro, tranh chấp trong thanh toán; các văn bản về quản lý cung cấp các thông tin thanh toán cũng như các vấn đề có liên quan làm cho khách hàng có tham gia vào quá trình thanh toán yên tâm và gắn bó hơn với NH.
Khoa học công nghệ và những ứng dụng CNTT trong hoạt động thanh toán
Trong những năm gần đây, sự phát triển của CNTT đã tạo ra một bước đột phá trong lĩnh vực thanh toán, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của hệ thống thanh toán qua NH. Không ai có thể phủ nhận đóng góp của nền khoa học kỹ thuật đối với các lĩnh vực đời sống nói chung và lĩnh vực thanh toán của NH nói riêng. Hầu như các NHTM hiện nay đều có thể đáp ứng một cách nhanh chóng và chính xác nhu cầu thanh toán của khách hàng thông qua mạng điện tử Internet toàn cầu.
Kỹ thuật công nghệ là sức mạnh mãnh liệt nhất của hoạt động kinh doanh NH. Nó đã đem đến những điều kì diệu của dịch vụ thanh toán như chuyển tiền nhanh, máy gửi, rút tiền tự động ATM, thanh toán tự động, card điện tử, NH tự động, NH Internet,…Việc thay thế các chứng từ giấy bằng các chứng từ điện tử đã mang lại những cải biến rõ rệt về thời gian thanh toán, khối lượng thanh toán và chất lượng thanh toán. Quá trình thanh toán được đảm bảo an toàn, chính xác, nhanh chóng, kịp thời sẽ khiến dân cư và các tổ chức kinh tế tích cực sử dụng dịch vụ thanh toán qua NH.
Các nhân tố chủ quan
Nguồn nhân lực làm trong lĩnh vực thanh toán
Cán bộ, nhân viên làm việc trong lĩnh vực thanh toán của NHTM là yếu tố mang tính quyết định đến sự phát triển dịch vụ thanh toán của NHTM. Cán bộ nhân viên giỏi sẽ có thể đưa ra các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới hoặc cải tiến các dịch vụ thanh toán cũ, phù hợp với nhu cầu thanh toán của khách hàng, từ đó khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ TTKDTM. Cán bộ nhân viên NH thường là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Do đó, nếu nhân viên thực hiện các dịch vụ tốt, thái độ niềm nở, nhiệt tình, biết giới thiệu về các dịch vụ TTKDTM của NH mình thì chắc chắn cũng sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán qua NH. Nếu nhân viên làm thủ tục chậm, thái độ phục vụ không tốt, xử lý sai sót,…thì việc khuyến khích khách hàng sử dụng lại dịch vụ là rất khó khăn.
Ngoài ra, trong điều kiện phát triển của khoa học - công nghệ, muốn phát triển dịch vụ TTKDTM thì phải ứng dụng CNTT trong hoạt động thanh toán. Điều này đòi hỏi các nhân viên làm việc trong lĩnh vực thanh toán không chỉ phải giỏi về nghiệp vụ thanh toán mà còn phải biết nắm bắt và sử dụng tốt được các công nghệ hiện đại, như vậy mới hoàn thành tốt nhiệm vụ và thoả mãn nhu cầu TTKDTM của khách hàng.
Năng lực tài chính của NHTM
Đó là khả năng tài chính để trang bị cho hiện đại hoá cho hoạt động thanh toán: nâng cấp hạ tầng thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh toán, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đầu tư cho việc nghiên cứu, triển khai các sản phẩm dịch vụ thanh toán mới phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, nâng cao năng lực vốn tự có, đảm bảo thanh toán và bảo lãnh,…
Tổ chức mạng lưới giao dịch của NHTM
Các NH, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có mạng lưới giao dịch rộng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đến giao dịch, thanh toán, từ đó mở rộng phạm vi TTKDTM qua NH. Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới thanh toán bằng phương pháp truyền thống là thành lập các chi nhánh, các điểm giao dịch sẽ gặp rất nhiều khó khăn do phải tăng chi phí để đầu tư vào cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Ngày nay, nhờ việc ứng dụng CNTT hiện đại trong hoạt động thanh toán mà các NH, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có thể mở rộng mạng lưới bằng việc nối mạng trực tiếp giữa NH với khách hàng, để cung ứng dịch vụ thanh toán cho họ. Đó cũng là mục tiêu được các NH đặt ra nhằm thiết lập kênh phân phối trực tuyến. Khách hàng có thể giao dịch qua mạng vào bất kỳ thời gian nào, ở bất kỳ địa điểm nào.
Tổ chức điều hành trong thanh toán cũng như khả năng liên kết phối hợp giữa các NHTM
Để hoạt động thanh toán được thông suốt, vấn đề tổ chức điều hành rất quan trọng. Thông thường, mỗi một NHTM thuờng thành lập trung tâm thanh toán để điều phối hoạt động thanh toán giữa các chi nhánh của NH mình và hoạt động thanh toán với các NH khác. Việc điều phối tốt hoạt động thanh toán không những giúp cho hoạt động thanh toán thông suốt mà còn giúp các NHTM quản lý và sử dụng nguồn vốn của mình một cách hiệu quả thông qua việc điều chuyển nguồn vốn giữa các chi nhánh.
Giá của dịch vụ thanh toán
Ngoài những tiện ích mà dịch vụ TTKDTM mang lại, khách hàng phải cân nhắc chi phí bỏ ra để sử dụng dịch vụ. Khi giá của các dịch vụ TTKDTM cao sẽ không khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ này. Vì vậy, để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ TTKDTM, hạn chế giao dịch thanh toán bằng tiền mặt, nhiều nước trên thế giới đã có chính sách cho phép NHTM thu phí đối với giao dịch bằng tiền mặt. Tuy nhiên, như phân tích ở trên, chi phí đầu tư phát triển dịch vụ thanh toán thường rất lớn do phải ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại và đồng bộ nên nếu số lượng giao dịch thanh toán ít, chắc chắn NHTM phải định giá dịch vụ cao (để đáp ứng nguyên tắc thu hồi vốn).
