Phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam - Nghiên cứu tại tại xã Yên Mao - Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ

LỜI CAM ĐOAN Luận văn Thạc sĩ “Phát triển “Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ” tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao, xã Phượng Mao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ” chuyên nghành Tài chính, LTTT và tín dụng là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Tôi xin cam đoan rằng các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị hay một công trình nghiên cứu khoa học nào. Trong luận văn tôi có sử dụng các thông tin từ các nguồn dữ

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam - Nghiên cứu tại tại xã Yên Mao - Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu khác nhau. Các thông tin trích dẫn được sử dụng đều được tôi ghi rõ nguồn gốc, xuất xứ. LỜI CÁM ƠN Sau ba năm học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành chương trình cao học kinh tế chuyên ngành Tài chính Ngân hàng, và luận văn Thạc sĩ “Phát triển “Qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ” tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao, xã Phượng Mao huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ”. Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy giáo, cô giáo khoa Sau đại học, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo chuyên ngành Tài chính, LTTT và tín dụng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội đã tận tình dạy bảo, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Tôi xin trân trọng cám ơn lãnh đạo UBND huyện, phòng Thống kê huyện Thanh Thủy; Đảng Ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Đoàn thanh niên và bà con nông dân hai xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ và Giám đốc cùng các cán bộ dự án Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn đã cung cấp cho tôi các số liệu cần thiết và đóng góp các ý kiến trong thời gian tôi nghiên cứu tại địa bàn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, PGS.TS. Đào Văn Hùng, người đã định hướng, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tôi xin trân trọng cám ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người thân đã giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Hà nội, ngày 20 tháng 4 năm 2007 TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN ANH DŨNG MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng phát triển Châu á BQL Ban quản lý NHCPNT Ngân hàng cổ phần nông thôn NHCSXH Ngân hàng chính sách xã hội NHNN Ngân hàng nhà nước NHNo Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NGO Tổ chức phi chính phủ PVS Phỏng vấn sâu QTD Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ QTDND Qũy tín dụng nhân dân RDSC Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn TCVM Tài chính vi mô TLN Thảo luận nhóm TKĐM Tiết kiệm định mức TKTN Tiết kiệm tự nguyện UBND Ủy ban nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Nguồn vốn của NHCSXH, NHNo và QTD đã giải ngân tại hai xã nghiên cứu năm 2006 47 Sơ đồ 2.1: Thị phần cung cấp dịch vụ của NHCSXH, NHNN, QTD đã giải ngân tại hai xã nghiên cứu năm 2006 47 Bảng 2.2: Biến động thành viên của hai QTD qua các năm 57 Sơ đồ 2.2: Biến động về thành viên của hai QTD qua các năm 58 Bảng 2.3: Nguồn vốn hoạt động của hai QTD năm 2006 59 Sơ đồ 2.3: Tỷ lệ nguồn vốn hoạt động của hai QTD năm 2006 59 Bảng 2.4: Bảng cân đối tài sản QTD xã Yến Mao tháng 6/2004 60 Bảng 2.5: Nhu cầu và khả năng đáp ứng vốn của QTD xã Yến Mao năm 2006 62 Bảng 2.6: Bảng phân bổ từ nguồn thu từ lãi cho vay vốn của QTD 63 Bảng 2.7: Đánh giá tác động của các tổ chức cung cấp tín dụng 66 Bảng 2.8: Tiện nghi được mua sắm 67 Bảng 2.9: Các công trình được đầu tư 68 Bảng 2.10: Đánh giá mức độ thuận lợi khi tiếp cận với tổ chức cung cấp tín dụng 72 PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, nhờ công cuộc đổi mới kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình mở cửa, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực mà kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt trên 7,5% năm, bình quân lương thực đầu/người đạt 444 kg năm 2000, đời sống của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ người nghèo giảm một nửa so với những năm 90 còn 29% (2002). Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, nhưng tình hình nghèo đói ở Việt Nam vẫn còn tồn tại ở trên diện rộng, đặc biệt ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Do vậy xóa đói giảm nghèo là một yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển. Và trong quá trình đó, tín dụng được coi là một công cụ chủ chốt phá vỡ vòng luẫn quẩn của sự nghèo đói và là một trong yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của quốc gia. Hội nghị thượng đỉnh vi tín dụng toàn cầu họp vào tháng 4 năm 2005 tại Chile đã đưa ra hai mục tiêu tiếp theo là “… đảm bảo rằng tới cuối năm 2010, sẽ có 175 triệu gia đình nghèo trên thế giới, đặc biệt là phụ nữ của những gia đình đó nhận được khoản tín dụng để tự tạo việc làm, và các dịch vụ tài chính, kinh doanh khác” và “… đảm bảo rằng tới cuối năm 2015, sẽ có 100 triệu gia đình nghèo nhất trên thế giới sẽ chuyển từ mức thu nhập dưới 1 đôla một ngày hiện nay lên trên 1 đôla một ngày (đã điều chỉnh cho tỷ suất ngang giá về khả năng trao đổi)” “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” đã đưa ra cải cách và đổi mới hệ thống tài chính tín dụng nông thôn, hình thành thị trường tín dụng bền vững, bảo đảm các hộ nghèo có điều kiện gửi vay được thuận lợi. Hoàn thiện quy trình cho vay với cơ chế một cửa giúp người nghèo vay vốn được dễ dàng. Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo có nhu cầu được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý và đúng thời vụ. Trước mắt áp dụng chính sách lãi suất cho người nghèo và về lâu dài sẽ chuyển dần sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng chính thức. Thực hiện trợ cấp trực tiếp cho các tổ chức ngân hàng tín dụng hoạt động ở các vùng khó khăn để bù đắp các chi phí phát sinh. Theo số liệu thống kê trong năm 2005, có 3 tổ chức tài chính vi mô lớn hiện đang cung cấp dịch vụ khu vực nông thôn là NHNo với số khách hàng lên đến 4 triệu, NHCSXH cung cấp vốn bao cấp cho hơn 3 triệu hộ, quỹ tín dụng nhân dân gần 1 triệu hộ, và các tổ chức tài chính vi mô phục vụ trên 35 vạn hộ nghèo. Như vậy còn khoảng 4 triệu hộ, trong đó có các hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có cơ may được tiếp cận với dịch vụ tài chính. Nhằm hỗ trợ người nghèo tiếp cận đến hệ thống tín dụng nông thôn, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) đã hỗ trợ thành lập quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại các vùng nông thôn miền núi. Hiện tại qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ (QTD) đã có một số kết quả đáng kể trong hỗ trợ vay vốn và sử dụng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam. Với mục tiêu quản lý hoạt động các tổ chức cung cấp tài chính vi mô tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô nhỏ tại Việt Nam, nghị định có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô hiện nay. Theo điều khoản của nghị định thì những tổ chức cung cấp tài chính vi mô có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 500 triệu sẽ không hoạt động, còn nếu có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 5 tỷ sẽ không được thực hiện tiết kiệm tự nguyện. Như vậy những tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại những vùng, địa bàn khó khăn, chưa thể đáp ứng được những yêu cầu của sự thay đổi trong cấu trúc quản lý và năng lực của tổ chức thì sẽ tồn tại như thế nào. Tại xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC) đã hỗ trợ thành lập QTD từ năm 1996, đến nay sau hơn 10 năm hoạt động, QTD đã góp phần hỗ trợ người nghèo tiếp cận với nguồn vốn và đầu tư sản xuất có hiệu quả, nâng cao đời sống của gia đình. Tuy nhiên hiện tại nguồn vốn của các quỹ tín dụng này bao gồm cả nguồn vốn chủ sở hữu và tiết kiệm tự nguyện chỉ dưới 300 triệu, như vậy các Qũy tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn khi Nghị định 28 của Chính Phủ được thực thi. Nhằm ghi nhận những đóng góp của Quỹ tín dụng phụ nữ trong sự phát triển của phụ nữ và giảm nghèo, và giúp các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phát triển có những kinh nghiệm cần thiết trong xây dựng và hỗ trợ hoạt động quỹ tín dụng phụ nữ, đồng thời có những kiến nghị cần thiết đến Chính phủ trong hỗ trợ hoạt động của các QTD, tôi thực hiện cuộc nghiên cứu với đề tài “Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ”. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung: Ghi nhận những đóng góp của Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ trong phát triển phụ nữ và giảm nghèo; và giúp các tổ chức có những kinh nghiệm cần thiết trong xây dựng và hỗ trợ hoạt động của QTD, đồng thời có những kiến nghị cần thiết đến Chính phủ trong hỗ trợ hoạt động của các QTD. Mục tiêu cụ thể: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về tài chính vi mô. Đánh giá thực trạng hoạt động của Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ xã Yến Mao và Phượng Mao. Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động Quỹ tín dụng đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ. Phương pháp nghiên cứu Số liệu thứ cấp: là các số liệu đã được công bố qua sách, báo, tạp chí, niên giám thống kê, báo cáo… Số liệu sơ cấp: là số liệu thu được từ phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình tại các xã đặc biệt khó khăn của xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thủy. Trong nghiên cứu này tôi sử dụng hai phương pháp để thu thập số liệu sơ cấp là phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Phương pháp nghiên cứu định tính: Là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi của con người của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu. Nghiên cứu định tính là cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi trường xã hội nơi nghiên cứ được tiến hành. