Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM Người thực hiện : Bùi Thị Hương Lớp : Cao học 18C Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Ngọc Thông Hà Nội, 2010 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế xã hội ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều nước phần lớn nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt thì nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, khái niệm chỉ lực lượng lao động có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất, là một yếu tố then chốt nhằm phát triển kinh tế bền vững. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong thời đại ngày nay nguồn nhân lực không những chỉ tăng lên về mặt số lượng mà đòi hỏi phải có sự nâng cao về chất lượng. Nước ta tiến hành CNH – HĐH trong điều kiện là một nước nông nghiệp lạc hậu với đặc điểm là nguồn nhân lực dồi dào về số lượng. Đối với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay thì nâng cao chất lượng người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước là một việc làm cấp thiết, đường lối đúng đắn. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ là nhân tố thúc đầy nhanh tiến trình CNH – HĐH đất nước. Nguồn nhân lực chính là chìa khoá thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thấy rõ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với việc phát triển nền kinh tế thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay cũng như tính cấp thiết của việc phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả, tôi chọn đề tài: “ Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam” Kết cấu của đề tài: Phần I: CƠ SỞ LÍ LUẬN Phần II: THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY Phần III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN I/ NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. 1. Những quan điểm khác nhau về sự phát triển: Có hai quan điểm khác nhau về sự phát triển, đó là quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng: Quan điểm siêu hình: Xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại và sự vật đang có chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục. Quan điểm biện chứng: Quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình, xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao, diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, dẫn đến sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc. Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát triển năm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, đó đó cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những người theo quan điểm duy tâm hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người. 2. Tính chất của sự phát triểt Sự phát triển có 3 tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. Tính khách quan: Nguồn gốc sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật và không phụ thuộc vào ý thức của con người nên sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Tính phổ biến: Tính phổ biến ở đây được hiểu là diễn ra ở mọi lĩnh vực và ở bất kỳ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm, phạm trù mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển. Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau và chịu sự tác động của nhiều yếu tố điều kiện khác nhau. Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật. Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển cần phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành nhiều giai đoạn. Từ đó tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự việc tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại. II/ PHÁT TRIỂN LLSX VỚI PHÁT TRIỂN KTXH 1. Quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX: Trong quá trình lao động sản xuất, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên - lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa người với người tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ lịch sử loài người, là quy luật biến đổi phát triển của các phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ sản xuất) và con người với kinh nghiệm, kỹ năng tri thức lao động của họ. Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình. Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động: có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong quá trình sản xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm. Đối tượng lao động là những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con người tạo ra và được con người sử dụng trong quá trình sản xuất. Con người: Chính là người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó con người giữ vị trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở thành các lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất có thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là khoa học. Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm kỹ năng lao động của con người, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội: Lực lượng sản xuất có trình độ cao, lực lượng sản xuất có trình độ thấp. Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố: Trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ phân công lao động. Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Quan hệ sản xuất biều hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất của xã hội. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của đời sống xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, chúng tồn tại khách quan độc lập với ý muốn chủ quan của con người. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau. Trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định, là nội dung vật chất của quá trình sản xuất. Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có thì cũng cần có một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp nhằm bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời những biến đổi trong nội dung vật chất của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự biến đổi của các quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Còn nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với hai nền sản xuất có lực lượng sản xuất tương đương song tính chất của quan hệ sản xuất khác nhau sẽ dẫn đến mục đích của sản xuất năng suất lao động khác nhau. Dưới sự tác động của nhiều nhân tố như sự tích lũy dần kinh nghiệm mà trong thời đại ngày nay với sự tác động trực tiếp và nhanh chóng của các tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển. Nhưng sự biến đổi và phát triển đó trong một giới hạn nhất định thì chưa tạo ra nhu cầu khách quan của sự biến đổi các quan hệ sản xuất. Khi sự biến đổi đó tới một giới hạn nhất định cả về số lượng và chất thì tất yếu sẽ đặt ra nhu cầu khách quan là cải cách, cải tổ và cao hơn là một cuộc cách mạng tới tận cơ sở quan hệ sản xuất tư liệu chủ yếu. Tuy nhiên quan hệ sản xuất không tự nó biến đổi mà phải cần đến những cuộc cải cách; cách mạng trên phương diện chính trị và thể chế Nhà nước, cơ chế Nhà nước vì những quan hệ sản xuất bao giờ cũng mang một hình thức pháp lý, chính trị văn hóa. 2. LLSX là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất Chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh tế xã hội cao nhất trong lịch sử. Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến giữa vai trò lãnh đạo xã hội. Khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trở lên lỗi thời kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó phải được thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội là lực lượng sản xuất tiên tiến, có tính xã hội hóa cao mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản khi đó con người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Phương thức sản xuất là tiêu chuẩn để phân biệt các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người. Tính chất và kết cấu của xã hội như thế nào không phải do nguyện vọng, ý muốn chủ quan của con người cũng không do tư tưởng, lý luận quyết định mà do phương thức sản xuất quyết định. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát triển của phương thức sản xuất. Dù hình thức xã hội của sản xuất như thế nào, người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Muốn có sản xuất nói chung thì người lao động và tư liệu sản xuất phải kết hợp với nhau. Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm cho xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tộ động, luôn luôn biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Nếu mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thích hợp thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy có thể nói rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất. Trong thực tế lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất đều được đánh dấu bằng sự tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất. Các cuộc cách mạng kỹ thuật đã mang lại sự thay đổi vượt bậc của quá trình sản xuất xã hội về cách thức sản xuất, phương thức tổ chức quản lý. 3. Nguồn nhân lực a/ Khái niệm Theo Liên Hợp Quốc: “ Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” Theo tổ chức lao động quốc tế: nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Dưới góc độ của Kinh tế Chính trị: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. b/ Phát triển Nguồn nhân lực: Lý thuyết và thực tiễn phát triển ở tất cả các nước trên thế giới đã cho thấy nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn  nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Xuất phát từ cách tiếp cận về nguồn nhân lực khác nhau nên dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển nguồn nhân lực: Theo Liên Hợp Quốc: phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Quan điểm khác cho rằng phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người về vật chất, tinh thần, trí tuệ, tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp. Làm cho con người trở thành người lao động có năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. C.Mác cho rằng con người là yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất. PHẦN II. THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. C.Mác đ ã cho rằng con người là yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất. Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa" Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hoàn thành công nghiệp hóa. Người ta đã tổng kết và kể ra rất nhiều con đường công nghiệp hóa khác nhau: Công nghiệp hóa cổ điển và phi cổ điển. Nói tới CNH - HĐH người ta đến vốn và công nghệ hiện đại. Nhưng điều đó chỉ hoàn toàn đúng với con đường công nghiệp hóa cổ điển, kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa theo con đường thứ hai cho thấy hoàn toàn không phải như vậy mà nhân tố quan trọng nhất chính là con người. CNH - HĐH là con đường duy nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển. Con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ bản nhất của quá trình CNH -HĐH. Thực tế đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến sự thành công của các quốc gia vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở Châu Á. Họ đã có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục hợp lý tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng tốt cho công nghiệp hóa. Nếu như công nghiệp hóa của các nước Châu Âu kéo dài gần 100 năm thì các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo chỉ mất hai ba mươi năm đã xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại. Như vậy, nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng mang tính quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đảng ta xác định nhân tố con người (vốn con người, vốn nhân lực) bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế giải phóng tiềm năng con người, để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH - HĐH là một trong những quan điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác định xây dựng với những đức tính "Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực". Sự thành công của quá trình CNH - HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình CNH - HĐH nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình CNH - HĐH không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải đóng vai trò là động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tiến hành để có sự phù hợp. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể của các quá trình xã hội. Trước đây trong sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người tập thể" "con người giai cấp" con người xã hội. Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình CNH - HĐH. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệt lập riêng rẽ mà phải được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực CNH - HĐH là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình CNH - HĐH" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trình CNH - HĐH và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình. Như vậy, có thể cụ thể vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình CNH – HĐH ở nước ta như sau: Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ có tác dụng khi có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết lợi dụng. Các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình CNH - HĐH. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Hơn nữa, các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người là nguồn lực vô tận. Nguồn lực con người không chỉ tái sinh mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất. Do vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Con người ngày càng sáng tạo ra những công cụ sản xuất mới, tác động cải tạo tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá, xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình độ vô tận của con người. Lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ lệ cao. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang dẫn dắt nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (còn gọi là tri thức). Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của CNH - HĐH phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách, mục tiêu cũng như việc tổ chức thực hiện đường lối ấy ra sao, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức lý luận và hoạt động của con người. II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ HIỆU QUẢ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là một quy luật khách quan, một đòi hỏi tất yếu của nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, chúng ta đang thực hiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết quản lý của Nhà nước thì công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong những chính sách, đường lối về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta luôn chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế đất nước. Để đẩy nhanh, mạnh quá trình công nghiệp hoá, chúng ta phải có một nguồn lực có đầy đủ sức mạnh cả về thể lực lẫn trí lực. Nguồn nhân lực là yếu tố, điều kiện đầu vào quyết định nhất vì nguồn nhân lực quyết định phương hướng đầu tư, nội dung, bước đi và biện pháp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó cần chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực- con người cả về số lượng, chất lượng, năng lực và trình độ. Đây chính là vấn đề cấp bách, lâu dài và cơ bản trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết IV BCHTƯ Đảng khoá VII nêu rõ: Cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là một điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội. Chính vì thế xu thế phát huy yếu tố nguồn nhân lực là xu thế chung toàn cầu. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề ngày càng trở thành một lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Nếu nguồn nhân lực chỉ hàm chứa lao động giản đơn thì sẽ là một sức ép đối với quá trình tăng trưởng và phát triển ở các nước chậm phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những chuẩn mực về kĩ năng và năng suất lao động, về hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh ngày càng phụ thuộc vào việc vận dụng những tiến bộ công nghệ và tri thức khoa học. Chỉ có con người làm chủ được tiến bộ công nghệ và tri thức khoa học mới. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi mới trở thành quốc sách hàng đầu với các quốc gia. Các nước phát triển lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo nhân tài, tranh giành người tài với các nước khác. Các nước đang phát triển tăng cường đầu tư kinh phí cho khoa học công nghệ giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa chảy máu chất xám bằng những chính sách ưu đãi thích hợp. PHẦN III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY 1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay Mặc dù nền Giáo dục của nước ta được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, nhưng nó vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tình hình phát triển dân số qua các giai đoạn từ năm 1921-1954; 1955-1979; 1981-nay đã chứng tỏ dân số chúng ta tăng khá nhanh. Với cơ cấu dân số đông trẻ ( dân số 77,45 triệu người năm 1997) , tốc độ tăng nguồn lao động cao trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối trầm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: Tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm cho những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong khi đó khả năng giả quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy mâu thuẫn giữa cung- cầu về số lượng nguồn nhân lực lớn gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động việc làm . Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Thêm vào đó là sự thiếu quản lí , thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến . Tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân có kĩ thuật thiếu do đầu tư giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lí, thiếu cơ sở định hướng, lại không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động . Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cải thiện nhiều nhưng cung về chất lượng vẫn không thể đáp ứng được cầu về mặt thể lực , trí lực và trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam. Chất lượng thì như vậy, lại thêm việc phân bố, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về nguồn nhân lực cả về số lượng lẫn chất lượng . ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu trầm trọng lao động có trình độ gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển nhiều mặt ở vùng này. Trong khi đó ở những thành phố lớn lại tập trung nhiều lao động có trình độ, gây ra sự lãng phí lớn ở những nơi này nhưng lại thiếu hụt ở những nơi khác. 2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH – HĐH ở nước ta hiện nay Tăng cường các hoạt động dự báo cung - cầu nguồn nhân lực chất lượng cao Dự báo nguồn nhân lực là nhiệm vụ có thể giao cho chính bản thân các cơ sở đào tạo hoặc các cơ sở nghiên cứu dự báo tư nhân tiến hành. Tuy nhiên, vai trò của nhà nước là không thể thiếu, đặc biệt khi cần phải xây dựng các trung tâm dự báo có quy mô quốc gia hoặc quy mô khu vực. Thêm vào đó, Nhà nước cũng cần phải có những cơ chế và quy định cụ thể để các trung tâm dự báo này có thể tiếp cận được với các cơ sở cẩn thiết phục vụ cho việc dự báo. Giảm tỉ lệ gia tăng dân số, nhằm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể lực của người lao động. Khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn phát triển, sự gia tăng về dân số sẽ dẫn tới giảm chất lượng về đời sống, về đào tạo. Cơ cấu dân số hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển đồng bộ về chất lượng cuộc sống, giáo dục đào tạo và đảm bảo tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động hàng năm hợp lý, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, tiến tới cân bằng cung và cầu lao động. Mở rộng quy mô đào tạo Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội CNH - HĐH, hoá mở ra bước ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện, "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì vậy cần tập trung chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hợp tác, cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực. Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ . Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của CNH - HĐH. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26235.doc
Tài liệu liên quan