Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập ngày nay, việc mở rộng thị trường, phát triển sản phẩm là một điều tất yếu.Do đó mỗi doanh nghiệp phải tận dụng những thế mạnh của mình để chiếm lĩnh thị trường mang lại sức mạnh và lợi thế cho mình.
Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà sau hơn 40 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành đã từng bước khẳng định mình là một trong những đơn vị có vị thế cạnh tranh trong ngành bánh kẹo. Sản phẩm của Công ty rất đa dạng, nhiều chủng loại và có mặt hầu như trên khắp mọi mi
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển sản phẩm thức ăn nhanh tại Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền đất nước.Tuy vậy công ty vẫn luôn nỗ lực tìm ra thị trường mới cho mình. Đặc biệt với những thế mạnh hiện có về kỹ thuật, máy móc và con người thì việc đáp ứng những nhu cầu ẩm thực của khách hàng là hoàn toàn có thể. Hiện nay, tại Hà Nội nhu cầu ăn nhanh đang phát triển mạnh mẽ, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu đề tài “Phát triển sản phẩm thức ăn nhanh tại Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà tại Hà Nội”. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm đưa sản phẩm thức ăn nhanh ra thị trường đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1- Tổng quan về Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà
Chương 2- Thực trạng về nhu cầu thức ăn nhanh tại Hà Nội
Chương 3- Giải pháp phát triển sản phẩm “Thức ăn nhanh” của công ty tại Hà Nội
Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các cô, chú, anh, chị của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà và sự hướng dẫn tận tình của Ths. Nguyễn Thị Hoài Dung. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Do hạn chế về thời gian thực tập, lại thiếu kinh nghiệm thực tế và vốn kiến thức có hạn nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi nhỏ . Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đơn vị thực tập, của thầy cô và mọi người để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG1- TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà
1.1.1. Giới thiệu chung
1.1.1.1.Tên công ty
Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp chuyên sản xuất bánh kẹo lớn nhất tại Việt Nam, sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng bình chọn là “Hàng Việt Nam chất lượng cao” qua nhiều năm gần đây, Công ty cũng là doanh nghiệp đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất bánh kẹo được cấp chứng nhận hệ thống “Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn” (HACCP) tại Việt Nam.
Tên doanh nghiệp: Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà
Tên giao dịch quốc tế: Haiha Confectionery Jiont- Stock Company (Haihaco)
Tên viết tắt tiếng Anh: HAIHACO,.JSC
1.1.1.2.Địa chỉ giao dịch
Trụ sở chính: 25 Trương Định- Hai Bà Trưng- Hà Nội
Điện thoại: 84- 4- 8632041 Fax: 84- 4- 8638730
Chi nhánh và các nhà máy trực thuộc:
Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh- 778/13 Nguyễn Kiệm- P4 Quận Phú Nhuận - Điện thoại: (08)8955854 – Fax: (08)9855854
Chi nhánh tại Đà Nẵng- 134 Phan Thanh, Quận Thanh Khê – Điện thoại: (511)652244 – Fax: (511)650244
Nhà máy thực phẩm Việt Trì- Thành phố Việt Trì- Tỉnh Phú Thọ
Nhà máy bột dinh dưỡng Nam Định – Thành phố Nam Định
Tài khoản ngân hàng: 1020-10000-54566 tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân, Hà Nội
Mã số thuế: 0100100914-1
Email: haihaco@hn.vnn.vn
Website: www.haihaco.com.vn
1.1.1.3.Hình thức pháp lý
Trước đây công ty là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước. Sau khi có chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, công ty đã chuyển sang hình thức công ty cổ phần với 51% vốn của nhà nước
1.1.2.Các giai đoạn phát triển
Khi mới thành lập, công ty chưa sản xuất bánh kẹo mà mặt hàng đầu tiên là miến làm từ đậu xanh. Quá trình ra đời và phát triển của doanh nghiệp có thể tóm tắt như sau:
1.1.2.1.Giai đoạn 1959-1960
Đầu năm 1959 Tổng Công ty Nông thổ sản Miền Bắc đã cho xây dựng một cơ sở thực nghiệm nghiên cứu hạt chân châu, với số lượng lao động ban đầu là 9 cán bộ công nhân viên do Tổng Công ty cử sang. Nhưng sau đó, để phục vụ nhu cầu của nhân dân Công ty lại chuyển sang nghiên cứu và sản xuất mặt hàng miến từ đậu xanh. Ngày 25 tháng 12 năm 1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời, đây là thời điểm đánh dấu một bước ngoặt cho quá trình phát triển sau này.
1.1.2.2.Giai đoạn 1961-1967
Trong thời kỳ này xưởng miến Hoàng Mai đã có sự phát triển đáng kể cả về nguồn lực và chủng loại sản phẩm, ngoài việc sản xuất mặt hàng chính là miến công ty còn chủ trương nghiên cứu và đưa vào sản xuất thành công mặt hàng xì dầu. Năm 1966, theo quyết định của Bộ công nghiệp nhẹ xí nghiệp đổi tên thành Nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà thuộc Bộ lương thực quản lý. Từ đó, Công ty ngày càng đáp ứng nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng của người dân với cơ cấu mặt hàng phong phú như nước chấm lên men, nước chấm hoa quả, tương, viên đạm, bột dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt Công ty còn đưa vào nghiên cứu mạch nha- đây là cơ sở để Công ty trở thành Công ty bánh kẹo sau này.
1.1.2.3. Giai đoạn 1968-1991
Giai đoạn này nhà máy có khá nhiều sự thay đổi:
Tháng 6 năm 1970, sau chỉ thị của Bộ lương thực thực phẩm tiếp nhận phân xưởng kẹo 900tấn/năm của Hải Châu nhà máy đổi tên thành nhà máy thực phẩm Hải Hà. Lúc này, toàn bộ số lượng cán bộ công nhân viên đã tăng lên gần 600 người và thực hiện những nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo, mạch nha, tinh bột.
Tháng 12 năm 1976 nhà máy phê duyệt phương án thiết kế mở rộng nhà máy thực phẩm Hải Hà với công suất thiết kế là 6000tấn/năm.
Năm 1980, thực hiện Nghị Quyết TW6 khoá V nhà máy chính thức thành lập bộ phận sản xuất phù trợ là rượu, ngay sau đó bộ phận này đã tiến hành nghiên cứu thiết kế và đi vào sản xuất.
Năm 1981, Nhà máy đổi tên thành Nhà máy thực phẩm Hải Hà trực thuộc Bộ công nghiệp thực phẩm quản lý.
Sau thời kỳ đổi mới, năm 1987 Nhà máy đổi tên thành Nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà trực thuộc Bộ công nghệ và công nghiệp thực phẩm quản ly. Trong thời gian này, sản phẩm của công ty không những đáp ứng thị trường trong nước mà còn xuất khẩu một lượng lớn đặc biệt là ở thị trường Đức, Liên Xô, Trung Quốc…
1.1.2.4.Giai đoạn 1992- nay
Đây là thời kỳ nền kinh tế mở cửa nên Nhà nước có những chính sách thông thoáng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Tận dụng điều kiện thuận lợi đó, công ty có những quyết định táo bạo nhằm thu hút vốn, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất…tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Cũng trong giai đoạn này nhà máy chính thức đổi tên thành nhà máy bánh kẹo Hải Hà.
Tháng 7 năm 1992, theo Quyết Định số 216/CNN-LĐ của Bộ công nghiệp nhẹ nhà máy đổi tên thành Công ty bánh kẹo Hải Hà với tên giao dịch là HaiHaCo thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý.
Năm 1993, Công ty liên doanh với Nhật Bản thành lập Công ty liên doanh Hải Hà_Kotobuki.
Năm 1995, Công ty liên doanh với Hàn Quốc thành lập Công ty liên doanh Hải Hà_Miwon.
Tháng 9 năm 1995, Công ty sát nhập với nhà máy thực phẩm Việt Trì thành một phân xưởng chuyên sản xuất thực phẩm của Công ty đặt tại Việt Trì.
Tháng 7 năm 1996, Công ty sát nhập với nhà máy bột dinh dưỡng Nam Định thành một phân xưởng của Công ty đặt tại Nam Định.
Năm 2004, thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của chính phủ và theo Quyết Định số 192/2003/QĐ_BCN ngày 14/01/2003 của Bộ công nghiệp Công ty chuyển đổi thành Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà và hoạt động cho đến nay.
1.1.3.Chức năng nhiệm vụ của công ty
Chức năng: Là công ty vừa sản xuất vừa kinh doanh bánh kẹo nên công ty giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý đầu ra và đầu vào của dây chuyền sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Sản xuất, kinh doanh các loại bánh kẹo phục vụ mọi tầng lớp nhân dân và một phần xuất khẩu.
Nhiệm vụ: Thực hiện Nghị Quyết hội nghị 7 khóa VI của BCHTW ĐCSVN về CNH-HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Công ty đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Chấp hành mọi quyết định, các chế độ chính sách về quản lý và sử dụng tiền vốn, tài sản, bảo đảm duy trì và phát triển nguồn vốn, nộp Ngân sách đúng quy định.
Tăng cường đầu tư chuyên sâu, không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng năng suất lao động.
Đầu tư công nghệ sản xuất tiên tiến, đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn tay nghề giỏi đặc biệt đội ngũ nhân viên thị trường.
Bảo vệ uy tín của doanh nghiệp, thực hiện đúng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường theo quy định của Nhà nước.
