Phần i: Lời mở đầu
Khuyến khích xuất khẩu là một chủ trương lớn của Chính phủ bởi vai trò hết sức quan trọng của nó. Tuy nhiên đến nay hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Nổi lên cả là những khó khăn về vốn, về khả năng cạnh tranh cũng như thiếu thông tin về thị trường và đối tác. Là một ngân hàng xuất nhập khẩu Eximbank Hà Nội luôn sát cánh với các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Ngân hàng đã có rất nhiều hình thức tài trợ đối với các doanh ngh
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp này. Tuy nhiên đến nay các hình thức vẫn còn đơn điệu và vẫn chưa có nhiều sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chính vì vậy đa dạng hoá hình thức tài trợ xuất khẩu, triển khai những dịch vụ mới, tiện ích cho nhà xuất khẩu là hết sức cần thiết. Một trong những dịch vụ mới rất có triển vọng với nhiều lợi ích cho cả nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng như ngân hàng thương mại là nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Với chức năng tài chính, chức năng thanh toán và chức năng phòng chống rủi ro, đây thực sự là một dịch vụ đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của nhà xuất khẩu khi tham gia vào thị trường quốc tế. Với kết cấu ba chương:
Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu
Chương II: Khả năng phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
Chương III: Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
Hy vọng qua đề tài: “Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Eximbank Hà Nội”, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng quát hơn về nghiệp vụ bao thanh toán, đồng thời có những giải pháp thiết thực, sớm đưa nghiệp vụ này áp dụng tại Việt Nam nói chung cũng như Eximbank Hà Nội nói riêng.
Phần ii: Nội dung
Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu
1.1. Tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế
Xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế và phát triển đất nước. Xuất nhập khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua hoạt động mua bán ở phạm vi quốc tế. Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu có một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá dịch vụ cho nước ngoài. Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vai trò to lớn của xuất khẩu được thể hiện ở nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến. Có rất nhiều nguồn vốn phục để nhập khẩu như các nguồn vốn hình thành từ đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ; thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ; xuất khẩu sức lao động... Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả lại bằng cách này hay cách khác, ở thời kì này hay thời kì sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, thực hiện công nghiệp hoá đất nước là nguồn vốn hình thành từ hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ – trở thành hiện thực.
Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và kĩ thuật hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là một tất yếu đối với chúng ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với quá trình sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ chủ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Hai là coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở nhiều mặt:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất những nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm vải... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất tăng trưởng và phát triển ổn định.
-Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này cho thấy xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra những năng lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc canh tranh này ngày càng găy gắt và đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
- Xuất khẩu đặt ra những đòi hỏi đối với các doanh nghiệp là luôn phải đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Một mặt sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện thu hút hàng triệu lao động vào làm ăn và có thu nhập không thấp. Mặt khác xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng trong mọi tầng lớp dân cư. Hoạt động xuất khẩu bảo đảm sự phát triển nhanh chóng và cân đối nền kinh tế trong nước, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, tạo thêm việc làm, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, nâng cao đời sống dân cư.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Rõ ràng là xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện sớm và thuận lợi hơn cho các hoạt động này phát triển. Ví như xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại kể trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu đã khai thác triệt để lợi ích so sánh của mỗi quốc gia, đạt quy mô tối đa cho mỗi ngành sản xuất, tạo điều kiện xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy các nhân tố phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, trao đổi và nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Có nhiều biện pháp để khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu. Một trong số đó là hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của các ngân hàng thương mại mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây.
Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại
Xét từ góc độ nghịêp vụ kĩ thuật, tài trợ xuất khẩu của ngân hàng thường được chia làm hai loại theo tiến trình giao hàng của nhà xuất khẩu là: Tài trợ trước khi giao hàng và tài trợ sau khi giao hàng.
Thứ nhất là tài trợ trước khi giao hàng:
Hình thức tài trợ này có mục đích là tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của nhà xuất khẩu để sản xuất chế biến hàng xuất khẩu hay thu mua hàng xuất khẩu, thực hiện hợp đồng ngoại thương. ở hình thức này có các loại hình tài trợ chính sau:
- Tài trợ cho từng thương vụ độc lập: Loại tài trợ này dựa trên cơ sở một đơn đặt hàng, một hợp đồng ngoại thương hoặc một L/C đã mở. Ngân hàng sẽ căn cứ vào tính hiệu quả của thương vụ và nguồn thu hồi nợ vay để ra quyết định tài trợ. Đây là loại hình tài trợ trước khi giao hàng chủ yếu, hay áp dụng. Để được tài trợ thì nhà xuất khẩu phải đạt được một số điều kiện nhất định như:
Nhà xuất khẩu cần phải có một đơn đặt hàng, cam kết mua hàng chắc chắn từ phía nhà nhập khẩu nước ngoài, trong khi hàng hoá chưa được thu mua cũng như sản xuất, chế biến.
Đối với những khách hàng mới hay những thương vụ kinh doanh mặt hàng mới, để được ngân hàng tài trợ khách hàng thường phải xuất trình một L/C đã được mở bởi một ngân hàng có uy tín, hoặc được xác nhận bởi một ngân hàng uy tín khác.
Đối với loại hình này, mức tài trợ thông thường tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị đơn đặt hàng, thường từ 70%-80%. Như vậy nhà xuất khẩu phải tham gia với một tỷ lệ vốn nhất định, nên họ cũng tăng trách nhiệm hơn trong việc thực hiện thương vụ của mình, đảm bảo hiệu quả, tạo khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ nhiều nước quy định tỷ lệ tối thiểu trong tổng dư nợ của ngân hàng dành cho tài trợ xuất khẩu, và thường áp dụng đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tài trợ theo hình thức này thường là tài trợ ngắn hạn, thời gian từ khi giải ngân để trả tiền hàng hóa dịch vụ cho nhà cung ứng cho đến khi thu được tiền từ nhà nhập khẩu. Nhiều ngân hàng tài trợ xuất khẩu yêu cầu nhà nhập khẩu hay ngân hàng mở L/C thanh toán trực tiếp cho ngân hàng mình bằng nhà xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu cho ngân hàng tài trợ hưởng. Sau khi trừ nợ gốc, lãi tiền vay, các chi phí dịch vụ phát sinh, số tiền còn lại sẽ được ghi có vào tài khoản của nhà xuất khẩu.
- Tín dụng hạn mức trước khi giao hàng: Tín dụng hạn mức sẽ không bị hạn chế vào một thương vụ cụ thể nào mà nhằm tài trợ cho một chuỗi thương vụ liên tiếp trong một khoảng thời gian nhất định, thời hạn tối đa thường là 2 năm. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà tổ chức tín dụng mà nhà xuất khẩu thoả thuận trong hợp đồng tài trợ. Tuỳ theo thoả thuận, hạn mức tín dụng có thể được rút dần trong từng kì trả nợ, hoặc nhà xuất khẩu có thể vừa rút vốn vay vừa trả tiền nợ vay, hoặc ngân hàng quy định khoản rút vốn lần đầu phải được hoàn trả đầy đủ trước khi rút vốn lần tiếp theo, cứ như vậy cho hết hạn hợp đồng. Trên thực tế hình thức này ít được áp dụng, chỉ thực hiện với những khách hàng có uy tín, chấp hành nghiêm chỉnh lịch trình trả nợ ngân hàng. Loại hình này rất phù hợp với những hoạt động xuất khẩu có thị trường ổn định, thường xuyên, không mang tính thời vụ.
Thứ hai là hình thức tài trợ sau khi giao hàng: Hình thức tài trợ này sử dụng khi nhà xuất khẩu có đủ khả năng tài chính để thực hiện sản xuất, thu mua trước khi giao hàng nhưng thiếu nguồn bù đắp cho các khoản phải thu, nhất vì trong thương mại quốc tế, sau khi giao hàng phải mất một thời gian nhất định thì việc thanh toán mới được diễn ra. Hình thức tài trợ này thường có sự tham gia của các công cụ như bộ chứng từ hàng xuất, hối phiếu đã chấp nhận còn thời hạn. Hình thức này gồm các loại hình chủ yếu sau:
- Cho vay trong khuôn khổ Thư tín dụng: Ngân hàng có thể chiết khấu hoặc ứng trước đối với bộ chứng từ hàng xuất. Để đáp ứng nhu cầu vốn, sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu có thể thương lượng với ngân hàng để thực hiện chiết khấu hoặc ứng trước tiền. Để được chiết khấu và ứng trước, bộ chứng từ phải phù hợp với L/C, hoặc không phù hợp nhưng được ngân hàng nước ngoài chấp nhận thanh toán. Tuỳ vào chất lượng bộ chứng từ, mặt hàng xuất khẩu, thị trường, đối tác nhập khẩu, uy tín của ngân hàng mở L/C… ngân hàng sẽ quyết định chiết khấu có truy đòi hay miễn truy đòi. Chiết khấu bộ chứng từ miễn truy đòi là việc dựa trên cơ sở bộ chứng từ hàng xuất, sau khi trừ chi phí phát sinh liên quan, ngân hàng sẽ thanh toán số tiền còn lại cho nhà xuất khẩu, bất kể phía nhà nhập khẩu có thanh toán hay không. Trường hợp này chỉ áp dụng với những bộ chứng từ có chất lượng tốt, mức độ rủi ro thấp. Chiết khấu bộ chứng từ có truy đòi là việc ngân hàng dựa trên bộ chứng từ hàng xuất, sau khi trừ chi phí liên quan, sẽ thanh toán số tiền còn lại cho nhà xuất khẩu với điều kiện sẽ truy đòi nhà xuất khẩu nếu ngân hàng không thu được tiền từ ngân hàng mở L/C. Trường hợp này ít rủi ro hơn đối với ngân hàng thương mại tham gia chiết khấu.
- Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ. Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ, nhà xuất khẩu uỷ thác các chứng từ về hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng của mình, chuyển tới ngân hàng nhà nhập khẩu hoặc tới một ngân hàng giao dịch với chỉ thị giao các chứng từ này cho nhà nhập khẩu khi đã thanh toán hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo. Tuy nhiên từ lúc gửi chứng từ cho đến khi xuất trình với người thanh toán có thể mất một khoảng thời gian nhất định, đặc biệt khi thoả thuận ngày thanh toán muộn hơn. Khi đó nếu có nhu cầu vốn, doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ thanh toán. Hình thức này tương tự như đối với L/C, tuy nhiên nó không được đảm bảo về mặt tín nhiệm, do đó chỉ nên áp dụng chiết khấu có truy đòi.
- Chiết khấu hối phiếu: Với hình thức này, ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng dưới hình thức mua lại các hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán. Điều này có nghĩa là ngân hàng mua lại các khoản nợ phải trả hoặc các khoản nợ phải đòi. Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu. Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu rất phổ biến trong hoạt động ngoại thương.
- Tín dụng Bao thanh toán: Bao thanh toán là một hình thức tài trợ xuất khẩu trong đó ngân hàng sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ người mua hàng, đồng thời cung cấp các dịch vụ quản lý sổ cái cho bên xuất khẩu. Trong nghiệp vụ này, đối tượng chính là các khoản phải thu nên tổ chức bao thanh toán quan tâm đến nhà nhập khẩu, tổ chức bao thanh toán nhập khẩu là chủ yếu. Chính vì vậy mà việc đánh giá khả năng tài chính của các đối tượng trên là quan trọng nhằm đánh giá mức độ rủi ro cũng như tỷ lệ ứng trước và chiết khấu trong hoạt động bao thanh toán. Thực hiện nghiệp vụ này, tổ chức bao thanh toán thực hiện đồng thời chức năng thanh toán, chức năng tài chính và chức năng phòng chống rủi ro. Có hai loại bao thanh toán là bao thanh toán truy đòi và bao thanh toán miễn truy đòi tuỳ theo thoả thuận giữa tổ chức bao thanh toán và nhà xuất khẩu.