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt, cho phép phát hiện những chủ đề mới mà nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó, kỹ thuật thu thập thông tin có thể được điều chỉnh. Một số phương pháp nghiên cứu định tính cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: phỏng vấn bán cấu trúc, thảo luận nhóm tập trung. Phỏng vấn sâu: Được sử dụng để tìm hiểu thật sâu về một chủ đề cụ thể, nhằm thu thập đến mức tối đa thông tin về chủ đề đang nghiên cứu. Phỏng vấn sâu sử dụng bản hướng dẫn bán cấu trúc trên cơ sở những phỏng vấn thăm dò trước đó về chủ đề nghiên cứu có thể biết được câu hỏi nào là phù hợp. Nghiên cứu trường hợp: nhằm thu thập thông tin toàn diện, có hệ thống và sâu về các trường hợp đang quan tâm. Nghiên cứu trường hợp đặc biệt cần thiết khi nghiên cứu viên cần có hiểu biết sâu sắc về một người, vấn đề và tình huống cụ thể, cũng như khi các trường hợp có nhiều thông tin hay mà có thể đem lại một cách nhìn sâu sắc về hiện tượng đang quan tâm. Thảo luận nhóm tập trung: là phương pháp thu thập thông tin về một chủ đề từ cuộc thảo luận từ các thành viên từ 6 đến 8 người có chung một đặc điểm nhất định hoặc kinh nghiệm phù hợp với chủ đề được thảo luận. Cuộc thảo luận được dẫn đắt bởi một người điều hành sao cho các thành viên cùng tham gia vào cuộc thảo luận một cách sôi nổi và tự nhiên. Quan sát trực tiếp cho ta ấn tượng ban đầu về những đặc điểm có thể quan sát được của một cộng như cảnh quan, phương thức canh tác, hội họp tổng kết… Phương pháp nghiên cứu định lượng phân tích những tác động tài chính vi mô dựa vào những bản phỏng vấn được xây dựng và kiểm tra trước. Nó mang tính chính xác hơn là khi không có kết cấu, vì những câu trả lời phải so sánh được và dễ dàng đếm được. Vì bản phỏng vấn có cấu trúc và tương đối bất biến, có rất ít mối tương tác giữa người điều tra và người trả lời. Kết quả là bản điều tra hoàn toàn phụ thuộc vào câu trả lời. Lý do khiến phương pháp định lượng trở nên hấp dẫn với các nhà hoạch định chính sách vì bắt nguồn từ ý kiến cho rằng các con số có sức thuyết phục hơn. Những con số mang lại sự tin tưởng vì chúng được coi là biểu đạt những giá trị chính xác. CHƯƠNG 1: CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ 1.1 Khái niệm và quan điểm về hoạt động tài chính vi mô 1.1.1 Khái niệm tài chính vi mô Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) định nghĩa tài chính vi mô “là việc cung cấp các dịch vụ tài chính như tiền gửi, cho vay, các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm tới các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp và các doanh nghiệp quy mô nhỏ”. ADB xác định có 3 nguồn cung cấp dịch vụ tài chính vi mô: các thể chế chính thức như ngân hàng và các hợp tác xã, các định chế bán chính thức như các tổ chức phi chính phủ (NGO); và các nguồn phi chính thức như những người cho vay nặng lãi và thương nhân. Tài chính vi mô bao gồm các định chế chính thức và bán chính thức. Nghị định 28 NĐ-CP về về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam định nghĩa “Tài chính quy mô nhỏ là hoạt động cung cấp một số dịch vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ gia đình nghèo và người nghèo”, “Tổ chức tài chính quy mô nhỏ là tổ chức tài chính hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, với chức năng chủ yếu là sử dụng vốn tự có, vốn vay và nhận tiết kiệm để cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp”. “Tài chính vi mô bao gồm các giao dịch tài chính tương đối nhỏ, đặc biệt là cung cấp tin dụng nhỏ cho các doanh nghiệp vi mô hoặc cá nhân và huy động tiết kiệm nhỏ của họ”. Phương pháp thông dụng và thực tiễn nhất là nhìn nhận tài chính vi mô ở Việt Nam trên ba giác độ: nhóm mục tiêu, quy mô khoản vay và tiền gửi, và cơ chế sử dụng để cung cấp dịch vụ tới khách hàng. Như vậy, theo những định nghĩa được nêu ở trên thì TCVM có hai mục tiêu chính: Mục tiêu thứ nhất là mở rộng sự tiếp cận phục vụ những đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, người dân tộc thông qua tạo cơ hội về việc làm và thu nhập thông qua việc mở rộng các doanh nghiệp nhỏ, tăng hiệu quả công việc cũng như thu nhập cho một số nhóm người, đặc biệt là phụ nữ và người nghèo, làm giảm sự phụ thuộc vào những mùa vụ chính ở trong năm của các hộ gia đình ở nông thôn bằng cách đa dạng hóa các hoạt động tạo thu nhập. Mục tiêu thứ hai là phát triển bền vững, tạo ra đủ lợi nhuận để trang trải các chi phí cung cấp dịch vụ tài chính. Tài chính vi mô được coi là một phương pháp phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho cư dân thu nhập thấp. Cùng với các trung gian tài chính, rất nhiều tổ chức TCVM cung cấp các dịch vụ trung gian mang tính chất xã hội như hình thành tổ nhóm phát triển tính tự tin, và đào tạo các kiến thức về tài chính cũng như quản lý các thành viên trong cùng một nhóm. Do đó TCVM không đơn giản chỉ là công cụ ngân hàng, nó là một công cụ phát triển. Tài chính vi mô thường đề cập đến: Các khoản vay nhỏ, đặc biệt là các món vay để làm vốn lưu động; Thẩm định phi chính thức về người vay và các hoạt động đầu tư của họ; Các hình thức ký quỹ thay thế tài sản thế chấp như bảo lãnh nhóm và tiết kiệm bắt buộc; Vay nhiều lần và số tiền lớn dần dựa trên thực trạng hoàn trả vốn vay; Giải ngân gọn và giám sát; Các sản phẩm tiết kiệm an toàn tạo sự tin tưởng cho người gửi tiền. Như vậy các tổ chức TCVM có thể là các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ nhóm cho vay tiết và tiết kiệm, các hiệp hội tín dụng, các ngân hàng quốc doanh, hoặc các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Khách hàng của TCVM có thể là các cá thể làm ăn, những doanh nghiệp ở nông thôn, những người có thu nhập thấp hoặc có thu nhập cao. Thông thường công việc của các khách hàng TCVM có những nguồn thu nhập ổn định. 1.1.2 Quan điểm về hoạt động tài chính vi mô Người nghèo không những cần vay vốn, mà còn có những nhu cầu đối với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau. Cũng như nhiều nhóm đối tượng khác, người nghèo có nhu cầu đối với nhiều loại hình dịch vụ tài chính đa dạng thuận tiện, linh hoạt và có mức giá cả hợp lý. Tùy từng điều kiện cụ thể của mình mà người nghèo không những cần được vay vốn, mà còn muốn được sử dụng dịch vụ tiết kiệm, chuyển tiền mặt và bảo hiểm. Tài chính vi mô là một công cụ có tác dụng mạnh để chống nghèo đói. Việc tiếp cận đến các dịch vụ tài chính bền vững sẽ giúp người nghèo tăng thu nhập, tích lũy tài sản và giảm nguy cơ bị tổn thương do các biến động bên ngoài. Tài chính vi mô cho phép các hộ gia đình nghèo từ chỗ chỉ duy trì sự tồn tại hàng ngày của mình tiến tới lập kế hoạch cho tương lai, đầu tư vào chế độ dinh dưỡng tốt hơn, nâng cao điều kiện sống, sức khỏe và học tập của trẻ em. Tài chính vi mô có nghĩa là xây dựng các hệ thống tài chính phục vụ người nghèo. Người nghèo hiện nay vẫn khó tiếp cận đến với các dịch vụ tài chính cơ bản. Để thực hiện được tiềm năng tiếp cận số lượng người nghèo của mình, TCVM phải được trở thành một bộ phận không thể tách rời khu vực tài chính của mình. Cần đảm bảo bền vững về mặt tài chính để tiếp cận được số lượng đáng kể người nghèo. Đa phần người nghèo không tiếp cận được các dịch vụ tài chính do thiếu hệ thống trung gian. Bản thân việc xây các tổ chức bền vững về mặt tài chính cũng có ý nghĩa quan trọng. Đó là phương thức duy nhất để đạt được quy mô và mức độ ảnh hưởng lớn vượt khỏi những gì mà nhà tài trợ có thể cung cấp. “Bền vững” là khả năng một tổ chức tài chính vi mô bù đắp được tất cả các chi phí của mình. Việc đảm bảo được khả năng bền vững này sẽ cho phép tổ chức tài chính vi mô hoạt động liên tục và không ngừng cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo. Đạt được những bền vững có nghĩa là các dịch vụ tài chính sẽ cung cấp một cách có hiệu quả, các chi phí giao dịch trung gian được giảm thiểu và có các hướng đi mới khác nhau để người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ tài chính một cách tốt nhất. Tài chính vi mô là việc xây dựng các định chế tài chính thường trực tại địa phương. Xây dựng các hệ thống tài chính dành cho người nghèo có nghĩa là xây dựng các trung gian tài chính vững mạnh tại địa phương có đủ khả năng cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo một cách thường xuyên. Những tổ chức này phải có khả năng huy động vốn và quay vòng tiền tiết kiệm tín dụng và cung ứng các dịch vụ khác. Cùng với sự phát triển của các tổ chức tài chính địa phương, giảm thiểu các nguồn vốn do các nhà tài trợ và chính phủ. Tín dụng vi mô không phải là câu trả lời cho mọi trường hợp. Tín dụng vi mô không phải là thích hợp cho mọi người hay mọi trường hợp. Những người nghèo đói không có thu nhập hay bất cứ phương thức nào để trả nợ sẽ cần đến hình thức hỗ trợ khác trước khi họ tận dụng các khoản vay. Trong nhiều trường hợp họ sẽ cần các khoản hỗ trợ nhỏ, các dịch vụ tạo việc làm thì sẽ có được kết quả giảm nghèo có hiệu quả. Và nếu có thể thì các dịch vụ tài chính phi chính thức này lồng ghép được với quá trình tích lũy tiết kiệm thì sẽ hiệu quả hơn đối với người nghèo. Trần lãi suất có thể làm hỏng khả năng tiếp cận với dịch vụ tài chính của người nghèo. Cho vay với nguồn vốn nhỏ và hình thức thu gốc lãi chia làm nhiều lần sẽ tăng chi phí dành cho quản lý lên cao, điều này có thể lý giải tại sao hệ thống cung cấp tài chính nông thôn chính thức thường ưu tiên cho các khoản vay với số lượng lớn. Vì vậy, nếu không áp dụng mức lãi suất cao hơn đáng kể so với mức lãi suất ngân hàng thì các tổ chức tài chính vi mô sẽ không thể bù đắp với chi phí. Khi chính phủ điều tiết lãi suất, chính phủ thường quy định mức lãi suất quá thấp để có thể đảm bảo được hoạt động tín dụng vi mô bền vững. Đồng thời, tổ chức cho vay vi mô lại không được chuyển ghánh nặng của hoạt động thiếu hiệu quả của mình sang cho khách hàng dưới hình thức lãi suất và các loại chi phí khác cao hơn mức quy định. Chính phủ đóng vai trò là người tạo điều kiện, chứ không phải là người trực tiếp cung cấp dịch vụ tài chính. Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra môi trường chính sách mang tính chất hỗ trợ nhằm khuyến khích phát triển dịch vụ tài chính, đồng thời bảo hộ tiền gửi tiết kiệm của người nghèo. Những điều cơ bản mà chính phủ có thể hỗ trợ các dịch vụ tài chính dành cho người nghèo bằng cách cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp, kiểm soát chặt chẽ nạn tham nhũng và tăng cường tiếp cận của người nghèo đối với thị trường và cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn của các nhà tài trợ mang tính chất bổ sung chứ không phải cạnh tranh với nguồn vốn khu vực tư nhân. Các nhà tài trợ chỉ nên sử dụng số tiền viện trợ, cho vay và các công cụ vốn cổ phần khác trên cơ sở tạm thời nhằm xây dựng năng lực thể chế của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết, và hỗ trợ các sản phẩm dịch vụ và thử nghiệm. Để đảm bảo hiệu quả thì nguồn vốn của nhà tài trợ phải tìm cách kết được dịch vụ tài chính cho người nghèo với thị trường tài chính địa phương, yêu cầu các tổ chức tài chính và các đối tác khác phải đạt được những chuẩn mực hoạt động tối thiểu, coi đó là điều kiện để được tiếp tục hỗ trợ. Trở ngại lớn nhất là thiếu năng lực. Tài chính vi mô là một lĩnh vực đặc biệt, kết hợp hoạt động ngân hàng với các mục tiêu xã hội. Cần phải xây dựng năng lực ở tất cả các cấp độ, từ các tổ chức tài chính đến các cơ quan quản lý giám sát, hệ thống thông tin. Tầm quan trọng của tính minh bạch về tài chính vi mô. Bắt buộc thông tin phải chính xác, chuẩn hóa và có thể so sánh được về hoạt động tài chính và hoạt động xã hội của các tổ chức tài chính cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Các cơ quan quản lý, các nhà tài trợ và bản thân các người nghèo cần những thông tin này để đánh giá đầy đủ về rủi ro và lợi nhuận. 1.2 Các loại hình tổ chức tài chính vi mô 1.2.1 Tổ chức tài chính vi mô chính thức Ngân hàng phát triển cộng đồng: Những ngân hàng được thành lập trong thời gian gần đây là một điển hình về mô hình ngân hàng lớn, tập trung và thuộc sở hữu của nhà nước. Hầu hết những ngân hàng được thành lập bởi ủng hộ tài chính từ các tổ chức nước ngoài, và cung cấp các dịch vụ tài chính đến lĩnh vực trọng điểm của mình là nông nghiệp hoặc công nghiệp. Phần lớn các ngân hàng này là sản phẩm của cách tiếp cận truyền thống nhấn mạnh đến việc phân cấp vốn với tỷ lệ lãi suất được hỗ trợ. Khách hàng truyền thống của họ trước đây thường là những nhà kinh doanh lớn, trong mấy năm trở lại đây họ đã tiếp cận đến vùng nông thôn và những nhà kinh doanh nhỏ. Tuy nhiên với cơ cấu tổ chức ít thay đổi nên thành công của họ vẫn chưa đáng kể. Ngoài ra các ngân hàng đã cải thiện và cung cấp các dịch vụ cho các nhóm khách hàng nghèo hơn. Ngân hàng phát triển tư nhân: Ngân hàng hoạt động nhằm mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế nước ngoài nhằm điền đầy khoảng trống về vốn trong khu vực tư nhân. Ngân hàng tiết kiệm và ngân hàng bưu điện: là điển hình của những ngân hàng không thuộc sở hữu của chính quyền trung ương, thông thường nó là sự kết hợp giữa sở hữu tư nhân và công chúng. Ngân hàng tiết kiệm có nhiều hướng nhấn mạnh sự huy động tiết kiệm hơn các ngân hàng khác. Điểm mạnh của ngân hàng này là phân cấp quản lý, huy động sự tham gia của cộng đồng địa phương và quan tâm đến những nhà kinh doanh nhỏ. Ngân hàng này có một mạng lưới cửa hàng, nó không chỉ cung cấp tín dụng mà còn nhận tiền gửi và cung cấp dịch vụ chuyển tiền. Điểm mạnh của ngân hàng này là quản lý bắt nguồn từ cộng đồng, quan tâm đến những nhà kinh doanh nhỏ ở địa phương. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Hoạt động của các công ty tài chính thường gắn liền với các hợp đồng trả góp, và tín dụng tiêu dùng. Các công ty này thường không được huy động tiền gửi tiết kiệm, tuy nhiên tùy theo thể chế của mỗi công ty mà một số công ty có thể huy động tiết kiệm có thời hạn. 1.2.2 Tổ chức tài chính bán chính thức Các hiệp hội tín dụng, hợp tác xã cho vay và tiết kiệm, và các hợp tác xã tài chính khác: Có nhiều loại hình tổ chức tài chính hợp tác, các loại hình tổ chức này đóng vai trò quan trọng trong cung cấp dịch vụ tài chính cho nhóm người nghèo. Hợp tác xã thực hiện chức năng đóng vai trò trung gian tài chính trong phân luồng tài chính giữa những người gửi tiền thuần túy với những người vay thuần túy trong khi vẫn đảm bảo nguồn vốn vay tại cộng đồng. Các hợp tác xã tài chính được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc là không có cổ đông bên ngoài, các thành viên là chủ sở hữu của hợp tác xã. Ngoài việc gửi các cổ phần có thể chuyển nhượng lại với giá danh nghĩa, các thành viên có thể gửi hoặc vay tiền của hợp tác xã. Nhóm quản lý hợp tác xã được thành lập dựa trên tín nhiệm của thành viên, do tự nguyện hoặc do bầu lên. Các đặc trưng của hợp tác xã tài chính: Khách hàng thông thường là các những người có thu nhập thấp hoặc dưới trung bình. Các dịch vụ tài chính của hợp tác xã mang tính chất đặc biệt. Tự tạo vốn và chi phí luôn giữ ở mức thấp và không phụ thuộc vào sự tài trợ từ bên ngoài. Các hợp tác xã tài chính riêng lẻ thường lựa chọn tham gia vào một hiệp hội tổ chức cấp 1 nhằm mục đích đại diện cho các hiệp hội tín dụng ở cấp quốc gia, cung cấp hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật cho các hiệp hội tín dụng thành viên, hoạt động như một bộ phần nhận tiền gửi trung tâm và cho vay giữa các thành viên, và chuyển các nguồn từ nhà tài trợ bên ngoài vào hệ thống hợp tác xã quốc gia. Dịch vụ tiết kiệm là nhân tố cơ bản trong việc gây dựng vốn. Hoạt động cho vay của các hợp tác xã tín dụng ít đòi hỏi thế chấp mà chủ yếu là tín chấp, và các thỏa thuận được thực hiện với các thành viên vay vốn. Tuy nhiên để hợp tác xã tài chính hoạt động hiệu quả thì phải thỏa mãn hai nguyên tắc là: nhóm cấu thành nên tổ chức phải vừa đủ đế các thành viên có thể hiểu rõ về nhau; và các hội viên phải thường xuyên chuyển từ vai trò người cho vay thuần túy sang thành người đi vay thuần túy và ngược lại. Các tổ chức tài chính phi chính phủ: NGO là các tổ chức được thành lập và quản lý không phải bởi những người mà nó nhằm phục vụ mà bởi người ngoài, thường là những người thuộc tầng lớp trung lưu muốn giúp đỡ những người nghèo hơn vì mục đích xã hội, đạo đức và chính trị. NGO là hình thức cung cấp TCVM phổ biến nhất. NGO tuy không do chính các hội viên cần giúp đỡ tạo nên, nhưng NGO rất gần gũi với nhóm khách hàng mục tiêu thông qua các cách tiếp cận của mình. Tuy nhiên, một vài nhân tố đã làm cho các NGO hoạt động không có hiệu quả cao do những lý do về sự nhạy bén trong kinh doanh, sự tham vọng quá mức về sự tương thích mang tính xã hội; quy mô hoạt động hẹp nên không đủ điều kiện thu lợi nhuận từ hoạt động của mình, phụ thuộc vào nhà tài trợ, không chịu trách nhiệm về hoạt động của mình một cách trực tiếp xét về mặt tài chính. Và một trong những hạn chế của NGO là thiếu một tầm nhìn chiến lược mang tính dài hạn. 1.2.3 Khu vực tài chính phi chính thức Thị trường tài chính phi chính thức chiếm hầu hết cấp cuối cùng trong hệ thống tài chính và có thể phân theo nhiều cách: Dựa trên cá nhân (các nhà cho vay, các nhà nhận tiền gửi) và dựa trên các nhóm (các hiệp hội tiết kiệm và tín dụng). Các nhóm chuyên môn hóa (ví dụ các hiệp hội tiết kiệm và cho vay) với các nhóm không chuyên mô hóa (ví dụ các hội kinh doanh, hội tự nguyện hoặc không tự nguyện). Có nguồn gốc địa phương (có thể có chung nguồn gốc về truyền thống hoặc văn hóa địa phương) và được giới thiệu từ bên ngoài. Các tổ chức, cá nhân nằm trong khu vực tài chính phi chính thức có một số nét tương đồng với các tổ chức tài chính chính thức. Các hình thức hoạt động dưới dạng là tín dụng quay vòng, hoặc các nhóm tự hỗ, hoặc các doanh nhân và các nhà sản xuất cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng của họ, hoặc các hình thức cung cấp tín dụng giữa các bạn bè, người cùng gia đình hoặc người thân. Người cho vay trên khu vực tài chính phi chính thức chấp nhận khoản vay dựa trên hiểu biết cá nhân về người vay, dựa trên tín chấp. Họ đáp ứng nhu cầu vay vốn của người vay dựa trên tối thiểu hóa về các thủ tục hành chính. Tuy nhiên các khoản vay từ những người vay tiền thường không vì mục đích kinh doanh mà thường đáp ứng mục đích sinh hoạt hàng ngày. Các khoản vay này thường ngắn hạn. Tổ chức tài chính phi chính thức có thể hoạt động dựa trên nhóm, các tổ chúc này có thể bao gồm các thành viên của một cộng đồng, một làng, một nhóm làng, một cơ quan, một hội nghề nghiệp, những người họ hàng... Đây có thể là những nhóm mà các thành viên đều biết đến nhau, hoặc có thể không biết hết được. Các nhóm vì vậy có đặc điểm đồng nhất hoặc hỗn tạp. Về phạm vi xã hội, các điều kiện kinh tế hoặc văn hóa, các hội viên có thể là đồng nhất hoặc khác biệt. Các nghĩa vụ và các cam kết có được tôn trọng nhiều hay không trong các nhóm đồng nhất hay hỗn tạp phụ thuộc vào loại hình cộng đồng. 1.3 Phương pháp tiếp cận tài chính vi mô Các phương pháp tiếp cận TCVM được đưa ra bao gồm: 1. Cho vay theo cá thể; 2. Cho vay theo nhóm tương hỗ kiểu Ngân hàng Grameen; 3. Cho vay theo nhóm tương hỗ ở khu vực Mỹ La tinh; 4. Ngân hàng làng xã; 5. Ngân hàng làng xã tự quản. Bất kỳ một cách tiếp cận theo hình thức nào cũng dựa trên cơ sở là thị trường mục tiêu, và nhu cầu của nó đối với các dịch vụ trung gian tài chính, cũng như các sản phẩm khác. Các cách tiếp cận có thể dựa trên các tổ chức khác kể cả công cộng và tư nhân để cung ứng các dịch vụ bổ trợ để nhóm khách hàng mục tiêu sử dụng một cách hiệu quả nhất dịch vụ tín dụng của mình, và nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo hiệu quả về mặt tài chính của tổ chức. Khó có thể đánh giá được cách tiếp cận nào sẽ là tốt nhất, và không có một mô hình đơn lẻ nào lại thích hợp cho mọi tổ chức và vì vậy, mọi mô hình TCVM đều phải được thiết kế thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế của thực tế. 1.3.1 Cho vay cá thể Cho vay cá thể được định nghĩa là việc cung ứng tín dụng cho các cá nhân không phải là thành viên của một nhóm cùng chịu trách nhiệm hoàn trả. Như vậy hình thức cho vay cá thể cần được sự liên hệ thường xuyên và gần gũi với khách hàng. Vì vậy mô hình này đặc biệt thành công với những doanh nghiệp sản xuất, ở thành thị và có quy mô lớn và với khách hàng có tài sản thế chấp hoặc có người bảo lãnh tự nguyện. Đối với nông thôn thì phương pháp tiếp cận này có thể thành công với những trang trại nhỏ. Phương pháp cho vay: Khách hàng là những cá thể làm việc có nhu cầu về vốn kinh doanh và tín dụng để mua sắm tài sản cố định để, nhằm mục đích sản xuất kinh doanh. Các nhân viên tín dụng tiến hành làm việc với một nhóm người trong một khoảng thời gian nhất định, có thể là vài năm để phát triển mối quan hệ gần gũi, cung cấp những hỗ trợ về mặt kỹ thuật, và phân tích nhu cầu về tín dụng của nhóm người này. Món vay và các thủ tục cho vay được tiến hành dựa trên những phân tích kỹ càng của cán bộ tín dụng, lãi suất cho vay thường cao hơn các món vay của khu vực chính thức nhưng sẽ thấp hơn khu vực phi chính thức. Thông thường các tổ chức cung cấp TCVM theo phương pháp tiếp cận này đều đòi hỏi các hình thức thế chấp hoặc đảm bảo, hình thức này sẽ không có tiết kiệm bắt buộc. Quy mô món vay cũng như thời hạn cho vay được đàm phán với k._.hách hàng dựa trên đơn xin vay vốn, kết quả đạt được dựa trên đặc tính cá nhân và địa phương của người vay vốn. Sau khi có được sự thống nhất giữa hai bên về quy mô món vay, thời hạn vay vốn và các điều kiện khác. Khách hàng phải hoàn thành các tài liệu có liên quan bao gồm: các thông tin cần thiết của khách hàng, và trong truờng hợp có thể cần có một tổ chức hay cá nhân bảo lãnh ký về thông tin của người này; chứng từ pháp lý về các tài sản được thế chấp và lịch sử tín dụng của cá nhân. Các nhân viên của tổ chức thường được tuyển dụng từ cộng đồng, do đó họ có những phân tích về mức độ an toàn của tín dụng với khách hàng. Hợp đồng được ký kết và các thủ tục giải ngân vay vốn được thực hiện ngay tại văn phòng của chi nhánh hoặc của tổ chức cung cấp dịch vụ. Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, các nhân viên của tổ chức sẽ thường xuyên đến thăm người vay vốn để đảm bảo người vay vốn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng vay vốn. Những nghĩa vụ của người vay vốn về trả gốc và lãi được thực hiện định kỳ tại văn phòng chi nhánh, nơi đã thực hiện hoạt động giải ngân vốn vay. Quy mô và thời hạn món vay được thống nhất dựa trên sự thảo thuận giữa hai bên, món vay thông thường từ 100 đến 300 USD với thời hạn từ 6 tháng đến 5 năm, tùy theo mục đích vay vốn. Dịch vụ tiết kiệm có thể hoặc không thể được cung cấp tùy theo quy mô và cơ cấu hoặt động của tổ chức. Các dịch vụ hỗ trợ vay vốn có hoặc không được thực hiện. 1.3.2 Cho vay theo nhóm tương hỗ Grameen Mô hình này được phát triển bởi ngân hàng Grameen của Bangladesh nhằm phục vụ những phụ nữ nông thôn, không có ruộng đất, mong muốn tài trợ cho các hoạt động tạo thu nhập. Mô hình này khá phổ biến tại Châu Á và được áp dụng tại nhiều nơi trên thế giới. Phương pháp cho vay: các nhóm gồm 5 thành viên không có quan hệ hôn nhân hay huyết thống được tự thành lập và tập trung thành các nhóm khác nhau. Các thành viên buộc phải tham dự các buổi sinh hoạt hàng tuần và đóng góp tiền tiết kiệm, đóng tiền quỹ nhóm và đóng tiền bảo hiểm. Đóng góp tiền tiết kiệm phải được thực hiện trước khi nhận được món vay từ bốn đến năm tuần và phải tiếp diễn trong thời gian vay vốn. Quỹ nhóm được do nhóm tự quản lý và được cho vay với các thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm cùng bảo lãnh các món vay của nhau và chịu trách nhiệm liên đới trước pháp luật về khoản vay của bất kỳ một thành viên nào trong nhóm. Bất cứ một thành viên nào không hoàn thành đúng và đủ các nghĩa vụ của mình trong quá trình vay vốn thì sẽ không có bất kỳ một thành viên khác trong nhóm được vay vốn. Hoạt động vay vốn không cần tài sản thế chấp, mà dựa trên tín chấp của nhóm vay vốn. Các món vay được cán bộ tín dụng giải ngân đến từng thành viên trong nhóm tại các cuộc họp nhóm. Tuy nhiên, lần đầu tiên chỉ có 2 thành viên trong nhóm được vay, sau một thời gian nếu hai thành viên này hoàn thành đúng và đủ các nghĩa vụ của mình thì 2 thành viên tiếp theo sẽ được giảin ngân. Grameen có cung cấp các khóa tập huấn định hướng trước khi cho vay vốn nhưng rất ít được trợ giúp kỹ thuật. Việc thẩm định món vay được thực hiện bởi các thành viên trong nhóm và lãnh đạo trung tâm. Cán bộ chi nhánh ngân hàng kiểm tra thông tin và thăm viếng thường xuyên để xem xét công việc làm ăn của khách hàng. Cán bộ tín dụng thường quản lý từ 200 đến 300 khách hàng. Đặc điểm: Nhiệm