1.2.Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty
1.2.1.Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty
Bộ máy tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng. Các phòng chức năng có nhiệm vụ tham mưu cho các cấp lãnh đạo song không ra lệnh cho các phân xưởng sản xuất, mỗi phòng đảm nhiệm một chức năng nhất định. Các quyết định quản lý do các phòng chức năng (phòng kế nhoạch thị trường, phòng tài vụ…) nghiên cứu đề xuất. Khi được lệnh của thủ trưởng sẽ truyền từ trên xuống dưới.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Ban kiểm soát
Các phòng, ban, phân xưởng
Ban giám đốc
Các phòng ban
Các phân xưởng
Phòng hành chính
Phòng tài vụ
Phòng kế hoạch - thị trường
Phòng vật tư
Phòng kỹ thuật
Ban bảo vệ
XN Hà Nội
XN Việt Trì
XN Nam Định
Cửa hàng giới thiệu sản phẩm
Chi nhánh miền Trung
Chi nhánh miền Nam
XN Kẹo
XN Bánh
XN phù trợ
Nguồn: Báo cáo về phương án cổ phần hóa
12/2203-Phòng Hành chính
1.2.2.Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận
Đứng đầu bộ máy quản trị là tổng giám đốc, tiếp đến là phó GĐ tài chính và phó GĐ kinh doanh
Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty, có nhiệm vụ điều hành chung mọi hoạt động của công ty. Giám đốc trực tiếp phụ trách các phòng ban nghiệp vụ như phòng hành chính, kỹ thuật…
Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc, và bộ máy quản lý của công ty.
Công ty có 6 phòng ban: văn phòng,phòng hành chính, phòng kỹ thuật, phòng vật tư, phòng kế hoạch thị trường, ban bảo vệ
Phòng kế hoạch thị trường có nhiệm vụ lập kế hoạch sản xuất kinh doanh , cân đối kế hoạch, điều độ sản xuất, ký hợp đồng và theo dõi thực hiện hợp đồng, tổ chức thăn dò thị trường, xây dựng các chiến lược tiếp thị, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, lập các phương án phát triển thị trường…
Phòng tài vụ có chức năng huy động vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Xác định giá thành sản phẩm, xác định kết quả kinh doanh, thanh toán các khoản nợ vay và trả, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước.
Phòng kỹ thuật có chức năng theo dõi việc thực hiện quá trình công nghệ bảo đảm chất lượng, mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu và thử nghiệm sản phẩm mới, đảm bảo kỹ thuật của dây truyền sản xuất…
Công ty có 6 xí nghiệp: xí nghiệp kẹo, xí nghiệp bánh, xí nghiệp kẹo Chew, xí nghiệp phù trợ, xí nghiệp thực phẩm Việt Trì, xí nghiệp bột dinh dưỡng Nam Định.
1.3. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty
1.3.1.Đặc điểm sản phẩm
1.3.1.1.Cơ cấu sản phẩm
Hiện nay, sản phẩm chính của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà là các loại bánh kẹo, ngoài ra còn sản xuất bột dinh dưỡng trẻ em, mứt và bánh trung thu. Trong đó, cơ cấu bánh kẹo là 7 kẹo-3 bánh với nhiều chủng loại phong phú.
Sản phẩm bánh: Được chia thành 3 loại là bánh biscuits, bánh cracker, kem xốp. Trong đó, biscuits gồm các loại dừa sữa, bông cúc, thuỷ tiên…; cracker gồm vennussa, bisavita, paradise…; kem xốp gồm taro, sôcôla, speed cam…
Sản phẩm kẹo: Được chia thành 3 loại là kẹo cứng, kẹo xốp mềm, kẹo dẻo. Trong đó, kẹo cứng bao gồm kẹo waltdisney, kẹo me và hương hoa quả các loại. Kẹo mềm là các loại kẹo chew, kẹo bắp, kẹo café, kẹo dứa, kẹo dâu… Kẹo dẻo gồm jelly, chip chip, kẹo gôm, mè xửng…
Ngoài ra, vào dịp trung thu và tết Nguyên Đán công ty còn sản xuất thêm mặt hàng là bánh trung thu và mứt.
1.3.1.2. Đặc điểm sản phẩm
Bánh kẹo là loại sản phẩm mùa vụ, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu đầu vào, đặc biệt yếu tố thời tiết có tác động lớn đến sản phẩm. Nếu thời tiết ẩm ướt dễ làm cho sản phẩm kẹo biến dạng, chua và chảy nước, bánh thì mềm nhũn ngược lại nếu nhiệt độ quá cao sản phẩm dễ bị cứng, không giữ được chất lượng như ban đầu nên cần phải bảo quản trong môi trường khô ráo, thoáng mát. Hơn nữa, trong quá trình vận chuyển cần tránh va đập mạnh để sản phẩm không bị biến dạng (vỡ nát, méo mó…). Chính vì vậy, đảm bảo nguyên liệu đầu vào có chất lượng sẽ quyết định đến chất lượng sản phẩm, cũng như vật liệu bao gói và quá trình vận chuyển, bảo quản sản phẩm là rất quan trọng.
Bánh kẹo không phải là mặt hàng thiết yếu, nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh vào quý một và quý bốn, đặc biệt là các dịp liên hoan, lễ tết. Các yếu tố màu sắc, mùi vị, kiểu dáng, bao gói có tác động lớn đến tiêu thụ sản phẩm. Thành phần chủ yếu của bánh kẹo bao gồm đường, mạch nha, sữa, hương liệu…với một tỷ lệ nhất định nhưng lượng đường luôn chiếm trên 50%. Các nguyên liệu này dễ bị vi sinh phá huỷ nên khó bảo quản, thời gian sử dụng ngắn.
Hơn nữa, nhu cầu, sở thích của khách hàng là rất đa dạng và phong phú, nó quyết định chính sách phát triển sản phẩm của Công ty. Do đó, chiến lược phát triển theo hướng đa dạng hoá với nhiều sản phẩm đang được áp dụng trong sản xuất.
1.3.2.Đặc điểm về thị trường tiêu thụ
Mạng lưới tiêu thụ của Công ty rất rộng rãi, trải khắp 3 miền trong cả nước. Thị trường miền Bắc là thị trường lớn, ổn định và chủ yếu của Công ty nhất là thành phố Hà Nội, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu. Thị trường miền Trung có dung lượng tiêu thụ ít hơn thị trường miền Bắc và kém ổn định hơn. Thị trường miền Nam chỉ tiêu thụ một lượng nhỏ. Ngoài ra, Công ty còn xuất khẩu sang các thị trường Đức, Nga, Malaixia…, tuy sản lượng chưa nhiều nhưng mục tiêu của Công ty trong những năm tới là phát triển hơn nữa thị trường quốc tế.
Căn cứ vào đặc điểm sản phẩm, khách hàng mục tiêu và đối thủ cạnh tranh công ty sử dụng ba kiểu kênh phân phối chính như sau:
Sơ đồ 2: Kênh phân phối của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà
Công ty
Người tiêu dùng
Nhà bán lẻ
Nhà bán buôn
Nhà bán lẻ
Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường
Kênh phân phối trực tiếp: Công ty đưa sản phẩm của mình trực tiếp đến tay người tiêu dùng thông qua các cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc các hội chợ triển lãm. Thông qua kiểu kênh phân phối này doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc khách hàng từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng về chủng loại, mẫu mã, giá cả sản phẩm. Hiện nay lượng tiêu thụ qua kênh này chỉ chiếm khoảng 10%.
Kênh phân phối một cấp: Thông qua nhà bán lẻ Công ty cung ứng sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng. Các nhà bán lẻ ở đây là các siêu thị như siêu thị Metro, siêu thị Fivimart… và một số cửa hàng nhỏ lẻ khác. Sản lượng tiêu thụ qua kênh này chiếm khoảng 21%.
Kênh phân phối hai cấp: Sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua các đại lý và các cửa hàng bán lẻ. Kênh phân phối này là kênh phân phối chủ yếu của công ty. Năm 2005, công ty có khoảng 200 đại lý tại 32 tỉnh thành trong cả nước, trong đó miền Bắc chiếm khoảng 145 đại lý còn lại là thị trường miền Trung và miền Nam.
Với ba kiểu kênh phân phối như trên, công ty sẽ giảm được rủi ro trong quá trình phân phối cũng như chi phí vận chuyển, xúc tiến khuyếch trương sản phẩm, thiết lập các mối quan hệ từ đó tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm năng.
1.3.3.Đặc điểm về nguồn vốn
Vốn kinh doanh là vấn đề lớn mà nhiều công ty quan tâm. Đối với Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà nguồn vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu là vốn chủ sở hữu và vốn vay ngân hàng. Chính vì vậy, phải sử dụng sao có hiệu quả nhất nguồn vốn hiện tại.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu tài chính
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Tỷ lệ nợ (=vốn vay/ VKD)
0.349
0.343
0.351
0.354
0.367
Doanh lợi vốn chủ sở hữu
(=lợi nhuận/ VCSH)
0.13
0.145
0.159
0.135
0.168
Doanh lợi tổng vốn (=lợi nhuận/ VKD)
0.084
0.095
0.103
0.087
0.109
Nguồn: Phòng tài vụ
Qua bảng số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng:
Tỷ lệ nợ của công ty duy trì ở mức tương đối ổn định, trung bình là 0,345. Tỷ lệ này hoàn toàn có thể chấp nhận được vì vốn vay chủ yếu là vốn ngắn hạn, còn tài sản cố định của công ty thường được đầu tư bằng vốn chủ sở hữu.