1.2. Nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu
1.2.1. Nghiệp vụ bao thanh toán
1.2.1.1.Khái niệm
Có rất nhiều những cách hiểu khác nhau về Bao thanh toán (Factoring). Theo từ điển kinh tế (Dictionary of Economics – Christopher Pass & Bryar Lones) “Factoring là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả.”
Còn theo từ điển thuật ngữ ngân hàng – Hans Klaus thì “ Factoring là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp. Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua nợ phải chịu mọi rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ.”
Một khái niệm khác về Bao thanh toán cho rằng: “Factoring là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của người bán và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước thường từ 80 – 90% trị giá hoá đơn. Khoản dự trữ 10%-20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc do các yêu cầu khác của người mua. Thường thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng.”
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 ban hành quy chế hoạt động Bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng thì Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng.
Qua các khái niệm trên ta thấy Bao thanh toán là một hình thức tài trợ trọn gói kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, tránh rủi ro tín dụng, quản lý những khoản phải thu và đảm nhiệm dịch vụ nhờ thu. Nó được thực hiện dưới một thoả thuận giữa nhà Bao thanh toán và người bán hàng. Với thoả thụân này tổ chức thực hiện Bao thanh toán mua các khoản phải thu của người bán hàng, thông thường dưới hình thức miễn truy đòi và chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của người nợ. Nếu bên nợ phá sản hoặc mất khả năng thanh toán vì những lý do khác nhau, tổ chức Bao thanh toán sẽ vẫn thực hiện thanh toán cho người bán hàng.
1.2.1.2.Phân loại
Có nhiều cách phân loại bao thanh toán theo những tiêu chí khác nhau.
- Với ý nghĩa là Factoring nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại Bao thanh toán tuyệt đối (Bao thanh toán không truy đòi) và Bao thanh toán tương đối ( Bao thanh toán truy đòi).
Bao thanh toán tương đối (Bao thanh toán truy đòi – recourse Factoring): Ngân hàng sẽ thanh toán tiền cho người bán hàng, nhưng với thoả thuận người bán vẫn chịu trách nhiệm rủi ro nếu người mua không trả tiền. Như vậy nhà Bao thanh toán không mua đứt các khoản phải thu mà chỉ dựa vào đó để tài trợ xuất khẩu với điều kiện là có truy đòi, nghĩa là người bán phải hoàn trả nợ vay cho nhà Bao thanh toán nếu không thu được tiền bán hàng. Hợp đồng Bao thanh toán sẽ xác định sau bao nhiêu ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán người bán hàng phải hoàn trả số tiền ứng trước cho tổ chức Bao thanh toán. Theo đó, chi phí đối với Bao thanh toán tương đối sẽ thấp hơn chi phí Bao thanh toán tuyệt đối và có thể chỉ đòi hỏi ít yêu cầu hơn từ từ phía người bán và khách hàng của họ. Đó là bởi vì người bán là người gánh chịu rủi ro từ nợ xấu. Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau.
- Hợp đồng Bao thanh toán thực hiện thanh toán trong vòng 3 tháng với 80% giá trị hoá đơn sẽ được ứng trước.
- Ngày 30 – 4, hoá đơn phát sinh với giá trị $10.000, và tổ chức Bao thanh toán sẽ ứng trước nhà xuất khẩu 80% trị giá, tương đương $8000.
- Nhà xuất khẩu mong muốn nhà nhập khẩu sẽ thanh toán sau thời hạn 3 tháng bởi vì anh ta phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ. Tổ chức bao thanh toán với tư cách là người quản lý các khoản nợ, quản lý sổ cái bán hàng sẽ theo đuổi quá trình thanh toán cho đến ngày đáo hạn thanh toán.
- Vào ngày 31 tháng 7, bất kể nhà xuất khẩu có nhận được thanh toán từ đối tác của họ hay không, thì $8000 phải được hoàn trả cho tổ chức Bao thanh toán, đồng thời nhà xuất khẩu cũng vẫn phải thanh toán phí Bao thanh toán và lãi suất.
Bao thanh toán tuyệt đối (Bao thanh toán miễn truy đòi – non recourse factoring)
Đối với Bao thanh toán tuyệt đối, tổ chức bao thanh toán sẽ phải gánh chịu những rủi ro về nợ xấu. Nếu người mua không thanh toán, tổ chức bao thanh toán không có quyền đòi lại tiền từ người bán. Do người bán được bảo hiểm rủi ro 100%, nên bao thanh toán tuyệt đối có chi phí cao hơn bao thanh toán tương đối. Người bán sẽ không phải trả lại khoản tiền ứng trước từ nhà bao thanh toán nhưng phải trả lãi suất cho khoảng thời gian thoả thuận bao thanh toán. Tổ chức bao thanh toán có toàn quyền để yêu cầu người mua hàng thanh toán.
- Căn cứ vào hình thức thực hiện có bao thanh toán toàn bộ và bao thanh toán một phần.
Bao thanh toán toàn bộ: Tổ chức bao thanh toán mua lại những hoá đơn của khách hàng phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, đồng thời thực hiện việc quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ từ người mua… Tóm lại đây là một dịch vụ trọn gói mà tổ chức bao thanh toán cung cấp cho người bán. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay.
Bao thanh toán một phần: Với loại hình này tổ chức bao thanh toán không thực hiện tất cả các dịch vụ cho người bán mà chỉ thực hiện một hoặc một số dịch vụ nhất định như: chỉ cung ứng vốn, hoặc có kèm theo thu nợ…
- Căn cứ vào phạm vi thực hiện bao thanh toán có bao thanh toán nội địa và bao thanh toán quốc tế.
Bao thanh toán nội địa: Đơn vị bao thanh toán chỉ thực hiện cung cấp dịch vụ cho các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong nước mà không tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu.
Bao thanh toán quốc tế: Khi người bán và người mua ở những nước khác nhau, và tổ chức bao thanh toán phục vụ bên xuất khẩu và bên nhập khẩu thì nghiệp vụ này được gọi là Bao thanh toán quốc tế. Bao thanh toán quốc tế gồm : Bao thanh toán xuất khẩu (khi tổ chức bao thanh toán phục vụ nhà xuất khẩu) và bao thanh toán nhập khẩu (khi tổ chức bao thanh toán phục vụ nhà nhập khẩu).
Trong các hình thức bao thanh toán trên, bao thanh toán xuất khẩu đang ngày càng phổ biến và là một công cụ hết sức hiệu quả đối với nhà xuất khẩu. Chúng ta hãy đi sâu tìm hiểu nghiệp vụ này.
1.2.2. Vai trò, chức năng và quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu
1.2.2.1. Vai trò của bao thanh toán xuất khẩu
Đối với rất nhiều công ty, việc bán hàng trên thị trường quốc tế là một thách thức lớn. Sự khác biệt về ngôn ngữ, luật pháp, hệ thống tiền tệ và phong tục tập quán đã tạo ra những rào cản trong thương mại quốc tế, nơi mà dưới sự hỗ trợ của công nghệ, kĩ thuật cho phép đặt hàng với bạn hàng quốc tế chỉ trong vài giây. Một trong những vấn đề lớn nhất mà nhà xuất khẩu phải đối mặt hiện nay là các nhà nhập khẩu quy mô, ưu thế thường chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là việc thanh toán sẽ diễn ra sau rất nhiều tuần, thậm chí là nhiều tháng kể từ khi hàng được giao. Không có gì đáng ngạc nhiên khi rất nhiều doanh nghiệp nhận thấy rằng việc cấp tín dụng cho người mua theo cách này có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng đối với dòng tiền. Thêm vào đó là những vấn đề có thể phát sinh khi nhà nhập khẩu thanh toán chậm hơn nhiều so với ngày quy định theo điều khoản đã thoả thuận ban đầu hoặc tồi tệ hơn là không thanh toán vì những thất bại tài chính của họ. Bao thanh toán xuất khẩu cung cấp một giải pháp được đánh giá là đơn giản cho những nhà xuất khẩu, đặc biệt với những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như là các doanh nghiệp chuyên biệt. Với chuyên môn và sự hợp tác của tổ chức Bao thanh toán tại nước nhập khẩu, tổ chức Bao thanh toán phục vụ nhà xuất khẩu sẽ thực hiện thu tiền từ nhà nhập khẩu. Kết quả là, sự khác biệt về văn hoá và khoảng cách không còn là một vấn đề đối với nhà xuất khẩu. Tổ chức Bao thanh toán cũng có thể cung cấp cho nhà xuất khẩu sự bảo hiểm rủi ro 100% khi nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán.
Những lợi ích của Bao thanh toán xuất khẩu đã được chứng minh và trở thành một công cụ được nhiều doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế quan tâm. Ngày nay, nó được xem như sự là lựa chọn hoàn hảo trong tài trợ thương mại và là một công cụ hữu hiệu thay thế cho thư tín dụng.
Triển vọng phát triển của Bao thanh toán quốc tế nói chung và Bao thanh toán xuất khẩu nói riêng đã được nhiều quốc gia nhìn thấy và nắm bắt. Không chỉ ở những nước công nghiệp hiện đại phát triển mà Bao thanh toán xuất khẩu đã được áp dụng ở các nước đang phát triển. Thách thức đặt ra với các tổ chức Bao thanh toán là phải duy trì và phát triển sự năng động, sáng tạo của họ để có thể đối phó kịp thời trước những tình huống thay đổi của thị trường.
1.2.2.2. Chức năng của Bao thanh toán xuất khẩu
Các chức năng cơ bản của nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu bao gồm.
Thứ nhất là chức năng dịch vụ thanh toán. Tổ chức bao thanh toán xuất khẩu đảm nhận mọi nhiệm vụ bút toán cho nhà xuất khẩu về những khoản thanh toán chuyển nhượng, đảm nhiệm nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho nhà nhập khẩu, hoặc giải quyết những vướng mắc trong thanh toán. Do đó với chức năng này, tổ chức Bao thanh toán xuất khẳu thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng phục vụ cho nhà xuất khẩu. Hơn thế nữa, tổ chức bao thanh toán xuất khẩu còn thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thống kê kế hoạch sản xuất và doanh thu cho nhà xuất khẩu, xác định thuế suất và thuế doanh thu, xác định lệ phí hoặc các tài khoản thanh toán nhanh (lệ phí hoa hồng...). Qua đó, chúng ta có thể coi Bao thanh toán như một nhà tài chính, ngân hàng phục vụ đắc lực cho các nhà xuất khẩu. Với mối quan hệ giao dịch với các tổ chức Bao thanh toán nhập khẩu đã đảm bảo cho nhà xuất khẩu rong khâu thanh toán và đảm bảo thanh toán đúng hạn thông qua Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu tại nước nhà nhập khẩu. Một đặc tính ưu việt mà tất cả các phương tiện tín dụng khác không có được. Điều này vô cùng quan trọng đối với những hợp đồng dài hạn và cung ứng theo định kì. Nó đã giảm nhẹ những gánh nặng cho nhà xuất khẩu nếu phải thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ và từ đó giảm được lệ phí thanh toán của tín dụng chứng từ cho cả nhà xuất khẩu và đối tác của họ. Trong khi đó hệ số an toàn cao hơn tất cả các phương thức thanh toán khác, vì thực chất tổ chức Bao thanh toán là những tổ chức con của những ngân hàng, ngoài chức năng thanh toán còn có thêm nhiệm vụ và có quyền kiểm tra, giám sát khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu có thể tiết kiệm được nhân lực lao động cho hoạt động dịch vụ thanh toán.