Kinh nghiệm phát triển dịch vụ TTKDTM và những bài học đối với Việt Nam
Kinh nghiệm về phát triển dịch vụ TTKDTM tại một số nước
Một xu hướng rõ rệt trong những thập kỷ vừa qua là giá trị tuyệt đối về giao dịch TTKDTM đã gia tăng nhanh chóng. Tại Đức, doanh số TTKDTM đã tăng từ gấp 9.4 lần GDP của năm 1988 đến gấp 63.6 lần GDP năm 1996. Tại Nhật Bản, giao dịch TTKDTM đã tăng từ gấp 8 lần GDP năm 1988 đến gấp 99 lần GDP năm 1996. Nếu tính tới tốc độ tăng trưởng của GDP thì doanh số TTKDTM tăng rất lớn cả về giá trị tuyệt đối cũng như tương đối. TTKDTM đặc biệt cao hơn so với GDP ở các nền kinh tế đóng vai trò là trung tâm tài chính quốc tế như Hồng Kông, Singapore, Thuỵ Sĩ hoặc nơi phát hành những đồng tiền mạnh làm cơ sở của giao lưu thương mại quốc tế như Mỹ, Nhật Bản.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong quá trình sử dụng và phát triển các phương tiện TTKDTM cũng như việc tổ chức hệ thống thanh toán trên các góc độ khác nhau. Mỗi nước đều có sự riêng biệt: ở Đức sử dụng Séc, ở Hàn Quốc sử dụng đa dạng hình thức, ở Thái Lan sử dụng thẻ thanh toán…Nhìn chung, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, việc ứng dụng CNTT vào hoạt động thanh toán rất được coi trọng, có tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sử dụng các hình thức TTKDTM, giảm tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế.
Tại Đức: sau khi kết thúc chiến tranh Thế giới thứ II, đặc biệt là từ khi thống nhất nước Đức, kinh tế của họ được phục hồi và phát triển nhanh, đạt được những tiền đề quan trọng về thu nhập bình quân đầu người, về luật pháp, về công nghệ và mật độ NH. Vì vậy, việc cải tạo, xoá bỏ tập quán dùng tiền mặt trong thanh toán của dân cư thực hiện tương đối dễ dàng, nhanh chóng. Trong một ngày đã đồng loạt chuyển toàn bộ công việc trả lương của các doanh nghiệp, cơ quan vào TK cá nhân do ngành NH đảm nhiệm. Đây là biện pháp hành chính, mang tính bắt buộc mọi người dân phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước.
Séc là một trong những phương tiện TTKDTM được khách hàng sử dụng phổ biến nhất so với các phương tiện khác, bởi có những ưu điểm, lợi thế riêng và được thực hiện theo luật. Luật Séc được xây dựng trên cơ sở Công ước thế giới về Séc ban hành năm 1993. Hiệp hội NH là tổ chức phi Chính phủ, được phép ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ NH, trong đó có quy trình thanh toán Séc giữa các chi nhánh NHTM khác hệ thống và khác địa phương.
NHTW hoặc Hiệp hội NH có nhiệm vụ tổ chức các Trung tâm xử lý và thanh toán Séc. Mỗi trung tâm được tổ chức thành hai bộ phận, một bộ phận xử lý Séc trong hệ thống, một bộ phận xử lý Séc ngoài hệ thống và khác địa phương. Quy trình tiếp nhận, xử lý và luân chuyển Séc rất khoa học, chặt chẽ, thực hiện trên máy tính thông qua việc truyền, nhận các tờ Séc giữa các NH liên quan với độ bảo mật cao. Hiện nay, Hiệp hội NH đã tổ chức thanh toán Séc bằng điện tử, rất nhanh chóng, chính xác.
Tại Hàn Quốc: thanh toán bằng tiền mặt chiếm tỷ lệ khoảng 20% trong tổng giá trị thanh toán, TTKDTM chiếm 80%. Có được kết quả trên là do Hàn Quốc hoạch định được chiến lược tổng thể, dài hạn; đã xây dựng và tổ chức quản lý, vận hành được hệ thống thanh toán và các phương tiện thanh toán dựa trên nền tảng cơ sở pháp lý đồng bộ gồm Luật hối phiếu, Luật kinh doanh thẻ tín dụng, Luật Séc cùng một số luật chuyên biệt điều chỉnh về lĩnh vực thanh toán. Hàn Quốc đã xây dựng Trung tâm thanh toán bù trừ đầu tiên tại Seoul, do cơ quan Thanh toán bù trừ và viễn thông tài chính Hàn Quốc trực tiếp vận hành, đến năm 1995 có 50 Trung tâm trên toàn quốc. Tham gia vào hệ thống này là NHTW và những NH lớn cùng một số tổ chức phi tài chính. Tại các Trung tâm thanh toán bù trừ, các phương tiện Séc, hối phiếu,…được thanh toán bù trừ cho nhau bằng các nghiệp vụ với sự hỗ trợ đắc lực của mạng máy tính.
Việc ứng dụng CNTT vào hoạt động NH, nhất là trong lĩnh vực thanh toán được NHTW rất quan tâm, thành lập Vụ CNTT, có các phòng chuyên môn để quản lý, vận hành, bảo trì máy tính và hệ thống thông tin. Hiện nay, tại trung tâm chính có các máy Mainframe và máy chủ Server với hệ điều hành UNIX và Windows 2000, XP,…hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle; ngoài ra khoảng 2500 máy tính các nhân được sử dụng như các thiết bị đầu cuối (Terminal).
Tại Thái Lan: thẻ NH được phát triển mạnh và sử dụng phổ biến trong những năm gần đây (có khoảng trên 10 triệu chủ thẻ). Có nhiều loại thẻ với nhiều chức năng: rút tiền mặt, thanh toán, tín dụng…Việc sử dụng thẻ được phát triển mạnh là do các NHTM đã trang bị một hệ thống với gần 10 000 máy ATM tại các trung tâm kinh tế trên phạm vi cả nước, được liên kết với nhau thông qua Trung tâm chuyển mạch ATM quốc gia. Nhờ sự liên kết đó, khi chủ thẻ rút tiền hoặc thanh toán tại máy ATM của bất cứ NH nào đã tham gia vào Trung tâm chuyển mạch quốc gia đều được xử lý nhanh chóng, thuận tiện.