Doanh lợi vốn sở hữu và doanh lợi vốn kinh doanh trong 4 năm 2001- 2005 càng ngày càng tăng, chứng tỏ doanh nghiệp doanh nghiệp ngày càng làm ăn có hiệu quả. Riêng năm 2005, do chi phi đầu vào sản xuất tăng cao nên lợi nhuận giảm đáng kể làm cho 2 chỉ tiêu trên giảm.Đến năm 2006 thị trương tiêu thụ nhiều sản phẩm làm chi phí sản xuất tăng nhưng đồng thời doanh lợi cũng tăng cao nhất trong những năm gần đây. Điều này cho thấy vị thế của công ty ngày càng được củng cố và đẩy mạnh trước ngưỡng cửa hộ nhập.
1.3.4.Đặc diểm về lao động
Do đặc điểm của sản phẩm mang tính mùa vụ nên lao động của công ty cũng chia thành 2 loại là lao động dài hạn và lao động ngắn hạn, trong đó lao động ngắn hạn bao gồm lao động hợp đồng 1-3 năm và lao động tạm thời.
Bảng 2. Cơ cấu lao động Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà 2002- 2006
Phân loại
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Người
%
Người
%
Người
%
Người
%
Người
%
I. Theo thời gian lao động
LĐ dài hạn
1332
79.6
1330
78.01
1274
70.19
1263
66.8
1255
66.93
LĐ ngắn hạn
341
20.4
375
21.99
541
29.81
627
33.2
620
33.07
II. Theo trình độ
ĐH trở lên
126
7.5
132
7.74
142
7.82
151
7.9
153
8.16
Dưới ĐH
1547
92.5
1573
92.26
1673
92.18
1739
92.1
1722
91.84
III. Theo giới tính
Nam
399
23.8
460
26.98
521
28.71
565
29.9
572
30.51
Nữ
1274
76.2
1245
73.02
1294
71.29
1325
70.1
1303
69.49
Tổng số lao động
1673
100
1705
100
1815
100
1890
100
1875
100
Nguồn: Phòng hành chính
Nhận xét:
Về chất lượng lao động cũng ngày càng được cải thiện, lượng lao động từ đại học trở lên tăng dần, tay nghề của người lao động cũng ngày càng được nâng cao. Năm 2005, lao động trên đại học là 151 người, chiếm 7.9%. Đây là tiền đề để nâng cao năng suất lao động, từ đó giảm chi phí sản xuất sản phẩm bình quân góp phần hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay, các cán bộ phòng vật tư có trình độ từ cao đẳng trở lên, hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ, là cơ sở đảm bảo công tác hậu cần thực hiện có tốt.
Xét về giới tính thì lao động nữ trong công ty luôn chiếm gần 70% trong tổng số lao động. Vấn đề này đặt ra doanh nghiệp phải quan tâm nhiều hơn tới chế độ bảo hiểm, y tế cho người lao động vì lao động nữ thường ốm đau, thai sản. Tuy nhiên, do đặc tính cần cù, chịu khó của người phụ nữ nên các công việc luôn được thực hiện tốt, có hiệu quả.
tổng số lao động của toàn công ty ngày càng tăng, năm 2006 đạt 1875 lao động. Đặc biệt, năm 2004 tăng 110 lao động hay 6.5% so với năm 2003. Nguyên nhân là do quy mô sản xuất của công ty ngày càng mở rộng, nhất là năm 2004 đầu tư thêm dây chuyền sản xuất kẹo chew lớn và hiện đại.
Qua sự phân tích trên có thể kết luận rằng nguồn lao động của công ty mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đây là một trong những ưu thế của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà được phát huy trong quá trình phát triển của doanh nghiệp.
1.3.5.Đặc điểm nguyên vật liệu
Thị trường nguyên vật liệu được phân thành hai thái cực rõ ràng. Thị trường trong nước thì phổ biến với những loại nguyên vật liệu thô, dễ kiếm nên công tác hậu cần được thực hiện một cách dễ dàng, còn đối với những nguyên vật liệu được tinh chế phức tạp, khan hiếm thì Công ty phải hướng ra thị trường ngoài nước. Công ty thường bị sức ép từ các nhà cung ứng này về giá cả hay quá trình vận chuyển nguyên vật liệu. Sự khác nhau đó đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt trong công tác hậu cần nguyên vật liệu. Về chủng loại nguyên vật liệu thì thị trường trong nước cung cấp cho Công ty khoảng 70%, còn lại là thị trường ngoài nước.
Nguyên liệu được sử dụng rất phong phú như đường, tinh bột, sữa, nha, bột mỳ, tinh dầu… và các loại hương liệu, nhưng nguyên liệu chính là đường vì lượng đường trong sản phẩm chiếm khoảng 50%. Các nguyên liệu này hầu hết là khó bảo quản, tránh ẩm ướt và nhiệt độ cao, cần được cất giữ cẩn thận trước khi đưa vào sản xuất. Vì vậy, công tác hậu cần lưu kho cần hết sức được quan tâm.
Nguồn cung ứng chủ yếu trong nước nhưng một số phụ gia phải nhập từ nước ngoài vì nguồn hàng trong nước hiếm.
Đường kính: Chiếm tỷ trọng lớn vì đặc điểm của bánh kẹo là ngọt nên đường đóng vai trò quan trọng trong thành phần của sản phẩm. Nguồn cung ứng hoàn toàn trong nước, chủ yếu từ Công ty mía đường Lam Sơn, Công ty đường Bình Định, Nhà máy đường Quảng Ngãi. Đây là một điều kiện thuận lợi cho công tác hậu cần vì Công ty dễ dàng lựa chọn nhà cung ứng và chủ động được nguyên liệu.
Bột mỳ: Đây là loại nguyên liệu chủ yếu của sản phẩm bánh, với nguồn cung cấp trong và ngoài nước. Đối với loại nguyên liệu này thì công tác hậu cần sẽ phức tạp hơn và sẽ tăng chi phí nhập khẩu.
Váng sữa, sữa bột: Là loại nguyên liệu phải nhập khẩu hoàn toàn nên việc mua sắm, vận chuyển rất phức tạp, còn tăng chi phí đầu vào. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng sản phẩm thì Công ty vẫn luôn phải đảm bảo nguồn hàng này.
Đối với các nguyên vật liệu khác thì tùy từng nhà cung ứng mà Công ty sẽ có hoạt động hậu cần cho phù hợp
Các vật liệu bao gói là PP-OPP, metalize PVC, cellophane…, chủ yếu do công ty đặt hàng chứ không tự sản xuất. Ngoài ra, phân xưởng phụ trợ còn có bộ phận phục vụ cho việc bao gói sản phẩm.
Hơn nữa, do đặc điểm của nguyên vật liệu quyết định nhiều đến sản phẩm nên đảm bảo nguồn nguyên liệu đầy đủ và có chất lượng sẽ giúp cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn.
1.3.6.Đặc điểm về máy móc, thiết bị
Do là một doanh nghiệp sản xuất nên hệ thống thiết bị công nghệ của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà khá nhiều. Ngoài cơ sở vật chất đã có Công ty còn liên tục đầu tư đổi mới các máy móc thiết bị sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cũng như cải tiến mẫu mã sản phẩm. Đặc biệt, Công ty tập trung đầu tư vào hai dây chuyền sản xuất kẹo chew và đã đem lại thành công lớn cho Công ty, doanh thu được tăng lên đáng kể, tạo dựng uy tín với khách hàng.
Các loại thiết bị sản xuất chính như sau:
Bảng 3: Máy móc thiết bị đang sử dụng
STT
Tên thiết bị
Nguồn gốc
Năm đưa vào sử dụng
1
Máy trộn nguyên liệu
Trung Quốc
1960
2
Máy quật kẹo
Trung Quốc
1960
3
Máy cán
Trung Quốc
1960
4
Máy sàng
Trung Quốc
1960
5
Máy cắt
Việt Nam
1960
6
Máy nâng khay
Việt Nam
1960
7
Máy sấy bột
TQ, ViệtNam
1965
8
Nồi sấy WK4
Ba Lan
1966
9
Nồi nấu liên tục sản xuất kẹo cứng
Ba Lan
1977
10
Nồi hòa đường CK22
Ba Lan
1978
11
Nồi nấu nhân CK22
Ba Lan
1978
12
Nồi nấu kẹo chân không
Đài Loan
1979
13
Máy gói kẹo cứng
Italia
1990
14
Máy gói kẹo mềm
Hà Lan
1995
15
Dây chuyền sản xuất kẹo CAA6
Ba Lan
1996
16
Dây chuyền sản xuất kẹo Jelly đổ khuôn
Autralia
1996
17
Dây chuyền sản xuất kẹo Jelly đổ cốc
Inđônêxia
1997
18
Dây chuyền sản xuất kẹo Caramen
Đức
1998
19
Dây chuyền sản xuất kẹo Biscuit
Italia
1992
20
Dây chuyền phủ Sôcôla
Đan Mạch
1992
21
Dây chuyền sản xuất kẹo Cracker
Đan Mạch
1994
22
Máy đóng gói bánh
Nhật Bản
2000
23
Dây chuyền sản xuất kẹo Chew
Nhật Bản
2002, 2004
24
Máy trong xí nghiệp phụ trợ
TQ,Việt Nam
1967
25
Dây chuyền sản xuất bánh kem xốp
Nhật Bản
1992
26
Máy gói xoắn
Đức
1976
Nguồn: Phòng kỹ thuật
Các yếu tố về quy trình sản xuất cũng như công suất của máy móc có ảnh hưởng đến công tác hậu cần, cụ thể là ảnh hưởng đến mức tiêu hao nguyên vật liệu từ đó ảnh hưởng đến khối lượng cung ứng nguyên vật liệu của Công ty. Qua bảng trên cho thấy, trong những năm gần đây, Công ty liên tục đầu tư những trang thiết bị hiện đại từ Nhật Bản, Đức, Italia... nhằm tiết kiệm và giảm bớt khối lượng mua sắm nguyên vật liệu, tạo thuận lợi cho công tác hậu cần nguyên vật liệu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn còn một số thiết bị công nghệ nhập từ những năm 60 như máy trộn nguyên liệu, máy sàng...đã hết thời gian khấu hao nhưng Công ty vẫn để sử dụng; điều này gây nhiều bất cập trong sản xuất nhất là việc sử dụng nguyên vật liệu không hiệu quả nên phòng vật tư rất vất vả trong việc tìm nguồn hàng, mua sắm với khối lượng và chủng loại nhiều.