Thứ hai là chức năng tài chính. Tổ chức bao thanh toán xuất khẩu đảm nhiệm chức năng tài chính tín dụng cung ứng cho nhà xuất khẩu và cơ sở để đảm nhiệm việc này là mối quan hệ giao dịch giữa hai tổ chức bao thanh toán ở nước xuất khẩu và ở nước nhập khẩu. Trên thực tế, tổ chức Bao thanh toán xuất khẩu thực hiện hai nghiệp vụ tái tài chính là nghiệp vụ tài chính ứng trước và nghiệp vụ chiết khấu. Bao thanh toán là việc mua bán các khoản thanh toán, tuy nhiên thoả thuận mua và thanh toán là tại hai thời điểm khác nhau. Hay nói cách khác đây không phải là nghiệp vụ cưa đứt hoặc tiền chao, cháo múc, mà thực chất đây là việc chuyển giao sở hữu trong lòng tin. Mọi tất toán nghiệp vụ chỉ được thực hiện một khi nhà nhập khẩu thanh toán, hoặc nhà xuất khẩu phải thoả thuận trước những điều kiện nghiệp vụ khác của Bao thanh toán.
Nghiệp vụ ứng trước tài chính. Cho dù hợp đồng bao thanh toán được kí kết từ trước, nhưng ngày có hiệu lực lại là ngày thanh toán theo định kì thanh toán của nhà nhập khẩu. Trong thời gian này nhà xuất khẩu cần vốn để tiếp tục quá trình sản xuất có thể vay tín dụng tổ chức thực hiện Bao thanh toán. Tổng mức tín dụng này phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, trung bình từ 70%-90% giá trị của khoản thanh toán. Chúng ta hãy xét ví dụ sau: Một nhà xuất khẩu kí hợp đồng với nhà nhập khẩu hàng liên tục trong 5 năm với định kì xuất hàng hàng năm là vào tháng 3 và tháng 9, với tổng mức là 1,2 triệu USD một năm và định kì thanh toán vào 30-6 và 30-12 hàng năm. Trong trường hợp anh ta cần vốn từ 1-4 đến 30-6, anh ta có thể vay tổ chức Bao thanh toán khoản tín dụng này. Khoản này được coi là khoản tín dụng ứng trước. Tín dụng ứng trước này được thực hiện như tín dụng luân chuyển và nhà xuất khẩu trả lãi suất cho khoản tín dụng này như lãi suất luân chuyển thông thường và hạn mức tín dụng là từ 70 – 90% khoản thanh toán. Nhưng vì đây là hợp đồng mua bán các khoản thanh toán, nếu xét về lý thì sau khi xuất hàng nhà xuất khẩu có quyền bán khoản này theo giá đã thoả thuận và cưa đứt, nhưng khi đó anh ta phải trả giá quá đắt. Để tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu, đồng thời để khuyến khích nhà xuất khẩu sử dụng nghiệp vụ Bao thanh toán, các tổ chức bao thanh toán đã đưa số lượng thanh toán còn lại từ 10-30% của khoản thanh toán vào tài khoản tiền gửi của nhà xuất khẩu. Tài khoản này được coi như tài khoản khống chế và nhà xuất khẩu được hưởng lãi suất tài khoản tiền gửi này cho tới khi nhà nhập khẩu thanh toán theo thoả thuận. Khi nhà nhập khẩu thanh toán và Tổ chức Bao thanh toán xuất khẩu nhận được khoản thanh toán này, thì tổ chức bao thanh toán xuất khẩu sẽ thu hồi khoản tín dụng ứng trước cộng với lệ phí bao thanh toán ( bao gồm lệ phí hợp đồng, lệ phí dịch vụ, lệ phí rủi ro) và lãi tín dụng ứng trước nếu có. Số còn lại cộng với lãi suất tiền gửi tài khoản khống chế sẽ được trả lại cho nhà xuất khẩu.
Qua đó ta thấy, Bao thanh toán đã thể hiện ưu thế của nó hơn các khoản tín dụng khác. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái tài chính. Phần lãi suất tài khoản khống chế đã giảm bớt lãi suất vốn vay. Một khoản tiền gửi thực chất là chưa có nguồn. Tài khoản khống chế là cơ sở bảo đảm an toàn cho ngân hàng ( tổ chức bao thanh toán) một khi sự cung ứng không đảm bảo những điều kiện của hợp đồng thương mại.
Nghiệp vụ chiết khấu:
Đây là hình thức thứ hai của hoạt động tái tài chính xuất khẩu theo phương thức bao thanh toán. Với hình thức này, nhà xuất khẩu có thể bán tất cả các chứng từ thanh toán và vận chuyển cho Tổ chức Bao thanh toán xuất khẩu và nhận tiền ngay tức khắc. Nhưng tỷ lệ chiết khấu là khá cao ( khoảng từ 10%-30%) và phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Hay nói cách khác, tỷ lệ này bao hàm cả lệ phí rủi ro và lãi tín dụng kể từ ngày mua cho tới ngày định kì t._.hanh toán. Nhưng để được chiết khấu các khoản thanh toán, nhà xuất khẩu phải hợp đồng dịch vụ chống rủi ro và nộp lệ phí cho dịch vụ này. Do đó, nghiệp vụ chiết khấu không ưu việt như nghiệp vụ ứng trước tài chính và khoong thông dụng trong hoạt động Bao thanh toán. Tuy vậy nó cũng ưu thế hơn là dịch vụ chiết khấu của tín dụng chứng từ vì đây là nghiệp vụ chiết khấu không bảo lưu, trong khi chiết khấu hối phiếu trong hoạt động tín dụng thư được phép truy hoàn người phát hành hối phiếu.
Thứ ba là chức năng chống rủi ro cho nhà xuất khẩu. Với chức năng này, các tổ chức bao thanh toán đảm nhiệm những rủi ro do khả năng không thanh toán của nhà nhập khẩu. Những rủi ro này xảy ra một khi nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán trong một thời hạn quy định và khi đó nhà bao thanh toán xuất khẩu không có quyền truy hoàn đối với nhà xuất khẩu. Khác với việc bảo hiểm cho các hàng hoá khác, tổ chức bao thanh toán phải gánh chịu mọi rủi ro mà không được đòi hỏi nhà xuất khẩu phải gánh chịu một phần. Do đó ta có thể coi đây là sự bảo đảm tuyệt đối. Nhưng tổ chức bao thanh toán xuất khẩu chỉ gánh chịu những rủi ro do nhà nhập khẩu gây ra. Họ sẽ không phải gánh chịu những rủi ro về chính trị cũng như những rủi ro từ chủ quan nhà xuất khẩu, như vì lý do khống chế ngoại tệ, hoặc chính sách phong toả kinh tế của chính phủ... Vì những lý do này, nhà nhập khẩu không thể thanh toán được hoặc không thể nhập hàng được, cũng như những trường hợp từ chối nhập hàng của nhà nhập khẩu khi ngân hàng xuất không đúng hợp đồng thương mại. Để khắc phục rủi ro này, tổ chức Bao thanh toán đòi nhà xuất khẩu phải để lại 10-30% giá trị khoản thanh toán vào tài khoản khống chế. Đó là cơ sở đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ tín dụng này. Lệ phí chống rủi ro thường từ 0,3 đến 1% giá trị khoản thanh toán được chuyển nhượng. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cho khoản thanh toán và trên kết quả thẩm định của tổ chức Bao thanh toán nhập khẩu, tổ chức bao thanh toán xuất khẩu còn quy định rõ hạn mức thanh toán cho từng nhà nhập khẩu, từng đối tượng mặt hàng, từng thị trường hàng hoá, từng nước nhập khẩu. Và tổ chức bao thanh toán chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi hạn mức đã đề ra.
1.2.2.3.Quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu
Một giao dịch bao thanh toán xuất khẩu bao gồm ba chủ thể chính tham gia là: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu. Ngoài ra còn có sự tham gia của tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu. Giữa bốn chủ thể này có những mối quan hệ nhất định với nhau.
- Quan hệ giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu nước ngoài: Dựa trên hợp đồng thương mạivà điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên.
- Quan hệ giữa nhà xuất khẩu và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu: Dựa trên hợp đồng bao thanh toán và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu được nhà xuất khẩu nhượng quyền thu nợ từ nhà nhập khẩu nước ngoài một cách hợp pháp.
- Quan hệ giữa tổ chức bao thanh toán xuất khẩu và nhà nhập khẩu: là quan hệ pháp lý của chủ nợ và con nợ, hiệu lực thực thi được pháp luật công nhận. Quan hệ này là hệ quả từ hợp đồng giữa nhà xuất khẩu và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu.
- Quan hệ giữa tổ chức bao thanh toán xuất khẩu và tổ chức bao thanh toán nhập khẩu: Là mối quan hệ đại lý hoặc đối tác, theo đó tổ chức bao thanh toán xuất khẩu uỷ thác cho tổ chức bao thanh toán nhập khẩu thu nợ trực tiếp từ nhà nhập khẩu. Thông thường hai tổ chức bao thanh toán này cùng thuộc hiệp hội bao thanh toán quốc tế FCi.
- Quan hệ giữa tổ chức bao thanh toán nhập khẩu và nhà nhập khẩu: Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu là người được uỷ thác thu tiền thanh toán từ nhà nhập khẩu. Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu có thể bảo lãnh thanh toán cho nhà nhập khẩu.
Không có gì quá phức tạp về nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Nó đơn giản là một dịch vụ để giảm bớt những vấn đề truyền thống của việc bán hàng theo phương thức mở tài khoản. Quá trình thực hiện nghiệp vụ này gồm điều tra khả năng tín dụng của nhà nhập khẩu, xác định mức độ rủi ro tín dụng và đưa ra sự bảo hiểm 100% cho nhà xuất khẩu, thu nợ và quản lý các khoản phải thu đồng thời tài trợ cho nhà xuất khẩu với việc ứng trước tiền cho những khoản phải thu. Chúng ta có thể khái quát quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu qua các bước như sau:
Nhà xuất khẩu
Nhà nhập khẩu
Tổ chức bao thanh toán xuất khẩu
Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu
1
2
3
8
4
5
12
6,7
13
9
10
11
Thoả thuận thương mại giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu.
Nhà xuất khẩu kí kết hợp đồng bao thanh toán giao toàn bộ các khoản phải thu đã thoả thuận cho tổ chức bao thanh toán xuất khẩu. Tổ chức bao thanh toán sau đó phải có trách nhiệm đối vối các khoản phải thu.
Tổ chức bao thanh toán xuất khẩu chọn một đại lý để hỗ trợ như là tổ chức bao thanh toán nhập khẩu trên quốc gia mà hàng được giao đến. Những khoản phải thu sau đó sẽ được giao cho nhà bao thanh toán nhập khẩu.
Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu kiểm tra gián tiếp tình trạng tín dụng và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu thông báo kết quả kiểm tra cho tổ chức bao thanh toán xuất khẩu.
Thông báo của tổ chức bao thanh toán xuất khẩu cho nhà xuất khẩu về hạn mức mua khoản thanh toán. Hạn mức này không phải là một số ấn định mà nó phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
Nhà xuất khẩu chấp nhận thoả thuận và bán khoản thanh toán, chuyển quyền các khoản phải thu cho tổ chức bao thanh toán xuất khẩu.
Tổ chức bao thanh toán xuất khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc chuyển quyền sở hữu và chuyển nợ.
Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc tổ chức này đảm nhiệm nghiệp vụ nhờ thu cũng như những quan hệ giao dịch thay cho tổ chức bao thanh toán xuất khẩu.
Nhà nhập khẩu thanh toán theo kì thoả thuận theo đúng giá trị hợp đồng cho tổ chức bao thanh toán nhập khẩu và không chịu trách nhiệm về quyền truy đòi khác.
Nhà nhập khẩu có quyền phản hồi thanh toán khi có vấn đề xảy ra với hàng nhập hoặc không chấp nhận thanh toán.
Tổ chức bao thanh toán nhập khẩu thực hiện hạch toán nghiệp vụ vào tài khoản giao dịch của tổ chức bao thanh toán xuất khẩu.