Quản lý và vận hành Trung tâm chuyển mạch ATM quốc gia là do công ty Processing Center Co.Ltd đảm nhiệm. Công ty này được liên doanh giữa 2 NH lớn nhất của Thái Lan là Bangkok Bank và Thai Farmers Bank với Công ty thương mại - Saha Union. Cùng với việc vận hành Trung tâm chuyển mạch ATM quốc gia, Processing Center Co.Ltd còn thực hiện việc quyết toán và đối chiếu các giao dịch ATM cho tất cả các NH thành viên của mình, đồng thời cung cấp các dịch vụ khác như: chuyển tiền cá nhân trực tuyến, dịch vụ thông tin tín dụng, in ấn và chuyển giao sao kê thẻ,…
Để có được các dịch vụ cung cấp cho khách hàng với chất lượng cao, Processing Center Co.Ltd phải thường xuyên duy trì trên 120 kênh thuê bao Leased Line tốc độ cao để xử lý các giao dịch trực tuyến.
NHTW Thái Lan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống thanh toán, các hình thức thanh toán nói chung và hệ thống ATM nói riêng.
Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Qua thực tế kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy ở tầm vĩ mô, tất cả các nước trên thế giới đều nhận thấy những ưu điểm của TTKDTM và sự cần thiết phải đẩy nhanh hoạt động TTKDTM. Để phát triển dịch vụ TK cá nhân, TTKDTM không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố khách quan chi phối trên thị trường mà còn cần có sự can thiệp, thúc đẩy của Nhà nước và các cơ quan chức năng để những chủ thể tham gia trên thị trường vượt qua những rào cản nhất định, phát triển các phương tiện TTKDTM đa dạng, mang lại lợi ích chung cho cộng đồng. ở mỗi nước đều có sự riêng biệt trong hoạt động TTKDTM. Tuy nhiên, họ đều sử dụng CNTT hiện đại để phát triển. Thực tế cho thấy, việc ứng dụng công nghệ đang góp phần đẩy nhanh quá trình cung cấp dịch vụ và tạo thói quen sử dụng các dịch vụ NH cho khách hàng. Các dịch vụ thanh toán truyền thống được cải tiến phù hợp để ứng dụng công nghệ trong quá trình xử lý, giảm thiểu các xử lý thủ công. Đồng thời, nhiều loại hình dịch vụ mới đang phát triển mạnh, đặc biệt là các dịch vụ NH hiện đại như Phone - banking, Internet -banking,… thoả mãn nhu cầu ngày càng cao hơn của khách hàng.
Chương 2
Thực trạng dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt tại BIDV Đông Đô
Dịch vụ TTKDTM của các NHTM Việt Nam
Từ khi thành lập NH quốc gia (tháng 5-1951) đến nay, hoạt động thanh toán luôn đóng vị trí, vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động của NH để phục vụ yêu cầu luân chuyển vốn của nền kinh tế. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn thì cách nhìn nhận và nội dung hoạt động của TTKDTM cũng khác nhau. Có thể phân hoạt động thanh toán của các NHTM Việt Nam thành 2 giai đoạn là thời kì nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung (từ 1989 về trước) và thời kì nền kinh tế nước ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự chỉ đạo của Nhà nước (từ 1990 đến nay).
TTKDTM trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
Ngày 6/5/1951, nước ta thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, nay là NHNN Việt Nam. Nhưng đến ngày 7/3/1960, Chính phủ mới ra Nghị định 04/CP về thể lệ ._.lãi, phí, kích thích hấp dẫn phù hợp với từng loại khách hàng, khuyến khích nhân viên phát minh sáng kiến,...nhằm cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích.
Chi nhánh phải đề ra chiến lược phát triển mạng lưới, mở rộng khách hàng, thành lập bộ phận tiếp thị nhằm tiếp cận thị trường. Qua đó thu thập và phân tích đầy đủ thông tin thị trường nhằm phân loại đối tượng khách hàng, tìm hiểu và nắm bắt được các nhu cầu của khách hàng để tạo thêm các sản phẩm dịch vụ đáp ứng cho khách hàng.
Ngoài ra, chi nhánh có thể tham gia tài trợ cho các chương trình lớn và có nhiều khách hàng, đến nơi tập trung nhiều đối tượng khách hàng tiềm năng để khuyếch trương sản phẩm. Chi nhánh cần chủ động làm tốt công tác tiếp thị tới các trường đại học, cao đẳng bao gồm cả nhà trường và nhu cầu của cán bộ, sinh viên,…; đầu tư máy móc, thiết bị, bố trí cán bộ, mở quầy giao dịch riêng cho các trường, thậm chí có thể mở chi nhánh cấp 2, phòng giao dịch, lắp đặt các máy ATM ngay trong các trường. Bên cạnh đó, chi nhánh đẩy mạnh truyền thông quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại các trường qua các áp phích, buổi hội thảo,…đồng thời có thể miễn giảm phí dịch vụ chuyển tiền cho sinh viên, đặc biệt là nộp tiền học phí.
Chi nhánh còn cần phát triển mạnh dịch vụ hỗ trợ khách hàng như phát sách hướng dẫn và tư vấn khách hàng miễn phí, thường xuyên cung cấp cho khách hàng tiềm năng giá cả của các loại hình dịch vụ và sự ưu đãi của NH. Cần có chính sách rõ ràng, ưu tiên các khách hàng có hoạt động thường xuyên, có số dư tài khoản thanh toán ổn định. Chi nhánh nên đưa ra các chương trình bốc thăm trúng thưởng trên các số hiệu tài khoản của khách hàng nhằm tạo động lực vật chất để thu hút khách hàng.
Khuyến khích cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua NH
BIDV Đông Đô đã áp dụng và thực hiện mở TK với thủ tục đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng cho khách hàng nhưng mặc dù số lượng TK có tăng song tốc độ tăng chưa cao. Chi nhánh cần tiếp tục tuyên truyền, vận động mở TK cá nhân qua NH trong dân cư. Muốn tăng nhanh số lượng TKTG thanh toán, tăng tỷ trọng thanh toán qua NH, chi nhánh cần phải cung ứng nhiều hơn nữa các dịch vụ trọn gói hoàn hảo song song với việc thoả mãn tốt nhất nhu cầu về văn minh giao dịch, khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức đóng trên địa bàn thực hiện chi trả thu nhập cho nhân viên thông qua TK tại NH.