1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty những năm gần đây
1.4.1.Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả của công ty
Công ty bánh kẹo Hải Hà từ một phân xưởng nhỏ với 9 cán bộ công nhân viên nay đã trở thành một doanh nghiệp lớn với 1890 lao động vào năm 2006. Trải qua hơn 40 năm phát triển, Công ty đã gây dựng được một tiềm lực kinh tế mạnh với số lượng máy móc thiết bị khá hiện đại, nguồn vốn sản xuất kinh doanh lớn, lao động có tay nghề và chuyên môn giỏi…Có được thành quả đó là do công ty đã biết khắc phục khó khăn, tận dụng tối đa những cơ hội có được trong điều kiện hoàn cảnh của doanh nghiệp.
Bảng 4: Một số chỉ tiêu chủyếu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Năm và so sánh
Doanh thu(trđ)
Lợi nhuận (trđ)
Thu nhập bình quân lao đông trong tháng
Nộp Ngân sách(trđ)
2002
272835
11830
1.12
10510
2003
281023
13450
1,235
11325
2003/2002
Trđ
8188
1620
0.115
815
%
3.001
13.69
10.27
7.755
2004
295668
15541
1,515
18179
2004/2003
Trđ
14645
2091
0.28
6854
%
5.211
15.55
22.67
60.52
2005
308965
13167
1,432
17968
2005/2004
Trđ
13297
-2374
-0.083
-211
%
4.497
-15.3
5.5
-1.16
2006
333682
17516
1,673
19784
2006/2005
Trđ
24717
4349
0.241
1816
%
7.9
33.02
16.83
10.1
Nguồn: Phòng tài vụ
Nhận xét :
Nhìn chung, các chỉ tiêu qua các năm đều tăng, điều đó thể hiện tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng hiệu quả.Thu nhập của người lao động ngày càng tăng, đóng góp vào Ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều.
Trong cơ cấu tiêu thụ sản phẩm thì sản phẩm kẹo mềm luôn đứng đầu, nhưng sau khi dây chuyền sản xuất kẹo chew đi vào hoạt động thì lượng tiêu thụ kẹo chew tăng đột biến, tạo nên “cơn sốt” về mặt hàng này trên thị trường
Bảng 5.Cơ cấu sản phẩm tiêu thụ năm 2004
Sản phẩm
Kẹo mềm
Kẹo cứng có nhân
Bánh biscuits
Bánh cracker
Bánh kem xốp
Kẹo chew
Kẹo jelly con giống
Tổng
Tiêu thụ
Sản lượng(tấn)
3182
1780
1614
1521
1403
3666
516
13682
Tỷ lệ(%)
23.26
13.01
11.8
11.117
10.254
26.79
3.7714
100
Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường
Năm 2004, sản lượng tiêu thụ bánh kẹo đạt 13682 tấn. Trong đó, kẹo chew tiêu thụ nhiều nhất đạt 3666 tấn, chiếm 26,794%; tiếp đó là kẹo mềm với 3182 tấn, chiếm 23,257%. Các sản phẩm tiêu thụ ở mức tương đối đều nhau, riêng chỉ có jelly con giống ở mức thấp nhất là 516 tấn, chiếm 3,77% trong tổng lượng tiêu thụ.
1.4.2.Nhận xét chung
+Những năm gần đây hoạt động của công ty ngày càng tăng trưởng: Doanh thu năm sau cao hơn năm trước, thu nhập của cán bộ công nhân viên chức ngày càng ngày càng tăng đồng thời đóng góp vào ngân sách Nhà nước cũng tăng.
Duy chỉ có năm 2005 hoạt động của công ty bị trùng xuống do những nguyên nhân sau:
-Giá vật tư: Đường, xăng dầu, bao bì, tinh bột ,.. tăng mạnh
-Nạn hàng nhái,hàng giả gia tăng mạnh
-Số lao động thủ công còn nhiều so với các doanh nghiệp cạnh tranh khác nên quỹ tiền lương khá lớn.
Nhưng đến năm 2006 doanh thu lại tăng mạnh trở lại, chạy theo đúng đà tăng trưởng của công ty. Đạt được điều này là do những nguyên nhân sau:
-Công ty luôn đẩy mạnh khai thác các thiết bị,công nghệ và kinh nghiệm trong việc tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao, thay thế hàng ngoại nhập. Công ty luôn có xu hướng mở rộng sản xuất như năm 2002 công ty đầu tư dây chuyền sản xuất kẹo Chew, đến cuối năm 2004 công ty lại mở rộng dây chuyền để tăng sản lượng kẹo này.
-Công ty có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới bao bì, mẫu mã nên sản phẩm ngày càng có uy tín chiếm được lòng tin của khách hàng.
-Công ty liên tục sắp xếp lại sản xuất, tổ chức lại các phòng ban, triệt để tiết kiệm các chi phí trong tất cả các khâu. Vì vậy chi phí sản xuất của công ty là tương đối hợp lý. Công tác tổ chức của công ty đã đạt được những thành tích đáng kể nhờ quản lý có hiệu quả của bộ máy tổ chức. Công ty được xây dựng theo mô hình trực tuyến nhằm đảm bảo tính tối ưu của mô hình này phù hợp với những đặc thù của công ty. Bên cạnh đó công ty đã tăng cường các biện cho công tác thị trường và tiêu thụ. Vì vậy sản phẩm sản xuất luôn được tiêu thụ hết, ít khi có trường hợp sản xuất ra tồn kho thời gian dài.
-Bên cạnh đó, có được thành quả như vậy phải nói đên nỗ lực của toàn bộ của cán bộ công nhân viên trong nhiều năm qua. Hơn 40 năm tồn tại của mình, Hải Hà đã xây cho mình một thương hiệu có uy tín trên thị trường, với sản phẩm có chất lượng và đa dạng. Điểm mạnh nhất của doanh nghiệp là uy tín và chất lượng.
+Nói đến những kểt quả rất đáng khích lệ mà công ty đạt được thì không thể không nói đến những mặt còn tồn tại. Việt Nam đang hội nhập với khu vực và thế giới, đặc biệt là chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới. Điều này vừa mở ra rất nhiều cơ hội và những cạnh tranh khác nghiệt. Đặc biệt với ngành sản xuất bánh kẹo nước ta đang đứng trước thách thức không nhỏ và Hải Hà cũng không nằm ngoài trong số này.Khó khăn của Hải Hà thể hiện trên các mặt:
-Khách hàng mục tiêu của công ty là người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp, do vậy sản phẩm bán với giá rẻ, điều này làm cho việc thu hồi vốn chậm.
-Tại công ty hiện vẫn còn những máy móc, thiết bị đã sử dụng lâu(dây chuyền bánh quy và kẹo thủ công đã tồn tại trên 30 năm và hết khấu hao) làm cho số lượng sản phẩm hỏng nhiều, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
-Do đầu tư liên tục để phát triển sản xuất làm cho những năm sau đầu tư phát sinh chi phí lãi vay, khấu hao, quảng bá, tiếp thị cho sản phẩm mới xâm nhập thị trường, máy móc thiết bị chưa đạt công suất thiết kế nên làm chi phí cao, hiệu quả thấp.
-Công ty đầu tư, sản xuất với nguyên liệu nhập khẩu bằng ngoại tệ(chủ yếu la Dolar Mỹ và Euro) trong đó giá của hai đồng tiền đó liên tục biến động làm cho chi phí tăng. Bên cạnh đó giá vật tư chịu ảnh hưởng của giá vật tư thế giới nên tốc độ tăng giá vật tư tăng mạnh hơn tốc độ tăng giá sản phẩm. Mà thuế đầu vào được khấu trừ 5% trong khi thuế đầu ra phải chịu 10% do những bảo hộ của Nhà nước đối với ngành đường trong nước cũng làm chi phí gia tăng.
-Về vốn: Từ khi chuyển đổi sang công ty cổ phần ,vay vốn ngân hàng khó khăn hơn, phải chủ động trong mọi lĩnh vực kinh doanh để mang lại hiệu quả mà không ỷ lại vào Nhà nước. Nguồn vốn chủ sở hữu không được bổ sung, hầu hết dự án đầu tư và vốn sản xuất đều vay ngân hàng. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng công ty vẫn phải đảm bảo đời sống công nhân viên bằng việc giữ mức tiền lương lớn hơn đối với các đơn vị trong ngành.
- Bên cạnh sản phẩm truyền thống thì công ty có đầu tư sản xuất sản phẩm mới là kẹo Chew, kẹo que nên chất lượng chưa ổn định, chưa phát h._.uy hết được công suất. Một phần điều này do gặp nhữngkhó khăn về kỹ thuật chưa được giải quyết.