Tổ chức bao thanh toán xuất khẩu tất toán nghiệp vụ thanh toán nốt cho nhà xuất khẩu sau khi đã trừ phí bao thanh toán.
Nếu sau thời gian quy định ( có thể là 90 ngày) kể từ ngày đáo hạn mà hoá đơn vẫn chưa được thanh toán, tổ chức bao thanh toán nhập khẩu sẽ trả 100% giá trị hoá đơn dựa trên sự bảo lãnh đối với nhà nhập khẩu. Mỗi giao dịch được thiết kế không chỉ đảm bảo không có rủi ro trong việc bán hàng của nhà xuất khẩu mà còn cho phép nhà xuất khẩu đưa ra những điều khoản hấp dẫn hơn cho khách hàng ở nước ngoài. Cả bên nhập khẩu và xuất khẩu đều được lợi, tốn ít thời gian và chi phí hơn khi thực hiện giao dịch. Trong một số trường hợp không cần có sự tham gia của tổ chức bao thanh toán nhập khẩu, tổ chức bao thanh toán xuất khẩu có thể tự giải quyết được mọi vấn đề. Điều này đã trở nên rất phổ biến đối với các nước trong khối Liên minh Châu âu, nơi mà biên giới giữa các quốc gia hầu như không còn nữa.
Qua phân tích trên ta thấy với chức năng và vai trò của mình, bao thanh toán xuất khẩu được coi là một hình thức tài trợ xuất khẩu rất hiệu quả. Cụ thể những lợi ích của bao thanh toán xuất khẩu đối với nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần tiếp theo.
1.2.3. Những lợi ích của Bao thanh toán xuất khẩu
Lợi ích đối với nhà xuất khẩu: Một thực tế hiển nhiên là cuộc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu đang ngày càng trở nên khắc nghiệt và các doanh nghiệp xuất khẩu luôn phải tìm cách để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong những yếu tố để cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu là điều kiện thanh toán. Nếu một doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu với phương thức ghi sổ thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ kí thêm được nhiều hợp đồng. Song nếu sử dụng hình thức này trong thanh toán thì rủi ro rõ ràng đã tăng lên. Vì vậy các doanh nghiệp chỉ chấp nhận hình thức này với các khác hàng thật lâu năm và uy tín. Thậm chí ngay cả khi được đảm bảo khả năng thanh toán từ nhà nhập khẩu thì doanh nghiệp vẫn bị khách hàng chiếm dụng vốn trong suốt thời gian chờ đợi. Các doanh nghiệp xuất khẩu rơi vào tình trạng thiếu nguồn tiền mặt nhưng không dễ dàng tiếp cận với vốn từ các nguồn truyền thống như tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn để duy trì sản xuất. Bao thanh toán xuất khẩu được đánh giá là một dịch vụ tài chính mới, chỉ với thủ tục đơn giản có thể giúp các doanh nghiệp vừa xuất khẩu cho khách hàng theo điều kiện thanh toán ghi sổ, lại vừa thu được tiền mặt ngay sau khi xuất hàng. Nghiệp vụ này bổ sung thêm một kênh huy động vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp bán hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những đối tượng không dễ tiếp cận với nguồn vốn vay. Bao thanh toán sẽ cung cấp một lượng tiền lớn và nhanh để tăng cường dòng tiền, tăng vốn lưu động cho khách hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu còn được hưởng những lợi ích sau từ bao thanh toán xuất khẩu:
- Tránh được những rủi ro mất vốn do khách hàng không trả nợ. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp bán hàng tại thị trường mới, phức tạp, giúp khách hàng tránh rủi ro khi rủi ro đã được gánh bởi tổ chức bao thanh toán.
- Nhận được một dịch vụ trọn gói: doanh nghiệp không phải mất thời gian và chi phí liên quan đến việc quản lý sổ sách bán hàng và thu hồi nợ từ người mua, vì vậy có nhiều thời gian để tập trung vào việc lập kế hoạch sản xuất, tiếp thị và bán hàng.
- Doanh nghiệp có thể nhận được những thông tin hữu ích về tình trạng tín dụng của nhà nhập khẩu và những thông tin này có thể giúp nhà xuất khẩu đàm phán những điều khoản tốt hơn với nhà cung cấp, có cơ hội được chiết khấu bởi nhà cung cấp.
- Nhà xuất khẩu sẽ nhận được tiền ngay khi giao hàng để có thể tiếp tục sản xuất cho những hợp đồng xuất khẩu sau.
Bao thanh toán xuất khẩu không chỉ tạo ra những ích lợi đối với mà còn có những lợi ích không nhỏ đối với nhà nhập khẩu.
Lợi ích đối với nhà nhập khẩu
Tổ chức bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng cho người mua hàng trên cơ sở thẩm định xếp hạng tín dụng của họ. Với việc cấp hạn mức này, đơn vị bao thanh toán vừa làm chức năng là đơn vị chấp thuận tín dụng vừa là đơn vị bảo lãnh thanh toán. Đối với phương thức này, nhà xuất khẩu nhận được những lợi ích sau:
- Nhà nhập khẩu sẽ được mua hàng với những điều khoản thanh toán mở tài khoản rất thuận tiện, không cần phải mở thư tín dụng (L/C). Cho đến nay, L/C vẫn là phương thức thanh toán được chấp nhận rỗng rãi nhất trong thương mại quốc tế, với sự đảm bảo rằng nhà xuất khẩu sẽ giao hàng phù hợp với hợp đồng mua bán và nhà nhập khẩu sẽ trả tiền với những trách nhiệm tài chính bắt buộc của anh ta. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là không có hạn chế trong phương thức này khi cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu đều phải chịu những áp lực về tài chính. Nhà nhập khẩu phải kí quỹ một số tiền không nhỏ để mở L/C. Ngoài ra còn một số các loại phí khác như phí mở L/C, phí đàm phán, thương lượng...
- Sức mua của nhà nhập khẩu tăng mà không cần sử dụng hạn mức tín dụng sẵn có.
Lợi ích đối với tổ chức thực hiện bao thanh toán (ngân hàng thương mại):
Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, bên cạnh việc đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất khẩu, các ngân hàng thương mại còn thu đựơc một khoản phí không nhỏ, giúp tăng doanh thu cho ngân hàng. Khoản thu từ hoạt động này xuất phát từ hai nguồn: lãi và phí dịch vụ. Lãi suất trong nghiệp vụ này cao hơn lãi suất thông thường từ 1,5% đến 3%. Các khoản phí mà ngân hàng thu được từ nghiệp vụ này bao gồm: phí dịch vụ trả cho việc thu nợ từ nhà nhập khẩu, chi phí quản lý các khoản phải thu, chi phí quản lý sổ sách... Phí thường từ 0,75% đến 2,5% của doanh thu. Hiện nay có không ít ngân hàng thương mại đang duy trì hình thức cho vay chi phí sản xuất hoặc thu mua hàng hoá và cho vay luân chuyển hàng hoá. Cho vay như vậy làm các doanh nghiêp ỷ lại vào vốn tín dụng của ngân hàng, khiến khi bị rủi ro đối với nhà xuất khẩu do hàng không tiêu thụ được thì ngân hàng sẽ phải chịu chung rủi ro với doanh nghiệp. Trong khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, các ngân hàng cung ứng vốn cho doanh nghiệp tiếp tục chu kì sản xuất sau, ngân hàng thu nợ bằng tiền hàng hoá bán chịu của chu kì sản xuất trước nên mức độ rủi ro về mặt này có thể nói là ít hơn.
Tóm lại, bao thanh toán xuất khẩu đã mở ra một nghiệp vụ tín dụng mới, linh động, đem lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia. Tuy nhiên nghiệp vụ này cũng tiềm ẩn những rủi ro và phức tạp nhất định đòi hỏi tổ chức thực hiện phải nhận thức được, góp phần thực hiện hiệu quả và an toàn nghiệp vụ này.
1.2.4. Rủi ro trong hoạt động Bao thanh toán xuất khẩu
Là một hình thức tài trợ xuất khẩu rất hiệu quả và có nhiều ưu điểm, song hoạt động bao thanh toán xuất khẩu lại tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Điều này đặt ra những thách thức không nhỏ cho các tổ chức thực hiện bao thanh toán trong việc vừa nâng cao được doanh hiệu quả lại vừa đảm bảo an toàn khi thực hiện hoạt động này. Rủi ro trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu có thể xuất có nguyên nhân từ nhiều phía như rủi ro từ người xuất khẩu, từ người nhập khẩu hay từ các tổ chức thực hiện bao thanh toán cũng như các yếu tố khác.
Thứ nhất là rủi ro từ phía người bán. Với nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, nhà xuất khẩu với tư cách là người đi vay vốn và điều kiện đảm bảo cho khoản vay là các khoản phải thu của họ đối với nhà nhập khẩu. Rủi ro từ phía người xuất khẩu thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Một là, rủi ro do chính nhà xuất khẩu cố tình gây ra. Hiện tượng này xảy ra được cũng có nhiều cách và nhiều nguyên nhân của nó. Có thể nhà xuất khẩu vì một mục tiêu nào đó không trung thực trong hoạt động, vì lợi ích của mình họ đã móc nối với một số đối tượng khác để gây rủi ro cho ngân hàng ( tổ chức bao thanh toán). Do họ là người sử dụng hoá đơn, chứng từ mua bán, họ có thể hợp lý hoá chứng từ, tạo ra hợp đồng ma hoặc đội giá hợp đồng... Như vậy khoản mà ngân hàng ứng trước hay chiết khấu cho họ sẽ nhiều hơn mức thực tế hoặc thậm chí là ứng trước cho một hoá đơn ma. Để thực hiện ý đồ trên, đòi hỏi phải có một hệ thống mắt xích cấu kết mới có thể tạo ra được. Người xuất khẩu và người nhập khẩu có thể thông đồng với nhau, tạo ra các chứng từ hợp lý, hợp lệ, tạo khống các khoản phải thu trên giấy tờ mà kì thực là không có.
Hai là rủi ro xảy ra do năng lực yếu kém của nhà xuất khẩu. Nếu chỉ đơn thuần xét năng lực của người xuất khẩu như năng lực quản lý, năng lực điều hành, tạo lợi nhuận, chiến lược phát triển... Vì một lý do nào đó, sản phẩm của bên bán không đủ hoặc không đáp ứng được chất lượng đề ra như trong hợp đồng và như vậy khi sản phẩm được bán ra không đạt yêu cầu làm cho giá trị các khoản phải thu theo hợp đồng mua bán đã kí lại nhỏ hơn giá trị ứng trước của đơn vị bao thanh toán. Đây cũng là mấu chốt căn bản ảnh hưởng đến lợi ích của tổ chức bao thanh toán. Như vậy các khoản phải thu mà tổ chức bao thanh toán đã mua lại là một khoản nợ khó đòi.
Thứ hai là những rủi ro từ nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu ở đây là khách hàng của bên xuất khẩu, nghiệp vụ thu nợ lúc này được chuyển từ người xuất khẩu sang cho tổ chức thực hiện bao thanh toán. Có nghĩa là sau khi các bên kí kết xong hợp đồng bao thanh toán và nhận các hồ sơ cần thiết ( bao gồm các chứng từ mua bán, các hợp đồng mua bán và các hoá đơn), đơn vị bao thanh toán sẽ nhận chuyển giao trách nhiệm thu nợ và chịu rủi ro thay cho nhà xuất khẩu. Từ đây mọi phát sinh được giao dịch chủ yếu giữa hai bên là tổ chức bao thanh toán và nhà nhập khẩu. Cũng từ đây, việc có thu được nợ hay không, nguy cơ rủi ro đến đâu, đến mức nào sẽ được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, năng lực tài chính của nhà nhập khẩu gắn trách nhiệm cao với các tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, vì lúc này rủi ro thuộc về tổ chức bao thanh toán, bất kể là bao thanh toán có truy đòi hay không truy đòi. Khi thực hiện bao thanh toán, bên nhập khẩu hàng sẽ thanh toán cho bên xuất hàng với thời gian tương đối dài, các khoản nợ được gọi là phải thu cũng chưa hẳn là dễ với bên xuất khẩu. Nếu bên nhập khẩu là đơn vị có cán cân tài chính không tốt, nợ phải trả so với vốn chủ và tài sản tương đối cao, trong khi các khoản phải thu của chính bên nhập khẩu cũng lại khó đòi hoặc nhỏ hơn nhiều so với các khoản phải trả của đơn vị này. Khi đó, giả sử các khoản phải trả của nhà nhập khẩu vẫn phải thực hiện nhưng các khoản phải thu trở nên khó đòi, sẽ dẫn đến bên nhập khẩu mất cân đối thanh toán, gây khó khăn cho tổ chức thực hiện bao thanh toán. Đến đây, đơn vị bao thanh toán sẽ vấp phải một loạt vấn đề và phát sinh chi phí, kể cả việc khiếu kiện... làm mất cơ hội hoạt động kinh doanh.