vụ của tín dụng Grameen là giúp các hộ gia đình nghèo tự giúp họ vượt qua nghèo đói, đặc biệt là các phụ nữ nghèo. Đây là nhiệm vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng. Đạt được mục tiêu bền vững là mục tiêu chủ đạo, và đạt được càng sớm càng tốt để từ đó có thể mở rộng tầm hoạt động mà không còn sức ép về vốn. Chương trình tạo cơ hội cho người nghèo tự tạo việc làm thông qua các hoạt động tạo thu nhập, cải thiện nhà ở chứ không phải phục vụ cho các hoạt động tiêu dùng. Vì vậy mục đích của việc vay vốn hoạt động tài chính vi mô là các hoạt động đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp. Tín dụng dựa chủ yếu vào lòng tin chứ không phải là hệ thống và thủ tục pháp lý. Để được vay, các thành viên phải tham gia vào nhóm của những người vay vốn Tất cả các khoản vay được trả làm nhiều lần chứ không phải trả làm một lần. Các món vay được nhận theo trình tự nối tiếp nhau, người vay sẽ nhận món vay mới sau khi hoàn trả món vay trước đó. Người vay cũng có thể nhận một lúc nhiều món vay. Chương trình cung cấp cả tiết kiệm tự nguyện và tiết kiệm bắt buộc. Thông thường các món vay này được cho vay bởi ác tổ chức phi lợi nhuận hoặc sở hữu chủ yếu bởi người vay. Nếu chương trình được thực hiện bởi các tổ chức hoạt động vì lợi nhuận và không sở hữu bởi người vay thì cần phải giữ cho tỷ lệ lãi suất ở mức tương xứng với sự bền vững của chương trình, hơn là nỗ lực mang lại lợi nhuận hấp dẫn cho nhà đầu tư. Nguyên tắc là giữ cho mức lãi suất càng gần càng tốt với lãi suất của thị trường và chiếm ưu thế trong lĩnh vực ngân hàng thương mại mà không đánh mất khả năng bền vững. Trong việc thiết lập lãi suất, lãi suất thị trường được dùng làm lãi suất tham khảo hơn là dùng lãi suất từ người cho vay không chính thức. Lúc khởi đầu tín dụng Grameen như là một thách thức đối với các ngân hàng thông thường khác vì các ngân hàng này từ chối người nghèo bởi họ cho rằng họ không đáng tin. Kết quả là tín dụng Grameen đã không chấp nhận phương pháp luận cơ bản của ngân hàng thông thường và tạo ra hệ phương pháp riêng mình. Tín dụng Grameen dành ưu tiên hàng đầu vào việc xây dựng lợi ích xã hội, điều này được khuyến khích qua việc hình thành các cụm nhóm, nâng cao năng lực lãnh đạo với việc bầu chọn cụm nhóm trưởng, lựa chọn thành viên hội đồng quản trị khi tổ chức được sở hữu bởi người vay. Hoạt động quan tâm đến việc tạo lập lợi ích con người và bảo vệ môi trường, giám sát việc học tập của trẻ em. Đối với việc hình thành lợi ích con người, tín dụng Grameen nỗ lực mang khoa học kỹ thuật đối với thành viên, khuyến khích sử dụng máy móc thay cho chân tay. Tín dụng Grameen cung cấp dịch vụ tận cửa cho người nghèo dựa trên nguyên tắc là không để khách hàng đến với ngân hàng mà ngân hàng chủ động đến với họ. Tín dụng Grameen dựa trên giả thuyết là người nghèo có những kỹ năng vẫn chưa được sử dụng hoặc sử dụng không đúng mức. Chắc chắn không phải người nghèo trở nên nghèo vì thiếu kỹ năng, đói nghèo không phải do người nghèo tạo ra mà do những thể chế, chính sách bao quanh họ. Để loại bỏ đói nghèo, tất cả chúng ta cần làm là tiến hành những thay đổi phù phợp về thể chế, chính sách. Grameen tin rằng việc là tự thiện sẽ không xóa bỏ được nghèo đói mà còn làm cho tình trạng của đói nghèo tiếp tục tiếp diễn, tạo ra sự phụ thuộc và đánh mất tính chủ động, sáng tạo của cá nhân trong việc chống nghèo đói. Sản phẩm: Các món vay thường có kỳ hạn ngắn từ 6 tháng đến 1 năm, và việc hoàn trả được thực hiện hàng tuần. Số tiền vay dao động từ 100 đến 300 USD và lãi suất thường là 2%/tháng. Các thành viên tham gia nhóm phải đóng góp tiết kiệm. Khách hàng: Khách hàng thường là những phụ nữ từ các nhóm hộ thu nhập thấp đang đeo đuổi các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo thu nhập. 1.3.3 Cho vay theo nhóm tương hỗ Châu Mỹ La tinh Mô hình nhóm tương hỗ thường cho vay đến từng thành viên trong các nhóm từ khoảng 4 đến 7 thành viên. Các thành viên bảo lãnh chéo món vay đế thay thế cho tài sản thế chấp truyền thống. Mô hình này được phát triển bởi tổ chức ACCION International ở Mỹ La tinh và đã được áp dụng bởi nhiều tổ chức tài chính vi mô. Phương pháp cho vay: Khách hàng thường là những doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực phi chính thức, chẳng hạn các nhà buôn hoặc người kinh doanh cần một lượng vốn tương đối nhỏ. Các thành viên trong nhóm cùng bảo đảm việc hoàn trả món vay, và việc tiếp cận tới các món vay tiếp theo phụ thuộc vào sự hoàn trả thành công bởi tất cả các thành viên của nhóm. Mô hình này được kết hợp với các dịch vụ cung cấp kỹ thuật. Các món vay được các cán bộ tín dụng quyết định, và được giải ngân được thực hiện đối với người đứng đầu nhóm tại văn phòng chi nhánh, người này sẽ chịu trách nhiệm phân phối đến từng thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm thường nhận được số tiền vay bằng nhau, những món vay sau có thể linh hoạt hơn. Số tiền và thời hạn vay được tăng lên sau thời gian tham gia tín dụng và đảm bảo rằng người vay vốn đủ năng lực quản lý nguồn vốn lớn hơn. Các khoản tiết kiệm thường được đòi hỏi nhưng nhiều khi được khấu trừ từ số tiền vay vào thời điểm giải ngân món vay chứ không phải nhất thiết đòi hỏi khách hàng phải tiết kiệm trước khi nhận được món vay. Sản phẩm: Số tiền vay ban đầu thường nằm trong khoảng từ 100 đến 2000 USD. Những món vay sau đó không có giới hạn trên, lãi suất thường được tính cao và phí dịch vụ cũng được tính gộp. Các khoản tiền tiết kiệm thường được yêu cầu như là một phần của món vay. Có rất ít các khoản tiết kiệm tự nguyện được cung cấp. Khách hàng: hầu hết là ở thành thị và bao gồm cả phụ nữ lẫn nam giới, những người có thu nhập nhỏ và trung bình. 1.3.4 Ngân hàng làng xã Ngân hàng làng xã là các tổ chức tín dụng tiết kiệm do cộng đồng quản lý được thiết lập nhằm cung ứng khả năng tiếp cận tới các dịch vụ tài chính ở nông thôn, xây dựng các nhóm tự hỗ tại cộng đồng, và giúp các thành viên tích lũy các khoản tiền tiết kiệm được. Mô hình được phát triển vào những năm 1980 bởi Tổ chức hỗ trợ cộng đồng quốc tế (FINCA). Số lượng thành viên của ngân hàng làng xã thường từ 30 đến 50 người, phần lớn là phụ nữ. Ngân hàng thường được tài trợ bởi việc huy động vốn nội bộ từ các thành viên cũng như các món vay từ tổ chức TCVM. Phương pháp cho vay: Ngân hàng làng xã bao gồm các thành viên và hội đồng quản trị được hưởng lợi từ các khóa đào tạo từ các tổ chức TCVM bảo trợ. Các tổ chức bảo trợ thường cho ngân hàng vay vốn hoạt động, sau đó ngân hàng lại cho các thành viên khác vay lại. Tất cả các thành viên phải ký một thỏa ước vay vốn nhằm đưa ra sự bảo đảm chung, có thể xem như là quy chế tham gia hoạt động. Số tiền cho ngân hàng làng xã vay thường dựa trên tổng của tất cả các yêu cầu của các cá nhân thành viên, số tiền cho vay ban đầu thường nhỏ và được hoàn trả theo từng tuần. Số tiền món vay thứ hai được xác định bởi số tiền tiết kiệm mà thành viên đã tích lũy được trong khoảng thời gian của món vay thứ nhất thông qua sự đóng góp tuần. Các món vay đối với ngân hàng làng xã thường được cung ứng theo những chu kỳ cố định, thường là 1 năm và thanh toán toàn bộ vào cuối mỗi chu kỳ. Số tiền vay tiếp theo có liên hệ với số tiền tổng cộng được tiết kiệm bởi các thành viên ngân hàng. Các hoạt động của ngân hàng thường công khai minh bạch và mang tính dân chủ cao, các quyết định liên quan đến hoạt động của ngân hàng đều được thảo luận. Sản phẩm: Tiết kiệm của các thành viên gắn liền với số tiền vay và được sử dụng để tài trợ cho những món vay mới hoặc cho những hoạt động tạo thu nhập. Tuy nhiên, các thành viên nhận được một phần từ khoản lợi nhuận đầu tư hợac cho vay lại của ngân hàng. Cổ tức được phân bổ có quan hệ tỷ lệ với số tiền tiết kiệm mà thành viên đóng góp vào ngân hàng. Khách hàng: khách hàng của ngân hàng làng xã thường từ vùng nông thôn hoặc khu vực dân cư thưa thớt nhưng có khả năng liên hệ với nhau. Khách hàng thường là những người có thu nhập thấp nhưng có khả năng tiết kiệm. Do đặc điểm trên nên thông thường khách hàng là phụ nữ. 1.3.5 Ngân hàng làng xã tự quản Ngân hàng làng xã tự quản được thiết lập và quản lý bởi hội đồng làng xã nông thôn. Những ngân hàng này khác với những ngân hàng làng xã phụ vụ nhu cầu của cả làng, chúng không phải chỉ là một nhóm người từ 30 đến 50 người. Mô hình này được khởi xướng bởi Trung tâm nghiên cứu và phát triển quốc tế, vào giữa những năm 1980. Phương pháp cho vay: Chương trình hỗ trợ phân loại những làng có liên hệ xã hội cao và nhu cầu thiết lập một ngân hàng làng xã được thể hiện rất rõ ràng. Cộng đồng trong làng sẽ xác định cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của ngân hàng làng xã. Họ sẽ bầu ra một ban quản lý và ủy ban tín dụng hoặc hai đến ba nhà quản lý. Những ngân hàng làng xã tự quản huy động tiết kiệm và cho vay ngắn hạn đối với dân làng trên cơ sở cá nhân, chương trình tài trợ không cung cấp tín dụng cho ngân hàng làng xã, ngân hàng phải dựa vào khả năng huy động tiết kiệm của nó. Sau một hoặc hai năm, ngân hàng làng xã xây dựng một hệ thống hoặc hiệp hội phi chính thức để họ có thể thảo luận những vấn đề thực tại và cố gắng giải quyết những khó khăn. Hiệp hội hoạt động giống như một hệ thống trung gian và chuyển giao tín dụng với các ngân hàng làng xã với khu vực tài chính chính thức. Do quá trình quản lý tập trung hóa cao, các dịch vụ trọng yếu được giới hạn bởi ngân hàng làng xã, và điều đó đảm bảo khả năng bền vững tài chính của nó. Sản phẩm: Những sản phẩm này bao gồm có tiết kiệm, tài khoản vãng lai và tiền gửi kỳ hạn. Các món vay thường là ngắn hạn và là món vay cung cấp vốn lưu động, không có sự liên hệ trực tiếp nào giữa số tiền vay và khả năng tiết kiệm của thành viên, lãi suất được thiết lập bởi từng làng tùy theo kinh nghiệm của nó với các khoản tiết kiệm truyền thống và sự kết hợp các món vay. Các vùng càng xa thì lãi suất có xu hướng càng tăng. Các món vay cho cá nhân nên tài sản thế chấp là cần thiết, tuy nhiên hoạt động thu hồi vốn vay chủ yếu dựa trên sức ép của làng xã. Ban quản lý của ngân hàng làng xã được đào tạo thường xuyên. Khách hàng: khách hàng chủ yếu của ngân hàng thường ở vùng nông thôn và bao gồm cả nam và nữ giới với mức thu nhập thấp trung bình và có khả năng tiết kiệm. 1.4 Tác động của tài chính vi mô 1.4.1 Phát triển kinh tế xã hội Hoạt động tài chính vi mô góp phần quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội. Tài chính vi mô đã giúp người nghèo thay đổi cuộc sống theo hướng đi lên, chất lượng cuộc sống được cải thiện. Điều này được khẳng định qua sự tác động: 1. Có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hộ, giảm hộ nghèo, tăng hộ trung bình và khá, an toàn lương thực được tăng cường; 2. Cải thiện nhà ở và mua sắm tài sản; 3. Đa dạng hóa các nguồn thu; 4. Có cơ hội chăm sóc y tế và giáo dục, cuộc sống văn hóa tinh thần. Khai thác và phát huy tiềm năng của nhóm hộ nghèo sẽ góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế, bớt đi những chi phí cứu trợ, giúp cho họ đấu tranh với đói nghèo bằng việc cải thiện thu nhập. Cung cấp tín dụng vi mô cho người nghèo chính là đã cung cấp cho họ một công cụ lao động đặc biệt mà lâu nay họ rất khó tìm kiếm. Loại công cụ này đã tham gia vào quá trình lao động, nó giúp cho lao động của người nghèo có giá trị và đem lại hiệu quả. Cơ chế bắt buộc trả gốc và lãi hàng tháng đã khơi dậy bản tính cần cù, thông minh và làm việc chăm chỉ để có tiền hoàn trả đúng hạn. Người nghèo sử dụng những sản phẩm tín dụng đa dạng để tạo ra các việc làm đa dạng mà trước đó ít ai ngờ tới, để rồi có nhiều nguồn thu, cải thiện