Bước đầu, chi nhánh có thể miễn phí dịch vụ mở TK, thu hút khách hàng để gia tăng khối lượng TK cá nhân làm tiền đề phát triển khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả cá nhân. Mục tiêu lợi nhuận của chi nhánh trong giai đoạn đầu cần đặt sau mục tiêu phát triển số lượng khách hàng. Những chi phí chi nhánh bỏ ra trong giai đoạn đầu của chiến lược mở rộng thị trường có thể bù đắp bằng lợi nhuận thu được từ sử dụng một tỷ lệ nhất định tiền gửi thanh toán đã phát triển ổn định. Sau một thời gian khi các dịch vụ NH đã được khách hàng ưa chuộng, trở thành tiện nghi sinh hoạt trong đời sống của đại bộ phận dân cư, đó chính là thời kỳ chi nhánh chuyển sang thu phí dịch vụ về mở TK, xử lý thông tin và tư vấn khách hàng. Trong giai đoạn này thực hiện thu phí dịch vụ, mục tiêu lợi nhuận của chi nhánh và lợi ích của khách hàng được chú trọng ngang nhau và có nhiều cơ hội để cải thiện, nâng cao.
Hiện đại hoá công nghệ và cơ sở hạ tầng ngân hàng
Việc ứng dụng công nghệ đòi hỏi phải hiện đại hoá được các nghiệp vụ truyền thống, thực hiện các giao dịch nội bộ hoặc liên chi nhánh trong hệ thống nhanh chóng, chính xác. Phát triển các dịch vụ NH điện tử theo hướng xử lý giao dịch tự động, toàn bộ dữ liệu hoạt động của NH sẽ được tập trung tại cơ sở dữ liệu trung tâm. Mọi thay đổi đều được cập nhật trực tuyến và tức thời. Tất cả các nghiệp vụ, dịch vụ đều dùng cùng một hệ thống thông tin khách hàng duy nhất, đảm bảo cho việc xác nhận khách hàng được chính xác và thuận tiện, để thực hiện các giao dịch phân tán và tự động, trực tuyến trong toàn hệ thống, dễ dàng giao tiếp dữ liệu với các hệ thống bên ngoài như mạng thanh toán liên ngân hàng, SWIFT, mạng ATM, mạng thẻ Visa, Master Card,… Khi tiến hành việc kết nối mở rộng hệ thống không làm ngưng trệ hoạt động. Chi nhánh cần chú trọng đến việc liên doanh, liên kết với các tổ chức cung ứng các dịch vụ bưu chính viễn thông như Internet, mobile,…để khai thác được khả năng công nghệ của các tổ chức này, nâng cao tiện ích của dịch vụ TTKDTM trong điều kiện nguồn vốn của NH còn hạn chế.
Chi nhánh cần nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực công nghệ, đồng thời thận trong hơn trong việc thuê tư vấn, lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ, máy móc. Đội ngũ nhân lực công nghệ cần được đào tạo sao cho theo kịp với những tiến bộ công nghệ trên thế giới, có khả năng thẩm định, đánh giá tính đúng đắn và tính tin cậy của các chuyên gia tư vấn bên ngoài.
Trong quá trình đầu tư trang thiết bị và lắp đặt các phần mềm, cần chú trọng thực hiện các giải pháp an ninh mạng triệt để hơn. Vấn đề rủi ro đạo đức không chỉ xảy ra từ phía các cán bộ NH hay từ phía khách hàng mà có thể xảy ra từ cả hai phía. Vì vậy, nếu không có những giải pháp an ninh mạng triệt để thì những người thiệt hại đầu tiên từ những vụ tấn công trên mạng chính là NH.
Ngoài ra, chi nhánh cần thiết kế và triển khai Website của mình nhằm phục vụ tốt hơn công tác quảng bá, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, phát triển các dịch vụ mới qua mạng Internet.
Tăng cường công tác đào tạo cán bộ
Chi nhánh cần đề ra những chính sách hợp lý về đào tạo nguồn nhân lực để tạo ra nội lực phát triển cho chi nhánh nói chung và cho sự phát triển của hoạt động thanh toán nói riêng. Đối với thanh toán viên phải có đủ năng lực trình độ chuyên môn vững chắc. Ngoài việc hiểu biết các nghiệp vụ của NH, thanh toán viên cần phải nắm vững các thể lệ thanh toán, các quy trình của từng phương tiện thanh toán và sử dụng thành thạo vi tính, ngoại ngữ.
Cử cán bộ tham gia lớp học về hiện đại hoá NH và hệ thống thanh toán do BIDV TW tổ chức. Đồng thời, chi nhánh cũng tự tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn và dài hạn để đào tạo sâu hơn về chuyên môn TTKDTM, mời các chuyên gia giỏi về giảng dạy để các thanh toán viên có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ và kinh nghiệm. Chi nhánh nên trích khoảng 4% lợi nhuận cho công tác đào tạo cán bộ.
Cử cán bộ tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về thanh toán trong và ngoài nước để tiếp cận với kiến thức hiện đại. Tổ chức các đợt tham quan các NH trong và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệm của họ.
Bố trí các cán bộ vào các công việc thích hợp với khả năng của từng người nhằm phát huy thế mạnh của họ. Muốn như vậy phải thường xuyên theo dõi sát sao để nhận định, đánh giá được khả năng của từng người, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của cán bộ, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích nêu ra các sáng kiến mới.
Một vấn đề cũng hết sức quan trọng là không ngừng nâng cao tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên NH. Muốn vậy, phải có chế độ thưởng phạt phân minh, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm quy định gây tổn hại tới tài sản và uy tín của NH. Đồng thời khen thưởng, khuyến khích những cán bộ hoàn thành tốt công việc, có sáng tạo và có tinh thần trách nhiệm.
Khi có kế hoạch tuyển thêm cán bộ, chi nhánh cũng cần tổ chức các kỳ thi mang tính nghiêm túc, chất lượng đánh giá đúng đắn năng lực để có thể tuyển được những cán bộ có trình độ chuyên môn tốt. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, hệ thống TTKDTM phải dựa trên nền tảng kỹ thuật tin học. Do vậy, muốn phát triển các phương tiện TTKDTM, chi nhánh phải tập trung đào tạo sử dụng và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, kiểm tra, đánh giá việc sử dụng lực lượng cán bộ tin học và có kế hoạch tuyển dụng, sử dụng một cách hợp lý.