Hai là, rủi ro đạo đức từ phía nhà nhập khẩu. Vì nhà nhập khẩu là bên thứ ba, lại ở một nước cách xa về địa lý, do vậy quá trình tiếp cận với nhà nhập khẩu của tổ chức bao thanh toán sẽ có nhiều hạn chế và không thuận lợi. Việc này có thể do bên nhập khẩu có chủ ý không tốt với bên xuất khẩu như lừa đảo, chiếm đoạt hàng mua, trốn nghĩa vụ trả nợ. Tổ chức tín dụng thực hiện bao thanh toán cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận những rủi ro. Trong hoạt động tín dụng nói chung, rủi ro đạo đức là một rủi ro rất khó lường và thường gây hậu quả lớn, tốn kém cả thời gian và chi phí.
Thứ ba là rủi ro từ tổ chức thực hiện bao thanh toán. Rủi ro này xảy ra do khả năng thẩm định của tổ chức tín dụng còn kém. Dưới góc độ là tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, đòi hỏi tổ chức tín dụng phải thực sự hiểu và giám sát tốt các khoản phải thu của khách hàng. Qua đó, tổ chức tín dụng mới có thể thực hiện tốt vai trò bao thanh toán của mình đối với bên nhập khẩu và bên xuất khẩu. Tuy vậy, việc xem xét đánh giá khách hàng nhập khẩu cũng là cả một quá trình. Nếu thẩm định không tốt thì rủi ro xảy đến là điều tất yếu. Chất lượng thẩm định không tốt có thể do trình độ của cán bộ thẩm định kém, có thể do khách hàng cung cấp những thông tin sai lệch và cũng có thể do ý thức, trách nhiệm của người thẩm định.
Thứ tư là một số rủi ro khác như thiên tai, hoả hoạn, rủi ro về chính sách tỷ giá, rủi ro về chính trị, rủi ro về kinh tế vĩ mô tại nước nhập khẩu khiến nhà nhập khẩu không thể nhập hàng...
Bao thanh toán xuất khẩu có nhiều lợi ích thiết thực, song nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tuy nhiên thực hiện bao thanh toán xuất khẩu là cần thiết. Để thực hiện có hiệu quả cao mà vẫn đạt được mục tiêu an toàn đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định từ phía ngân hàng thương mại cũng như những yếu tố bên ngoài khác.
1.2.5. Điều kiện để ngân hàng thương mại thực hiện Bao thanh toán xuất khẩu
Trong hoạt động ngoại thương có những đặc thù nhất định như:
Thông thường hàng hoá phải di chuyển qua biên giới quốc gia.
áp dụng các phương thức thanh toán quốc tế như : chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ...
Liên quan đến các đồng tiền khác nhau, dẫn đến việc mua bán, chuyển đổi tiền tệ.
Quy tắc giao dịch tuân thủ luật lệ và thông lệ quốc tế, tuy nhiên không loại trừ những luật lệ riêng mang tính quốc gia, đòi hỏi nhà kinh doanh phải am tường.
Thủ tục mua bán mang tính quốc tế là chủ yếu...
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên cùng với những rủi ro trong hoạt động bao thanh toán đã nghiên cứu, để một ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu đảm bảo an toàn và đạt được hiệu quả thì cần phải có được một số điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Những điều kiện chủ quan từ phía các ngân hàng thương mại như sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ hoạt động ngân hàng đối ngoại phải có năng lực chuyên môn và tính chuyên nghiệp cao. Do nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu liên quan đến những đối tượng trên phạm vi thế quốc tế, tại những nước có phong tục tập quán, thông lệ, luật pháp khác nhau vì vậy trong hoạt động cần phải tuân thủ những thông lệ, tập quán quốc tế và luật pháp quốc gia đó. Điều này đòi hỏi cán bộ ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này phải thành thạo ngôn ngữ nghiệp vụ, tinh thông và có sự am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ và những nghiệp vụ liên quan khác đồng thời giàu kinh nghiệm thực tế. Các cán bộ này phải được đào tạo kĩ càng và theo hướng chuyên nghiệp hoá cao. Đội ngũ cán bộ này sẽ góp phần thực hiện tốt nghiệp vụ, tránh được những rủi ro trong nghiệp vụ này.
Thứ hai, ngân hàng phải xây dựng được một chu trình kinh doanh các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khép kín. Do hoạt động bao thanh toán xuất khẩu gắn chặt với hoạt động ngoại thương, hơn nữa một thương vụ thường trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, làm phát sinh thêm những nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tương ứng, phục vụ đắc lực cho nghiệp vụ chính. Những nghiệp vụ này bổ sung làm hoàn thiện hơn hoạt động bao thanh toán xuất khẩu. Điều này thể hiện ở các khía cạnh như: sau khi giao hàng theo điều kiện trả sau, để đáp ứng vốn ngắn hạn cho nhà xuất khẩu duy trì hoạt động bình thường, ngân hàng sẽ tài trợ cho nhà xuất khẩu thông qua bao thanh toán ứng trước hoặc bao thanh toán chiết khấu; thông qua ngân hàng, việc thanh toán giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu được thực hiện dưới phương thức nhờ thu; nếu đồng tiền thanh toán không phải đồng bản tệ thì ngân hàng sẽ cung cấp các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ... Chúng ta cần lưu ý rằng: sẽ không hiệu quả nếu các công đoạn của một thương vụ lại được tách riêng ra để các ngân hàng khác nhau xử lý. Điều này khó chấp nhận xét từ góc độ ngân hàng và các khách hàng. Ví dụ: khi nhà xuất khẩu thu về bằng ngoại tệ, nhưng vì không kinh doanh ngoại hối, buộc nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ tại một ngân hàng khác, làm cho ngân hàng tài trợ thương vụ này bị rủi ro... ở đây có một số vấn đề cần chú ý: Một là, Những khách hàng đứng đắn luôn mong đợi từ ngân hàng một dịch vụ hoàn hảo và hiệu quả. Hai là, chỉ khi ngân hàng cung cấp dịch vụ hoàn hảo thì ngân hàng mới nâng cao được khả năng phòng chống rủi ro và thu hút được nhiều khách hàng truyền thống. Ba là, hoạt động dịch vụ ngân hàng khép kín sẽ tăng được phí dịch vụ và hoa hồng cho ngân hàng. Đây đang là xu hướng hoạt động tích cực của các ngân hàng hiện đại.
Thứ ba, ngân hàng thực hiện bao thanh toán xuất khẩu phải có hệ thống các ngân hàng đại lý rộng khắp, quan hệ chặt chẽ và không ngừng được củng cố. Trong nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, đối tượng bên thứ ba ngoài nhà xuất khẩu được ngân hàng hết sức quan tâm. Nhưng các đối tượng nhập khẩu này lại ở những quốc gia khác nhau, và thật khó để một ngân hàng có thể thẩm định, theo dõi được tình hình của những nhà nhập khẩu này. Do đó sự hỗ trợ của các ngân hàng đại lý với tư cách là tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu là hết sức cần thiết. Để có được một hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp và có uy tín thì quy mô kinh doanh của ngân hàng phải đủ lớn để tạo uy tín trên thương trường, trên cơ sở đó hình thành các mối quan hệ đại lý trong các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Các ngân hàng đại lý ở các nước không chỉ là đối tác kinh doanh quan trọng, mà còn là tai mắt và là nguồn cung cấp thông tin và tư vấn đáng tin cậy về khách hàng ở nước ngoài và các giao dịch khác có liên quan.
Thứ tư, bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng với các cơ quan cung ứng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như các tổ chức bảo hiểm và bảo lãnh, cụ xúc tiến thương mại (nếu có).
Thứ năm, ngân hàng phải được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, hệ thống kĩ thuật và công nghệ hiện đại đáp ứng được các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, bảo đảm thông suốt với hệ thống ngân hàng thế giới và bảo đảm được an toàn trong kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống kĩ thuật này bao gồm: mạng SWIFT, hệ thống vi tính, nối mạng Rueter, máy Fax...
Bên cạnh những điều kiện chủ quan trên, để có thể thực hiện được hiệu quả hoạt động bao thanh toán xuất khẩu còn cần thiết phải có những điều kiện khách quan khác.
Thứ nhất là tín dụng thương mại trong thương mại quốc tế phải phát triển. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng vì bao thanh toán xuất khẩu là việc tổ chức thực hiện mua các khoản phải thu của nhà xuất khẩu, do đó cần thiết phải có sự phát sinh các khoản phải thu để tạo “hàng hoá” cho nghiệp vụ này. Các khoản phải thu phát sinh khi giữa các bên tham gia thanh toán với phương thức trả chậm như: phương thức ghi sổ, nhờ thu trả chậm...
Thứ hai là khách hàng sử dụng dịch vụ phải có được một trình độ nhận thức nhất định. Để ngân hàng triển khai và thực hiện tốt nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, một điều kiện hết sức quan trọng là ở phía các doanh nghiệp xuất khẩu. Họ cần phải có một sự hiểu biết nhất định về thương mại quốc tế, về các hình thức tài trợ dành cho họ. Nếu từ phía khách hàng có thói quen, tâm lý ưa sử dụng những hình thức truyền thống, không muốn thay đổi thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc tiếp cận với đối tượng khách hàng này.
1.2.6. Hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam thời gian qua
Nghịêp vụ bao thanh toán với những đặc điểm ưu việt của nó đã được nhiều ngân hàng bước đầu quan tâm. Để đưa loại hình này vào thực tiễn, ngày 06/09/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động Bao thanh toán của Tổ chức tín dụng và có hiệu lực từ ngày 01/10/2004. Theo đó các tổ chức tín dụng làm cơ sở để thực hiện nghiệp vụ và triển khai linh hoạt tại tổ chức mình với sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Thực tế ở Việt Nam, ngay từ cuối thập kỉ 90 nghiệp vụ này đã được một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam giới thiệu cho các NHTM trong nước và các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam. Đặc biệt chi nhánh ngân hàng Credit Lyonnais (sau này sáp nhập và đổi tên) có chi nhánh tại Hà Nội giới thiệu nghiệp vụ tín dụng người mua hàng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác giới thiệu nghiệp vụ bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Song nghiệp vụ này quá mới mẻ nên chưa được áp dụng. Trong một số năm gần đây nghiệp vụ bao thanh toán bắt đầu thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp và NHTM trong nước. Dịch vụ bao thanh toán xuất hiện ở thị trường Việt Nam từ tháng 4/2005. Đến nay có 11 đơn vị cung cấp dịch vụ này( kể cả bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất khẩu). Chi nhánh các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã triển khai dịch vụ bao thanh toán cả trong nước lẫn xuất khẩu. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài Deutsche Bank của Đức tại Việt Nam cũng đã được NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Sau đó chi nhánh ngân hàng nước ngoài Far East National Bank của Mỹ – FENB cũng được NHNN cấp giấy phép cho thực hiện nghiệp vụ này. Tiếp theo có thể kể đến như chi nhánh Ngân hàng Citibank tại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng UFJ của Nhật Bản... cũng đã thực hiện và bước đầu có những thành công nhất định.