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG VỀ NHU CẦU THỨC ĂN NHANH TẠI HÀ NỘI
2.1.Nhu cầu
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển, vì thế nhu cầu việc làm và học tập là rất lớn.Hà Nội được coi là trung tâm kinh tế- chính trị- văn hóa lớn nhất của cả nước, tại đây tập trung lượng dân số rất lớn mà đa số là dân ngoại tỉnh đến cư trú. Họ sinh sống, làm việc và học tập ở đây, tạo nên một lượng nhu cầu về hàng hóa rất lớn.
Nhịp sống ở Hà Nội ngày càng sôi động, con người ngày càng cuốn vào vòng xoáy đó.Mọi người dành thời gian nhiều cho công việc và học tập nên đôi khi không có đủ thời gian cho những nhu cầu rất thiết yếu như nhu cầu ăn uống.
Hà Nội ngày càng có xu hướng phát triển.Trước đây, những năm đầu sau chiến tranh Hà Nội chỉ có 3 quân, đến bây giờ địa bàn mở rộng, thành phố đã có 9 quận, đó là các quận: Hoàn Kiếm, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy, Đống Đa, Tâu Hồ, Long Biên, Ba Đình, Hoàng Mai và ngày càng có xu hướng mở rộng ra.
Theo số liệu điều tra năm 2005 thì dân số Hà Nội đã vượt ngưỡng 3 triệu, trong đó gần một nửa là dân nội thành.Có nghĩa là dân số trong khu vực thành phố đã vượt ngưỡng 1,5 triệu..Khu vực thành phố là nơi tập trung của hơn 30 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, điều này dẫn đến tại Hà Nội có gần 200000 sinh viên đang tạm trú để sinh sống và hoc tập.Và ở Hà Nội có 24 trường cấp 3, có rất nhiều học sinh học tập.
Tại Hà Nội các Công ty xuất hiện ngày càng nhiều, dẫn theo đó là lượng nhân viên cũng rất lớn. Họ thường làm việc trong các giờ hành chính trong ngày nhưng đa số buổi trưa ở lại cơ quan luôn. Do đó họ phải ăn bữa trưa tại cơ quan.
Hiện nay do cuộc sống bận rộn nên người tiêu dùng không có nhiều thời gian dành cho việc ăn uống, vì thế họ rất cần các loại thức ăn nhanh được cung cấp có tổ chức và chuyên nghiệp. Do yêu cầu của công việc, họ cần loại thức ăn có năng lượng cao mà những loại thức ăn hiện tại hầu như không đáp ứng được.Với những đặc thù của giai đoạn hiện nay, người tiêu dùng cần loại thức ăn có những đặc điểm sau:
-Mang cảm giác ngon miệng
-Khả năng cung cấp được nhanh
-Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
-Đảm bảo năng lượng cho công việc, học tập
2.2.Thực trạng đáp ứng
2.2.1.Các sản phẩm thức ăn nhanh hiện đang tồn tại trên thị trường Hà Nội
Hiện nay tại Hà Nội tồn tại rất nhiều loại thức ăn nhanh, nhưng thực chất không đúng với tính chất của thức ăn nhanh vì nó cũng mất khá nhiều thời gian.Các loại thức ăn này đa số đều được cung cấp lẻ tẻ, không mang tính chất đồng loạt và chuyên nghiệp bởi vì được cung cấp từ các cá nhân dưới hình thức là các quán xá.Và mỗi loại đều có vị riêng nên chỉ phục vụ được những khách hàng có sở thích với loại thức ăn đó.Bên cạnh đó, một số Công ty bánh kẹo cũng sản xuất một số loại bánh nhưng chỉ mang tính chất ăn tạm, ăn thưởng thức. Về cơ bản có thể thống kê một số loại thức ăn nhanh hiện có tại Hà Nội như sau:
-Các loại phở: phở Nam Định, phở 24H,..
Đây là loại thức ăn rất phổ biến ở Hà Nội và rất nổi tiếng.Nó được chế biến từ các sợi phở làm từ tinh bột, nước dùng, và các loại thịt được cung cấp tại các cửa hàng nhỏ, quán xá vỉa hè,dọc đường và có giá không phải là rẻ.Phở thường ăn với tính chất thưởng thức chứ không phải mục đích phục vụ hoat động vì giá trị năng luợng của nó thấp.
-Các loại bánh:bánh mỳ, bánh bao, các loại bánh ngọt,..v.v
Đây là loại thức ăn giá tương đối thấp nhưng thường khẩu vị không ngon.Nó được phân thành hai loai:
+Bánh ngọt: Được sản xuất bởi các công ty bánh kẹo và có giá từ 2000-4000đ.Nó thuần túy chế tạo từ các loại bột và có nhân đường sữa và không có hương vị đặc biệt như: Bánh mỳ scoti
+Bánh mỳ thô có nhân tự chế: Được làm thủ công từng chiếc do chủ cửa hàng làm luôn khi khách hàng yêu cầu với bánh mỳ thô lấy từ các công ty sản xuất rồi chế biến thêm bàng các làm thêm nhân kẹp giữa như:bánh mỳ trứng, bánh mỳ pa tê,…
-Các cửa hàng thức ăn nhanh như : KFC, Lottecia,…
-Các loại khác như: Bún, miến, xôi,…
2.2.2.Đánh giá
Đánh giá chung thì các loại thức ăn trên tồn tại chỉ mang tính chất giải pháp tình thế, trong giai đoạn kinh tế đang phát triển chưa vào ổn định.Nó thực ra chỉ là những sản phẩm để thưởng thức ẩm thực chứ chưa mang tính tiện dụng, tính kinh tế cho cuộc sống ngày càng sôi động.Đánh giá được như vậy tại chúng có một số nhược điểm như:
- Các loại thức ăn này thường mang tính nóng, vì ăn xong ta có cảm giác nóng trong người.
- Khẩu vị không đại chúng, mỗi loại một vẻ nên không đáp ứng được sở thích của số đông.Nhiều khi họ chọn lựa những loại thức ăn này do không có thời gian, tiện đâu thì ăn ở đấy nên không mang lại cảm giác ngon miệng.
- Chi phí những loại thức ăn này cũng không phải là rẻ.Với loại đồ ăn có nước thì giá dao động từ 7000đ-15000đ, đây không phải chi phí hợp lý với những sinh viên còn đang trên ghế giảng đường.
- Bên cạnh đó, lượng calo trong loại thức ăn này cũng thấp, sau khi ăn khoảng 2-3h là người ăn đã có cảm giác đói.
-Mặt khác những loại thức ăn này cũng gây mất khá nhiều thời gian vì các hoạt động của các quán xá không ổn định về thời gian, mang tính chất tạm thời và khi hoạt động thì quy mô nhỏ nên nếu lượng khách hàng đông thì phải đợi rất lâu.
-Một điều cũng đáng bàn ở những loại thức ăn hè phố này là vệ sinh không đảm bảo. Nó mất vệ sinh xuất hiện trong cả quá trình chế biến đến cung cấp.Sở dĩ có thể khẳng định điều này bởi vì những người cung cấp là các cá nhân, họ làm với tốc độ nhanh và vì mục đích lợi nhuận.Và các quán xá diện tích hẹp, điều kiện cung cấp nước cũng hạn chế nên cũng là một yếu tố không đảm bảo vệ sinh.
2.3.Khả năng đáp ứng của công ty
2.3.1.Điểm mạnh
Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà có rất nhiều lợi thế để có thể cung cấp sản phẩm thức ăn nhanh trên địa bàn Hà Nội bởi vì trước tiên, hiện tại họ là một Công ty chuyên sản xuất bánh kẹo.Họ sở hữu dây chuyền sản xuất các loại bánh, sữa, đội ngũ công nhân viên thành thạo về vận hành các loại máy móc.Vì thế bây giờ họ có thể đa dạng hóa đồng tâm bằng việc phát triển sản phẩm thức ăn nhanh trên cơ sở dây chuyền công nghệ hiện có.
Họ đang sở hữu các thiết bị pha chế, xử lý nguyên liệu như: máy trộn nguyên liệu, máy sàng, máy cắt, máy sấy bột, nồi sấy, nồi nấu. Đây là các thiết bị tuy cũ nhưng đội ngũ công nhân vận hành rất thuần thục và có kinh nghiệm xử lý các tình huống mới.
Bên cạnh đó, việc sản xuất các loại bánh kẹo cũng làm cho công ty quen với việc tìm, cung ứng nguồn nguyên liệu để sản xuất sản phẩm
-Trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm, một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn và có khả năng đảm bảo một khoản ngân sách cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm phù hợp sẽ tạo cho doanh nghiệp một sức mạnh để đạt được những mục tiêu nhất định.
-Tài năng của Ban lãnh đạo, sự nháy bén linh hoạt của đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tiêu thụ sẽ tạo ra những môi trường lớn, khả năng tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn. Đặc biệt là kiến thức về thị trường , về sản phẩm và khả năng nhận biết sự biến động nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng...của ban lãnh đạo cũng như đội ngũ cán bộ làm công tác tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay với trình độ của công nhân viên từ đại học trở lên là 153 người chiếm gần 10% đã làm cho việc xử lý các tình huống mới trở lên dễ dàng hơn.
-Tiềm lực vô hình của doanh nghiệp trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm thể hiện thông qua khả năng bán hàng gián tiếp của doanh nghiệp. Tiềm lực vô hình không tự nhiên mà có. Tuy nó có thể được hình thành một cách tự nhiên nhưng nhìn chung nó cần được tạo dựng một cách có ý thức và thông qua mục tiêu và chiến lược cụ thể.