Bên cạnh đó, chi nhánh nên thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu trao đổi nghiệp vụ để nâng cao trình độ giao tiếp, mở rộng mối quan hệ học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp, thúc đẩy phát huy sự cố gắng, sáng tạo của cá nhân, củng cố và nâng cao sức mạnh của tập thể.
Trên đây là một số giải pháp thiết thực trước mắt mà BIDV Đông Đô nên xem xét nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động TTKDTM tại bản thân chi nhánh. Tuy nhiên, các chính sách đối với khách hàng của BIDV Đông Đô phải tuân theo những quy định chung của Chính phủ, NHNN và BIDV TW. Vì vậy, để hoạt động TTKDTM ở chi nhánh thật sự có hiệu quả, em xin đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN và BIDV TW nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh cũng như khách hàng trong việc cung ứng và sử dụng các dịch vụ TTKDTM qua NH.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Phát triển TTKDTM trong khu vực công
Chính phủ cần từng bước yêu cầu TTKDTM đối với các khoản chi tiêu của Chính phủ, tiến tới áp dụng dịch vụ TTKDTM đối với hầu hết các khoản chi của những người có chức vụ, các khoản chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản.
Tiếp theo, Chính phủ cần sớm ban hành Chỉ thị chỉ đạo việc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản. Tại Việt Nam, các đối tượng hưởng ưu đãi và trợ cấp xã hội rất đông bao gồm người hưởng lương hưu, các đối tượng chính sách như thương binh, bệnh binh,… Việc chi trả lương qua tài khoản cho đối tượng này cần đảm bảo một sự thuận lợi nhất cho các đối tượng khi rút tiền, chuyển tiền, thanh toán dịch vụ ( điện thoại, điện nước,…) và mua sắm hàng hoá. Đồng thời không thu bất kỳ khoản tiền nào của đối tượng khi thực hiện phương thức chi trả này.
Nếu Chính phủ thực hiện được điều này thì BIDV Đông Đô sẽ có cơ hội mở rộng phạm vi khách hàng và tăng doanh số thanh toán qua tài khoản NH.
Thúc đẩy sự phát triển TTKDTM bằng các chính sách ưu đãi về thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán
Bộ Tài chính cần tham mưu cho Chính phủ xây dựng các chính sách thuế phù hợp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, mở rộng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ TTKDTM.
Việc đầu tư hạ tầng thanh toán công nghệ hiện đại của các NH là rất tốn kém. Do đó, chính phủ có thể hỗ trợ giảm nhẹ gánh nặng đầu tư cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thông qua chính sách thuế nhập khẩu đối với các máy móc thiết bị trực tiếp hình thành nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thực hiện các dịch vụ thanh toán, cung ứng phương tiện TTKDTM.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính có thể khuyến khích TTKDTM bằng chính sách thuế giá trị gia tăng như xây dựng phương án miễn giảm thuế giá trị gia tăng để khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện TTKDTM, trên cơ sở đó tạo dựng thói quen giao dịch thanh toán qua tài khoản NH. Tuy nhiên việc thực hiện các phương án miễn giảm thuế chỉ nên thực hiện trong thời gian ngắn và sẽ ngừng lại khi giao dịch TTKDTM đã trở nên tương đối phổ biến trong nền kinh tế và trong đời sống xã hội.
Hoàn thiện các văn bản pháp lý về hoạt động thanh toán do Chính phủ ban hành
Chính phủ nên hoàn chỉnh hơn nữa hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán bằng cách tiếp tục ban hành một số băn bản pháp lý cho hoạt động thanh toán. Trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành thêm nhiều quy định về hoạt động thanh toán. Tuy vậy, trong các văn bản pháp lý này, những điều khoản đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Cách thức ban hành văn bản theo kiểu chỉ có thể triển khai trong các ngân hàng và các doanh nghiệp. Những quy định về thủ tục thanh toán còn phức tạp, chưa theo thông lệ quốc tế hoặc còn chung chung.
Kiến nghị với NHNN
Phát triển các hệ thống thanh toán
Hoàn thiện và phát triển hệ thống TTĐTLNH
Tập trung phát triển hệ thống TTĐTLNH vì đây là hệ thống thanh toán xương sống của nền kinh tế. Việc thiết kế mở rộng hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu cho các thành viên phải phù hợp với các chuẩn quốc tế áp dụng chung cho các hệ thống thanh toán và quyết toán. Các giải pháp phần mềm hệ thống cần đảm bảo độc lập giữa xử lý số liệu và truyền dữ liệu, đảm bảo tính bảo mật hệ thống, tích hợp dữ liệu và tính liên tục trong hoạt động,…
Hệ thống TTĐTLNH cần được xây dựng với giao diện mở rộng, có thể sẵn sàng kết nối với các hệ thống thanh toán bán lẻ, hệ thống quyết toán chứng khoán và ngoại hối khi những hệ thống này sẵn sàng.
Để đẩy nhanh tốc độ thanh toán, NHNN Việt Nam cần triển khai các giải pháp đồng bộ để giai đoạn 2 của dự án này sẽ được sớm hoàn tất theo đúng kế hoạch.
Xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ tự động phục vụ cho các giao dịch bán lẻ
Phát triển hệ thống thanh toán bán lẻ, trung tâm thanh toán bù trừ bán lẻ trên cơ sở khuyến khích sự tham gia góp vốn, vận hành của khu vực tư nhân và đáp ứng các quy định của NHNN Việt Nam nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống, đảm bảo sự hoạt động ổn định, an toàn của hệ thống tài chính.
Các hoạt động chính của Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia bao gồm:
+ Vận hành hệ thống bù trừ Séc
+ Vận hành hệ thống Giro (UNC, UNT cho việc thanh toán định kỳ các khoản tiền như điện, nước, điện thoại, phí bảo hiểm, thanh toán thẻ tín dụng,…)
+ Vận hành hệ thống chuyển mạch thẻ ngân hàng
+ Vận hành hệ thống thanh toán thương mại điện tử
+ Vận hành các hệ thống thanh toán bù trừ khác
Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia sẽ kết nối trực tiếp và có giao diện với hệ thống TTĐTLNH do NHNN vận hành. Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia đóng vai trò là trung tâm xử lý thông tin thanh toán bù trừ và gửi lệnh thanh toán bù trừ về NHNN để NHNN thực hiện quyết toán giao dịch cho các NH thông qua tài khoản của các NH mở tại Sở giao dịch NHNN qua hệ thống TTĐTLNH.