Hiện nay có 4 NHTM Việt Nam là Ngân hàng Ngoại thương (VCB), Ngân hàng á Châu (ACB), Ngân hàng Kĩ thương Việt Nam (Techcombank) và Sài Gòn Thương Tín (Sacombank). Song 4 ngân hàng thương mại của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở dịch vụ bao thanh toán mua bán trong nước. Đơn vị triển khai dịch vụ chính là ACB, với 20 Hợp đồng đã thực hiện và 30 khách hàng tiềm năng. Tới đây 4 đơn vị này sẽ triển khai dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu, nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tránh được những rủi ro khi bán hàng và xoay vòng vốn sản xuất. Bên cạnh các Ngân hàng đã thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, một số ngân hàng khác cũng đã tiến hành tập huấn cho nhân viên của mình nghiệp vụ này để chuẩn bị tiến hành triển khai trong thời gian tới như: NHTM Cổ phần Hàng Hải Việt Nam, Ngân hàng quốc tế VIB... Một số ngân hàng khác cũng đã giới thiệu, tiếp thị và triển khai nghiệp vụ bao thanh toán cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Điều này cho thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam đang rất quan tâm tới nghiệp vụ này. Đến nay vẫn chưa thống kê đầy đủ và tổng hợp, đánh giá kết quả chính xác về tổng doanh số bao thanh toán, tổng hợp số hợp đồng thanh toán đã kí kết. Nhưng qua nhận xét của nhiều ngân hàng, các doanh nghiệp Việt Nam từ chỗ còn ngại thực hiện nghiệp vụ này, thì đã dần dần làm quen và có khá nhiều doanh nghiệp kí hợp đồng, chấp nhận nghiệp vụ bao thanh toán với ngân hàng. Tới đây để hội nhập hơn nữa vào thị trường quốc tế, chắc chắn nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam sẽ phát triển hơn nữa.
Chương ii: khả năng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
2.1. Tổng quan về Eximbank Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Eximbank Hà Nội
Theo quyết định số 140/CT ngày 24/05/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính Phủ, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam ( Eximbank) được thành lập với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, hoạt động với thời hạn 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động. Đây là một trong những ngân hàng cổ phần chuyên doanh về tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng hoạt động chủ yếu là phục vụ sản xuất chế biến hàng xuất nhập khẩu (XNK) và kinh doanh XNK. Vốn pháp định ban đầu của ngân hàng là 100 tỷ VNĐ tương đương 25 triệu USD. Theo giấy phép thành lập, số vốn điều lệ của Ngân hàng được phê chuẩn lần đầu là 50 tỷ đồng. Số vốn điều lệ này đã không ngừng tăng lên cùng với sự lớn mạnh của Eximbank và được thay đổi vào các lần như: lần thứ nhất tăng 75 tỷ đồng; lần thứ hai tăng 125 tỷ đồng; lần thứ ba tăng 50 tỷ đồng; lần thứ tư tăng 200 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ đã góp đến ngày 31 tháng 12 năm 2004 là 500 tỷ đồng Việt Nam. Hiện nay số vốn điều lệ của Ngân hàng là 700 tỷ đồng. Trong năm 2006, Eximbank sẽ tăng vốn điều lệ lên 1200 tỷ đồng để thực hiện lộ trình hội nhập.
Ngân hàng có Trụ sở chính tại số 7 Lê Thị Hồng Gấm, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh và có các Chi nhánh cấp 1 tại Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Nha Trang và Thành phố Hồ Chí Minh.
Là một trong những Chi nhánh lớn của Eximbank, Chi nhánh Hà Nội của Eximbank được thành lập theo quyết định số 195/ EIB / VP ngày 10/08/1992 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHTMCP XNK Việt Nam, đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận bằng văn bản số 002/GCT ngày 22/09/1992 theo giấy phép đặt văn phòng chi nhánh số 0503/GP UBND Thành phố Hà Nội. Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 27/11/1992, địa điểm hiện tại ở 19._.định pháp lý về hoạt động này chưa thống nhất và chặt chẽ. Vì vậy trong một số trường hợp khi xảy ra tranh chấp giữa các bên liên quan, phía Việt Nam với phía nước ngoài cũng như phía Việt Nam với nhau, rất khó có căn cứ để xử lý chính xác. Điều này dẫn đến sự lúng túng cho các chủ thể tham gia mà trước hết là các ngân hàng thương mại.
Thứ hai là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn chưa có sự hiểu biết về nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, nên họ rất e ngại khi quyết định thay đổi hình thức tài trợ và thanh toán đã sử dụng trước đó, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn chưa hề biết đến nghiệp vụ này. Họ không biết được những ưu điểm vượt trội của nghiệp vụ này so với các nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu truyền thống, mà những ưu điểm này sẽ giúp họ không nhỏ trong việc giải quyết vấn đề vốn, giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên một nguyên nhân nữa khiến các doanh nghiệp xuất khẩu chưa thực sự muốn sử dụng dịch vụ này là vì chi phí cho dịch vụ này khá tốn kém đối với nhà xuất khẩu. Chi phí này gồm lãi và phí dịch vụ. Lãi suất này thường cao hơn lãi suất thông thường 1,5% đến 3%. Phí dịch vụ khoảng từ 0,75% đến 2,5% tuỳ thuộc vào tổng doanh số xuất khẩu, giá trị bình quân của mỗi hoá đơn, thời hạn thanh toán, uy tín của nhà nhập khẩu… Tuy nhiên nhà xuất khẩu cũng cần phải hiểu rằng vì đây là một dịch vụ trọn gói nên phí phát sinh từ rất nhiều hoạt động khác như: thu nợ, tìm hiểu nhà nhập khẩu của tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu… Nếu phải tự thực hiện các vấn đề trên, chi phí đối với nhà xuất khẩu có lẽ sẽ còn cao hơn thế.
Thứ ba là các doanh nghiệp Việt Nam còn non trẻ trên thị trường xuất khẩu, thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu. Các doanh nghiệp hầu hết không am hiểu sâu sắc về thị trường quốc tế và các đối tác nước ngoài. Khả năng nắm bắt thông tin đối tác của các doanh nghiệp thấp, chủ yếu thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, lẻ tẻ qua các hội chợ… Việc có thông tin qua những phương tiện hiện đại là hạn chế. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không dám mạo hiểm cho khách hàng “mua chịu” theo phương thức thanh toán trả chậm. Đây là tâm lý chung của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Thậm chí ngay cả khi bán hàng với những điều kiện thanh toán vẫn được xem là an toàn như mở L/C thì đối tác nước ngoài vẫn có thể có những hành vi lừa đảo, lợi dụng… gây rủi ro cho nhà xuất khẩu. Sự thiếu then thông tin thị trường và đối tác là mối lo chính của nhà xuất khẩu khi quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm.
Thứ tư là các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu những cơ sở đảm bảo rủi ro trong thương mại quốc tế. Các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại vẫn chưa bảo đảm rủi ro cho nhà xuất khẩu ở mức cao. Các nghiệp vụ tài trợ chủ yếu là cung ứng vốn thông thường còn rủi ro vẫn do nhà xuất khẩu gánh chịu. Hoạt động chiết khấu mới thực hiện, nhưng cũng mới chỉ ở mức chiết khấu có truy đòi. Mặt khác ở nước ta chưa có tổ chức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cũng như các ngân hàng thương mại tham gia tài trợ xuất khẩu. Điều này khiến các chủ thể trên e dè khi thực hiện các hoạt động như bán hàng trả chậm, chiết khấu miễn truy đòi và gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện bao thanh toán xuất khẩu. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thương trường quốc tế khi các nhà xuất khẩu khác sẵn sàng cho khách hàng của mình mua chịu. Sức ép tăng thời gian mua chịu không chỉ liên quan đến doanh số bán hàng mà thường liên quan đến khoản tín dụng trung, dài hạn cũng như ngắn hạn. Người mua muốn thanh toán sau 30,60 thậm chí là 180 ngày. Bởi vậy, với một nhà cung cấp hàng hoá cùng chủng loại, chất lượng, giá cả… tín dụng thương mại sẽ là một điểm khuyến khích đáng kể so với thanh toán ngay. Các nước nhập khẩu yêu cầu tín dụng thương mại không chỉ với những hàng hoá truyền thống mà với cả những mặt hàng như chè, nguyên liệu, cao su, dệt may là những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển như Việt Nam. Như vậy bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một công cụ cạnh tranh mang tính quốc gia. Việc bồi thường các loại rủi ro khác nhau sẽ khuyến khích nhà sản xuất và nhà xuất khẩu tự tin khi khai thác thị trường mới. Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có tên trên bản đồ các tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, thậm chí chưa có bảo hiểm tín dụng trong nước, trong khi các quốc gia khác đã có các tổ chức này kể cả các quốc gia đang phát triển như nước ta. Điều này làm hạn chế và gây khó khăn cho không những nhà xuất khẩu mà còn cả các ngân hàng thương mại thực hiện tài trợ xuất khẩu và thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng đổi mới để đáp ứng những nhu cầu đa dạng của thị trường. Có thể nói bao thanh toán xuất khẩu là một nghiệp vụ đầy triển vọng đối với các NHTM Việt Nam đặc biệt là Eximbank - một ngân hàng xuất nhập khẩu. Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng phải hội tụ được những điều kiện nhất định. Eximbank Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi cũng như những khó khăn. Vấn đề là ngân hàng cần phải có những giải pháp phù hợp, cụ thể để phát huy tốt những thế mạnh và khắc phục những mặt còn hạn chế, thực hiện thành công và hiệu quả nghiệp vụ mới mẻ này.
Chương III: phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
3.1.Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội thời gian tới
3.1.1.Định hướng xuất khẩu nói chung của Việt Nam giai đoạn 2005-2010
Xuất khẩu và khuyến khích xuất khẩu là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây. Trước xu thế của nền kinh tế thế giới nói chung và thương mại quốc tế nói riêng, khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hội nhập với thương mại toàn cầu và khu vực, Việt Nam cần phải xác định được một chiến lược phát triên kinh tế tổng thể, trong đó có chiến lược phát triển các hoạt động xuất nhập khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế, nước ta đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu. Trong phát triển hoạt động xuất khẩu, một mặt phải đặt toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước vào mục tiêu xuất khẩu ngày càng tăng, đồng thời tận lực khai thác với hiệu quả cao những lợi thế và nguồn lực sẵn có của đất nước mình nhằm tiến tới công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh như nông – lâm – thuỷ sản và sản phẩm công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ… Đa dạng các hình thức xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu kết hợp với củng cố thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng hoá dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, phát triển nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng xuất khẩu có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Phát triển nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước”.
3.1.2. Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội giai đoạn
2006-2010
Trong các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam được đánh giá là một trong những ngân hàng hàng đầu trong cung cấp các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại. Về chiến lược, kế hoạch của Eximbank Việt Nam và chi nhánh Eximbank Hà Nội nói chung là xây dựng Eximbank thành một ngân hàng hiện đại, vừa bán lẻ, vừa bán buôn, đa năng, không ngừng cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới kết hợp với tài trợ xuất nhập khẩu. Với phương châm “ Bán sản phẩm thị trường cần, không phải bán sản phẩm mà Eximbank đang có”, trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng đang tiếp tục chuyển hướng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói chung của Việt Nam. Từ kinh nghiệm những thành công cũng như thất bại của mình, Eximbank chủ trương quản trị và kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn, theo sát từng khoản vay, hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động cho vay.