Tiềm lực của doanh nghiệp bao gồm:
* Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này cho phép doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn.Với truyền thống của mình qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty đã gây dựng cho mình một hình ảnh rất đẹp trong mắt người tiêu dùng.Điều này đã được Nhà nước ghi nhận bằng : 1 Huân chương Lao động Hạng Nhất (năm 1990), 1 Huân chương Lao động Hạng Nhì (năm 1985), 4 Huân chương Lao động Hạng Ba (năm1960 – 1970), 1 Huân chương Ðộc lập Hạng Ba ( năm 1997).
* Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu sản phẩm.
Nhắc đến nhãn hiệu sản phẩm Hải Hà thì hầu như ai cũng biết bởi nó đã nổi tiếng trong nước.Sản phẩm của Hải Hà đã rất gắn bó với người dân Việt Nam trong nhiều năm qua, nó đã trở nên quá thân thiết.Mỗi khi Công ty đưa ra sản phẩm mới thì đều rất được nhiều người tiêu dùng đón nhận bởi vì sản phẩm của Công ty luôn được đánh giá rất cao.Nó được biểu hiện bằng sanphẩm của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà được tặng nhiều Huy chương Vàng, Bạc trong các cuộc triển lãm Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp Việt nam, triển lãm Hội chợ thành tựu kinh tế quốc dân, triển lãm kinh tế- kỹ thuật- Việt nam và Thủ đô. Sản phẩm của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà được người tiêu dùng mến mộ và bình chọn là “Hàng Việt nam chất lượng cao” trong 11 năm liền. Từ năm 1997 đến năm 2007.
* Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp.
Trước đây là một Công ty của Nhà nước, sau khi Cổ phần hóa Công ty vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước nên với truyền thống và uy tín của mình Công ty luôn được sự ủng hộ của các bên.Hiện tại với hoạt động kinh doanh đang phát triển tốt, Công ty có mối quan hệ rất tốt đẹp với các nhà phân phối và nhà cung cấp.
- Ngoài rất nhiều cơ sở tại các tỉnh thành trên cả nước thì trụ sở nhà máy chính của Công ty đặt tại nội thành Hà Nội, điều này là một lợi thế về khoảng cách và thời gian, rất thích hợp với việc cung cấp sản phẩm thức ăn nhanh đòi hỏi về thời gian.
2.3.2.Điểm yếu
Điểm yếu hiện tại của Công ty là làm sao thiết kế được sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng, đồng thời phù hợp với dây chuyền máy móc hiện tại của Công ty để có thể áp dụng sản xuất hàng loạt với số lượng lớn.
Sở dĩ có thể coi đó là điểm yếu của doanh nghiệp bởi vì hiện tại Công ty chưa bộ phận riêng thiết kế sản phẩm mới.Với điều này đồng thời với trình độ thiết kế sản phẩm của Công ty còn hạn chế nên tốc độ đổi mới sản phẩm còn chậm.Hiện tại Công ty chưa có bộ phận đi khảo sát nhu cầu mới của khách hàng cho nên những sản phẩm mới đa số là những sản phẩm cải tiến theo thị hiếu khách hàng.Do vậy đối với những sản phẩm mới thì thường lúng túng, nếu khắc phục được điều này thì phát triển sản phẩm thức ăn nhanh sẽ rất thuận lợi.
2.3.3.Khả năng thỏa mãn nhu cầu thức ăn nhanh của Công ty tại Hà Nội
Qua phân tích những điểm mạnh ,điểm yếu trên ta thấy có thể hoàn toàn khắc phục được những nhược điểm để có thể đưa sản phẩm đến người tiêu dùng.Nếu sản phẩm mà đến tay được người tiêu dùng thì sẽ mang giá trị kinh tế rất lớn vì nó tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí cho khách hàng.
Công ty có thể tận dụng những thế mạnh về con người, thiết bị để tiến hành sản xuất sản phẩm này:
-Công ty có lợi thế về địa điểm khi trụ sở chính nhà máy, của Công ty được đặt tại 25 Trương Định-Hai Bà Trưng.Với một diện tích mặt bằng rất lớn ngay tại trung tâm Hà Nội thì là một lợi thế rất lớn để Công ty có thể phát triển sản xuẩt cũng như tiêu thụ sản phẩm vì chi phí vận chuyển là khá thấp.
-Về nhân lực thì đội ngũ công nhân lành nghề với gần 70% lao động là nữ đảm bảo cho quy trình sản xuất sẽ được diễn ra thuận lợi.Đặc biệt đội ngũ cán bộ Phong Kế hoạch thị trường gần 20 người trình độ chuyên môn hầu như từ Đại học trở lên sẽ là một sức mạnh quan trọng giúp công ty đưa sản phẩm thức ăn nhanh đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Tuy nhiên đây là sản phẩm khá mới mẻ ở thị trường trong nước nên khâu tổ chức nhân sự cho cung ứng, phân phối sản phẩm hơi khác so với cách phân phối hiện tại của Công ty.Vì đây là sản phẩm thức ăn nhanh nên khâu bảo quản và cung ứng hết sức quan trọng.Vì thị trường ban đầu chỉ tập trung ở khu vực nội thành Hà nội nên chí phí vận chuyển không lớn nhưng đây là sản phẩm không bảo quản được lâu nên phải chú ý điều tra lượng cầu theo ngay, theo thời tiết, theo mùa.
Với những chú ý như trên thì hoàn toàn có thể khẳng định thức ăn nhanh là một sản phẩm hết sức triển vọng trên thị trường Hà Nội, đặc biệt trong nền kinh tế đang phát triển hết sức mạnh mẽ như ở nước ta.Chúng ta muốn phát triển thì cần có một tác phong nhanh nhẹn trong công việc, chính vì thế sản phẩm thức ăn nhanh ra đời trên thế giới cũng biểu hiện cho nền kinh tế phát triển.
CHƯƠNG3- GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM THỨC ĂN NHANH CỦA CÔNG TY TẠI HÀ NỘI
3.1.Điều tra nhu cầu thức ăn nhanh trên thị trường Hà Nội
Vì đây là sản phẩm về thức ăn nên việc thiết kế một sản phẩm phù hợp cho nhiều đối tượng là hết sức khó khăn bởi vì mỗi người có một khẩu vị riêng và khẩu vị cũng thay đổi theo tâm trạng.Điều cơ bản ở đây là làm sao mà phải tìm được một khẩu vị chung cho tất cả mọi người trên địa bàn Hà Nội. Vì thế công tác điều tra nhu cầu là việc hết sức quan trọng, nó quyết định đến thành bại của toàn bộ quá trình.Nếu sản phẩm mà không thích hợp thì sản phẩm sẽ không có chỗ đứng trên thị trường, khi thiết kế lại thì gây lãng phí nguồn lực, thậm chí gây mất uy tín cho doanh nghiệp.
Trước nhu cầu thực tế của khách hàng bây giờ thì bước đầu chúng ta chỉ nên tập trung vào hai đối tượng khách hàng tiềm năng là: đối tượng nhân viên các công ty và đối tượng học sinh,sinh viên.Đây là hai đối tượng chính sẽ tiêu thụ sản phẩm của Công ty, họ vì điều kiện thời gian nên họ đang rất cần những sản phẩm thức ăn nhanh,lượng tiêu thụ của hai đối tượng sẽ rất lớn vì thế cần tập trung điều tra hai đối tượng này.Sở dĩ phân loại thành hai đối tượng trên bởi vì đây là hai đối tượng có đặc điểm, điều kiện hết sức khác nhau:
-Nhân viên các Công ty là những người trong tuổi lao động, họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các công ty.Trên địa bàn Hà Nội đối tượng này có các đặc điểm sau:
+Đây là đội ngũ trí thức, có trình độ được đào tạo bài bản trong các trường đại học, cao đẳng.Họ làm việc trong các công ty Nhà nước, lẫn các công ty ngoài quốc doanh.Do tốc độ phát triển kinh tế đang tăng nhanh nên công việc của họ khá bận rộn, đa số là dành thời gian nhiều trên công sở.
+Đa số các nhân viên đều làm giờ hành chính theo quy định của Nhà nước lên họ thường làm 8h một ngày trong các ngày trong tuần trừ thứ7, Chủ nhật.Hàng ngày họ bắt đầu làm việc lúc 7h30’sáng đến 11h30 và nghỉ trưa đến 13h30 và làm việc đến 17hh30.Vì thế thời gian của họ cũng khá eo hẹp nên thời gian dành cho ăn nhanh của họ là từ 6h30 đến 7h15’ và buổi trưa từ 12h00’ đến 13h00’.Đây là khoảng thời gian chung của mọi nhân viên, tùy điều kiện cụ thể của từng người về công việc, điều kiện đi lại mà thời gian này bị thu hẹp xuống.Qua đây có thể thấy thời gian dành cho ăn uống của họ rất ít nên họ rất cần đến thức ăn nhanh.
+Về thu nhập thì đối tượng này có thu nhập tương đối cao, trung bình thường dao động từ 2-5triệu đồng.Một số đối tượng có thu nhập cao hơn hoặc thấp hơn nhưng số lượng không nhiều bởi các công ty áp dung mức lương cạnh tranh nên chênh lệch lương không nhiều.Nói chung đây là đối tượng có thu nhập khá ổn định mặc dù có sự thuyên chuyển các vị trí giữa các công ty.
+Do các đặc điểm về nghề nghiệp như trên nên đối tượng này có yêu cầu về thức ăn nhanh khá cao.Họ cần một loại thức ăn nhanh có đẳng cấp: có hương vị đặc biệt, giá trị dinh dưỡng cao, tiện lợi, đảm bảo tiêu chuẩn và chi phí không thấp quá.Đối tượng này cũng khá kỹ tính trong việc chọn lựa laọi thức ăn phù hợp với công việc, điều kiện và đẳng cấp nghề nghiệp.
