Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020

Tài liệu Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020: ... Ebook Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đến nay chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong phát triển kinh tế xã hội, đời sống người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Cũng như các ngành kinh tế quốc dân khác, ngành thương mại đang cố gắng hết sức để tiếp thu những tri thức tiên tiến trên thế giới nhằm bắt kịp với các nước phát triển. Sự xuất hiện các siêu thị tại Việt Nam vào đầu thập kỷ 90 chính là một xu thế tất yếu, một bước đột phá trong sự phát triển thương mại theo hướng văn minh hiện đại. Mặc dù còn mới mẻ song các tác dụng và hiệu quả của siêu thị đã từng bước được khẳng định đặc biệt là ở các đô thị lớn. Ở Hà Nội, với trên 10 năm có mặt nhưng siêu thị đã thực sự giữ một vai trò quan trọng trong phân phối hàng hóa, góp phần làm thay đổi bộ mặt đô thị, thúc đẩy sản xuất và hình thành tập quán văn minh thương mại. Đặc biệt, siêu thị là công cụ quan trọng để doanh nghiệp thực hiện chính sách Marketing có hiệu quả và tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý Nhà Nước về thương mại. Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển siêu thị ở Hà Nội vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Tốc độ tăng trưởng của siêu thị còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng thành phố. Phát triển siêu thị còn thiếu tính bền vững ( phát triển không đều, không hiệu quả ), có nhiều vấn đề bất cập trong quy hoạch đô thị. Mặt khác, do thiếu chỉ dẫn về chiến lược và phát triển thiếu tự phát nên hoạt động kinh doanh của siêu thị còn chưa phù hợp đồng bộ với định hướng phát triển của thành phố nhất là trong thời điểm hiện nay khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Vì vậy, nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển siêu thị cũng như khắc phục những nhược điểm trên nên tôi đã chọn đề tài “ Phát triển siêu thị ở Hà Nội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 “ làm đề tài nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cám ơn thầy giáo GS. TS Hoàng Đức Thân đã giúp tôi hoàn thành đề tài này! Đề tài được kết cấu thành 3 phần gồm 3 nội dung chính: Chương I: Lý luận chung về siêu thị trong hệ thống bán lẻ hàng hóa Chương II: Thực trạng phát triển siêu thị ở Hà Nội Chương III: Phương hướng và giải pháp phát triển siêu thị ở Hà Nội đến 2010 và tầm nhìn đến 2020. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ SIÊU THỊ TRONG HỆ THỐNG BÁN LẺ HÀNG HÓA 1.1. Khái niệm và đặc điểm siêu thị 1.1.1. Tổng quát về bán lẻ hàng hóa Kênh phân phối hàng hóa: Phân phối hàng hóa, đó là chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng. Kênh phân phối hàng hóa được hình dung như một chuỗi gồm các không gian khác nhau tạo nên đường đi của sản phẩm, dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Trung gian trong các kênh môi giới có thể là đại lý môi giới, người bán sỉ hoặc lẻ. Khái niệm về bán lẻ hàng hóa: Là hoạt động bán các sản phẩm cho người tiêu dùng, khâu cuối cùng của qúa trình lưu thông mua bán. 1.1.2. Siêu thị và phân loại siêu thị 1.1.2.1. Khái niệm: “Siêu thị” là từ dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - “supermarket” (tiếng Anh) hay “supermarché” ( tiếng Pháp ), trong đó “super”nghĩa là “siêu” và “market” nghĩa là “chợ”. Hiện nay, siêu thị được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo từng nước. Ví dụ: - Tại Hoa kỳ, siêu thị được định nghĩa”là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hóa bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa”. - Tại Anh người ta định nghĩa siêu thị là của hàng bách hóa bán đồ thực phẩm đồ uống và các loại hàng hóa khác. Siêu thị thường đặt tại thành phố hoặc dọc đường cao tốc hoặc trong khu vực buôn bán có diện tích khoảng từ 4000 đến 25000 bộ vuông. - Siêu thị ở Pháp được định nghĩa là cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự phục vụ có diện tích từ 400m² đến 2500m² chủ yếu bán hàng thực phẩm và vật dụng gia đình. Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng từ các định nghĩa này người ta vẫn thấy rõ nội hàm của siêu thị là: dạng cửa hàng bán lẻ, áp dụng phương thức tự phục vụ, hàng hóa tiêu dùng phổ biến. - Trong quy chế ”siêu thị, trung tâm thương mại ” của Bộ Thương mại đã định nghĩa “ Siêu thị là cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có phương thức phục vụ văn minh thuận tiên nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”. 1.1.2.2. Phân loại siêu thị: Để phân loại siêu thị có thể dựa trên các tiêu chí như: Phương thức kinh doanh, phương thức phục vụ… * Phân loại theo phương thức kinh doanh - Siêu thị bán buôn Bán buôn tiêu biểu cho bộ phận kinh tế chủ yếu, có giá trị kinh tế cao và có vai trò thích hợp như một mô hình phân phối có thể đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nhiều đối tượng khách hàng chuyên nghiệp. Bán buôn phục vụ tất cả các khách hàng làm kinh doanh bao gồm nhà sản xuất, chế tạo, những người bán sỉ khác, nhà bán lẻ, các công ty dịch vụ, ví dụ như nhà hàng, khách sạn và bất cứ khách hàng chuyên nghiệp nào khác. Bán buôn đáp ứng mọi nhu cầu kinh doanh bao gồm nhu cầu “bán lại” và chế biến, nhu cầu đầu tư và tất cả các nhu cầu bổ sung khác để phục vụ kinh doanh. Thông thường bán buôn được định nghĩa là bán hàng đến những đơn vị kinh doanh khác có cùng chức năng trong hệ thống cung ứng. Bán buôn không giới hạn ở mức độ bán đến người bán lại mà bao gồm cả việc bán hàng đến tất cả các loại hình kinh doanh bất kể họ có bán lại, có chế biến hoặc chỉ sử dụng hàng hoá cho một mục đích chuyên môn nào đấy. Những người bán buôn được chia làm 3 loại chính: + Người bán buôn sở hữu hàng hoá thực sự. + Đại lý, môi giới và nhà bán buôn hưởng hoa hồng. + Chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Sở dĩ coi chi nhánh và đại diện bán hàng của nhà sản xuất như người bán buôn là do họ thực hiện các chức năng bán buôn là chủ yếu. Mỗi đối tượng kinh doanh bán buôn có quy mô, phương thức kinh doanh và sức mạnh thị trường riêng, vì vậy họ có thể đóng vai trò quan trọng trong hệ thông phân phối. - Siêu thị bán lẻ: Là loại hình bán hàng đến người tiêu dùng cuối cùng. Người bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Các chức năng chủ yếu của người bán lẻ là: + Tiếp xúc với khách hàng, phát hiện nhu cầu tiêu dùng, thu thập thông tin thị trường và chuyển các thông tin này trở lại người sản xuất. + Thực hiện bán hàng, quảng cáo và trưng bày sản phẩm. + Phân chia và sắp xếp hàng hoá thành những khối lượng phù hợp với người mua. + Dự trữ hàng hoá sẵn sàng cung cấp cho người tiêu dùng. + Cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Những người bán lẻ có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ: theo mặt hàng mà người bán lẻ bán, người ta chia ra thành cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá, siêu thị, cửa hàng tiện dụng…Cửa hàng chuyên doanh bán những dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu. Cửa hàng bách hoá bày bán nhiều mặt hàng khác nhau, mỗi mặt hàng là một quầy riêng. Và siêu thị là trung tâm bán lẻ lớn chi phí thấp, tự phục vụ, giá thấp, doanh số bán cao. Cửa hàng tiện dụng là những cửa hàng bán lẻ nhỏ, bán một số mặt hàng phục vụ nhu cầu thường xuyên của người tiêu dùng. Các đối tượng bán lẻ khác nhau có quy mô, phương thức kinh doanh và sức mạnh chi phối thị trường khác nhau, tất nhiên họ cũng có khả năng điều khiển hệ thống phân phối khác