Do BIDV Đông Đô, nằm trong hệ thống BIDV TW, tham gia vào các hệ thống thanh toán của các NHTM Việt Nam nên việc NHNN phát triển các hệ thống thanh toán này cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh thực hiện các giao dịch thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng.
Xây dựng mức phí dịch vụ thanh toán hợp lý
Hiện nay, hầu hết các mức thu phí dịch vụ thanh toán của các NHTM đều được xác định trên cơ sở mức thu phí dịch vụ thanh toán của NHNN đối với NHTM. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, mức phí dịch vụ thanh toán của Việt Nam vẫn còn cao. Do đó, trong thời gian tới, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt động thanh toán, NHNN cần điều chỉnh giảm mức phí dịch vụ thanh toán của mình. Từ đó tác động đến việc giảm phí dịch vụ thanh toán của các NHTM đối với khách hàng và thúc đẩy TTKDTM.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động thanh toán của nền kinh tế do NHNN ban hành
NHNN cần rà soát, bổ sung, chỉnh sửa cơ chế chính sách, các văn bản liên quan đến hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phù hợp với lộ trình thực hiện cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ, NH như Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA), Hiệp định AFTA, Hiệp định khung về thương mại, dịch vụ ASEAN (AFAS) và những cam kết với Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
NHNN cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bao gồm các luật, quy định liên quan đến các chủ thể tham gia thanh toán nói chung trong nền kinh tế cũng như hoạt động TTKDTM qua NH. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trên cơ sở phân định rõ quyền hạn trách nhiệm của các bên tham gia hoạt động TTKDTM, từ đó kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp, bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế, tạo lập một môi trường cạnh tranh công bằng, bảo đảm khả năng tiếp cận thị trường và tiếp cận dịch vụ đối với các chủ thể có chức năng tương tự như nhau, hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp hiệu quả và khách quan.
Cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung các luật, văn bản dưới luật của Chính phủ, NHNN một cách đồng bộ, nhất quán và hoàn chỉnh về lĩnh vực thanh toán để tạo điều kiện phát triển các dịch vụ, phương tiện TTKDTM, đặc biệt là các dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại dựa trên việc ứng dụng CNTT, đồng thời từng bước hạn chế thanh toán bằng tiền mặt. Hoàn thiện cơ sở pháp lý hiện hành nhằm tạo điều kiện về mặt cơ chế, chính sách cho loại hình thanh toán này phát triển.
Thông tin tuyên truyền và phổ biến kiến thức về TTKDTM
NHNN với vai trò là cơ quan chủ quản cần chủ động phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ văn hoá - Thể thao - Du lịch, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam và các cơ quan báo chí khác tuyên truyền, quảng bá, phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin để các tổ chức, cá nhân nắm bắt được các tiện ích và hiểu rõ về các rủi ro, biện pháp bảo đảm an toàn trong việc sử dụng các phương tiện, dịch vụ thanh toán qua NH, trên cơ sở đó lựa chọn phương tiện, dịch vụ thanh toán phù hợp. Các đơn vị trên cần tuyên truyền, phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin về các phương tiện, dịch vụ TTKDTM thông qua việc tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, các chương trình giáo dục đào tạo để công chúng và các tổ chức xã hội có đầy đủ thông tin và hiểu biết về các phương tiện TTKDTM, phổ biến rộng rãi các văn bản pháp lý, chủ trương, chính sách liên quan đến hoạt động TTKDTM
Kiến nghị với NHĐT&PT Việt Nam
BIDV Đông Đô là chi nhánh cấp 1, chịu sự chỉ đạo, giám sát của BIDV TW. Vì vậy, BIDV TW cần có sự điều chỉnh, chỉ đạo hợp lý nhằm giúp BIDV Đông Đô phát triển dịch vụ TTKDTM của mình.
a) Phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ TTKDTM công nghệ hiện đại
NH cần nghiên cứu và tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, phù hợp với sự phát triển CNTT; xây dựng quy trình nghiệp vụ, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong thanh toán; ứng dụng các phần mềm chuẩn mua của nước ngoài, xúc tiến xây dựng các phần mềm trong nước có tính mở và dễ sử dụng; tạo lập và phát triển các chuẩn mực chung phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trước khi cung cấp sản phẩm, dịch vụ thanh toán công nghệ hiện đại tới khách hàng, NH cần phải tạo lập được sự hiểu biết và cung cấp thông tin cơ bản, đầy đủ về những lợi ích, chi phí cũng như rủi ro gắn với mỗi loại phương tiện hoặc dịch vụ thanh toán đó. Theo đó khách hàng sẽ có những nhận thức cơ bản để tự do tiếp cận và lựa chọn phương tiện thanh toán phù hợp với nhu cầu của họ.
Bên cạnh việc gia tăng các loại sản phẩm thì NH đồng thời cần phải gia tăng các tiện ích giá trị kèm dịch vụ theo hướng dần thay thế dịch vụ đơn mục đích bằng những dịch vụ đa mục đích, sử dụng các dịch vụ thanh toán mới cho nhiều mục đích, có chương trình khuyến mại, dự thưởng mỗi dịp đặc biệt.
Phát triển và mở rộng mạng lưới chấp nhận thanh toán
NH cần không ngừng tăng cường mạng lưới chấp nhận phương tiện TTKDTM theo tiến trình phát triển của hệ thống thương mại dịch vụ để hỗ trợ các giao dịch thanh toán mặt đối mặt, cũng như giao dịch thanh toán từ xa trong thương mại điện tử, phục vụ cho các giao dịch thanh toán mua hàng hoá, dịch vụ không mang tính định kỳ tại khách sạn, nhà hàng, siêu thị,… Bên cạnh đó, NH cũng cần tiếp tục đầu tư phát triển các mạng lưới chấp nhận phương tiện TTKDTM tại POS và tập trung phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ở hệ thống phân phối hàng hoá bán lẻ hiện đại bao gồm các siêu thị, trung tâm thương mại.