Trong giai đoạn 2006-2010, căn cứ vào tình hình diễn biến củ nền kinh tế xã hội Việt Nam, mục tiêu của Eximbank đến năm 2010 là:
- Xây dựng Eximbank trở thành một ngân hàng hiện đại ở mức trung bình tiên tiến trong khu vực Đông Nam á, có một nền tài chính lành mạnh, vững chắc, áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến.
- Là ngân hàng có phương thức quản trị điều hành tốt với hệ thống các công cụ phòng chống rủi ro một cách hiệu quả.
- Là ngân hàng có một nguồn nhân lực dồi dào, chuyên môn nghiệp vụ cao.
- Là ngân hàng có chất lượng kinh doanh sản phẩm dịch vụ tốt.
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được như sau:
- Về nguồn vốn: Tăng trưởng hàng năm 20%, đến năm 2010 tổng nguồn vốn đạt trên 1500 tỷ đồng.
- Về tổng dư nợ cho vay: Tăng trưởng hàng năm 15%, đến năm 2010 đạt 1300 tỷ đồng.
- Dư nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ.
- Quan hệ với khách hàng: Số lượng khách hàng mở tài khoản tăng hàng năm 15%.
- Về thanh toán quốc tế: Thanh toán xuất nhập khẩu tăng 15%/năm.
- Kết quả kinh doanh: Lợi nhuận bình quân tăng 10%/năm, đến năm 2010 đạt 35 tỷ đồng ( sau khi trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro).
Từ những định hướng trên, ta thấy, phát triển sản phẩm dịch vụ mới là một trong những mục tiêu chiến lược của Eximbank. Với vai trò là một ngân hàng xuất nhập khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào thực hiện một nghiệp vụ tài trợ xuất khẩu rất tiện ích như Bao thanh toán xuất khẩu là một điều cần thiết, cần sớm được triển khai.
3.2. Phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
Để thực hiện tốt nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu, trước tiên chúng ta hãy xem xét xu hướng vận động và phát triển của dịch vụ này trên thế giới để từ đó có những định hướng cũng như có những bước đi đúng đắn nhất.
3.2.1. Xu hướng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu trên thế giới
Bao thanh toán là một dịch vụ tài chính khá phổ biến trên thế giới suốt 30 năm qua, bắt nguồn từ Mỹ, sau đó lan đến Châu âu và Châu á. Dịch vụ này đang phát triển rất mạnh với doanh số bao thanh toán ngày càng tăng trong hoạt động thương mại cả trong nước và quốc tế.
Bảng 7: Doanh số bao thanh toán của thế giới
Đơn vị: Triệu EUR
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Châu Âu
352.214
414.383
468.326
522.851
546.935
612.504
Châu Mỹ
115.134
126.517
127.157
115.301
104.542
110.094
Châu Phi
5.470
5.655
5.801
6.203
5.840
7.586
Châu á
78.775
69.865
76.078
69.850
89.096
111.614
Châu úc
5.284
7.420
8.320
9.992
13.979
18.417
Tổng số
556.877
623.840
685.682
724.197
760.392
860.215
(Nguồn: Tổ chức Bao thanh toán quốc tế)
Nhận thức được vai trò hết sức quan trọng của Bao thanh toán trong việc phát triển thương mại quốc tế, công ước Unidroit ngày 28/5/1988 và công ước Uncitral tháng 12/2001 về Bao thanh toán quốc tế đã được ký kết. Các quốc gia thành viên của các công ước này đã thống nhất một khung pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho Bao thanh toán quốc tế phát triển, trong khi vẫn đảm bảo quyền lợi hợp lý giữa các bên tham gia. Bao thanh toán đã được thực hiện không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả những nước đang phát triển. ở nhiều quốc gia Châu á, tăng trưởng hoạt động bao thanh toán là rất nhanh trong khi ở Châu Mỹ Latinh, các tổ chức tài chính cũng đang tích cực tham gia vào hoạt động này. Tốc độ tăng trưởng cũng khá cao ở khu vực Châu Âu, vùng Bantic và Trung Đông. Dù chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng khối lượng bao thanh toán trên thế giới, tuy nhiên khu vực Châu á Thái Bình Dương đang được coi là một khu vực đầy tiềm năng ở những thập kỷ tới trên về hoạt động thương mại. Chính vì vậy, các quốc gia trong khu vực này tất yếu sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hoạt động bao thanh toán, trong đó có Việt Nam. Trong hoạt động bao thanh toán thì bao thanh toán quốc tế đang ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, mở ra một nghiệp vụ mới cho các doanh nghiệp xuất khẩu và các tổ chức tài chính, và các ngân hàng thương mại Việt Nam nên nắm bắt xu hướng và cơ hội này.
3.2.2. Giải pháp và kiến nghị
3.2.2.1. Giải pháp
Thứ nhất là nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu. Để có thể thẩm định khách hàng một cách chính xác và hiệu quả, điều quan trọng là những thông tin thu thập được phải chính xác, trung thực. Trên cơ sở các số liệu và thông tin phân tích, ngân hàng phải xây dựng được các chỉ số an toàn phù hợp. Ngân hàng cần phải kiểm tra cẩn thận các khoản phải thu trên các hợp đồng và các sổ phụ, trên các hoá đơn chứng từ và tại tài khoản ở tổ chức tín dụng.Việc thẩm định phải phối hợp mật thiết với tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu, phân tích rõ tình hình tại nước nhập khẩu. Cần phải chọn đối tác uy tín, lâu năm để đảm bảo tránh được rủi ro. Ngân hàng phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn, xây dựng hệ thống thông tin khách hàng để cập nhất tốt nhất tình hình hoạt động của khách hàng nhằm có những kiểm soát chặt chẽ hơn nữa. Tăng cường sự ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia bằng các hình thức bảo đảm. Có rất nhiều hình thức có thể áp dụng. Có thể buộc bên nhập khẩu hoặc xuất khẩu phải có bảo lãnh hoặc tài sản thế chấp.
Ngân hàng phải tăng cường kiểm soát thường xuyên nhằm kịp thời phát hiện những nguy cơ rủi ro. Việc giám sát tính chân thực các giao dịch xuất nhập khẩu là rất quan trọng vì người xuất khẩu và người nhập khẩu có thể thông đồng để tăng giá trị hợp đồng gây thiệt hại cho ngân hàng. Cán bộ ngân hàng phải trực tiếp kiểm tra nắm bắt tình hình sản xuất, các mặt hàng, định giá trị… để xác định chính xác nhất giá trị của hợp đồng bao thanh toán mà ngân hàng quyết định thực hiện.
Hoạt động bao thanh toán xuất khẩu còn khá mới mẻ với cán bộ ngân hàng, vì vậy việc xây dựng quy trình thực hiện cho phù hợp, chặt chẽ, đồng bộ là khá quan trọng. Ngân hàng cần căn cứ quy trình chung của hoạt động bao thanh toán và tình hình các hoạt động liên quan mật thiết như tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ… để có được quy trình thống nhất. Ngân hàng nên tham khảo một số quy trình của các tổ chức uy tín đã thực hiện và thành công. Việc xây dựng quy trình cần gắn kết các hoạt động sao cho chặt chẽ, tiết kiệm thời gian một giao dịch, nhanh chóng cung ứng những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
Thứ hai là giải pháp nâng cao trình độ năng lực của cán bộ ngân hàng trong việc thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Là một nghiệp vụ tương đối mới ở Việt Nam, trong thời kì đầu hoạt động, kinh nghiệm của cán bộ ngân hàng là chưa có hoặc ít. Vì vậy ngân hàng cần phải coi trọng công tác đào tạo để kịp thời bổ sung kiến thức cho cán bộ. Trước hết cần phải phổ biến, tập huấn cho cán bộ ngân hàng về nghiệp vụ này. Việc đào tạo có thể thông qua tổ chức các lớp nói chuyện chuyên đề, mời các chuyên gia sang tập huấn. Cần tận dụng triệt để mối quan hệ ngân hàng đại lý tốt đẹp với một số ngân hàng lớn đã thực hiện nghiệp vụ này thành công, mời chuyên gia của họ sang đào tạo, giới thiệu nghiệp vụ. Ngân hàng cũng cần nắm bắt, tham gia những cuộc hội thảo về hoạt động bao thanh toán tổ chức ở Việt Nam để mở rộng thêm hiểu biết về nghiệp vụ. Chi phí cho việc đào tạo ban đầu sẽ tương đối cao, nhưng hiệu quả của nó lại rất lớn. Từ sự hiểu biết nghiệp vụ, cán bộ ngân hàng sẽ có thể thực hiện tốt nhất, đồng thời có thể cho khách hàng những lời tư vấn bổ ích, giúp khách hàng có những lựa chọn hợp lý cho tài trợ xuất khẩu của mình, đưa nghiệp vụ này dần trở nên gần gũi với khách hàng.
Ngoài việc đào tạo trực tiếp, lãnh đạo và cán bộ ngân hàng cũng cần tìm hiểu, tra cứu thêm thông tin nghiệp vụ bao thanh toán nói chung và bao thanh toán xuất khẩu nói riêng để nâng cao kiến thức, học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm. Có rất nhiều kênh thông tin để tham khảo như qua báo chí, qua sách báo nước ngoài và đặc biệt là những thông tin bổ ích qua mạng Internet. Một số trang Web hữu ích có thể xem xét như:
www.factors-chain.com ( Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế FCI)
- www.factorscan.com
www.businesslink.gov.uk
www.ifgroup.com (International Factors Group)
và nhiều trang bổ ích khác nữa. Qua các thông tin này, ngân hàng có thể nắm bắt những kinh nghiệm về hoạt động này của các ngân hàng nổi tiếng cũng như có những lời tư vấn quý giá khi mới bước vào thực hiện nghiệp vụ.
Thứ ba là nhóm giải pháp Marketing sản phẩm bao thanh toán xuất khẩu của Eximbank Hà Nội. Eximbank cần đẩy mạnh và nâng cao việc tổ chức Marketing trong lĩnh vực bao thanh toán bằng các biện pháp như có chiến lược sản phẩm, có các hình thức quảng cáo, tiếp thị… hợp lý. Đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, bao thanh toán xuất khẩu là quá mới mẻ, họ vẫn quen với những hình thức tài trợ xuất khẩu truyền thống và cũng thường có những tâm lý ngại thay đổi. Việc giới thiệu sản phẩm mới này có thể thông qua các buổi hội thảo, gặp mặt khách hàng, thông qua phương tiện thông tin đại chúng và qua mạng Internet…Trước hết ngân hàng nên hướng vào các khách hàng truyền thống, những người đã có thời gian quan hệ lâu dài với Eximbank Hà Nội, và cũng đã tạo được những uy tín nhất định với ngân hàng. Với đối tượng này, ngân hàng sẽ giảm được nhiều gánh nặng trong thẩm định, hạn chế được những rủi ro. Một đối tượng khách hàng nữa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tham gia hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Đối tượng này đang tạo ra một thị trường rất tiềm năng cho nghiệp vụ này, và đây cũng là đối tượng mà trong những năm gần đây Eximbank Hà Nội đang chủ trương hướng tới. Nghiệp vụ này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tiềm lực đang nhỏ bé, nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên đối với khách hàng này, Ngân hàng cần xem xét kĩ đối tác, nhà nhập khẩu nước ngoài, thị trường nước nhập khẩu. Ngân hàng sẽ tập trung tài trợ cho những mặt hàng có khả năng mở rộng thị trường, thị trường ổn định, ít biến động.