nhau. * Phân loại theo hàng hoá kinh doanh Phân theo tiêu thức hàng hoá kinh doanh trong siêu thị, có thể chia ra các loại siêu thị sau: - Siêu thị tổng hợp: Siêu thị tổng hợp là siêu thị bán nhiều loại hàng hoá cho mọi loại khách hàng. Hiện nay siêu thị tổng hợp đang ngày càng phát triển có những siêu thị từ vài ngàn đến vài chục ngàn loại hàng hoá được bày bán trong siêu thị. Những siêu thị này cung cấp một chuỗi hoàn chỉnh những mặt hàng thực phẩm, phi thực phẩm đáp ứng mọi nhu cầu và cho phép mua đủ loại hàng hoá đến mọi điểm dừng. - Siêu thị chuyên doanh: Siêu thị chuyên doanh là siêu thị bán một hay một số loại hàng hoá của một ngành nào đó. Một số loại siêu thị chuyên doanh (như siêu thị thực phẩm, siêu thị rượu, siêu thị trái cây, siêu thị sách, siêu thị giày, siêu thị máy tính, siêu thị địa ốc, siêu thị vật liệu xây dựng, siêu thị điện thoại di động…). Siêu thị chuyên doanh cung cấp các loại hàng hoá có tính chuyên sâu cao có tính đặc thù của ngành hàng mà không một ngành hàng nào có thể cung cấp. 1.1.3. Vai trò của siêu thị Các siêu thị tổng hợp và chuyên doanh giải quyết được rất nhiều mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng hàng hoá: Trong khi người tiêu dùng có nhu cầu về nhiều loại hàng hoá với khối lượng nhỏ nhưng người sản xuất để đảm bảo lợi nhuận phải sản xuất một hoặc một số hàng hoá với khối lượng lớn, để đạt hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, sản xuất khối lượng lớn không thể cung ứng trực tiếp cho nhiều người tiêu dùng, do đó hệ thống siêu thị giải quyết tốt sự khác biệt giữa sản xuất quy mô lớn và tiêu dùng đa dạng khối lượng nhỏ. Bằng cách mua từ nhiều nhà sản xuất khác nhau cung cấp cho nhiều người tiêu dùng tại một địa điểm. Trong nền kinh tế có sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Do nhiều người sản xuất tại nhiều địa điểm khác nhau nhiều người tiêu dùng ở nhiều nơi khác nhau. Siêu thị giúp giải quyết vấn đề này trong quá trình phân phối hàng hoá. Siêu thị mua hàng hoá của ngưới sản xuất về một địa điểm để bán lại cho người tiêu dùng với giá thấp nhất trong hệ thống phân phối. Siêu thị còn giúp giải quyết sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và thời gian tiêu dùng không trùng khớp, có thể sản xuất có tính thời vụ còn tiêu dùng quanh năm hoặc ngược lại. Vì sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nên phải dự trữ hàng hoá. Sự ăn khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng được các siêu thị giải quyết một phần sự khác biệt này. Mặt khác, quá trình phân phối hàng hoá các siêu thị nắm bắt được nhu cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời gian và không gian nên có thể chuyển tải những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường cho những người sản xuất và cung ứng hàng hoá, vì thế tạo lập cầu nối để dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu cầu thị trường, giảm thiểu các tầng, nấc trung gian trong hệ thống phân phối, do đó sẽ có mức giá bán lẻ thấp nhất trong mạng lưới bán lẻ hàng hoá thông thường. Cách thức tổ chức các quá trình phân phối sản phẩm của siêu thị sẽ giải quyết các mâu thuẫn cố hữu của nền kinh tế. Các chức năng chính của siêu thị là mua và bán, vận chuyển, lưu kho, tiêu chuẩn hoá và phân loại, tài chính, chịu rủi ro, thông tin thị trường. Siêu thị còn đóng vai trò chức năng tài chính cung cấp tiền mặt và tín dụng cần thiết cho hoạt sản xuất hàng hoá: Ví dụ: Siêu thị Metro đã cung cấp tài chính cho các hộ nông dân sản xuất rau sau đó mua lại rau để bán trong siêu thị. Siêu thị còn đóng vai trò như là người chia sẻ rủi ro với các nhà sản xuất. Nếu như trước kia các nhà sản tự phân phối hàng hoá và tự gánh chịu rủi ro đối với hàng hoá của mình thì hiện nay một số siêu thị đã bắt đầu tự kinh doanh rủi ro. Họ thường mua đứt hàng hoá của các doanh nghiệp (với giá thấp) sau đó tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng hoá đối với khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Siêu thị còn có vai trò cung cấp thông tin thị trường, do bán hàng trực tiếp cho khách hàng nên các siêu thị là người hiểu rõ nhất nhu cầu của khách hàng, những thay đổi về thị hiếu của khách hàng để từ đó cung cấp thông tin phản hồi đối với các nhà sản xuất, tác động tới sản xuất để các nhà sản xuất có thể tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra siêu thị còn giữ một số vai trò khác như: hoàn thiện thêm sản phẩm, có thể là bao gói, gắn nhãn mác hoặc đóng hộp. Một số siêu thị còn thực hiện một số công đoạn chế biến một phần đặc biệt là đối với hàng thực phẩm. Ngoài ra siêu thị còn giữ vai trò tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm năng. 1.1.4. Đặc điểm của siêu thị Siêu thị là một dạng của cửa hàng bán lẻ hàng hóa: hoạt động kinh doanh của siêu thị được tổ chức dưới hình thức cửa hàng có trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ trực tiếp hàng hóa cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán lại. Phương thức bán hàng: tự phục vụ là phương thức bán hàng mà siêu thị áp dụng. Khách hàng có quyền tự do đi lại trong cửa hàng, tự do tiếp xúc, xem xét, ngắm nghía, so sánh, chọn lựa sau đó tự đưa hàng đã chọn đến quầy thu ngân để thanh toán. Đó chính là tính tự phục vụ hoàn toàn. Điều này tạo ra tính kinh tế cho hoạt động siêu thị vì nó có mức giá thấp hơn và hấp dẫn, khêu gợi, kích thích nhu cầu mua sắm của khách hàng. Hàng hóa bán tại siêu thị: siêu thị thường có danh mục hàng bày bán rất đa dạng, phong phú bao gồm cả hàng thực phẩm và phi thực phẩm. Hàng hóa ở siêu thị thường là các đơn vị sản phẩm lẻ, hoàn chỉnh, phục vụ trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân được bày bán trên kệ theo từng loại và niêm yết giá công khai, dễ dàng để khách hàng dễ quan sát, chọn lựa và toàn quyền quyết định mua sản phẩm họ ưng ý nhất. Siêu thị thể hiện sự sáng tạo trong nghệ thuật trưng bày hàng hóa: ngoài việc tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, siêu thị còn thể hiện được nghệ thuật trưng bày hàng hóa nhằm tối đa hiệu quả không gian bán hàng. Điều này cũng có nghĩa hàng hóa trong siêu thị phải có khả năng tự quảng cáo và lôi cuốn người mua. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ bán hàng: cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật cấu thành một siêu thị như nhà cửa, kho hàng, thiết bị vật dụng cần thiết…tương đối hiện đại nhằm đảm bảo sự tiện nghi phục vụ tốt, tạo thoải mái cho khách hàng khi đi mua sắm. Điều này giúp tăng khả năng cạnh tranh với các siêu thị khác và với loai hình bán lẻ khác. Doanh số hàng hóa bán ra: do phải đầu tư nhiều vào các thiết bị và chi phí khấu hao tài sản cố định cao nên siêu thị đòi hỏi mức doanh số cao hơn rất nhiều so với các cửa hàng thông thường, mặt khác giá bán cũng phải khống chế ở mức có khả năng hấp dẫn khách hàng, vì vậy siêu thị phải được hoạch định ở tầm hoạt động rộng lớn. Quy mô của siêu thị tương đối lớn: siêu thị có quy mô tương đối lớn vì hình thức kinh doanh này lấy quan điểm khách hàng tự phục vụ và chi phí thấp, lợi nhuận thấp làm cơ sở hoạt động. Do đó để đảm bảo tính kinh tế đòi hỏi siêu thị phải có quy mô hợp lý mới có thể tiêu thụ được khối lượng hàng hóa lớn đủ để bù đắp chi phí kinh doanh và có lãi. 1.2. Cấu trúc cơ bản về tổ chức và hoạt động siêu thị 1.2.1. Tiêu chuẩn siêu thị Trong Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại của Bộ Thương mại siêu thị được phân chia thành 3 hạng: Hạng I, hạng II và hạng III. - Siêu thị hạng I: - Áp dụng đối với siêu thị kinh doanh tổng hợp: + Có diện tích kinh doanh từ 5.000 m2 trở lên + Có danh mục hàng hoá kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên + Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ cao, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho mọi đối tượng khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; + Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, sơ chế, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại; + Tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng qua mạng, qua bưu điện, điện thoại. Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh: tiêu chuẩn là từ 1.000 m2 trở lên; tiêu chuẩn là từ 2.000 tên hàng trở lên; các tiêu chuẩn khác như Siêu thị kinh doanh tổng hợp. - Siêu thị hạng II: Áp dụng đối với Siêu thị kinh doanh tổng hợp: + Có diện tích kinh doanh từ 2.000 m2 trở lên + Có Danh mục hàng hóa kinh doanh từ 10.000 tên hàng trở lên + Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; + Có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh hiện đại; + Tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống, giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng qua bưu điện, điện thoại. Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh: tiêu chuẩn là từ 500 m2 trở lên; tiêu chuẩn là từ 1.000 tên hàng trở lên; các tiêu chuẩn khác như Siêu thị kinh doanh tổng hợp. - Siêu thị hạng III: Áp dụng đối với Siêu thị kinh doanh tổng hợp: + Có diện tích kinh doanh từ 500 m2 trở lên + Có Danh mục hàng hóa kinh doanh từ 4.000 tên hàng trở lên + Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn, thuận tiện cho khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị; + Có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh hiện đại; + Tổ chức, bố trí hàng hóa theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân, có các dịch vụ phục vụ người khuyết tật, giao hàng tận nhà. Áp dụng đối với Siêu thị chuyên doanh: tiêu chuẩn là từ 250 m2 trở lên; tiêu chuẩn là từ 500 tên hàng trở lên; các tiêu chuẩn khác như Siêu thị kinh doanh tổng hợp. 1.2.2. Cấu trúc cơ bản về tổ chức hoạt động siêu thị Siêu thị độc lập: đây là dạng siêu thị có quy mô nhỏ và vừa, thuộc quyền sở hữu của một gia đình hay công ty nhỏ. Số lượng nhân viên, hàng hóa ở mức trung bình hoặc thấp. Cấu trúc tổ chức tổng quát thích hợp theo dạng chức năng. Siêu thị mắt xích: được điều hành bởi các công ty, tập đoàn lớn, hoạt động trên địa bàn rộng. Cấu trúc tổ chức thích hợp theo dạng ma trận, cho phép siêu thị tận dụng các lợi thế về vốn và nguồn nhân lực. *Hoạt động của các bộ phận chức năng Bộ phận khách hàng: bộ phận này có hoạt động chủ yếu là mua đúng hàng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đảm bảo đúng về số lượng, chất lượng quy cách mẫu mã, chủng loại của hàng hóa. Bộ phận hoạt động: có nhiệm vụ quản lý, trưng bày hàng hóa và bán hàng, thực hiện các dịch vụ khác. Bộ phận Marketing: nhiệm vụ chính là nghiên cứu thị trường, đề ra các chiến lược Marketing và có biện pháp thực hiện hiệu quả. Hệ thống thông tin quản lý của siêu thị: thông tin về số lượng hàng hóa, số lượng giao dịch diễn ra. 1.2.3. Mối quan hệ siêu thị với các loại hình bán lẻ khác 1.2.3.1. Siêu thị với các loại hình bán lẻ hỗ trợ Loại hình bán lẻ hỗ trợ hay còn gọi là “đối thủ cạnh tranh tốt” của siêu thị là loại hình bán lẻ hoạt động trên những phân khúc thị trường khác, với mục đích và phương thức hoạt động khác, không xâm phạm vào thị trường của siêu thị. Siêu thị và các loại hình bán lẻ hỗ trợ có thể tồn tại bên cạnh nhau, liên kết với nhau thành hệ thống. Như vậy, cần phân biệt khi xem xét mối quan hệ giữa siêu thị với các hình thức tổ chức bán lẻ cũng như những của hàng mắt xích. Cửa hàng mắt xích hay cửa hàng bán lả độc lập là cách thức sở hữu, quản lý khác nhau của các doanh nghiệp. Siêu thị cũng có thể là các thành viên của một hệ thống mắt xích hay tồn tại độc lập. 1.2.3.2. Siêu thị với các loại hình bán lẻ cạnh tranh trực tiếp Có nhiều đối thủ cạnh tranh với siêu thị, nhưng xét về quy mô và mức độ cạnh tranh thì nổi bật là loại hình bán lẻ ở chợ. Chợ là địa điểm tập trung thường xuyên ( hàng ngày hay định kỳ ) nhiều người bán lẻ và người mua để tiến hành trao đổi, mua bán hàng hóa. Hộ kinh doanh bán lẻ ở chợ chỉ mượn địa điểm đẻ bán hàng, kinh doanh và tự hạch toán. Chợ là loại hình bán lẻ truyền thống, hàng hóa rất phong phú, từ thực phẩm, vật dụng gia dình, quần áo, công cụ đến các loại phụ tùng, đồ kim khí diện máy …Giá cả ở chợ khá linh hoạt người mua, người bán tự do thương lượng với nhau. Chợ là loại hình bán lẻ truyền thống đã có từ xa xưa và phổ biến khắp nơi trên thế giới, có vai trò hết sức quan trọng đối với lịch sử nhân loại. Tại Việt Nam, mua sắm hàng hóa ở chợ đã trở thành nếp sống quen thuộc của mọi người từ thành thị đến nông thôn, tuy nhiên chợ cũng đang bị hạn chế ở một số thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, … 1.3. Quản lý Nhà nước về siêu thị 1.3.1. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về siêu thị Quản lý Nhà Nước đối với kinh doanh siêu thị là đương nhiên đối với bất kỳ nền kinh tế nào vì siêu thị thuộc hệ thống phân phối hàng hóa bán lẻ, tham gia trực tiếp vào quá trình tái sản xuất xã hội và là cầu nối quan trọng giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng. Ở Việt Nam hiện nay, sự phát triển mạng lưới siêu thị còn diễn ra một cách tự phát, công tác quản lý Nhà Nước càng trở nên quan trọng trong việc định hướng phát triển, điều này sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ trên thị trường nội địa, đồng thời đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quản lý Nhà Nước về siêu thị là một bộ phận quản lý Nhà Nước về thương mại nhằm tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, khuyến khích và hỗ trợ sự phát triển của mạng lưới siêu thị văn minh, hiện đại ở Việt nam, đáp ứng các yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quản lý Nhà Nước nhằm phát triển hệ thống siêu thị Việt Nam trong điều kiện nước ta sẽ tham gia hội nhập một cách sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực càng cần thiết trước áp lực của cạnh tranh khốc liệt. Thị trường Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Một chính sách thu hút FDI cân bằng với khuyến khích và hỗ trợ các nhà phân phối trong nước là tiền đề phát triển hệ thống thương mại bán lẻ hiện đại ở Việt Nam. Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Mức sống và thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao. Giao lưu trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng, việc tiếp cận với các hàng hóa và các loại hình phân phối tiên tiến cũng ngày càng trở nên dễ dàng hơn với người tiêu dùng. Siêu thị ra đời như một tất yếu khách quan đáp ứng các yêu cầu trên. Như vậy, cần có sự quản lý của Nhà Nước theo hướng ưu tiên phát triển hệ thống siêu thị, nhất là các siêu thị lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế cũng như tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc phát triển siêu thị đã mở ra một kênh phân phối mới quan trọng không những đối với người tiêu dùng mà cả đối với nhà sản xuất. Do phương thức tổ chức kinh doanh mang tính tập trung và tích hợp cao, siêu thị là nơi lý tưởng để các nhà sản xuất triển khai Marketing, quảng cáo, … Bên cạnh đó, nhờ hệ thống bán hàng được tổ chức và lưu trữ đầy đủ nên siêu thị có thể phản ánh và chia sẻ thông tin đẻ các nhà sản xuất tiến hành các hoạt đông nghiên cứu thị trường, khảo sát và làm cơ sở cho việc ra quyết đinh và hoạch định chiến lược kinh doanh. Chính tác động sâu rộng của hệ thống siêu thị tới phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội và tiêu dùng là lý do quan trọng dẫn đến sự cần thiết của quản lý Nhà Nước đối với phát triển hệ thống này. 1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về siêu thị Xây dựng thực thi hệ thống luật pháp, quy định hoàn chỉnh tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của các siêu thị như luật dân sự, luật thương mại, luật vệ sinh an toàn thực phẩm… Xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện các chính sách và cơ chế khuyến khích phát triển siêu thị ở Việt Nam, đảm bảo thống nhất và phù hợp với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ chế phát triển thương mại, phát triển kinh tế xã hội đất nước trong điều kiện Việt nam chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà Nước và thực hiện mở cửa hội nhập. Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển mạng lưới phân phối mạng lưới siêu thị trên quy mô quốc gia phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại, phát triển kinh tế xã hội đất nước. Thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi các chính sách và pháp luật của Nhà Nước đối với kinh doanh siêu thị, xử lý các vi phạm pháp luật trong kinh doanh siêu thị. Đồng thời, Nhà Nước cần quan tâm thực hiện tốt công tác chống buôn lậu, hàng nhái, hàng giả, gian lận thương mại… Với Việt Nam, do đặc thù phát triển hệ thống siêu thị, Nhà Nước cần : + Hỗ trợ phát triển hạ tầng của siêu thị đặc biệt là hạ tầng thông tin, điện, nước, mặt bằng và các dịch vụ công ích khác. + Hỗ trợ và khuyến khích hình thành phát triển các thương mại nhân kinh doanh siêu thị, các nhà phân phối hàng hóa lớn của Việt nam. + Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho siêu thị, đảm bảo siêu thị có đủ khả năng để cạnh tranh với loại hình khác và với doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng đối với định hướng phát triển siêu thị. Siêu thị phát triển cũng đồng nghĩa với loại hình bán lẻ hiện đại ngày càng phát triển, đời sống và lối sống ngày càng văn minh hơn. Nhà Nước cần có những chính sách vừa hỗ trợ, vừa khuyến khích đồng thời cần giám sát hoạt động của siêu thị để loại hình bán lẻ này trở nên quen thuộc hơn và đúng định hướng sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1.4. Tình hình phát triển siêu thị của một số nước trên thế giới Siêu thị ra đời thể hiện sự đổi mới của phương thức bán hàng từ những cửa hàng tổng hợp thông thường vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, được phân biệt với các loại hình bán lẻ khác bằng cách để khách hàng tự chọn lựa hàng hóa, tự phục vụ, không cần nhân viên ghi hóa đơn, hàng đã được đóng gói gọn gàng thay vì phải mang vác cồng kềnh. 1.4.1. Tại Pháp Hiện nay ở Pháp có 6000 siêu thị nhỏ với diện tích trung bình 218m2. Các hãng chuyên doanh loại là Unico, Shopi, Codec, Dísco Ed… Đối với siêu thị 400m2 – 2500m2, chủ yếu bán các loại thực phẩm. Các siêu thị này được chia thành 4 loại: Siêu thị thị tiện dụng, siêu thị hạ giá, siêu thị chất lượng, siêu thị kho hàng. Tính đến 9/1998 Pháp có 8552 siêu thị với tổng doanh thu 300 tỷ Franc. Trong đó nhiều nhất vẫn là các siêu thị có diện tích dưới 800m2 với bãi đỗ xe trung bình 128 chỗ, số quầy tính tiền trung bình là 6 và số nhân viên trung bình là 24 người. Các siêu thị chiếm 35% doanh thu bán hàng thực phẩm và 19% tổng mức bán lẻ. Đại siêu thị phát triển rộng khắp trong thập niên 60, 70 của thế kỷ XX. Tính đến 9/1998, nước Pháp đã có 1131 đại siêu thị với tổng doanh thu khoảng 3000 tỷ Franc chiếm 25, 7% tổng doanh thu từ hàng thực phẩm, 13, 8% doanh thu từ việc bán các loại hàng hóa khác và 19, 3% tổng mức bán lẻ. Các tập đoàn kinh doanh đại siêu thị gồm Leclerc, Eromarche, Carrefour, Cora, Geant Casino, Auchan, Contiment, Rallie. 1.4.2. Tại Mỹ Siêu thị ở Mỹ thường có diện tích mặt bằng khoảng 3000Feet vuông trở lên. Siêu thị bắt đầu phát triển từ năm 1916 đến năm 1930 mới thực sụ đột phá và dần phát triển khắp nước Mỹ. trong những năm 40, 50 vừa qua các siêu thị đã trở thành kênh phân phối thực phẩm chính ở Mỹ. Đến giai đoạn sau ( 60, 70) siêu thị trở thành hệ thống cửa hàng bán lẻ chính thống tại nước này. Vào cuối thập niên 80, ở Mỹ có khoảng 30000 siêu thị chiếm 20% tổng số cửa hàng bán lẻ thực phẩm với tổng doanh thu hàng năm đạt 200 tỷ USD, chiếm 75% tổng doanh thu bán hàng thực phẩm. 1.4.3. Khái quát chung về sự phát triển siêu thị ở Châu Âu, Châu Á Ở Châu Âu nói chung siêu thị cũng phát triển với tốc độ gần tương đương nước Pháp. Sự xuất hiện của siêu thị tại các quốc gia song hành với sự phát triển của kinh tế bởi nó phù hợp với nguyện vọng của các nhà sản xuất. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm với tốc độ nhanh bằng cách bán hàng đại trà. Sự xuất hiện của siêu thị phù hợp với nhịp sống công nghiệp và có tác dụng nâng cao văn minh, tiến bộ trong lĩnh vực thương mại. Tại Châu Á và các khu vực còn lại của thế giới do kinh tế phát triển chậm hơn nên siêu thị cũng xuất hiện muộn hơn. Kinh tế của các nước Châu Á khởi sắc vào những năm 60 của thế kỷ XX và cũng bắt đầu từ thập niên 60 này siêu thị chính thức có mặt tại các quốc gia Châu Á có nền kinh tế phát triển khá, dẫn đầu là Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Hông Kông, Singapore. Dần dần siêu thị đã phát triển rộng khắp ở các nước Châu Á khác như Thái Lan, Malaysia. Indonesia, Trung Quốc…Ở Châu Á, doanh thu bán lẻ của các siêu thị ước tính 10% tổng mức bán lẻ của xã hội. Sự ra đời và phát triển của siêu thị ở các nước trên thế giới nói chung tương đối phù hợp với thuyết “vòng đời cửa hàng”. Như vậy, hiện nay ở các nước phát triển, loại hình kinh doanh siêu thị dã ở vào giai đoạn bão hòa.Tất nhiên “vòng đời cửa hàng” ở mỗi quốc gia có sự khác biệt nhau vì điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội mỗi nước có đặc trưng riêng. 1.4.4. Bài học kinh nghiệm về sự phát triển siêu thị trên thế giới Siêu thị là một loại hình bán lẻ hàng hóa trong hệ thống bán lẻ hàng hóa. Trên thế giới, siêu thị hoạt động thành công là do nó đã tạo ra phương thức phục vụ mới mang phong cách riêng biệt, khác hẳn các loại hình bán lẻ khác. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo lợi thế cạnh tranh đối với siêu thị. Thông thường, các yếu tố về trưng bày và chất lượng hàng hóa, phương pháp tiếp thị, quảng cáo, đồng phục của nhân viên sẽ tạo nên phong cách riêng cho mỗi siêu thị. Từ sự thành công của các siêu thị trên thế giới, chúng ta rút ra được một trong những tiêu chí quan trọng là quy mô và tổ chức các dịch vụ phục vụ khách hàng. Khách hàng vào siêu thị không phải chỉ mua sắm mà còn có các nhu cầu dịch vụ khác, chẳng hạn như vui chơi giải trí. Vì vậy ở nước ngoài, siêu thị có thể hình dung là một tổ hợp kinh doanh thương mại – dịch vụ. Theo kinh nghiệm của một số siêu thị trên thế giới như Seiyu (Nhật Bản), Metro Cash & Carry (Đức), Tesco (Anh) thì một trong những yếu tố quan trọng là tổ chức nguồn hàng. Hàng hóa cung ứng cho siêu thị được cung cấp trực tiếp từ._. nhà sản xuất, hạn chế ttoois đa các khâu trung gian. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhằm giảm giá hàng hóa tạo điều kiện thuận lợi để có sự cạnh tranh với loại hình bán lẻ khác. Để làm tốt điều này, siêu thị thường mua cổ phần của các nhà sản xuất hoặc kí hợp đồng cam kết về việc hàng hóa dược cung cấp đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và khống chế về giá. Nhân viên làm việc ở các khâu, các bộ phận của siêu thị đều được tiêu chuẩn hóa theo từng vị trí công tác, công việc mang tính chuyên môn hóa cao. Vì thế công tác đào tạo, huấn luyện đội ngũ nhân viên trong siêu thị luôn được chú trọng nhằm đảm bảo hoạt động của siêu thị có bài bản nhưng cũng linh hoạt, chủ động trong quá trình xử lý, giải quyết công việc. Như vậy, siêu thị là loại hình kinh doanh thương mại hoạt động có hiệu quả và khá phổ biến tại các nước phát triển, ra đời theo quy luật phát triển tất yếu của nền kinh tế, thể hiện phương thức mua bán văn minh lịch sự, là biểu tượng của sự phồn vinh và sự phát triển xã hội. Với phương thức bán hàng tiến bộ, siêu thị đã tác động làm thay đổi thói quen, tập quán mua sắm, tiêu dùng của người dân. Sự góp mặt của siêu thị làm cho lĩnh vực bán lẻ sôi động hẳn lên diễn ra cạnh tranh gay gắt để lôi kéo và thu hút khách hàng. Điều này tạo ra động lực thúc đẩy các loại hình bán lẻ không ngừng đổi mới để làm tốt nhiệm vụ trực tiếp phục vụ và thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mọi người trong xã hội, góp phần nâng cao văn minh thương mại. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN SIÊU THỊ Ở HÀ NỘI 2.1. Tổng quan hoạt động thương mại, phân phối hàng hóa ở Hà Nội 2.1.1. GDP hoạt động thương mại, phân phối hàng hóa của Hà Nội Với vai trò là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa, là thủ đô của cả nước, Hà Nội có một vị trí vô cùng quan trộng đối với sự nghiệp phát triển chung của cả nước. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam phát triển thuận lợi đã mở ra nhiều cơ hội, triển vọng thúc đẩy nền kinh tế liên tục phát triển. Hoạt động thương mại, phân phối hàng hóa trở thành một trong những ngành đi đầu trong tiến trình này, riêng hệ thống phân phối bán lẻ hàng hóa có tác động trực tiếp thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hóa. GDP của ngành thương mại, phân phối hàng hóa của Hà Nội chiếm tỷ lệ khá cao so với các ngành khác. Thu nhập của người dân được cải thiện, mức sống nâng cao, làm tăng nhu cầu tiêu dùng, bên cạnh đó đầu tư nước ngoài tăng mạnh có tác động thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển. 2.1.2. Thực trạng hoạt động phân phối bán lẻ của Hà Nội 2.1.2.1. Hoạt động bán lẻ của các thành phần kinh tế cơ bản Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trên thị trường đã làm cho hoạt động thương mại sôi động hẳn lên. Sự đa dạng của các loại hình bán lẻ với các phương thức hoạt động khác nhau đã tạo nên nhiều chuyển biến, phục vụ tốt hơn nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, góp phần làm thay đổi thói quen, tập quán mua sắm của người theo tính chất, đặc điểm xu hướng công nghiệp hóa, tuy nhiên nó cũng tạo sự cạnh tranh mạnh và làm thay đổi cấu trúc và tỷ trọng thị phần chiếm lĩnh của các thành phần kinh tế tham gia trong hoạt dộng phân phối hành hóa. Bảng 2.1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội của các thành phần kinh tế cơ bản của Hà Nội Đơn vị tính : Tỷ đồng 2000 2002 2003 2004 2005 Tổng số 20885 27843 30907 39350 45000 A. Khu vực kinh tế trong nước 19970 25434 27911 34915 38900 I. Kinh tế nhà nước 4541 4571 5551 6336 6996 1. Thương nghiệp 3450 3149 3625 4214 4416 2. Khách sạn – nhà hàng 396 439 538 408 590 3. Dịch vụ 150 371 645 866 1100 4. DNSX trực tiếp bán sản phẩm 545 612 743 848 890 II. Kinh tế tập thể 112 192 201 240 256 1. Thương nghiệp 14 27 21 41 42 2. Khách sạn – nhà hàng 3 8 17 21 21 3. Dịch vụ 13 39 39 34 35 4. DNSX trực tiếp bán sản phẩm 82 118 124 144 158 III. Kinh tế cá thể 11321 16285 17672 16902 18000 1. Thương nghiệp 7467 10877 11695 13610 14483 2. Khách sạn – nhà hàng 3088 3885 4086 1844 2000 3. Dịch vụ 421 1015 1324 767 817 4. DNSX trực tiếp bán SP 345 508 567 681 700 IV. Kinh tế tư nhân 3996 4386 4487 11437 13648 B. Khu vực có vốn ĐTNN 915 2409 2996 4435 6100 Nguồn : Niên giám thống kê Hà Nội năm 2005 Bảng 2.2: Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội Năm 2000 2002 2003 2004 2005 Tổng mức 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 A.Khu vực kinh tế trong nước 95,62 91,34 90,31 88,73 86,44 1 - Kinh tế nhà nước 21,74 16,42 17,96 16, 11 15,55 2 - Kinh tế tập thể 0,54 0,69 0,65 0,61 0,57 3 - Kinh tế cá thể 54,21 58,48 57, 18 42,95 40,00 4 - Kinh tế tư nhân 19,13 15,75 14,52 29,06 30,32 B. Khu vực có VĐT nước ngoài 4,38 8,66 9,69 11,27 13,56 Nguồn : Niên giám thống kê Hà Nội năm 2005 Từ năm 2000 – 2005 tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội của cả khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều tăng, tuy nhiên tốc độ tăng có sự khác nhau. Khu vực kinh tế Nhà nước tăng từ 19970 tỷ đồng đến 38900 tỷ đồng ( tăng 18930 tỷ đồng ) tương đương 94, 8%, trung bình mỗi năm tăng trên 18%. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh hơn từ 915 tỷ đồng lên 6100 tỷ đồng ( tăng 5185 tỷ đồng ) tương đương 566, 7%, trung bình mỗi năm tăng 113, 34%. Xét về tỷ trọng, khu vực kinh tế trong nước vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong cơ cấu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội ( năm 2000 chiếm 95, 62%, năm 2002 là 91, 34% ). Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ít thay đổi từ năm 2000 dến 2005, kinh tế tư nhân vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng cho phần lớn hoạt động thương mại của thành phố ( chiếm 30, 2% năm 2005 ). Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ ( năm 2000 là 4, 38%, năm 2002 là 8, 66% ). Như vậy tỷ trọng của khu vực kinh tế trong nước đang có xu hướng giảm và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng tăng lên mặc dù giá trị tuyệt đối của cả hai khu vực này đều tăng mạnh. Điều này đã chứng minh được hướng đi đúng đắn, xu thế mở cửa, phát triển của thị trường bán lẻ của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. 2.1.2.2. Hoạt động của các trung tâm thương mại – chợ Có nhiều hình thức bán lẻ hàng hóa đang hoạt động trên thị trường Hà Nội nhưng phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu đề cập đến các loại hình bán lẻ có ảnh hưởng mạnh tới hoạt động của siêu thị như trung tâm thương mại, tổ chức bán lẻ và chợ truyền thống vv…Hoạt động của các loại hình này có vai trò quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa, chiếm thị phần lớn trong tổng mức lưu chuyển hàng hóa và có tác động ảnh hưởng tới sự phát triển của siêu thị. *Trung tâm thương mại bán buôn – bán lẻ ( truyền thống ) Do điều kiện lịch sử và tập quán kinh doanh lâu đời, Hà nội đã hình thành các khu vực trung tâm vừa bán buôn vừa bán lẻ. Những năm trước đây, các khu vực trung tâm thương mại truyền thống trên giữ vai trò quan trọng chi phối việc lưu chuyển hàng hóa không chỉ trên địa bàn thành phố mà cả khu vực lân cận. Tuy nhiên hiện nay do sự phát triển mạnh mẽ của các cửa hàng chuyên doanh, đại lý bán lẻ hàng hóa và siêu thị nên vai trò và mức độ ảnh hưởng của các trung tâm này không còn như trước nữa. Từ năm 2000 đến nay, mô hình hoạt động của các trung tam thương mại mại dịch vụ đã có sự thay đổi, các trung tâm được đầu tư xây dựng theo đúng tiêu chuẩn đề ra của ngành thương mại, đặc biệt phải có giải pháp xây dựng khu đậu xe tương ứng với quy mô hoạt động. Trên toàn thành phố Hà Nội có gần 15000 điểm bán lẻ với tổng diện tích lên tới 350000m2. Trung tâm thương mại nội thành có quy mô nhỏ và trung bình ( mỗi trung tâm dưới 10000m2 – 15000m2 ) được phân bổ ở các trung tâm dân cư, thương mại của khu vực nội thành hiện hữu, nội thành phát triển, khu vực ngoại thành mới, đô thị như đô thị mới Linh Đàm, đô thị mới Trung Hòa - Nhân Chính, khu đô thị Nam