-Đối tượng thứ hai là học sinh, sinh viên .Họ đang học tập trong các trường đại học,cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường trung học phổ thông.Theo số liệu điều tra đã nói ở trên thì với hơn 30 trường đại hoc, cao đẳng và 24 trường trung học phổ thông trên địa bàn thì đây cũng là một đối tượng khá đông đảo sẽ có nhu cầu lớn về thức ăn nhanh.Về đối tượng này thì có một số đặc điểm cơ bản sau:
+Bây giờ, do nhu cầu học tập ngày càng cao nên thời gian dành cho chăm sóc bản thân cũng rất hạn chế, đặt biệt là những đối tượng mà phải xa gia đình lên ở trọ tại Hà Nội.Ngoài thời gian học trên lớp họ còn rất tích cực học thêm ngoại ngữ tại các trung tâm và tham gia các hoạt động sôi động khác mà chỉ có ở sinh viên.Đồng thời, xu hướng của Bộ giáo dục đào tạo là chuyển giáo dục Đại học từ theo kiểu Niên chế sang kiểu Tín chỉ thì thời gian của sinh viên không còn cố định nữa.Nếu giáo dục theo kiểu Niên chế thì lịch học của sinh viên sẽ được cố định, nên họ có thể sắp xếp thời gian của mình theo lịch trình.Nhưng giáo dục theo kiểu Tín chỉ thì mỗi sinh viên có một lịch riêng của mình, và theo lớp môn học mở nên nhiều khi họ không có thời gian chăm sóc bữa ăn cho riêng mình.
+Hàng ngày giờ học của họ có thể thống kê như sau
Sáng: 6h45 đến 11h45
Chiều: 12h15 đến 17h20
Tối :18h00 đến 20h30
Ngoài ra chưa kể các lịch hoc thêm Ngoại ngữ , các lĩnh vực khác ngoài chương trình đào tạo chính quy nên thời gian của sinh viên cũng rất eo hẹp.Qua đây cung có thể nói thời gian dành cho ăn uống của họ cũng rất ít nên nhu cầu thức ăn nhanh cũng rất cao.
+Về tài chính thì học sinh, sinh viên có điều kiện tài chính khá thấp.Đại đa số này đều được chu cấp của gia đình theo một mức cố định hàng tháng từ 800000-1500000đ.Chi phí dành cho ăn uống của họ mỗi tháng khoảng 500000đ vì chi phí dành cho ăn sáng là từ 2000-5000đ. Qua điều tra thì nhiều sinh viên ăn uống rất sơ sài, không đủ lượng calo để phục vụ nhu cầu học tập, do vậy thể trạng của sinh viên thường gầy, điều này rất ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
+Về tâm lý tiêu dùng của đối tượng này thị họ không có những yêu cầu khắt khe với sản phẩm về hương vị.Do điều kiện tài chính nên họ mong muốn sản phẩm phải có giá thành thấp, tiện lợi và đảm bảo lượng calo.Nếu mà sản phẩm phù hợp với yêu cầu trên thì lượng tiêu thị sẽ rất lớn và có thể tiêu thụ bất cứ thời điểm nào trong ngày.
Quá trình điều tra nhằm mục đích để điều tra nhu cầu để thiết kế sản phẩm và để dự báo lượng cầu khi đi vào sản xuất đưa sản phẩm ra thị truờng.
Qua cách phân loại như trên nên cũng phải điều tra thành hai đối tượng, về mỗi đối tượng có cách điều tra như sau:
-Đối với đối tượng học sinh, sinh viên thì có những cách sau:
+Tiến hành điều tra sơ bộ tại các quán xá xung quanh trường đại học, ký túc xá, căng tin trường học về loại thức ăn hiện có, loại nào tiêu thụ mạnh
+Phỏng vấn trực tiếp
+Điều tra bằng các bảng hỏi
-Đối với những đối tượng là các nhân viên công ty thì tiến hành điều tra bằng quan sát và tham khảo ý kiến trực tiếp hoặc gián tiếp bằng gửi các bảng tham dò ý kiến.Có thể làm việc trực tiếp với cán bộ, lãnh đạo doanh nghiệp để có tiến hành điều tra nhu cầu.
3.2.Thiết kế sản phẩm
3.2.1.Quy trình thiết kế sản phẩm
- Việc thiết kế là khâu rất quan trọng, vì vậy khâu này phải làm hết sức cặn kẽ và có tổ chức. Sau khi có kết quả điều tra nhu cầu về loại, hương vị thức ăn thì việc thiết kế sản phẩm phải được thiết kế bởi các chuyên gia ẩm thực, những người có kinh nghiệm trong việc thiết kế các loại thức ăn, đặc biệt là các loại thức ăn nhanh.Với mỗi nhu cầu thì cần phải thiết kế đến 3-4 loại sản phẩm để có nhiều cơ sở đánh giá hơn.
-Với sản phẩm thức ăn nhanh thì hợp lý nhất là nên thiết kế theo kiểu loại bánh có nhân.Nó gồm hai phần:
+Phần nhân bánh: Đây là phần quyết định hương vị của sản phẩm mang lại nét đặc trưng cho sản phẩm.Phần nhân có thể được làm từ trứng, thịt, rau hoặc hỗn hợp,..v.Để tạo ra được sự độc đáo trong khẩu vị và ngon hơn thì nhân nên được chế biến là hỗn hợp của nhiều nguyên liệu.
+Phần vỏ bánh: Đây là phần bọc bên ngoài bao lấy nhân, được chế biến từ các loại bột mang giá trị năng lượng cao.Phần vỏ phải mềm nhưng không dễ bị rời ra để còn làm chức năng bảo vệ nhân và phải có mùi hấp dẫn.
-Việc thiết kế cụ thể vào sản phẩm phải giao cho các cán bộ công nhân viên có kinh nghiệm từng thiết kế sản phẩm cho công ty, đặc biệt là nhân viên Phòng kỹ thuật.Ngoài ra có thể thuê thêm các chuyên gia ẩm thực,những người có kỹ thuật chế biến các nguyên liệu để tạo ra hương vị phù hợp với nhu cầu.Việc thiết kế sản phẩm phải dựa trên các tiêu chí, các ràng buộc:
+Dây chuyền sản xuất, thiết bị mà công ty hiện có.Điều này sẽ tận dụng được những điều kiện hiện tại, tiết kiệm được chi phí mua sắm dây chuyền máy móc mới.
+Nguồn nguyên vật liệu có thể thu mua được các nhà cung ứng với chi phí hợp lý.
+Nhu cầu ẩm thực của người tiêu dùng.
-Kinh phí cho việc thiết kế sản phẩm thức ăn nhanh lấy từ kinh phí của Công ty dành cho phát triển sản phẩm mới hàng năm.
Để sản phẩm mang tính đại chúng hơn và đi sát với nhu cầu thực tế hơn thì có thể tổ chức các cuộc thi thiết kế các sản phẩm sâu rộng trong tầng lớp dân chúng. Sản phẩm nào có giá trị, có tính khả thi thì tiến hành trao các giải thưởng để khuyến khích. Điều này rất hữu ích vì chi phí không lớn lắm mà có thể mang lại được các sản phẩm thiết thực với nhu cầu của người tiêu dùng hơn.
Tuy nhiên nếu mà khó khăn trong việc tìm ra sản phẩm phù hợp thì có thể mua lại bản quyền của các hãng thức ăn nhanh nổi tiếng trên thế giới mà sản phẩm của họ chưa có điều kiện có mặt phổ biến tại Việt Nam. Đây là sản phẩm mà đã được chấp nhận trên nhiều nước thế giới, nhưng do mới đầu đi vào thị trường Việt Nam có những đặc thù khác về ẩm thực nên có thể đưa một số hương vị truyền thống vào trong sản phẩm.
3.2.2.Nguồn nguyên liệu
Thị trường nguyên vật liệu được phân thành hai thái cực rõ ràng. Thị trường trong nước thì phổ biến với những loại nguyên vật liệu thô, dễ kiếm nên công tác hậu cần được thực hiện một cách dễ dàng, còn đối với những nguyên vật liệu được tinh chế phức tạp, khan hiếm thì Công ty phải hướng ra thị trường ngoài nước. Công ty thường bị sức ép từ các nhà cung ứng này về giá cả hay quá trình vận chuyển nguyên vật liệu. Sự khác nhau đó đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt trong công tác hậu cần nguyên vật liệu. Về chủng loại nguyên vật liệu thì thị trường trong nước cung cấp cho Công ty khoảng 70%, còn lại là thị trường ngoài nước.
3.2.1.1.Lựa chọn nhà cung ứng
Ngay sau khi xác định được nhu cầu nguyên vật liệu cần mua, nhân viên phòng vật tư tiến hành nghiên cứu, lựa chọn nhà cung cấp. Đây là một công đoạn khó khăn, phức tạp vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, đến chất lượng sản phẩm cũng như tính liên tục của quá trình sản xuất. Vì vậy mục đích của công tác hậu cần nói chung và việc lựa chọn nhà cung ứng nói riêng là phải đảm bảo nguyên vật liệu về số lượng, chất lượng và thời hạn giao nhận.