NH cần chủ động phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công cộng để mở rộng phạm vi thoả thuận thanh toán cho các giao dịch thanh toán tiêu dùng định kỳ qua tài khoản trên toàn quốc như thanh toán tiền điện, nước, phí dịch vụ công cộng, bảo hiểm,… Đây là những dịch vụ thanh toán hiện đại đã phát triển mạnh tại các nước phát triển trong nhiều thập niên trước. Xu hướng phát triển các dịch vụ thanh toán này là tất yếu tại Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy đòi hỏi các NHTM Việt Nam cần tận dụng cơ hội để phát triển sớm loại hình dịch vụ thanh toán tiêu dùng định kỳ qua tài khoản.
ứng dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động thanh toán
ứng dụng công nghệ hiện đại là điểm mấu chốt, điểm cơ bản có tính quyết định trong quá trình tồn tại, phát triển và cạnh tranh của mọi NH cũng như các NHTM Việt Nam trong thời đại ngày nay, là nền tảng để các NHTM Việt Nam phát triển các dịch vụ NH hiện đại. Trên cơ sở thực tế về công nghệ của các NHTM Việt Nam hiện có, thời gian tới, BIDV cần thực hiện các giải pháp.
NH cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thanh toán nội bộ của mình thông qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống Corebanking tập trung tài khoản của nội bộ NHTM tại Hội sở chính trong một cơ sở dữ liệu duy nhất, đơn giản hoá quy trình nghiệp vụ, tạo nhiều tiện ích cho khách hàng (chỉ với 1 tài khoản, khách hàng có thể giao dịch tại nhiều chi nhánh của NHTM) và đẩy nhanh tốc độ đối với các khoản thanh toán nội bộ.
Bên cạnh việc tăng cường hơn nữa tiện ích của các sản phẩm ứng dụng công nghệ hiện đại, BIDV cũng cần triển khai nhanh các giải pháp kỹ thuật để tăng tính an toàn và bảo mật của các sản phẩm, nâng cao các chuẩn mực kỹ thuật có độ an toàn cao đối với các sản phẩm, dịch vụ này. Đối với sản phẩm thẻ, BIDV cần triển khai các sản phẩm thẻ Chip chuẩn EMV đưa vào ứng dụng thay thế cho thẻ từ. EMV là sản phẩm chung do 3 tổ chức thẻ quốc tế Europay, Master Card và Visa cùng phát triển vào giữa thập niên 1990s có tính năng mở để đảm bảo khả năng vận hành liên thông giữa các thẻ Chip và máy đọc để thanh toán.
Việc đầu tư công nghệ phần cứng nhằm phát triển sản phẩm, dịch vụ thanh toán công nghệ hiện đại cần cân nhắc đến tính hiện đại của công nghệ, tránh tình trạng mua phải những máy móc, thiết bị có công nghệ đã quá lạc hậu và xác định các chuẩn mực công nghệ tin học đối với các yêu cầu về thiết bị máy tính, các công cụ phần mềm nhập ngoại và các thiết bị truyền thông. Việc chuẩn hoá này không được tạo nên những gò bó vô lý mà phải tạo thuận lợi cho việc bảo hành thiết bị, hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau nâng cao hiệu quả của các sản phẩm phần mềm ứng dụng được sản xuất trong nước.
Phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh là cả một quá trình phức tạp và rất khó khăn, không chỉ tốn rất nhiều chi phí, nhân lực và thời gian mà đòi hỏi cả công tác tổ chức, thực hiện từ phía nhà quản lý. Vì vậy, BIDV cần phải có một chiến lược phát triển công nghệ mang tính dài hạn, đón đầu trên cơ sở tổ chức, sắp xếp và xây dựng một quy trình hợp lý, khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế. Một dự án phát triển công nghệ mang tính dài hạn tuy tốn kém chi phí đầu tư ban đầu song rất hiệu quả về lâu dài cho quá trình ứng dụng và phát triển hoạt động dịch vụ, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
BIDV cũng cần tăng cường hỗ trợ cho các chi nhánh của mình trong việc trang bị hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại.
Tăng cường liên doanh, liên kết trong hoạt động phát triển dịch vụ TTKDTM công nghệ hiện đại
BIDV cần chú trọng đến việc liên doanh, liên kết với các tổ chức cung cấp các dịch vụ hiện đại khác như intermet, mobile,…để tạo nên những sản phẩm dịch vụ có tính “trọn gói” cho khách hàng, từ đó nâng cao tiện ích cho người sử dụng dịch vụ.
Tăng cường nâng cao chát lượng nguồn nhân lực phục vụ lĩnh vực thanh toán
Trong dài hạn, nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của mỗi NH. Một đội ngũ lao động được tuyển dụng, đào tạo và trả lương hợp lý là cơ sở để các NH khai thác tối ưu những nguồn lực về vốn, công nghệ, tạo ra những lợi thế cạnh tranh cao cấp. Phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực thanh toán đặc biệt là nhân lực cho công nghệ thanh toán hiện đại cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu đổi mới và ứng dụng công nghệ và yêu cầu về triển khai phát triển dịch vụ TTKDTM. Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình đầu tư phát triển công nghệ đối với các NHTM Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng. Để công tác củng cố và phát triển nguồn nhân lực được thực hiện liên tục và nhất quán, NH cần phải xây dựng được một chiến lược về quản trị nguồn nhân lực trong dịch vụ thanh toán và thiết lập cơ chế thực thi chiến lược đó một cách hiệu quả. Nội dung quan trọng nhất trong mỗi chiến lược phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
Xây dựng được một hệ thống phương pháp luận và các công cụ, phương tiện đánh giá, tuyển dụng nhân viên minh bạch và khoa học. Cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ minh bạch có tác dụng khuyến khích nhân tài và giảm thiểu rủi ro.
Xây dựng chiến lược đào tạo, đào tạo lại nhân viên thường xuyên và liên tục cập nhật dịch vụ thanh toán với việc ứng dụng CNTT trong hoạt động thanh toán.