Thăng Long… Như vậy các trung tâm thương mại sẽ tạo áp lực cạnh tranh với sự phát triển của siêu thị. *Một số hình thức bán lẻ tiêu biểu - Cửa hiệu độc lập và đại lý bán lẻ Cửa hiệu độc lập là cửa hàng bán lẻ thuộc sở hữu cá nhân hay hộ gia đình. Loại cửa hàng này tồn tại dưới hình thức các cửa hiệu nhỏ nằm trên mặt phố thực hiện chức năng phân phối hàng hóa được mua buôn bởi một trung tâm hàng hóa và phương thức hoạt động giống như cửa hàng bách hóa, cửa hàng chuyên doanh siêu thị hay cửa hàng tự phục vụ nhỏ. Đại lý bán lẻ là hình thức trong đó hoạt động bán được phép lấy tên thương hiệu và bán sản phẩm của một công ty nào đó, nói cách khác là những cửa hàng được người bán ủy thác giao cho việc tiêu thụ hàng hóa dịch vụ trên cơ sở hợp động đại lý. Đặc điểm của loại cửa hàng này là hoạt động độc lập, hưởng thù lao bằng mức hoa hồng nhất định trên doanh số bán ra và có thể tính các hợp đồng nhân danh người bán. Các cửa hiệu độc lập và đại lý này thường bán lẻ những loại hàng hóa thông dụng phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày và thường đặt ở các khu dân cư. Việc tổ chức kinh doanh loại hình này tương đối đơn giản, gọn nhẹ, số nhân viên trực tiếp khoảng 2 – 3 người nên phương thức kinh doanh rất linh hoạt. Vị trí cửa hiệu bán lẻ thường được tận dụng ở mặt tiền phố làm mặt bằng kinh doanh. Khảo sát dọc các đường Kim Liên, Đào Duy Anh, Chùa Bộc cho thấy các cửa hiệu độc lập dần chuyển sang đại lý bán lẻ. Hình thức này phát triển mạnh trong những năm gần đay phần lớn là do giá bán của chủng loại hàng hóa có cùng thương hieu hầu như không có sự chênh lệch giữa các khu vực, vì lẽ đó đại lý bán lẻ sẽ không phải chịu áp lực cạnh tranh về giá đồng thời phù hợp với tập quán, thói quen mua sắm dọc đường của người tiêu dùng Việt Nam. Chính những lợi thế của loại hình này về sự gần gũi với khách hàng, thái độ phục vụ cởi mở và sự linh hoạt trong giờ giấc mua bán nên hiện nay đại lý bán lẻ có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của siêu thị trên địa bàn thành phố. Vì vậy, việc xem xét đánh giá một cách hợp lý các phương thức kinh doanh loại hình bán lẻ này sẽ làm một động lực cho sự phát triển của siêu thị. - Cửa hàng bách hóa : là cửa hàng có quy mô lớn, vị trí đặt tại khu đô thị sầm uất, bán lẻ kinh doanh tổng hợp, chủng loại phong phú với số lượng lớn, chủ yếu là sản phẩm dệt may và tiêu dùng phục vụ cho mọi đối tượng. Tiêu biểu cho loại hình này hiện nay ở Hà Nội là cửa hàng Bách hóa Thanh Xuân, Cửa hàng Bách hóa Bờ Hồ - 19 – Đinh Tiên Hoàng, Cửa hàng Bách hóa Bờ Hồ (61, 63 - Cầu Gỗ)…Tại những cửa hàng này khách hàng có thể được phục vụ với nhiều hình thức khác nhau như: mua tại cửa hàng, phân phối định kỳ, giao hàng tại nhà hoặc mua hàng qua thư tín, email. Hiện nay loại hình này không còn nhiều, mô hình tổ chức kinh doanh hầu như là để các tư thương thuê mặt bằng nên có nhiều hạn chế trong việc kiểm soát chất lượng, giá cả hàng hóa và các dịch vụ khách hàng, vì thế chưa thu hút được nhiều người tiêu dùng đến mua sắm do vậy cửa hàng bách hóa đang dần chuyển sang dạng cửa hàng chuyên doanh và chiết khấu hoặc tổ chức phương thức hoạt động. Hiện mô hình này không ảnh hưởng nhiều trong việc canh tranh đối với các siêu thị tại Hà Nội. Cửa hàng chuyên biệt (chuyên doanh): là loại cửa hàng chuyên môn hóa nhiều mặt hàng hay dịch vụ phục vụ khách hàng. Loại hình này dù chỉ giới hạn trong việc cung ứng một số mặt hàng nhất định nhưng đã tạo cho người tiêu dùng nhiều cơ hội lựa chọn từ danh mục hàng hóa khá đa dạng trong từng mặt hàng. Nhãn hiệu, kiểu dáng, kích thước, màu sắc của hàng hóa và chất lượng dịch vụ hỗ trợ khách hàng là phương tiện cơ bản để các cửa hàng chuyên biệt thu hút, tạo sự hấp dẫn với khách hàng. Loại cửa hàng này thường được tập trung ở các trung tâm mua sắm lớn, khu vực buôn bán ở nội thành, khu buôn bán chuyên biệt, cửa hàng dọc đường phố giao thông chính. Hiện nay loại hình bán lẻ này xuất hiện rất nhiều, hầu hết mọi đường phố ở Hà Nội đều có tuy mật độ và quy mô khác nhau. Như vậy, với ưu thế thuận lợi trong hoạt động của mình cửa hàng chuyên biệt sẽ là loại hình cạnh tranh thường xuyên đối với siêu thị. Tuy nhiên nó cũng có hạn chế như giới hạn về chủng loại hàng hóa và mặt bằng chật hẹp, nhất là chỗ để xe cho khách (như siêu thị Sao – 2B Phạm Ngọc Thạch, siêu thị trong trung tâm thương mại Cát Linh…), nên loại hình này phần nào đáp ứng tốt nhu cầu, điều kiện phục vụ người tiêu dùng đồng thời với vị trí, hình thức kinh doanh này phần nào ảnh hưởng đến cảnh quan, quy hoạch và giao thông đô thị. * Hệ thống chợ Chợ là loại hình thương mại truyền thống được duy trì, phát triển ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Ở Hà Nội, chợ giữ vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là vào thời điểm trước năm 2000, nó là đầu mối giao thông nội địa cho các khu vực phía Bắc. Hiện nay hệ thống chợ trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn đóng vai trò thiết thực trong việc phục vụ nhu cầu mua sắm trong sinh hoạt hàng ngày của người dân, tạo thêm sự phong phú sôi động trong lĩnh vực bán lẻ. Nhưng hiện loại hình thương mại truyền thống này cũng nảy sinh một số vấn đề phức tạp, nhất là chợ tự phát lấn chiếm lòng lề đường làm mất cảnh quan đô thị, thiếu văn minh. Hà Nội hiện có 135 chợ, trong đó có 9 chợ loại I, 20 chợ loại II và 101 chợ loại III, 7 quận nội thành có 63 chợ trên tổng diện tích 235.101 m2 và 5 huyện ngoại thành có 72 chợ trên diện tích 291.855 m2. Mặc dù trong những năm qua UBND thành phố đã tiến hành giải tỏa, di dời một số chợ nhưng do hiệu lực quản lý nhà nước chưa phát huy tác dụng nên hiện nay số lượng chợ gần như không giảm. Nhu cầu, thói quen mua sắm, sự thuận tiện và tiết kiệm thời gian mà vẫn có thể mua thực phẩm lo cho bữa ăn hàng ngày càng khiến nhiều chợ tự phát đã hình thành ở các khu vực dân cư, ngõ hẻm, đặc biệt là khu dân cư mới. Tuy nhiên do những hạn chế của loại hình bán lẻ này trong việc kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng hàng, vấn đề an toàn thực phẩm, an ninh, môi trường, không khí mua sắm… nên đã trở thành yếu tố bất lợi trong việc cạnh tranh với siêu thị khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển. Mặc dù vậy hiện nay chợ truyền thống vẫn là một trong những loại hình bán lẻ hàng hóa có khả năng cạnh tranh lớn nhất với sự phát triển của siêu thị. 2.2. Sự hình thành và phát triển siêu thị ở Hà Nội Từ năm 1995 trước yêu cầu đáp ứng đời sống xã hội siêu thị đã ra đời, đó là mô hình văn minh thương mại rất phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu năm 1995 trên địa bàn thành phố chỉ mới có 3 siêu thị thì đến nay đã có hơn 100 siêu thị. Qua thời gian hoạt động siêu thị dã thể hiện rõ nét một số mặt mạnh hơn hẳn so với các loại hình bán lẻ khác. Bảng 2.3: Sự phát triển của các siêu thị từ 1990-2005 Năm 1990 1993 2000 2001 2002 2004 2005 Hà Nội 0 3 25 32 - - 55 Thành phố Hồ Chí Minh 0 0 24 38 46 - 71 Nguồn: ADB, Siêu thị và người nghèo tại Việt Nam, 2.2.1. Từ năm 1995 đến 1998 Trong giai đoạn đầu của thời kì này, với mục tiêu “ tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thu nhập, phát triển thị trường theo định hướng XHCN thì việc tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hóa làm cho thương nghiệp thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã hội, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý, tăng tích lũy cho ngân sách nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân” ngành thương mại buôn bán có một vị trí hết