3.2.2.2. Kiến nghị
Kiến nghị Hội sở Trung ương Eximbank Việt Nam
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, trước hết cần phải có sự đi tiên phong của Hội sở Trung ương. Hội sở cần phải thực trước, rút kinh nghiệm để các chi nhánh thực hiện có hiệu quả hơn. Eximbank cần tăng cường củng cố ngày thêm chặt chẽ mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, không ngừng mở rộng thêm mạng lưới này. Trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu, các ngân hàng đại lý sẽ là người trực tiếp thay mặt Eximbank thẩm định tình hình của nhà nhập khẩu, xem xét khả năng thanh toán cũng như tình hình nước nhập khẩu để có được những quyết định đúng đắn trong việc tài trợ. Để có sự giúp đỡ và hỗ trợ Eximbank nên tham gia vào tổ chức bao thanh toán quốc tế (FCI) mà Hội sở sẽ là đại diện thành viên của tổ chức này. Khi tham gia vào tổ chức này, Eximbank sẽ có những lợi ích nhất định như: được truyền đạt những kinh nghiệm, sự hiểu biết không những về nghiệp vụ mà còn về thị trường thế giới; có được sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng đại lý trong tổ chức ở 59 quốc gia; có cơ hội được đào tạo cho cả cán bộ quản lý và nhân viên; được chuẩn hoá về quy trình nghiệp vụ; có được trung gian giải quyết khi có những xung đột giữa các ngân hàng đại lý với nhau… Tuy nhiên việc tham gia vào tổ chức này cũng đòi hỏi ở ngân hàng một số điều kiện nhất định như: phải có vốn tối thiểu 2 triệu USD, có chất lượng quản lý tốt, các thành viên mới phải chứng tỏ sự nhiệt tình của mình thông qua việc tham gia tất cả các sự kiện của FCI, các chương trình đào tạo… phải nộp phí thành viên… Nhìn chung thì Eximbank đều có thể đạt được những điều kiện trên và nếu thành công trong việc gia nhập tổ chức này, việc phát triển bao thanh toán xuất khẩu của Eximbank sẽ được hỗ trợ rất nhiều, đạt được hiệu quả tốt.
Căn cứ vào những quy định của Nhà nước, Hội sở Trung ương cần có những nghiên cứu chi tiết để đưa ra những văn bản hướng dẫn cho các chi nhánh thực hiện. Các văn bản nên tập trung vào hướng dẫn xây dựng quy trình cũng như các vấn đề liên quan đến đảm bảo an toàn trong hoạt động này.
Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến thương mại, ngân hàng, tài chính, tín dụng… tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thực hiện tốt hơn các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu nói riêng. Để triển khai nghiệp vụ này hiệu quả, các tổ chức tín dụng mong muốn Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các hướng dẫn về các quy định trong hoạt động bao thanh toán như: quy định về hạn mức bao thanh toán, gia hạn, chuyển nợ quá hạn, các trường hợp xử lý vi phạm và hậu bao thanh toán, hợp đồng bao thanh toán giữa các bên, cũng như nghĩa vụ cụ thể của các bên khi tham gia nghiệp vụ này. Đồng thời cũng cần quy định rõ ràng hơn sự liên quan giữa các tiêu chuẩn trong quy chế bao thanh toán với các quy chế trong hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Hơn nữa Ngân hàng Nhà nước cần sớm có những quy định riêng cho lĩnh vực thanh toán quốc tế và sớm ban hành Luật hối phiếu để thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng trong việc xử lý các vấn đề phát sinh.
Kiến nghị Chính phủ thành lập Tổ chức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có một vai trò rất lớn trong việc khuyến khích các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Nếu được triển khai, đây sẽ là một công cụ hiệu quả giúp giảm bớt gánh nặng rủi ro cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu. Việc thành lập tổ chức này phải được nghiên cứu kĩ càng và thực hiện theo những bước đi nhất định. Trước hết, cần phải đánh giá được nhu cầu và triển vọng của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Điều này có nghĩa là phải tìm hiểu, phân loại và phân tích cơ cấu thị trường bảo hiểm, hình thức thanh toán, cơ cấu nguồn vốn, khả năng sẵn sàng nguồn vốn của nền kinh tế cũng như các ngân hàng cho hoạt động xuất khẩu. Đồng thời cũng phải nắm rõ chiến lược xuất khẩu hàng hoá trong từng thời kì. Có như vậy mới đánh giá đúng triển vọng phát triển của Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu, Nhà nước nên lựa chọn một loại hình công ty, tổ chức đủ điều kiện để triển khai nghiệp vụ này, không nên vì mục tiêu lợi nhuận. Với tổ chức này, Nhà nước nên cấp vốn và tái bảo hiểm. Về các hình thức bảo hiểm, với mục tiêu trước mắt đẩy mạnh xuất khẩu, trong thời gian đầu, Việt Nam nên thực hiện hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như bảo hiểm cho các nhà xuất khẩu đối với rủi ro chính trị và rủi ro thương mại; bảo hiểm cho ngân hàng thương mại khi thực hiện tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Với đặc thù bảo hiểm tín dụng liên quan chặt chẽ đến nhà nhập khẩu và nước nhập khẩu nên thông tin về các đối tượng trên là vô cùng quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro, quyết định phí bảo hiểm. Dần dần từng bước chúng ta phải tổ chức được các kênh thu thập và xử lý thông tin, sẵn sàng khi tiến hành bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Kiến nghị các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên chủ động tìm hiểu để nắm bắt được một dịch vụ mới và tiện ích như Bao thanh toán xuất khẩu, không nên ngần ngại vì chi phí của dịch vụ này quá cao. Thực chất đây là một dịch vụ trọn gói rất tiện ích với nhà xuất khẩu. Chi phí cao bởi nó gồm chi phí của nhiều dịch vụ tổng hợp. Các doanh nghiệp cũng nên tạo uy tín với ngân hàng bằng việc vay trả đúng và đủ. Có như vậy ngân hàng mới sẵn sàng cung ứng vốn và những dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tìm hiểu thêm những thị trường mới, tiềm năng, ổn định, có hiệu quả với những phương án xuất khẩu chất lượng cao. Khi đó, dịch vụ bao thanh toán sẽ có điều kiện để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều nhất.
Phần III. Kết luận
Hướng tới nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách là mục tiêu của các ngân hàng thương mại nói chung và của Eximbank Hà Nội nói riêng. Với vai trò là một ngân hàng xuất nhập khẩu, khách hàng mục tiêu của Eximbank là các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Dù đã có nhiều hỗ trợ tích cực, song hoạt động tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội vẫn còn chưa đáp ứng được nhiều mặt nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, và cần thiết phải phát triển thêm nhiều dịch vụ mới. Xét thấy bao thanh toán xuất khẩu là một dịch vụ mới với rất nhiều lợi ích, phù hợp với tính năng hoạt động của Eximbank, đề tài xin đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển dịch vụ này tại Eximbank Hà Nội:
Về giải pháp: Ngân hàng cần phải tích cực nâng cao năng lực thẩm định của mình; tiến hành đào tạo, bồi dưỡng thêm nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu cho đội ngũ cán bộ; có những chiến lược Marketing cụ thể trong việc quảng bá cũng như đưa nghiệp vụ mới này vào thực hiện hiệu quả.
Về kiến nghị: Hội sở trung ương Eximbank Việt Nam cần có những nghiên cứu cụ thể để tiên phong thực hiện nghiệp vụ này, đồng thời có những bước chuẩn bị để ra nhập tổ chức bao thanh toán quốc tế; Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các cơ chế chính sách liên quan đến bao thanh toán, tạo cơ sở pháp lý cho ngân hàng thực hiện; Chính phủ cũng nên sớm thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Với những giải pháp và kiến nghị trên, qua đề tài, hy vọng đề tài sẽ góp phần sớm đưa nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu vào thực hiện tại Eximbank Hà Nội, tạo ra một dịch vụ tiện ích hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách tham khảo:
1. Bùi Xuân Lưu, 1997, Giáo trình kinh tế ngoại thương, NXB Giáo dục.
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, 2005, Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương,, NXB Thống kê.
3. TS. Lê Văn Tề, 1994, Nhà quản lý giỏi nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế, NXB Tài chính.
4. GS.TS. Lê Văn Tư,2005, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
Các tạp chí:
1. Đào Thị Quỳnh Anh, 2005, Hệ thống Bảo hiểm tín dụng Nhật Bản -Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 4.
2. Lê Thị Vân Anh, 2006, Xuất khẩu năm 2005: Thành tích rực rỡ nhưng khó khăn còn nhiều, Tạp chí Tài chính, số 1+2.
3. Vũ Đình ánh, 1999, Khúc mắc về tín dụng nhằm thúc đẩy xuất khẩu, Tạp chí Tài chính, số 10.
4. Đào Văn Chung - Nguyễn Thu Hằng, 2005, Bàn về khả năng áp dụng nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu đối với các tổ chức tín dụng, Thị trường tài chính tiền tệ, số 1+2.
5. Đào Văn Chung, 2005, Rủi ro trong hoạt động bao thanh toán và biện pháp phòng ngừa, Thị trường tài chính tiền tệ, số 14.
6. TS. Nguyễn Văn Hà,2004, Phát triển nghiệp vụ Factoring nhằm đa dạng hoá hoạt động của Ngân hàng Việt Nam, Phát triển kinh tế, số 166.
7. Đỗ Quốc Hưng, 2005, Có cần thiết thành lập một tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam hay không, Tạp chí ngân hàng, số 3.
8. Trần Trung Tường, 2005, Nghiệp vụ Bao thanh toán hay nghiệp vụ tín dụng thương mại tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, Thị trường tài chính tiền tệ, số 13.
9. Ths. Quách Tường Vy, 2004, Bao thanh toán - Một kênh hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, Thị trường tài chính tiền tệ, số 10.
8. Văn bản luật:
Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004.
Các trang Web:
1. www.kiemtoan.com.vn
2. www.eximbank.com.vn
3. www.factors-chain.com
4. www.ifgroup.com.
5. www.businesslink.gov.uk.
6. www.factorscan.com.
Phần i: Lời mở đầu 1
Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 1
Phần ii: Nội dung 2
Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 2
1.1. Tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 2
1.1.1. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế 2
1.1.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 5
1.2. Nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu 9
1.2.1. Nghiệp vụ bao thanh toán 9
1.2.2. Vai trò, chức năng và quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 13
1.2.2.1. Vai trò của bao thanh toán xuất khẩu 13
1.2.2.2. Chức năng của Bao thanh toán xuất khẩu 15
1.2.2.3.Quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 19
1.2.3. Những lợi ích của Bao thanh toán xuất khẩu 22
Lợi ích đối với nhà nhập khẩu 24
1.2.4. Rủi ro trong hoạt động Bao thanh toán xuất khẩu 25
1.2.5. Điều kiện để ngân hàng thương mại thực hiện Bao thanh toán xuất khẩu 28
1.2.6. Hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam thời gian qua 32
Chương ii: khả năng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 35
2.1. Tổng quan về Eximbank Hà Nội 35
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Eximbank Hà Nội 35
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu thời gian qua 39
2.1.3. Đánh giá chung về Eximbank Hà Nội 45
2.2. Nhu cầu phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 48
2.2.1. Nhu cầu hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu 48
2.2.1.1. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua 48
2.2.1.2. Nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam 49
2.2.2. Tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội 54
2.2.2.1. Các hình thức tín dụng xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 54
2.2.2.2. Thực trạng tín dụng xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 57
2.3. Đánh giá các điều kiện thực hiện nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 64
2.3.1. Những điều kiện thuận lợi 64
2.3.2. Những điều kiện còn hạn chế và nguyên nhân 67
2.3.2.1. Điều kiện hạn chế 67
2.3.2.2.Nguyên nhân 70
Chương III: phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 76
3.1.Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội thời gian tới 76
3.1.1.Định hướng xuất khẩu nói chung của Việt Nam giai đoạn 2005-2010 76
3.1.2. Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội giai đoạn 77
3.2. Phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 78
3.2.1. Xu hướng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu trên thế giới 78
3.2.2. Giải pháp và kiến nghị 80
3.2.2.1. Giải pháp 80
3.2.2.2. Kiến nghị 83
Phần III. Kết luận 87
Danh mục tài liệu tham khảo 88
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36486.doc