đời sống hoặc tái đầu tư mở rộng sản xuất. Tài chính vi mô sẽ làm giảm bớt sự tổn hại. Sự tổn hại gây ra bởi các tác động bất thường như thảm họa thiên nhiên, bệnh tật, và các yếu tố khác dễ gây ra tổn thương đến người nghèo. Về khía cạnh kinh tế, những tác động trên được hiểu là mức tăng trưởng không dự đoán của tiền trả ra vượt quá tiền thu vào và luồng tiền. Tài chính vi mô sẽ giúp giải quyết các vấn đề về luồng tiền, giúp tránh được vay tiền với chi phí cao từ các nguồn tiền không chính thức và do đó, giảm mức độ mua bán khẩn cấp các tài sản sản xuất với mức giá thấp hơn. Quá trình tham gia vào chương trình TCVM là quá trình các thành viên và cán bộ quản lý liên tục được đào tạo và thực hành, từ đó đã không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhóm người dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ và người dân tộc. Hầu hết phụ nữ được trang bị các kiến thức và phương pháp mới về quản lý hoạt động TCVM và quản lý phát triển được áp dụng những chuẩn mực quản lý, được học hỏi và chia sẻ thường xuyên lẫn nhau qua các cuộc họp thường kỳ. Với cơ chế phân quyền cao, TCVM đã mở ra nhiều cầp độ cho nhiều người tham gia vào quá trình vận hành chương trình. Từ đó có nhiều cán bộ giỏi, tự tin và có năng lực lãnh đạo có đủ năng lực tham gia các hoạt động đoàn thể khác. Tài chính vi mô phát huy tính văn hóa truyền thống và hình thành các giá trị mới, quan hệ mới trong gia đình và cộng đồng. Trong quá trình hoạt động, các giá trị về đạo đức được đề cao, sự quan tâm thể hiện bằng hành động, sự chia sẻ sự tham gia hoạt động giữa các thành viên với nhau. Trong các cụm nhóm hoạt động, sự quan tâm thể hiện thông qua việc hỗ trợ quá trình vay vốn, hỗ trợ về mặt kỹ thuật và quản lý. Một giá trị mới, quan hệ mới được hình thành và phát triển với những nét đặc trưng giữa các thành viên cùng tham gia hoạt động TCVM. Tài chính vi mô còn tăng vị thế của người phụ nữ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ đạo trong các hoạt động của tài chính vi mô, họ tham gia vào quản lý, vay vốn và giám sát các hoạt động của tổ chức. Từ đó việc nâng cao năng lực quản lý, tiếp cận với các nguồn thông tin đã giúp người phụ nữ có tiếng nói hơn trong gia đình cũng như trong xã hội. Nâng cao năng lực của các tổ chức đoàn thể vừa là mục tiêu vừa là điều kiện cần thiết để thực hành chương trình của cơ quan tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật. Các tổ chức đoàn thể đã được tham gia các khóa đào tạo về TCVM, trang bị nhiều kiến thức về khoa học kỹ thuật của tổ chức, quản lý tài chính và khoa học phát triển, bởi vậy họ đã vận dụng vào cải tiến hoạt động và phong cách của tổ chức. Những tổ chức được lựa chọn có nhiều cơ hội để trưởng thành và được đánh giá cao. 1.4.2 Thúc đẩy phát triển hoạt động tài chính Hình thành một hệ thống cung cấp dịch vụ tài chính và phi tài chính năng động, hấp dẫn và làm hài lòng nhóm khách hàng mục tiêu và cộng đồng. Khách hàng được hài lòng thông qua việc cung cấp tài chính kịp thời, thủ tục vay đơn giản và phương thức hoàn trả phù hợp. Ngoài dịch vụ tài chính, các tổ chức TCVM còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn mà các tổ chức tín dụng chính thức khó có thể đáp ứng được. Tham gia vào thị trường tài chính, TCVM đã đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, giảm cho vay nặng lãi. Với điều kiện cho vay tương đối dễ dàng nhưng nhiều khách hàng, đặc biệt là người nghèo vẫn tham gia vào hoạt động của TCVM, giảm tình trạng cho vay nặng lãi trên thị trường tài chính. Sự tồn tại của TCVM như một dòng chảy nhỏ, cùng với các kênh dẫn lớn đưa vốn về cộng đồng, phục vụ cho các hộ gia đình có mức kinh tế với các nhu cầu khác nhau. Với hình thức tiếp cận mới, TCVM đã thực sự được khách hàng ưu thích và có ảnh hưởng nhất định đến các tổ chức tài chính khác. TCVM hoạt động với cơ chế phù hợp đã chiếm lĩnh một thị phần lớn khách hàng không phải chỉ dành riêng cho người nghèo mà điều quan trọng là nó đã cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng thị hiếu và yêu cầu của thị trường. 1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tài chính vi mô 1.5.1 Các yếu tố về môi trường, chính sách Chính sách lãi suất: Do cấu trúc chi phí hoạt động TCVM nên sự giới hạn về tỷ lệ lãi suất thường làm suy giảm khả năng hoạt động có hiệu quả và có tính cạnh trang của tổ chức. Do vậy chính sách lãi suất không phù hợp dẫn đến người vay nghèo không được hưởng lợi từ những dịch vụ tài chính chi phí thấp. Ví dụ chính sách lãi suất trần buộc người cho vay phải hạn chế cung cấp các khoản cho vay trên thị trường tài chính một cách nghiêm ngặt hơn, khuyến khích người cho vay chuyển vốn cho những khoản vay ít bị khống chế bởi lãi suất trần hơn, thúc đẩy người cho vay chuyển một phần chi phí giao dịch đến những người cho vay không được ưu ái, và buộc người cho vay đưa ra mức lãi suất huy động tiết kiệm thấp. Như vậy, chính sách lãi suất trần làm méo mó cả các nỗ lực cho vay và huy động tiền gửi của các trung gian tài chính. Chính sách kinh tế, xã hội: Các chính sách kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến khả năng của một tổ chức TCVM cung cấp các dịch vụ tài chính một cách có hiệu quả, cũng như loại hình hoạt động mà các tổ chức tiến hành. Ví dụ các chính sách kinh tế xã hội như chính sách kinh tế tác động đến tăng trưởng kinh tế, đến tỷ lệ lạm phát của một quốc gia, hay chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng... Quy định về nguồn vốn: Các quy định về nguồn vốn của tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô; các yêu cầu về tổ chức tài chính chính thức cung cấp một tỷ lệ phần trăm nhất định trong danh mục đầu tư của họ hoặc một số lượng nhất định trong tổng tài sản của họ cho các khu vực không chính thức hoặc cho bộ phận nghèo hơn trong xã hội, hay cho các khu vực kinh tế nhất định cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tài chính vi mô. Sự ổn định về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng của kinh tế thấp sẻ dẫn đến thu nhập thấp hơn và nhu cầu về sản phẩm dịch vụ cũng ít hơn, điều này có thể làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thất bại. Và sự không ổn định về của nền kinh tế ảnh hưởng đến mức độ rủi ro và do đó tác động đến sự lựa chọn của các tổ chức tài chính. Nói chung, sự ổn định cả thị trường tài chính và các thị trường khác làm cho các tiểu doanh nghiệp và các dịch vụ TCVM trở nên bền vững và độc lập hơn. Sự ổn định về chính trị, xã hội: Các nền kinh tế quá độ và sự bất ổn hoặc xung đột về chính trị, nơi hệ thống các mạng lưới xã hội đang hoạt động bị phá vỡ và cần phải xây dựng lại là mối quan tâm hàng đầu của các tổ chức TCVM. Trong thời kỳ bất ổn, các tổ chức TCVM cần gây dựng một niềm tin trong khách hàng của họ và đảm bảo rằng người vay hiểu được trách nhiệm của mình gắn với giao dịch tài chính. Điều này đòi hỏi các tổ chức TCVM phải dành nhiều thời gian hơn để tiếp xúc với người vay, và nếu như vậy thì dẫn đến chi phí quản lý sẻ tăng cao. 1.5.2 Các yếu tố về thể chế của tổ chức Thị trường mục tiêu: Thị trường mục tiêu là một nhóm các khách hàng tiềm năng có chung những đặc điểm nhất định, có cách xử sự giống nhau và có cùng một sở thích về những sản phẩm dịch vụ cụ thể nào đó. Thị trường mục tiêu tương ứng với một đoạn thị trường nhất định trong đó tồn tại những khách hàng có nhu cầu về các dịch vụ TCVM hoặc những khách hàng đại diện cho nhu cầu tiềm năng đó. Để lựa chọn thị trường mục tiêu cho các dịch vụ TCVM, tổ chức cần phải xác định được mục tiêu của tổ chức mình, phải hiểu được động cơ của nhóm khách hàng, và đánh giá được khi nào thì thị trường mục tiêu đó đạt tới mức độ bền vững về mặt tài chính. Việc lựa chọn thị trường mục tiêu phải dựa trên cơ sở cầu của các dịch vụ tài chính hiệu quả và khả năng cung cấp vốn cho thị trường đó. Thị trường mục tiêu ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức TCVM. Các tổ chức không xác định hoặc xác định sai thị trường mục tiêu sẽ không thành công trong việc thiết kế sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường thông thường sẽ gặp những khó khăn trong việc quản lý hoạt động và khó khăn trong duy trì tổ chức. Vì vậy khi đã lựa chọn được thị trường mục tiêu thì cần phải xem xét liệu có thể tham gia vào thị trường mục tiêu đó được không và những xác định những tác động tới việc cung cấp dịch vụ tài chính trong thị trường đó. Phương pháp tiếp cận: Bất kỳ một cách tiếp cận nào cũng phải dựa trên cơ sở thị trường mục tiêu và nhu cầu của nó đối với các dịch vụ trung gian tài chính, cũng như các sản phẩm khác, các nhân tố phụ thuộc vào bối cảnh tại quốc gia, cùng mục tiêu và cơ cấu tổ chức của tổ chức TCVM. Phương pháp tiếp cận của tổ chức ảnh hưởng đến kết quả của dịch vụ mà tổ chức cung cấp. Tuy nhiên khó có thể đánh giá được cách tiếp cận nào sẽ là tốt nhất, và không có một mô hình đơn lẻ nào lại thích hợp cho mọi tổ chức và vì vậy mọi mô hình TCVM đều phải được thiết kế thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu của địa phương và nhu cầu của thực tế. Sản phẩm và dịch vụ: Các tổ chức TCVM có thể cung cấp cho khách hàng của mình rất nhiều dạng sản phẩm và dịch vụ. Dịch vụ đầu tiên và quan trọng nhất của tổ chức là dịch vụ tài chính, và thông thường các dịch vụ tài chính sẽ cung cấp cho những người nghèo. Loại dịch vụ thứ hai mà một vài tổ chức TCVM cung cấp là hình thức trung gian xã hội khi làm việc với khách hàng. Thêm vào đó một vài tổ chức TCVM còn cung cấp các dịch vụ phát triển doanh nghiệp như tập huấn về kỹ năng và đào tạo nghiệp vụ kinh doanh cơ bản hoặc các dịch vụ xã hội. Những dịch vụ này sẽ giúp người có thu nhập thấp nâng cao khả năng quản lý trực tiếp hoặc gián tíêp các doanh nghiệp nhỏ. Việc quyết định cung cấp dịch vụ nào phụ thuộc vào thị trường mục tiêu của tỏ chức, và nhu cầu của thị trường mục tiêu, sự tồn tại của các tổ chức cung cấp dịch vụ khác, sự tính toán chi phí chính xác và tính khả thi của việc chuyển giao các dịch vụ hỗ trợ. Việc quyết định những sản phẩm và dịch vụ nào được cung cấp sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức TCVM. Mối quan hệ giữa các tổ chức tài chính vi mô: Mối quan hệ giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM sẽ có vai trò trong phối hợp cung cấp các sản phẩm và dịch vụ, chia sẻ các kinh nghiệm về quản lý hoạt động, và có những ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách có ảnh hướng đến hoạt động TCVM. 1.5.3 Các yếu tố năng lực tổ chức Tất cả các tổ chức TCVM cần thiết phải xem lại một cách định kỳ về năng lực của tổ chức và xem xét các yếu tố mà họ cần cải thiện. Đối với các tổ chính thức, điều này đòi hỏi một sự tập trung hơn nữa vào khách hàng thông qua cải thiện sản xuất và phát triển nguồn nhân lực. Các yếu tố năng lực tổ chức bao gồm: Kế hoạch kinh doanh: Một tổ chức TCVM có thể chuyển dịch triển vọng kinh doanh của mình thành một bộ kế hoạch hoạt động dựa trên thị trường chi tiết và phân tích về tổ chức, những dự án tài chính và khả năng tài chính. Quản trị kinh doanh: Một tổ chức TCVM phải có thể dàn trải đầu tư dựa trên những sản phẩm tín dụng chủ chốt của họ (thông thường là đi vay những nhóm cá thể và tương trợ hoặc cả hai) vào những khu vực khác như tiết kiệm, có thể cung cấp những dịch vụ mong muốn làm phù hợp sự phát triển của họ. Một tổ chức TCVM cũng có thể định giá những sản phẩm của họ dựa trên chi phí hoạt động, tài chính và nhu cầu về thị trường. Điều này đòi hỏi việc xem xét một cách định kỳ để đảm bảo sự định giá hợp lý. Hệ thống thông tin quản lý: Khi những tổ chức TCVM phát triển, một trong những giới hạn lớn nhất của nó thường là hệ thống quản lý thông tin. Điều bắt buộc một tổ chức TCVM phải có đủ hệ thống thông tin quản lý và nhân lực. Quản lý tài chính: Sự cải thiện về kế toán và ngân sách thường được đòi hỏi trong việc giám sát về chất lượng của món vay, tiền tài trợ và tăng cường số lượng hoạt động. Những kỹ năng này bao gồm: quản lý rủi ro đầu tư, điều chỉnh báo cáo tài chính với các khoản trợ cấp và lạm phát, hiệu quả về mặt tài chính và sinh lời, quản lý khả năng thanh toán, và quản lý nợ và tài sản. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ TÍN DỤNG TIẾT KIỆM PHỤ NỮ TẠI VIỆT NAM-NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ YẾN MAO VÀ PHƯỢNG MAO, TỈNH PHÚ THỌ 2.1 Tổng quan về các quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam 2.1.1 Các tổ chức hỗ trợ hoạt động QTD phụ nữ Hội liên hiệp phụ nữ việt nam Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (Hội LHPNVN) là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế, thành viên của Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp Hội các nước Đông Nam Á). Hội tham gia tích cực trong các hoạt động vì hoà bình, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Mục đích: Hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ.  Chức năng: Đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  Nhiệm vụ: Động viên, tạo điều kiện để phụ nữ tích cực học tập, nâng cao kiến thức, trình độ, năng lực về mọi mặt. Tuyên truyền, giáo dục phụ nữ giữ gìn, phát huy giá trị đạo đức, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc và phụ nữ Việt Nam. Xây dựng, củng cố tổ chức Hội; Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội và cán bộ nữ; giới thiệu phụ nữ có đức, có tài tham gia vào các cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính quyền, cơ quan dân cử và đoàn thể các cấp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ; Tham mưu, đề xuất chính sách với Đảng, Nhà nước nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng và phát triển. Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trong khu vực và trên thế giới vì mục tiêu bình đẳng, phát triển và hoà bình. Từ năm 1991, học tập kinh nghiệm từ các nước Châu Á láng giềng, Hội LHPNVN đã thành lập các “Nhóm phụ nữ tiết kiệm” như là một phương tiện để tạo ra qũy vốn quay vòng tự quản lý tại cấp cộng đồng. Mô hình phối hợp giữa các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế với Hội LHPNVN để thành lập các Quỹ tín dụng tiết kiệm hiện nay khá nhiều. Tính tới tháng 12 năm 2004, có trên 151.464 nhóm phụ nữ tiết kiệm ở 98% số xã trong cả nước với 2.920.219 thành viên. Ngoài ra, các Hội phụ nữ của các tỉnh, huyện, và xã của một số địa phương đã có sự hợp tác với các NGO để thành lập các QTD. Khi là đối tác với Hội LHPNVN để thực hiện các chương trình tín dụng tiết kiệm sẽ có một số thế mạnh đó là trong quá trình thực hiện có thể không hoặc chỉ cần tuyển thêm một số ít cán bộ quản lý. Các bộ Hội đã quen với địa phương cũng như mối quan hệ với các thành viên nên quản lý dễ dàng. Chương trình dựa theo các hoạt động của Hội LHPNVN mà triển khai đến các thành viên của hội một cách nhanh chóng. Và hệ thống quản lý và báo cáo có thể được vận dụng vào quản lý QTD. Tuy nhiên, việc phối hợp với Hội LHPNVN cũng có những thách thức đặt ra đó là các cán bộ Hội quen với cách thức quản lý Hội nhưng chưa có được những kỹ năng phù hợp để quản lý tài chính và điều hành QTD hoạt động bền vững. Hội hoạt động theo định hướng chính trị xã hội, tuy nhiên có thể định hướng này sẽ không tương thích với mục tiêu của QTD. Trong quá trình quản lý, định hướng ưu tiên cho nhóm khách hàng hơn là chất lượng món vay và hiệu quả về._.g tổ chức có nguồn vốn trên 500 triệu mới được phép hoạt động, trên 5 tỷ mới được phép nhận tiền gửi tiết kiệm. Như vậy đối với các tổ chức TCVM như QTD xã Yến Mao và Phượng Mao sẽ phải chuyển đổi hình thức hoạt động. Nghị định cần có hướng dẫn khái niệm tiết kiệm và tiền gửi và nên có quy định khuyến khích tổ chức TCVM trong việc huy động tiền tiết kiệm trong thành viên nghèo vay vốn. Bởi lẽ, tiền tiết kiệm tự nguyện có thể xem là tiền gửi, nhưng tiền tiết kiệm định mức (TKĐM) lại mang tính chất hoàn toàn khác, có thể xem là nguồn vốn chủ sở hữu được hay không, và tổ chức TCVM cần được trao quyền chủ động trong việc quản lý nguồn vốn huy động này thông qua những chính sách nội bộ. Tổ chức TCVM có quy mô hoạt động rất nhỏ và cung cấp dịch vụ tài chính đến một bộ phận người nghèo khó có khả năng tiếp cận với những dịch vụ tài chính chính thức. Tuy nhiên về tiềm lực của hệ thống tài chính nông thôn chính thức như NHNo và NHCSXH có ảnh hưởng lớn đối với thị trường tài chính vi mô và hiện có khuynh hướng là việc dạng thị trường này cũng như có tác động đến hành vi của khách hàng. Và theo quy định các tổ chức TCVM cần phải đóng thuế thu nhập, như vậy một tổ chức TCVM hoạt động chỉ đủ trang trải chi phí, lợi nhuận không đáng kể thì việc áp dụng nghị định sẽ là một vấn đề thực sự khó khăn. Vì vậy nghị định cần phải quy định rõ những ưu tiên đối với các tổ chức TCVM như QTD tiết kiệm phụ nữ tại hai xã nghiên cứu. Vấn đề Nghị định chưa đề cập đến là vai trò của chính phủ trong lĩnh vực này. Việc xin giấy phép và mở chi nhánh mới phải được chấp nhận của UBND tỉnh, thành phố, có nghĩa là chính phủ sẽ tiếp tục nắm giữ vai trò ảnh hưởng đến quyết định xem tổ chức nào có thể cung cấp dịch vụ tài chính vi mô, và các tổ chức nào có thể hoạt động ở nơi nào. Và chính quyền cấp tỉnh cần phải có những hướng dẫn rõ ràng từ trung ương để có thể thực thi một cách có hiệu quả. Do vậy NHNN cần phải soạn thảo thông tư hướng dẫn thực hiện nghị định trên. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUỸ TÍN DỤNG TIẾT KIỆM PHỤ NỮ TẠI VIỆT NAM 3.1 Định hướng phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ Phát triển thành tổ chức chính thức: Hiện nay, do các QTD là nằm trong hệ thống tổ chức không chính thức, và đã có một số ảnh hưởng nhất định đến quá trình tổ chức hoạt động. Vì vậy, các QTD khi đã có một năng lực nhất định cần chuyển đổi từ dạng bán chính thức sang hình thức được quản lý chính thức. Khi được chuyển sang chính thức, các QTD sẽ có cơ hội huy động nguồn vốn từ các tổ chức khác cũng như từ nhà tài trợ, có sự quan tâm hơn từ Chính Phủ đề từ đó có cơ hội được phát triển trong thị trường cạnh tranh lành mạnh. Mặt khác, khi chuyển sang hình thức tổ chức quản lý chính thức, QTD sẽ có cơ hội được tiếp cận với các nhà sản xuất nông nghiệp nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn, đây là loại hình dịch vụ tạo nên thế mạnh của các QTD trong việc tiếp cận với người nghèo. Ngoài ra, khi trở thành tổ chức chính thức sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các tổ chức chính trị xã hội, các ngân hàng tín dụng lớn để phát triển thêm các loại hình dịch vụ khác như: dịch vụ cho vay ủy thác, dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn, và các dịch vụ như thực hiện các dự án của Chính phủ hay các NGO trong nước và quốc tế. Phát triển tổ chức bền vững: Một trong những vấn đề mà các QTD đang gặp phải và cần khắc phục đầu tiên là năng lực quản lý. Vì vậy trong thời gian tới các QTD cần phải chú trọng hơn nữa về phát triển tổ chức bền vững như phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo cán bộ về quản lý và lãnh đạo, các kiến thức về chuyên môn, nhất là các kiến thức về tài chính. Cần xây dựng một hệ thống thông tin quản lý để theo dõi và giám sát kết quả hoạt động tài chính của tổ chức, hệ thống theo dõi giám sát cần được sử dụng các trang thiết bị phù hợp với năng lực của cán bộ quản lý. Ngoài ra, QTD cần xác định và phân bổ lãi suất dựa trên cơ sở mục tiêu và năng lực của tổ chức, và căn cứ trên kế hoạch phát triển của QTD. QTD cần chủ động tìm hiểu và tìm cách tiếp cận với các nguồn vốn từ các tổ chức khác, lập kế hoạch kinh doanh dựa trên cơ sở các nghiên cứu thị trường, các nghiên cứu khả thi và phân tích chi phí của tổ chức. Như vậy, để trở thành các tổ chức tự chủ và tuân thủ theo khung pháp lý mới, các QTD cần có những thay đổi nhất định. Trước hết các QTD cần phải chỉnh sửa lại điều lệ về thiết lập cơ cấu mới cho công tác điều hành và quản trị. Trọng tâm vì người nghèo và mục tiêu phi lợi nhuận cần phải được khẳng định rõ trong điều lệ hoạt động của tổ chức để những giá trị đó sẽ không lu mờ theo thời gian. Đây là một bước hết sức quan trọng đối với phần lớn các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng ở nước ta hiện nay. Bền vững về tổ chức nếu có quy mô phù hợp, sản phẩm được định giá hợp lý, và hệ thống thông tin quản lý tín dụng ưu việt người nghèo là những khách hàng đáng tin cậy và hoàn toàn có thể hình thành quy mô khách hàng lớn cho những QTD bền vững về tài chính. Tuy nhiên trên thực tế không có nhiều những QTD đạt được khả năng tự chủ về tài chính. Vì vậy, trong gia đoạn chuẩn bị, các tổ chức cần phải tập trung nguồn lực vào việc củng cố năng lực tổ chức, huy động thêm nguồn vốn, và mở rộng thêm quy mô hoạt động để đạt bền vững về tài chính nhằm trở thành tổ chứuc hoạt động bền vững trong môi trường pháp lý mới. Đảm bảo trọng tâm người nghèo: Các QTD để chuyển đổi cần xây dựng những tiêu chuẩn nằm ngoài nghị định như hệ thống tiếp cận người nghèo nhằm xác định khách hàng, triển khai các chính sách quy định tỷ trọng khách hàng nghèo trong tổng số khách hàng, và phân bổ cơ cấu dự nợ cho những sản phẩm tập trung vào người nghèo và người nghèo nhất. 3.2 Một số giải pháp phát triển quỹ tín dụng phụ nữ 3.2.1 Phát triển tổ chức Nâng cao năng lực của quản lý QTD: Khi trở thành tổ chức chính thức, và các sản phẩm tiết kiệm được giới thiệu thì các QTD sẻ có cơ hội được trở thành một trung gian tài chính và tầm quan trọng của các nguồn nhân lực là vấn đề cần được xem xét hàng đầu. Và khi các QTD đủ điều kiện để huy động tiết kiệm sẽ là đề tài để xem xét và giám sát kỹ lưỡng hơn của các cơ quan của Chính phủ. Vì vậy, các QTD cần phải có quy mô và mức độ hiệu quả quản lý cao. Việc nâng cao năng lực quản lý của QTD cần phải được xem xét ngay từ khi tuyển dụng cán bộ đầu vào. Cán bộ nên được tuyển chọn từ người địa phương, vì họ quen thuộc với phong tục, văn hóa và ngôn ngữ địa phương. Là người địa phương nên khả năng làm việc lâu dài cao, ngoài ra họ có những chiến lược quản lý tổ chức một cách phù hợp thực tế hơn. Một vấn đề khác hiện nay phần lớn các QTD còn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng và duy trì cán bộ, hầu hết các cán bộ giỏi đều làm việc cho các tổ chức có vị thế hơn do ở đó có những ưu đãi và nhiều cơ hội phát triển hơn. Vì vậy các QTD cần phải chú ý hơn nữa vào lương bổng của các nhà quản lý để thu hút được những cán bộ có năng lực. Năng lực quản lý là một trong những điều cần phải thực hiện trong những tổ chức cộng đồng được xây dựng, nhất là đối với một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tại xã đặc biệt khó khăn như ở xã Yến Mao và Phượng Mao. Các cán bộ quản lý qũy và kế toán cần được đào tạo về các quy định và các thông lệ tài chính. Nâng cao năng lực quản lý không những thông qua các cuộc tập huấn ngắn hay dài hạn, mà cần tăng cường thực hiện các cuộc tham quan hay hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các tổ chức với nhau. Từ đó học tập những kinh nghiệm về quản lý cũng như các hệ thống sổ sách kế toán một cách phù hợp. Để làm được điều này, trước hết cần xây dựng một bộ tài liệu tập huấn chuẩn với sự trợ giúp và hỗ trợ kỹ thuật của các cơ quan chuyên môn. Các nhà quản lý cần phải học hỏi để làm thế nào xác định được tiềm năng của người gửi tiết kiệm, cần phải đưa ra được cơ cấu thích hợp giữa tiền gửi và tiền cho vay. Ngoài ra, họ cần phải có những kiến thức nhất định về phát triển xã hội, tránh những suy nghĩ kỳ thị với những người có thu nhập thấp, đặc biệt là người nghèo. Khi một QTD có một bộ máy tổ chức vững mạnh, cán bộ quản lý có năng lực sẻ đảm bảo cho tổ chức phát triển bền vững. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý tài chính: Hệ thống thông tin quản lý các QTD cần được xem xét trên 3 lĩnh vực chính: 1. Hệ thống kế toán; 2.Hệ thống giám sát tín dụng và tiết kiệm; 3.Hệ thống đánh giá tác động đối với khách hàng. Hệ thống kế toán, hệ thống giám sát tín dụng và tiết kiệm: Phần lớn các QTD hiện nay quản lý tài chính theo hình thức thủ công, điều này sẽ không còn phù hợp trong thời đại thông tin hiện đại, và quy mô của tổ chức không ngừng tăng cao về số thành viên và nguồn vốn. Vì vậy cần từng bước hiện đại hóa hệ thống quản lý tài chính, bắt đầu bằng việc sử dụng các phần mềm cơ bản như excel, tiến tới sử dụng các phần mềm kế toán được thiết kế phù hợp với thực tế hoạt động vào quản lý tài chính của các QTD. Ngoài ra, cần phải có kế hoạch đào tạo kế toán quản lý QTD những chuẩn mực kế toán theo quy định. Hệ thống đánh giá tác động đối với khách hàng: Hầu hết các QTD đều mong muốn theo dõi tác động của các nguồn vốn vay đối với khách hàng để từ đó có những quyết định quản lý phù hợp. Tuy nhiên hệ thống theo dõi giám sát tác động chưa được thiết lập một cách có hệ thống. Phần lớn các QTD hiện nay đều phải dựa vào các tổ chức tài trợ thực hiện các cuộc đánh giá này. Vì vậy, các QTD cần thiết lập hệ thống đánh giá tác động khách hàng, từ đó có thể đưa ra những dịch vụ hay sản phẩm phù hợp với khách hàng trong từng thời điểm khác nhau. Xây dựng lãi suất cho vay dựa trên năng lực của tổ chức: Lãi suất trả cho các khoản tiền gửi dựa vào tiền gửi phổ biến tương tự như các sản phẩm ở các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực này, ngoài ra cần phải dựa vào các chi phí quản lý và cung cấp dịch vụ, và các chiến lược của tổ chức. Hiện tại các QTD thường cho vay ở những vùng khó khăn, các món vay nhỏ, thu hồi nhiều lần, vì vậy chi phí cho quản lý cao. Ngoài ra, các sản phẩm tiết kiệm đều được trả lãi suất, vì thế để các QTD có chênh lêch giữa các sản phẩm cho vay và sản phẩm tiết kiệm để tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, phương pháp xác định lãi suất tiền vay và tiền gửi hiện nay của phần lớn các QTD là căn cứ theo lãi suất của NHNo mà không có căn cứ nào về tổ chức mình. Vì vậy cần phải xác định căn cứ lãi suất của NHNo chỉ là tham khảo, lãi suất tín dụng của các QTD cần được xác định dựa trên thực tế hoạt động của tổ chức như tình hình tài chính, mục tiêu tăng trưởng vốn trong tương lai, lợi nhuận mục tiêu của tổ chức... Tăng cường tiếp cận thông tin: việc tiếp cận thông tin của QTD với bên ngoài còn khá mờ nhạt, các thông tin chủ yếu do nhà tài trợ cung cấp. Điều này đã dẫn đến một số hạn chế trong các hoạt động nâng cao năng lực, đổi mới các sản phẩm và dịch vụ cung cấp, từ đó khó có thể có những quyết định phù hợp với thị trường và nhu cầu của cộng đồng. Vì vậy, các QTD cần có những đầu tư trong cập nhật thông tin mới, như lắp internet hoặc tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề giữa các tổ chức. Các hình thức tổ chức này ban đầu cần có sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức tài trợ, sau đó sẽ từng bước chuyển giao cho các QTD đứng ra tự thực hiện khi đạt đến một năng lực nhất định. Tăng cường truyền thông giữa các tổ chức hỗ trợ hình thành tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô. Hiện nay có nhiều NGO cùng thực hiện các hoạt động hỗ trợ hình thành các tổ chức cung dịch vụ tài chính như Oxfam Anh, ActonAid... Các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng nhỏ được hình thành với sự hỗ trợ của các NGO hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên hiện tại chưa có sự trao đổi kinh nghiệm nhiều từ các tổ chức trên về kinh nghiệm tổ chức quản lý và hình thành tài liệu hướng dẫn thành lập và quản lý hoạt động QTD. Vì vậy trong thời gian tới cần có những hỗ trợ cần thiết từ Chính phủ và các NGO trong truyền thông và biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn thành lập và quản lý hoạt động QTD. Ngoài ra, các NGO cần phối hợp và tổ chức đánh giá lại các QTD do mình hỗ trợ thành lập, và xem xét lại mục tiêu của tổ chức, tránh trường hợp một số tổ chức thực hiện chương trình nhưng chỉ coi TCVM là một công cụ xã hội nhằm hỗ trợ cho một nhóm đối tượng đặc thù trong một thời gian nhất định. Theo kinh nghiệm của một số tổ chức cho thấy, nếu nhầm lẫn giữa mục đích kinh tế và mục đích xã hội thì các QTD sẽ sớm thất bại trong hoạt động của tổ chức. 3.2.2 Phát triển thị trường dịch vụ Mở rộng nhóm đối tượng mục đích: Lựa chọn thị trường mục tiêu phụ thuộc vào mục tiêu của những người cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô cũng như nhu cầu có thể đoán trước đối với các dịch vụ tài chính. Thị trường mục tiêu của một tổ chức được chia làm hai phần: thị trường mục tiêu trực tiếp và thị trường mục tiêu gián tiếp. Mục tiêu trực tiếp đề cập tới sự phân bố một khoản tiền nhất định để cung cấp tín dụng cho một lĩnh vực kinh tế hay một nhóm dân cư nào đó. Mục tiêu trực tiếp của các QTD là đáp ứng nhu cầu về tín dụng vi mô cho các nhóm người bị thiệt thòi như người nghèo, người dân tộc. Các sản phẩm của QTD hướng vào người nghèo như phương pháp hoàn trả gốc và lãi nhiều lần, cho vay món nhỏ, lãi suất có thể cao hơn ở thị trường chính thức...Mục tiêu gián tiếp có nghĩa là các sản phẩm và dịch vụ sẽ được thiết kế và nhằm hướng vào những người còn nằm ngoài thị trường mục tiêu trực tiếp. Mục tiêu trực tiếp của QTD thành lập nhằm cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo. Sau một thời gian hoạt động, hoạt động của QTD đã góp phần tác động đến đời sống của các thành viên tham gia, đặc biệt là người nghèo. Trong những năm trở lại đây, khi đời sống của thành viên ngày được nâng cao, nhu cầu vốn dành cho các hoạt động sản xuất kinh doanh lớn, vì vậy QTD không thể tiếp tục với những khoản vay nhỏ, mà cần mở rộng các hình thức vay khác với quy mô nguồn vốn lớn hơn. Việc tăng quy mô cho vay vốn đối với thành viên sẽ đúng trong trường hợp khi tỷ lệ số thành viên đang vay vốn cao, khả năng tồn quỹ lớn. Đồng thời mở rộng nhóm đối tượng mục tiêu gián tiếp của tổ chức với các hộ không nghèo, các cá thể kinh doanh và các thành viên không nhất thiết phải là phụ nữ. Tuy nhiên vẫn tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của tổ chức TCVM. Liên kết phát triển thị trường: phần lớn QTD hoạt động khá độc lập về tài chính và các hoạt động khác, những mối liên kết hiện tại chỉ là tham gia các hoạt động như hội thảo trao đổi kinh nghiệm về quản lý. Các mối liên kết về tài chính gần như chưa có. Vì vậy trong thời gian tiếp theo cần phải có mối liên hệ giữa các QTD với nhau trong lĩnh vực cung cấp tài chính cho các thành viên của tổ chức khác khi họ có nhu cầu. Muốn vậy cần hình thành một mạng lưới giữa các QTD với nhau, tạo thành một tổ chức lớn mạnh về quy mô tài chính và thành viên, để từ đó có thể liên kết với các tổ chức cùng cung cấp tín dụng khác. Khi mối liên kết giữa các QTD với nhau, đặc biệt là đối với các tổ chức có quy mô nhỏ, sẽ có những điều tiết về nguồn vốn, từ đó tạo điều kiện để mở rộng đối tượng khách hàng, đáp ứng được các nhu cầu vay vốn khác nhau. Mặt khác khi tạo liên kết, sẽ tăng cường trao đổi kinh nghiệm về quản lý, chia sẻ những rủi ro trong quá trình hoạt động. Quá trình liên kết sẽ tạo sức mạnh mạng lưới, từ đó có những tác động trong việc vận động chính sách, tìm thêm các nguồn tài trợ bên ngoài, và tạo cơ hội để thực hiện hoạt động cho vay theo ủy thác. Một vấn đề đặt ra cho các tổ chức nhỏ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 28 của Chính phủ do không đáp ứng được điều kiện về nguồn vốn và thành viên thì khi liên kết lại với nhau sẽ đáp ứng được các yêu cầu của Nghị định, để từ đó có những cơ hội tiếp cận với các tổ chức cùng cung cấp dịch vụ tài chính vi mô chính thức. Liên kết cung cấp dịch vụ tín dụng theo ủy thác: Hiện tại NHNo và NHCSXH đã thực hiện công tác vay vốn qua các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội nông dân hay Hội cựu chiến binh mà chưa trực tiếp thông qua QTD. Nếu xét một cách khách quan về năng lực quản lý tài chính cũng như thị trường cung cấp dịch vụ thì QTD sẽ hiệu quả hơn các tổ chức khác. Vì vậy trong thời gian tới, QTD cần xây dựng tổ chức vững mạnh và là đại lý cho các tổ chức cung cấp tín dụng lớn khác như NHNo hay NHCSXH. Điều này sẽ đáp ứng được quan điểm về hoạt động tài chính vi mô là nguồn vốn của nhà tài trợ nên chỉ là những hỗ trợ tạm thời trong thời gian đầu, nó nên được sử dụng để xây dựng năng lực cho các tổ chức. Điều quan trọng là nhà tài trợ nên hỗ trợ các QTD liên kết với các tổ chức tài chính chính thức, và khi đạt đến thời điểm tự đứng vững sẽ không cần đến sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nữa. Với Nghị định 28, các QTD sẽ có nhiều cơ hội để tiếp cận với nguồn vốn của các tổ chức cũng như cá nhân ở trong và ngoài nước, nhờ đó có thể huy động nhiều nguồn vốn phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình. Tuy nhiên để làm được điều này, các QTD cần xây dựng tổ chức, đặc biệt là tình hình tài chính và chất lượng của các báo cáo của tổ chức đủ để đáp ứng các quy định và yêu cầu về tài chính. Ngoài việc liên kết với các tổ chức cùng cung cấp dịch vụ tín dụng, QTD cần liên kết với các tổ chức phi chính phủ hay các chương trình dự án đang hoạt động tại địa phương để quản lý thực hiện các dự án nhỏ. QTD có thể coi như một tổ chức đấu thầu các hoạt động dự án nhỏ của các nhà tài trợ trong và ngoài nước. Đây thực sự là hoạt động cần thiết do: BQL và các thành viên QTD đã quen với các cách thức thực hiện dự án, họ có mối liên kết chặt chẽ để đảm bảo dự án được thực hiện thành công. Mặt khác, khi tổ chức thực hiện các dự án nhỏ, các thành viên sẽ có thêm các dịch vụ hỗ trợ nhằm sử dụng nguồn vốn được tốt hơn, đảm bảo QTD bền vững và thu hút thêm được nhiều thành viên tham gia. 3.2.3 Mở rộng các dịch vụ cung cấp Liên kết với các nhà sản xuất dịch vụ nông nghiệp: Như đã nêu ra ở phần trên, việc cạnh tranh giữa các QTD với các tổ chức tài chính vi mô chính thức như NHNo, NHCSXH dựa trên lãi suất sẽ rất khó được thực hiện do các tổ chức này nhận được sự hỗ trợ và bao cấp của Chính phủ. Vì vậy, các QTD cần cạnh tranh theo hướng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn như tư vấn về khoa học kỹ thuật, cung cấp các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao thông qua liên kết với các nhà sản xuất dịch vụ nông nghiệp phù hợp với địa phương. Các QTD với số thành viên lớn tại các vùng nông thôn là một thị trường tiềm năng của các nhà cung cấp dịch vụ sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay việc phối hợp giữa các QTD với các nhà cung cấp dịch vụ nông nghiệp còn nhiền hạn chế do các cán bộ quản lý QTD chưa thực sự năng động trong khai thác thế mạnh này, ngoài ra có một lý do quan trọng là các QTD chưa có tư cách pháp nhân trong thực hiện các hợp đồng hay cam kết với các nhà cung cấp dịch vụ. Vì vậy, khi các QTD thỏa mãn các yêu cầu được quy định trong Nghị định 28, tổ chức sẽ có tư cách pháp nhân thì việc phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ nông nghiệp sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Cung cấp dịch vụ trung và dài hạn: loại hình dịch vụ cho vay hiện tại và thông dụng nhất của