sức quan trọng. Siêu thị ra đời và phát triển nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, góp phần hoàn thiện hệ thống phân phối thương nghiệp. Hai siêu thị lần đầu được khai trương ở Hà Nội là siêu thị thuộc trung tâm thương mại số 9 – Đinh Tiên Hoàng ( 1/1995 ) và siêu thị Minimart Hà Nội tầng 2 – chợ Hôm ( 3/1995). Tuy nhiên vào giai đoạn này có rất ít siêu thị được thành lập và hoạt động vẫn còn manh mún, có quy mô nhỏ với mục đích thăm dò, thử nghiệm và nắm bắt nhu cầu cũng như phản hồi của người dân thành phố đối với loại hình bán lẻ mới. *Từ năm 1996 đến năm 1998 Có thể thấy thời kỳ này bắt đầu xuất hiện đủ loại siêu thị với quy mô từ nhỏ đến lớn tập trung ở một số quận lưu thông hàng hóa như Ba Đình, Hoàn Kiếm…Từ năm 1997 siêu thị Fivimart – 17 Tông Đản (210 Quang Khải) quận Hoàn Kiếm với diện tích kinh doanh 3000m2 được đưa vào hoạt động. Hoạt động của một số siêu thị đã bắt đầu trở lên sôi động hơn, có tác động khá lớn đến việc hình thành, phát triển chung của mạng lưới siêu thị như Citimart – 6 Ngọc Khánh (tháng 8/ 1999 ), siêu thị Hà Nội Marco – 649 Kim Mã (tháng 5/1999), siêu thị Thiên Niên Kỷ - 94 Trần Quốc Toản (tháng 8/1999)… So với những năm trước, thời kì này mức sống và dân trí của người dân Hà Nội được nâng cao hơn, xu hướng mua sắm có sự thay đổi, người dân đã quen dần với phong cách mua sắm văn minh nên việc bán lẻ ở siêu thị có mức tăng trưởng cao. Bảng 2.4: Danh sách siêu thị được thành lập và khai trương đưa vào hoạt động trong thời kỳ này Siêu thị Năm thành lập Siêu thị Sao Hà Nội II ( 18 Hàng Bài ) 19/01/1997 Siêu thị 18 Hàng Bài ( 18 Hàng Bài ) 24/01/1997 Siêu thị Fivimart – 17 Tông Đản ( 210 Quang Khải) 04/12/1997 Siêu thị Citimart( HN Tower Shopping Center ) 23/04/1998 Siêu thị số 5 Nam Bộ ( số 5 Lê Duẩn ) 28/01/1999 Siêu thị Hà Nội Marco I ( 649 Kim Mã ) 05/1999 Siêu thị Citimart ( số 6 Ngọc Khánh ) 08/1999 Siêu thị Sinhanco ( 94 – Trần Quang Khải ) 08/1999 Siêu thị Hà Nội Seiyu ( số 8 Phạm Ngọc Thạch ) 01/10/1999 Siêu thị số Hà Nội Marco II 10/1999 2.2.2. Từ năm 1999 đến nay Cho đến nay, mặc dù các siêu thị đã được đầu tư và phát triển khá mạnh ở Hà Nội nhưng kết quả kinh doanh chưa cao do phần lớn siêu thị mới được đầu tư và thời gian hoạt động chưa nhiều, lượng khách thiếu ổn định. Chi phí đầu tư ban đầu của các doanh nghiệp nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện, quản lý và áp lực cạnh tranh quá lớn. Tuy nhiên, hoạt động của các siêu thị ở Hà Nội đã có nhiều khởi sắc so với việc buôn bán ở chợ và các loại hình bán lẻ khác như chất lượng đảm bảo hơn bởi mặt hàng nhập vào đều được kiểm tra đầy đủ, đặc biệt là đồ hộp và thực phẩm tươi sống nên đã thu hút được lượng khách nhiều hơn. Sự ra đời của hàng loạt siêu thị trong những năm gần đây làm cho lĩnh vực hoạt động kinh doanh loại hình này sôi động hẳn lên. Sự phát triển của siêu thị là minh chứng về trình độ tiêu dùng và mức thu nhập của nhiều tầng lớp nhân dân đã được nâng cao, tuy nhiên có thể thấy nhiều nguyên nhân khách quan khác làm cho siêu thị có thể thu hút được khách hàng như hàng kém chất lượng, hàng giả, việc mất trật tự an ninh… tại các chợ truyền thống đã tạo ra mặc cảm nơi người tiêu dùng và họ đã tìm thấy sự an toàn, thuận tiện khi đến với siêu thị. Việc ra đời của nhiều siêu thị đã tạo nên sự cạnh tranh rất lớn tất yếu sẽ có sự đào thải. Một số siêu thị được thiết lập nhưng còn thiếu kỹ năng quản lý, kinh nghiệm và chưa có chiến lược, chính sách kinh doanh phù hợp cùng với một số nguyên nhân khác đã không đủ khả năng duy trì, không thể trụ nổi phải lặng lẽ rút khỏi thương trường. Những siêu thị hoạt động có hiệu quả đã tìm được hướng đi phù hợp với đặc điểm môi trường kinh doanh và chú trọng các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Hoạt động của các siêu thị thu được thành công đã dần đi vào nề nếp và mang tính chuyên nghiệp hơn. Trong số siêu thị tồn tại vững vàng nhờ biết đi đúng hướng, có chiến lược, chính sách kinh doanh hợp lý phải kể đến các thương mại hiệu đã có tiếng như, quen thuộc với người dân như siêu thị Fivimart, siêu thị Hapro, siêu thị Citimart… Từ năm 2003, lĩnh vực kinh doanh siêu thị có sức hấp dẫn mạnh với các nhà đầu tư nước ngoài và họ đã nhập cuộc, đi đầu phải kể đến tập đoàn Bourbon, tập đoàn Metro. Theo nguồn tin từ bộ kế hoạch và đầu tư, hiện đã có một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đến khảo sát thị trường Việt Nam, bày tỏ sự quan tâm và có kế hoạch thực hiện trong đó có Tesco của Anh – tập đoàn bán lẻ thứ 6 thế giới. Ngoài ra, Wall – mart và Carrefoul, hai nhà bán lẻ nhất nhì thế giới cũng đã đưa Việt Nam vào kế hoạch mở rộng các siêu thị trọng điểm trong thời gian tới. Việc các nhà bán lẻ quốc tế xuất hiện với khả năng vốn lớn, kỹ thuật quản lý hiện đại, nhiều kinh nghiệm cũng như được sự hỗ trợ từ mạng lưới kinh doanh toàn cầu đang gây sức ép vào hệ thống phân phối nhỏ bé còn mang tính tự phát, thiếu bền vững của Việt nam. Tuy nhiên, sự góp mặt của các nhà đầu tư nước ngoài muốn kinh doanh siêu thị ở Việt Nam đã có tác động mạnh mẽ thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước phải cố gắng hơn nữa để có thể duy trì được vị thế hiện nay của mình và làm cho tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Từ năm 2000 đến nay việc phát triển siêu thị của các đơn vị trong nước đã có sự thận trọng hơn trong quyết định đầu tư. Vài siêu thị quy mô nhỏ không đủ khả năng cạnh tranh đã lần lượt rút lui. Ngược lại, các đơn vị kinh doanh thành công tiếp tục phát huy thế mạnh để tăng khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, đầu tư thành lập nhiều siêu thị mới như siêu thị Intimex, siêu thị Thăng Long, siêu thị citimart, siêu thị Favimart, siêu thị Hapro…Có thể nói sự ra đời và phát triển của siêu thị cũng phù hợp với sự tiến hóa của các loại hình bán lẻ. Tuy nhiên, sự phát triển siêu thị ở thành phố còn mang tính tự phát, mạnh ai đấy làm, hiệu quả hoạt động chưa cao và còn thiếu tính bền vững. Cơ quan quản lý cùng các đơn vị có liên quan đến sự phát triển loại hình này chưa có sự chỉ đạo, hướng dẫn và những quy định cụ thể để có kế hoạch phát triển đúng hướng vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa phù hợp với quy hoạch phát triển chung của thủ đô đất nước. Mặt khác, trước năm 2002 Hà Nội chưa có tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể để phân biệt rõ loại hình siêu thị với cửa hàng tự chọn và cũng không hề quy định như thế nào mới được gọi là siêu thị. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự nhìn nhận, đánh giá của người tiêu dùng, về tính ưu việt của loại hình siêu thị so với loại hình bán lẻ khác, làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của siêu thị. 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý kinh doanh siêu thị ở Hà Nội Việc phát triển siêu thị nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng và cũng với mục đích ngày càng kiện toàn hệ thống phân phối thương mại. Tuy nhiên thời gian qua, Hà Nội với sự tham gia rất đa dạng của loại hình kinh doanh bán lẻ hàng hóa như chợ truyền thống, cửa hàng bách hóa, cửa hiệu dọc đường phố, …thói quen của người tiêu dùng không những tạo ra áp lực cạnh tranh mà còn làm cho siêu thị hết sức lúng túng trong việc tổ chức quản lý, xác định mô hình hoạt động và quy mô phát triển. 