Đáng lưu ý là đội ngũ những người hoạt động trong dịch vụ thanh toán khá tổng hợp, toàn diện. Vì họ phải tinh thông cả kỹ thuật nghiệp vụ, phải là người liêm khiết bởi họ trực tiếp với chứng từ số liệu, tài khoản kể cả tiền mặt và tiền thẻ. Đồng thời phải là người có văn hoá giao tiếp, trực tiếp có tác dụng lôi kéo thu hút khách hàng vì kết quả nghiệp vụ, lòng tin và thái độ ứng xử hàng ngày với khách hàng,…
Tăng cường liên kết hợp tác với các tổ chức thanh toán quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc liên kết hợp tác chặt chẽ với các tổ chức thanh toán quốc tế là một đòi hỏi cấp bách. Liên kết với các tổ chức thanh toán quốc tế là cơ sở để BIDV học hỏi được kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ và đặc biệt là trình độ cán bộ sẽ được nâng cao. Thêm vào đó là khả năng mở rộng hoạt động phát hành thẻ ra thế giới cũng như khả năng chấp nhận thanh toán thẻ của các tổ chức thẻ quốc tế tại thị trường Việt Nam. Ngay từ những năm đầu hình thành và phát triển của thị trường thẻ tại Việt Nam, BIDV đã xác định việc liên kết, hợp tác kinh doanh với các tổ chức thẻ quốc tế là những ưu tiên hàng đầu. Trong giai đoạn đầu tiên, trước khi chính thức phát hành thẻ với thương hiệu riêng, BIDV bước chân vào thị trường thẻ với tư cách là một đại lý phát hành và thanh toán thẻ quốc tế. Đây là khoảng thời gian để NH học tập và tích luỹ kinh nghiệm từ các tổ chức thẻ nước ngoài, làm tiền đề cho hoạt động phát triển, kinh doanh thẻ của mình trong tương lai. Về lâu dài, phải tăng cường hợp tác chặt chẽ trong công tác thanh tra, giám sát và phòng chống rủi ro, gian lận thẻ trong khu vực và trên thế giới. Trên lĩnh vực này, là nước đi sau, Việt Nam rất cần học hỏi kinh nghiệm, kiến thức của các nước đi trước như Malaysia, Đài Loan,…rất có kinh nghiệm trong việc đấu tranh chống lại tội phạm thẻ.
Căn cứ vào tình hình thực tế của hoạt động TTKDTM tại BIDV Đông Đô, trên đây, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cho BIDV Đông Đô và đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN và BIDV TW nhằm tạo điều kiện cho BIDV Đông Đô trong việc thực hiện mục tiêu, định hướng phát triển và mở rộng dịch vụ TTKDTM của mình. Do trình độ còn hạn chế nên những giải pháp trên đây chưa thực sự là tối ưu nhưng hi vọng đó sẽ là những giải pháp cơ sở, nền tảng để chi nhánh xem xét áp dụng một cách hiệu quả.
Kết luận
Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế và nhanh chóng hoà nhập với tiến trình phát triển chung của Thế giới, ngành NH nước ta đã không ngừng mở rộng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số nhược điểm trong tổ chức, vận hành và tác nghiệp, cơ sở, trang thiết bị còn lạc hậu nhiều so với các nước trên thế giới. Do đó, việc đưa ra các giải pháp để hoàn thiện các phương tiện TTKDTM ở Việt Nam trong thời gian tới là một đòi hỏi hết sức cần thiết.
Khoá luận này về đề tài “Thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Đông Đô - Thực trạng và giải pháp” đã khái quát cơ sở lý luận về TTKDTM, qua đó có thể nhận thấy sự cần thiết cũng như vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường; đồng thời thấy được những ưu, nhược điểm của từng phương tiện giúp người đọc có thể nắm rõ bản chất từng loại. Qua việc nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh nói chung và TTKDTM nói riêng tại BIDV Đông Đô, chúng ta có thể thấy được tình hình ứng dụng công nghệ thanh toán, sự phát triển các phương tiện TTKDTM và từ đó thấy được những kết quả khả quan cũng như tồn tại trong hoạt động TTKDTM tại chi nhánh trong những năm gần đây. Việc tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại đó là cơ sở để đề ra các giải pháp và kiến nghị có tính khả thi. Hi vọng khoá luận này sẽ góp phần vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn trong quá trình hoàn thiện và phát triển dịch vụ TTKDTM của ngành NH Việt Nam nói chung và của BIDV Đông Đô nói riêng.
Do trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế, việc thu thập tài liệu và thời gian nghiên cứu có hạn nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thày cô và các bạn đọc để em có thể hoàn thiện và phát triển hơn nữa đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS Nguyễn Thị Thư đã tận tình hướng dẫn và các cán bộ phòng Dịch vụ khách hàng của BIDV Đông Đô đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập tại đây và hoàn thành khoá luận này.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo về hoạt động dịch vụ của BIDV Đông Đô năm 2006, 2007, 2008.
Chính phủ (2001), Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 về tổ chức hoạt động thanh toán trong nền kinh tế.
Chính phủ (2006), Nghị định số 161/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định về thanh toán bằng tiền mặt.
Chính phủ (2006), Quyết định 291/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án TTKDTM giai đoạn 2006-2010 và định hường đến năm 2020.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Kinh tế học tiền tệ ngân hàng (2005), NXB Đại học Quốc gia, Chủ biên: PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai.
Đào Mạnh Hùng, “Bàn về phát triển dịch vụ TTKDTM tại các NHTM Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 77, tháng 4/2006.
Frederic S. Mishkin (1994), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
NHNN Việt Nam, Báo cáo thường niên 2006, 2007, 2008.
NHNN Việt Nam (2002), Quyết định 226/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 ban hành Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
NHNN Việt Nam (2002), Quyết định 1284/QĐ-NHNN ngày 18/12/2002 ban hành Quy chế mở và sử dụng tài khoản tại NH và TCTD.
NHNN Việt Nam (2006), Quyết định 30/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cung ứng và sử dụng séc.
NHNN Việt Nam (2007), Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2006 về việc ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.
Nguyễn Thị Thu (2008), Luận văn Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh “Hoàn thiện và phát triển dịch vụ TTKDTM tại các NHTM Việt Nam”.
Trang web Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Trang web NHNN Việt Nam Chuyên đề Thanh toán - Ban Thanh toán NHNN Việt Nam.
Trang web NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31693.doc