các QTD chỉ mới là vay ngắn hạn trong một năm, hình thức vay trung hạn và dài hạn vẫn chưa được QTD phát triển và mở rộng đối tượng cung cấp dịch vụ với lý do về năng lực quản lý. Như vậy, nhu cầu vay vốn của các thành viên có quy mô lớn hơn sẽ không được đáp ứng, điều này sẽ không thực sự bền vững tại một số địa phương khi đời sống được nâng cao thì những phương thức trên cần phải được xem xét lại. Vì vậy trong thời gian tới, để đáp ứng nhu cầu vay vốn của thành viên cũng như đủ kinh nghiệm trong chiến lược liên kết với các tổ chức cung cấp tín dụng khác thì QTD cần phát triển đồng thời nguồn vốn vay trung hạn và dài hạn. Các nguồn vốn vay trung và dài hạn cần được triển khai dựa vào năng lực của tổ chức bao gồm năng lực quản lý và nguồn vốn đáp ứng cho hình thức này. Ngoài ra, cần phải xem xét điều kiện ràng buộc cho các hình thức vay vốn này, cũng như xem xét kế hoạch sử dụng vốn vay của các thành viên vay vốn. Hay nói cách khác, cần phải đánh giá một cách toàn diện trước khi đưa ra một sản phẩm tín dụng mới, và cần triển khai thí điểm trước khi nhân rộng. 3.2.4 Xây dựng hiệp hội hỗ trợ hoạt động tài chính vi mô Hiện tại đã có nhóm công tác tài chính vi mô, tuy nhiên các tác động của nhóm có giới hạn. Vì vậy việc thành lập một hiệp hội TCVM cung cấp các dịch vụ cho các tổ chức thành viên là một trong những vấn đề cấp thiết. Vai trò của hiệp hội là: Hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật cho các thành viên: có thể hiệp hội không trực tiếp tổ chức đào tạo, nhưng có thể hỗ trợ thiết lập một danh mục đào tạo và cơ sở dữ liệu về chuyên gia tư vấn. Các chuyên gia tư vấn liên kết và biên soạn một chương trình đào tạo bao gồm đánh giá nhu cầu đào tạo, và tiến hành đào tạo có giám sát chất lượng đào tạo một cách nghiêm túc. Các cơ sở đào tạo nên mang tính chất thương mại, và lý tưởng nhất là khu vực tư nhân. Để hỗ trợ hoạt động, trong thời gian đầu các tổ chức đào tạo có thể được tài trợ để xây dựng cơ sở hạ tầng cho đào tạo. Giám sát hoạt động và đưa ra chuẩn mực so sánh: Hiệp hội khuyến khích các tổ chức áp dụng các cách thức quản lý chung bao gồm các chỉ số và phương pháp tính toán, báo cáo, và hệ thống sổ sách hay phần mềm kế toán. Điều phối hoạt động tài trợ: Có thể nhận vốn từ các nhà tài trợ và chuyển vốn cho các tổ chức đủ năng lực quản lý. Hiệp hội có thể bảo lãnh cho các tổ chức vay vốn từ nhà tài trợ hoặc các tổ chức thương mại khác. Vận động chính sách: Với tiếng nói của mình thông qua kết quả các cuộc nghiên cứu cụ thể hiệp hội vận động các nhà làm chính sách và các cơ quan có liên quan đưa ra một khuôn khổ pháp lý và chính sách thuận lợi cho hoạt động TCVM. 3.3 Các kiến nghị 3.3.1 Tạo môi trường thuận lợi Hỗ trợ kỹ thuật cho NHNN và Bộ tài chính trong triển khai Nghị định 28 của chính phủ: Đào tạo các nguyên tắc và thông lệ tài chính vi mô tốt nhất cho các cán bộ NHNN và Bộ tài chính trực tiếp tham gia vào việc soạn thảo các thông tư và giám sát các tổ chức QTD được đăng ký. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các cán bộ chi nhánh NHNN cấp tỉnh vì họ không có nhiều điều kiện để tiếp xúc trực tiếp với hoạt động TCVM. Hỗ trợ này thường có rất ít thông tin và không tiếp xúc trực tiếp với hoạt động TCVM. Hỗ trợ kỹ thuật nên bao gồm cả đi thực hiện trong nước với mục đích là thu nhận thông tin và phản hồi, và đi tham quan các nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý tài chính của ngân hàng trung ương của các nước. Các chuyên gia về TCVM của các nước có ngành TCVM phát triển là nguồn tư vấn kỹ thuật cho NHNN và BTC. Đối với các tổ chức TCVM như QTD không đáp ứng được những yêu cầu về tổ chức theo nghị định 28 của chính phủ thì cần có những định hướng về sở hữu cũng như về quản lý để các tổ chức có thể tiếp tục thực hiện các hoạt động cung cấp tín dụng vi mô của mình, các tổ chức này có thể sẽ không chịu sự điều tiết của quy chế phòng ngừa và giám sát mà chỉ nên áp dụng cơ chế tự quản và NHNN không cần cấp giấy phép cho hoạt động này. Đánh giá lại chính sách bao cấp tín dụng cho người nghèo của Chính phủ: Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng phương pháp tiếp cận tín dụng đối với người nghèo dựa trên nguyên tắc lãi suất ưu đãi đã không đến được với những người nghèo ở các vùng đặc biệt khó khăn. Và việc cho vay có bao cấp đã tạo ra những kỳ vọng sai lầm và làm tăng mức độ ỷ lại của người nghèo, khiến họ không có những nổ lực thoát nghèo. Hơn nữa, tín dụng bao cấp là tạo ra cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường tài chính khiến người nghèo khó tiếp cận với nguồn vốn vay. Với những vấn đề như trên liệu có nên tiếp tục vai trò của mình trong việc bán lẻ các khoản vay cho các hộ gia đình nghèo thông qua NHCSXH, hay chỉ nên là những người bán buôn với lãi suất thấp cho các tổ chức TCVM như QTD, những đơn vị có khả năng tiếp cận tốt hơn đối với nhóm mục tiêu, để các tổ chức này có thể mở rộng cung cấp tín dụng đến những người dễ bị tổn thương. 3.3.2 Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính vi mô Thống kê và cung cấp thông tin về hoạt động tài chính vi mô: Cần phải tổ chức các cuộc khảo sát có tính cập nhật hơn đối với ba khu vực cung cấp TCVM là khu vực chính thức, bán chính thức và phi chính thức. Kết quả của cuộc khảo sát cần thu thập thông tin về khách hàng, tổng dư nợ cho vay, tổng số tiết kiệm được huy động, cũng như thông tin về sản phẩm cho vay và các điều khoản và điều kiện của các nhà cung cấp tín dụng. Thông tin thu thập được sẽ góp phần hỗ trợ NHNN và BTC trong việc soạn thảo các thông tư hướng dẫn, và xây dựng chiến lược quốc gia về ngành TCVM tại Việt Nam. Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính vi mô: Hiện nay chưa có chính sách hay chiến lược nào đề ra tầm nhìn và định hướng chiến lược của ngành TCVM trong 10 năm tới. Vì vậy để ngành TCVM có thể phát triển một cách lành mạnh và bền vững, những người làm chính sách và các nhà thực hành TCVM cần cùng nhau xây dựng một chiến lược quốc gia về TCVM. Những vấn đề cần được đề cập đến trong chiến lược phát triển cần phải được kể đến: Đưa khu vực tài chính vi mô hòa nhập vào hệ thống tài chính chung: Nghị định 28 sẽ định hình ngành TCVM chuyển từ hình thức bán chính thức sang hình thức chính thức. Như vậy, có thể xem TCVM là một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Khuyến khích một thị trường cạnh tranh và minh bạch về tài chính vi mô: Cần phải có những chiến lược giải quyết là xóa bỏ hoặc giảm bớt những yếu tố làm méo mó thì trường tài chính, như việc áp dụng lãi suất bao cấp của NHCSXH. Chiến lược cần phải nêu rõ những phương án để các tổ chức cung cấp tài chính vi mô hoạt động theo các mô hình và thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện đa dạng hóa các tổ chức tham gia thị trường: Chiến lược nên xem xét các phương án khuyến khích các tổ chức tài chính thương mại tham gia vào hoạt động TCVM, đặc biệt là thị trường thành thị. Và do ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là tập trung vào đối tượng mục tiêu là người nghèo, vì vậy chiến lược cần phải đưa ra những biện pháp khuyến khích các định chế thương mại tham gia cho vay các hộ không nghèo, các doanh nghiệp vi mô. KẾT LUẬN Luận văn đã đánh giá hoạt động của các QTD hiện nay tại Việt Nam về mặt tổ chức, và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ, cũng như những khó khăn trở ngại của các QTD trên con đường phát triển của mình. Các QTD đã có những đóng góp nhất định trong qúa trình phát triển kinh tế của các hộ gia đình ở vùng nông thôn, miền núi, đặc biệt là các hộ nghèo, các hộ người dân tộc. Để các QTD phát huy được những tác dụng nêu trên, và phát triển bền vững trong thời gian tới thì cần phải có những thay đổi nhất định. Luận văn đã nêu ra những giải pháp về khía cạnh phát triển tổ chức cũng như những kiến nghị về mặt thể chế, môi trường và các chính sách của Chính phủ nhằm tạo điều kiện để các QTD phát huy hết những vai trò của mình trong thời gian tiếp theo. Nghiên cứu này có tác dụng đối với các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, hội đoàn thể có thêm những kinh nghiệm trong việc hỗ trợ thành lập và quản lý hoạt động các QTD. Trong thời gian tới, nghiên cứu tiếp theo sẽ thực hiện nhằm mục đích xem xét mối liên hệ giữa các QTD với nhau, và giữa các QTD với các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô chính thức khác như NHNo, NHCS để các QTD hoạt động đạt hiệu quả và hiệu suất cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt CACERP (2005), Tài chính vi mô: Chính sách và các vấn đề thực tiễn, một số bài học từ hoạt động cung cấp dịch vụ giảm nghèo ở khu vực Miền Trung. CGAP, Xây dựng các hệ thống tài chính dành cho người nghèo. Dự án giảm nghèo miền trung (2005), Tài liệu tập huấn tài chính vi mô, 1-24. Định hướng phát triển các ngành huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (2006) Đào Văn Hùng (2005), Phát triển hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động-Xã hội, Hà Nội. Lê Thị Lân (2005), Hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam-Làm gì để phát triển, 8/2005, Hà Nội. Lê Thị Lân và Trần Như An, Hướng tới một ngành tài chính vi mô tự vững ở Việt Nam: các vấn đề đặt ra và những thách thức, 2005, Hà Nội, Việt Nam. Nguyễn Thị Lân (2003), Tài chính vi mô ở Việt Nam – Cơ hội và thách thức, 5/2003, Thành phố Hồ Chí Minh Muhammad Yunus, Mở rộng tín dụng vi mô để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Nhóm công tác Tài chính vi mô, Bản tin tài chính vi mô, số 6, tháng 3, năm 2005. Nghị định số 28/2005/NĐ-CP ngày 9 tháng 3 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (2002), NXB Bản đồ, Hà Nội. Giới thiệu chung về huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (2006), Giới thiệu chung về huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (2006), Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2002), Bộ số liệu đánh giá cuối kỳ dự án “Nâng cao năng lực giảm nghèo cho các cộng đồng lựa chọn tại Phú Thọ, Quảng Bình và Kon Tum”, Hà Nội. Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2003), Báo cáo đánh giá cuối kỳ dự án “Nâng cao năng lực giảm nghèo cho các cộng đồng lựa chọn tại Phú Thọ, Quảng Bình và Kon Tum”, Hà Nội. Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2005), Bảng thu thập thống kê xã Yến Mao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, Hà Nội. Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2005), Số liệu đầu kỳ dự án Phú Thọ, Hà Nội. Phòng thống kê huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ (2006), Niên giám thống kê năm 2005 huyện Thanh Thủy, Phú Thọ. Ủy ban nhân dân xã Phượng Mao (2005), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2006. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ. Ủy ban nhân dân xã Phượng Mao (2006), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2007. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ. Ủy ban nhân dân xã Yến Mao (2005), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2006. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ. Ủy ban nhân dân xã Yến Mao (2006), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2007. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ. Nguyễn Thị Hoàng Vân (2005), “Tài chính vi mô trong mối tương quan với Nghị Định 28/2005/NĐ-CP: Vấn đề quan tâm và một số kiến nghị”, Hội thảo tài chính vi mô – Ngân hàng Nhà nước, 3-5/08/2005, Hà Nội. Joanna Ledgerwood, Cẩm nang hoạt động tài chính vi mô: nhìn nhận từ giác độ tài chính và thể chế, 3/2001, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-T16.doc
Tài liệu liên quan