2.3.1. Quy mô siêu thị Nếu phân loại theo quy chế siêu thị, trung tâm thương mại ban hành kèm theo quyết định số 1371/2004/ QĐ – BTM thì hiện cả nước có đến 33% số lượng siêu thị chưa đáp ứng được tiêu chuẩn phân hạng siêu thị, 44, 7% số siêu thị thuộc tiêu chuẩn hạng III, 11, 7% thuộc hạng II và chỉ có khoảng 10, 6% đạt tiêu chuẩn siêu thị hạng I. Hà Nội là một trong những thành phố có số siêu thị chiếm 38% số lượng siêu thị của cả nước với hơn 100 siêu thị trong đó chỉ có khoảng 3-4 siêu thị đạt tiêu chuẩn loại I, 10-12 siêu thị đại tiêu chuẩn loại II, còn hầu hết là loại III, thậm chí có khoảng 20% không đạt chuẩn siêu thị. Căn cứ vào diện tích mặt bằng kinh doanh của các siêu thị để phân loại và so sánh cho thấy các siêu thị ở Hà Nội có sự chênh lệch khá lớn về quy mô. Những siêu thị quy mô nhỏ và vừa như siêu thị Sao Hà Nội, siêu thị Hà Nội Marko, siêu thị Giảng Võ, ..được phân bổ ở khu vực nội thành. Tuy nhiên để phục vụ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng tại Hà Nội hiện nay thì quy mô của các siêu thị thị chưa đáp ứng được, tại một số siêu thị thường xảy ra tình trạng có quá đông khách hàng, đặc biệt vào dịp cuối tuần, lễ, tết, .. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do siêu thị quá nhỏ hoặc do số lượng siêu thị thị chưa đủ và phân bố không hợp lý. Tại Hà Nội cũng như các đô thị khác của cả nước, tình trang sử dụng phương tiện cá nhân như xe gắn máy là khá phổ biến thì các siêu thị ở thành phố hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về mặt bằng để có thể đáp ứng được yêu cầu giữ xe và bãi đậu xe ô tô của khách hàng, đây chính là trở ngại đối với người tiêu dùng trong việc lựa chọn đi mua sắm ở siêu thị hay các chợ, cửa hiệu dọc đường phố. STT Địa phương (địa chỉ) Tên cửa hàng Chủ sở hữu S_KD (m2) Vốn ĐTXD (Tr.đ) 1 17 Tông Đản Q.HK STFivimart Cty CP Nhất Nam Thuộc HAS (Hội ST Hà Nội) 3.000 350 2 10 Trần Vũ Q.BĐ ST Fivimart Trúc Bạch 3.000 3 163A Đại LaQ.HBT Fivimart Đại La 3.000 4 22-23 Lê Thái Tổ Q.HK ST Intimex Bờ Hồ TTTMại Intimex (Thuộc Tổng Cty XNK Intimex) 1.560 10.000 5 131-135 Hào Nam Q.BĐ ST Intimex Hào Nam 1.800 6 27 Lạc Trung Q.HBT ST Intimex Lạc Trung 1.600 7 649 Kim Mã Q.BĐ ST HN MartKo I Cty TNHH Phương Anh 1.000 8 379 Tây Sơn Q.BĐ ST HN MartKo II 1.000 9 148 Ngọc Khánh Q.BĐ ST HN MartKo III 1.036 Bảng 2.5: diện tích kinh doanh của một số siêu thị tại Hà Nội Khách hàng tự phục vụ là phương thúc bán hàng của siêu thị, điều này tạo ra tính kinh tế cho hoạt động của siêu thị đồng thời cũng thúc đẩy sự ham muốn đối với các mặt hàng có liên quan và các sản phẩm chính yếu khác, có tác động kích thích mua sắm do bị hấp dẫn. Hiện nay, các siêu thị ở Hà Nội đều áp dụng phương tức tự phục vụ, là phương thức bán lẻ thể hiện sự văn minh, tiến bộ, phù hợp với xu thế mua sắm của người dân trong thời đại công nghiệp. Ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, hiên nay vẫn còn nhiều người thích đi siêu thị không phải để mua hàng mà chỉ để đến chơi, tham quan, ngắm hàng hóa và hưởng không khí mát mẻ, nhộn nhịp ở siêu thị, điều này cũng cho thấy sức hấp dẫn và thu hút của khách hàng đối với siêu thị là rất lớn. Bán hàng theo phương thức tự phục vụ tạo điều kiện thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng, khiến họ cảm thấy hài lòng vì tạo được niềm vui khi đi mua hàng. Hiện nay các siêu thị tại Hà Nội đặc biệt là hệ thống Fivimart, Hapro… đều chú trọng đến việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, vì thế họ cố gắng thiết kế không gian bán hàng tiện nghi, thoải mái, hàng hóa bày trên kệ, tủ ngăn nắp, gọn gàng, dễ thấy, dễ lấy, dễ chọn lựa. Tuy nhiên do hạn chế về diện tích mặt bằng kinh doanh nên một số siêu thị trưng bày tại các quầy ở một số khu vực trong siêu thị qúa dày như Siêu thị Intershop Giảng Võ, Siêu thị Bách Khoa, Siêu thị 66 Bà Triệu…, hay việc siêu thị khai thác diện tích cho tư thương thuê mặt bằng đã làm ảnh hưởng đến không khí mua sắm, đôi khi khiến khách hàng cảm thấy khó chịu. Một vấn đề bất cập gây khó khăn cho các nhà quản lý siêu thị ở Hà Nội nói chung và Việt Nam nói riêng là nạn trộm cắp hàng hóa trong siêu thị. Để đề phòng và ngăn chặn vấn nạn này, các siêu thị thường quy định khách hàng phải gửi túi sách trước khi vào, luôn bố trí nhân viên bán hàng, bảo vệ túc trực ở các quầy. Dịch vụ này đã tạo cho khách hàng sự thoải mái, thuận tiện, an toàn khi chọn mua hàng hóa. Tuy nhiên nhiều nơi ngăn tủ còn quá nhỏ, khóa bị hỏng hoặc tủ quá ít mà lượng khách đến siêu thị lại đông nên nhiều người đã không vào mua hàng được chỉ vì lý do an toàn và không gửi được đồ ( như Siêu thị Vinaconex trong Trung tâm Thương mại Tràng Tiền). Đây cũng là một hạn chế mà các siêu thị cần nghiên cứu khắc phục. 2.3.3. Khách hàng của siêu thị Trong giai đoạn đầu khi mới mở cửa, hoạt động của các siêu thị ở Hà Nội mang tính chất thử nghiệm, thăm dò thị hiếu người tiêu dùng ( tâm lý người tiêu dùng Việt Nam thường ưa đồ ngoại ) nên thường bán hàng ngoại nhập với giá cao hơn bên ngoài rất nhiều vì vậy khách hàng đến với siêu thị trong giai đoạn đầu thường thuộc tầng lớp trung lưu. Nhưng với xu thế phát triển của nền kinh tế xã hội, các siêu thị đã chuyển cơ cấu hàng hóa kinh doanh theo hướng phổ cập để tiếp cận với đông đảo người tiêu dùng. Theo khảo sát, khách hàng của các siêu thị hiện nay đa số là những người có thu nhập từ trung bình trở lên và phần đông là công nhân viên chức, học sinh và sinh viên. Số lượng khách đến các siêu thị mua sắm hàng ngày trong tuần rất khác nhau từ một, hai trăm đến bảy, tám trăm lượt trên một ngày ở những siêu thị nhỏ và lên tới con số vài ngàn lượt người trên một ngày ở các siêu thị lớn. Thời gian khách hàng đến siêu thị thường tập trung vào buổi chiều và buổi tối, đặc biệt là thứ 7, Chủ nhật và ngày nghỉ lễ tết, số lượng khách đến siêu thị có thể tăng lên 3000 – 4000 lượt người/ngày. Tại siêu thị như siêu thị Marko, Đê La Thành, mỗi ngày có gần 1.000 lượt người ra vào mua sắm Tết. Nhất là những ngày nghỉ, khách hàng đứng chen chúc tại các quầy hàng. Nhân viên các bàn thu tiền làm việc cật lực từ sáng đến tối, không lúc nào ngừng nghỉ. Theo một nhân viên phòng tiếp thị của siêu thị, từ đầu tháng 10, Marko đã liên tục nhập về các mặt hàng như đường sữa, rượu bia, hoa quả. Bên cạnh các loại sản phẩm truyền thống như hạt dưa, bí, hướng dương... còn có sự góp mặt của các loại mứt táo, nho khô, hạt điều, hạt bàng, rượu nhập về từ Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Thái Lan...Đây là dấu hiệu cho thấy việc mua sắm ở siêu thị đã và đang trở thành xu thế chung của người dân thành phố, xu thế văn minh, tiện lợi. Tại siêu thị BigC, được biết, cận Tết, mỗi ngày siêu thị đón tiếp khoảng 40.000 – 50.000 lượt người. Lúc cao điểm, có đến 10.000 người đang mua sắm. Giá trị một lần mua sắm của khách hàng rất khác nhau. Thời gian đầu khi siêu thị mới xuất hiện, giá hàng ở đây thường cao hơn so với bên ngoài 7% - 10% nên người tiêu dùng còn hạn chế sức mua, chủ yếu đi xem, giải trí chứ không nhằm mục đích mua sắm. Căn cứ trị giá trung bình một lần đi mua sắm tại siêu thị cho thấy có 4, 2% số người mua hàng với số tiền dưới 50000, 34, 5% từ 50.000 – 100.000, 52, 1% từ 100.000 – 500.000, 8, 4% từ 500.000 – 1000.000, 0, 8% trên 1000.000. 2.3.4. Hàng hóa trong siêu thị Hàng hóa trong siêu thị phần lớn là hàng tiêu dùng thông thường ( thực phẩm và đồ gia dụng ), cơ cấu tương đối phù hợp với các siêu thị trên thế giới nói chung. Loại hàng thông dụng mà khách hàng thường mua ở siêu thị là đồ hộp, lương thực thực phẩm chế biến, thực phẩm công nghệ ( đường, sữa, bánh kẹo, dầu ăn…) và các mặt hàng phục vụ nhu cầu sử dụng hàng ngày như ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6163.doc
Tài liệu liên quan