Việc lựa chọn nhà cung ứng của Công ty được tiến hành qua bốn bước sau đây:
Sơ đồ 3: Các giai đoạn lựa chọn nhà cung ứng
GIAI ĐOẠN KHẢO SÁT
GIAI ĐOẠN LỰA CHỌN
GIAI ĐOẠN ĐÀM PHÁN Không đạt yêu cầu
GIAI ĐOẠN THỬ NGHIỆM
Đạt yêu cầu
QUAN HỆ LÂU DÀI
Giai đoạn khảo sát
Công ty tiến hành thu thập thông tin về các nhà cung ứng nguyên vật liệu. Đó là các thông tin về chất lượng, giá cả của nguyên vật liệu, thời gian vận chuyển cũng như khả năng sai lệch về thời gian. Công ty tiến hành thu thập thông tin qua báo, tạp chí, trên Internet, các trung tâm thông tin hoặc qua các cuộc điều tra. Mặt khác, Công ty cũng có thể tiến hành phỏng vấn trực tiếp các nhà cung ứng, hình thức này đặc biệt thường áp dụng đối với các nhà cung ứng mới. Đối với các nhà cung ứng cũ, đã có mối quan hệ lâu dài thì giai đoạn này đơn giản hơn vì thông tin được xem xét lại trong hồ sơ lưu trữ về các nhà cung ứng.
Hiện nay, Công ty có quan hệ với trên 30 nhà cung ứng trong và ngoài nước. Chỉ khi nguồn hàng trong nước khan hiếm hoặc không có thì Công ty mới lựa chọn nhà cung ứng ngoài nước. Đối với nhà cung ứng nước ngoài thì chất lượng luôn được đảm bảo nhưng lại khó khăn trong vận chuyển, ký kết hợp đồng; điều này làm nhiều chi phí phát sinh. Đối với từng loại nguyên vật liệu mà Công ty sẽ lựa chọn nhà cung ứng cho phù hợp, đáp ứng được mọi kế hoạch sản xuất đề ra.
Bảng 6: Một số nhà cung ứng của Công ty hiện nay
STT
Tên các nhà cung ứng NVL
NVL cung cấp
1
2
3
Công ty mía đường Lam Sơn
Nhà máy đường Quảng Ngãi
Công ty đường Bình Định
Đường, glucô
4
5
6
7
Công ty TNHH Ngọc Quang
Công ty cổ phần bột thực phẩm Tân Ký
Công ty cổ phần bột thực phẩm Vĩnh Thuận
Singapo
Bột mỳ
8
9
10
Công ty dầu thực vật Cái Lân
Công ty cổ phần dầu thực vật Tường An
Công ty Nestlé
Dầu tinh luyện
11
Nhà máy dầu Tân Bình
Shortening, margarine
12
Australia
Nước nho
13
Công ty TNHH Nhật Tân
Hương vani bột
14
15
Công ty sữa VN- Vinamilk
Công ty Elovi
Sữa bột, sữa đặc, bơ
16
Hà Lan, Pháp
Váng sữa, sữa bột
17
18
Thái Lan
Australia
Hương liệu, chất tạo nhũ
19
20
Công ty TNHH Kim Sơn
Công ty sản xuất và in bao bì
Bao bì, nhãn hàng hóa
21
22
23
Pháp
Inđônêxia
Singapo...
Các loại tinh dầu
...
.....
....
Nguồn: Phòng vật tư
Những thông tin thu thập được có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn nhà cung ứng nên thông tin đòi hỏi phải chính xác, kịp thời.
Giai đoạn lựa chọn nhà cung ứng
Đối với các doanh nghiệp nói chung và Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà nói riêng thì một nhà cung cấp tốt thật sự là một tài nguyên vô giá, bởi chính họ sẽ góp phần trực tiếp vào thành công của Công ty. Nhà cung cấp tốt không chỉ giao hàng đúng chất lượng, đủ số lượng, kịp thời gian, với giá cả hợp lý, với thái độ phục vụ tận tâm, luôn đảm bảo đầu vào cho sản xuất thông suốt, mà còn hỗ trợ khách hàng của mình phát triển sản phẩm, phân tích giá trị, sẵn sàng hợp tác trong các chương trình giảm chi phí, áp dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến… giúp người mua đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy, lựa chọn được nhà cung ứng tốt và quản lý được họ là điều kiện tiên quyết giúp Công ty sản xuất được sản phẩm có chất lượng đúng như mong muốn, theo tiến độ quy định, với giá cả hợp lý, đủ sức cạnh tranh trên thương trường. Bên cạnh đó còn luôn nhận được sự hỗ trợ của nhà cung cấp, để đạt được thành tích cao hơn. Công ty luôn chú trọng lựa chọn các nhà cung ứng có uy tín, chất lượng ổn định, giá cả hợp lý, thanh toán giao nhận thuận lợi.
Trên cơ sở những thông tin thu thập được, phòng vật tư tiến hành xử lý, phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm của từng nhà cung cấp để lựa chọn những nhà cung cấp phù hợp. Tiếp đó, so sánh với các tiêu chuẩn đặt ra trên cơ sở đó lập danh sách những nhà cung ứng đạt yêu cầu. Việc đánh giá này được thực hiện theo phương thức cho điểm.
Để lựa chọn được nhà cung cấp tốt, Công ty tiến hành lập bảng so sánh các nhà cung ứng cùng cung cấp một loại nguyên vật liệu.
Ví dụ, bảng so sánh lựa chọn nhà cung ứng đường như sau:
Bảng 7: So sánh các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn nhà cung cấp
STT
Các nhân tố
Điểm tối đa (mức độ ảnh hưởng)
Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn
Nhà máy đường Quảng Ngãi
Công ty đường Bình Định
1
Hiểu vấn đê
10
9
9
8
2
Phương pháp công nghệ
20
19
17
17
3
Trang thiết bị
5
4
5
3
4
Tay nghề công nhân
3
2
3
2
5
Yêu cầu bảo đảm chất lượng NVL
2
2
2
2
6
Khả năng đáp ứng lịch giao hàng
20
20
15
16
7
Giá cả
20
16
20
15
8
Năng lực quản trị, tài chính
10
10
7
7
9
Quy trình kiểm soát chất lượng
10
9
8
9
Tổng số điểm
100
91
86
79
Nguồn: Phòng vật tư
Trên cơ sở đó, lựa chọn những nhà cung cấp có tổng số điểm từ cao xuống thấp. Các nhà cung ứng này phải đảm bảo các yêu cầu về số lượng, chất lượng của từng chủng loại nguyên vật liệu, đảm bảo về thời gian giao hàng. Như vậy mới đáp ứng tiến độ sản xuất kịp thời, tránh được rủi ro trong sản xuất như đình trệ sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, điều này làm giảm năng suất lao động, tăng chi phí sản xuất, làm tăng giá thành và giá bán sản phẩm, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Công ty chỉ thiết lập mối quan hệ làm ăn với các nhà cung cấp đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Công ty đặt ra.
Hiện nay, Công ty có chính sách đặt hàng với nhiều nhà cung cấp cho cùng một chủng loại nguyên vật liệu. Như chúng ta đã biết, trên thị trường cạnh tranh có rất nhiều nhà cung ứng khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau cùng bán một loại sản phẩm. Ví như đường có thể được cung cấp bởi hàng chục hãng khác nhau, đó là Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn, Nhà máy đường Quảng Ngãi, Công ty đường Bình Định…Nếu chỉ chọn một nhà cung ứng cho một loại sản phẩm thì dễ dẫn tới tình trạng độc quyền, ép giá. Khi lựa chọn hình thức mua của nhiều hãng sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa những người bán, Công ty sẽ được hưởng những thuận lợi về giá cả, điều kiện thanh toán, vận chuyển…; không những vậy, Công ty còn giảm thiểu được rủi ro từ phía nhà cung ứng về chất lượng nguyên vật liệu, độ sai lệch thời gian; cũng từ đây Công ty có cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế - xã hội.
Giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng
Sau khi lựa chọn được các nhà cung ứng chính thức thì Công ty tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng mua nguyên vật liệu
Nếu là nhà cung ứng cũ thì công việc này rất nhanh, đơn giản vì Công ty đã xây dựng được mối quan hệ bạn hàng tốt, lâu dài. Việc ký kết được thực hiện qua chuyển fax, tiền hàng được thanh toán qua ngân hàng.
Nếu là nhà cung ứng mới thì công việc này phức tạp hơn nhiều. Công ty phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng rồi tiến hành tiếp xúc đàm phán trực tiếp với nhà cung ứng. Cuộc đàm phán thành công thì tiến hành ký kết.
Giai đoạn thử nghiệm
Sau khi hợp đồng cung ứng được ký kết, Công ty vẫn phải dõi sát xao quá trình thực hiện hợp đồng nhằm đánh giá chính xác hơn nhà cung cấp. Sự đánh giá này dựa trên các chỉ tiêu chính là chất lượng, số lượng nguyên vật liệu, thời gian cung ứng có chính xác không. Nếu đạt yêu cầu thì Công ty quan hệ lâu dài, ngược lại thì phải lựa chọn nhà cung cấp khác.
3.2.2.2.Lựa chọn phương tiện vận chuyển
Các nhà cung cấp có trách nhiệm đưa nguyên vật liệu đến trước kho của Công ty nên phương tiện vận chuyển do họ quyết định sao cho đảm bảo mọi điều kiện trong hợp đồng. Tuy nhiên, Công ty vẫn phải căn cứ vào một số tiêu chuẩn sau để lựa chọn phương tiện vận chuyển:
Thứ nhất, giá cả vận chuyển
Thứ hai, thời gian vận chuyển và khả năng sai lệch thời gian
Thứ ba, tổn thất và thiệt hại
Trong từng trường hợp cụ thể mà Công ty sẽ chọn chỉ tiêu ưu tiên khi lựa chọn phương tiện vận chuyển. Khi nguyên vật liệu trong kho còn nhiều, muốn nhập lượng nguyên vật liệu t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31914.doc