Lời nói đầu
1.Sự cần thiết của đề tài
Trong thế kỷ XXI, xu thế chung của mọi nền kinh tế trên thế giới là hướng tới toàn cầu hoá và quốc tế hoá các thị trường dịch vụ, đưa tăng trưởng dịch vụ lên hàng đầu và trở thành tăng trưởng của ngành “công nghiệp sạch” cho vấn đề phát triển kinh tế và đảm bảo các vấn đề môi trường và xã hội. Sức mạnh của ngành dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng tăng. Vào năm 2001, bình quân ngành dịch vụ chiếm 72% GDP của các nước phát triển, 52% GDP của các nước đang p
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển ngành dịch vụ - Kinh nghiệm Trung Quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển và 57% GDP của các nước CEE. Dịch vụ chiếm 2/3 tổng dòng FDI vào trong những năm 2001 - 2002, đạt bình quân 500 tỷ USD/năm.
Nhận thức được những vai trò và tiềm năng phát triển kinh tế to lớn của lĩnh vực dịch vụ đem lại, ngày 24 tháng 12 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 49/2004/CT-TTg về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 nhằm nâng cao vị trí và vai trò của khu vực dịch vụ. Ngành dịch vụ được xem là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước trong đó tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, kho bãi, chuyển tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bưu chính viễn thông, xây dựng, xuất khẩu lao động... khuyến khích phát triển dịch vụ mới có sức cạnh tranh cao.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài "Phát triển ngành dịch vụ - kinh nghiệm Trung Quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam"
2. Tình hình nghiên cứu
Có rất nhiều nghiên cứu và tài liệu từ trước đến nay đề cập đến vai trò và sự phát triển của ngành dịch vụ của Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Nhưng các tài liệu và nghiên cứu này chủ yếu nghiên cứu dịch vụ dưới góc độ phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ, có công trình nghiên cứu ngành dịch vụ trong quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế hay điều chỉnh cơ cấu kinh tế… Vì vậy, hiện chưa có công trình nào đưa ra một hệ thống hoàn chỉnh những lí luận và dữ liệu thống kê một cách tổng hợp và khái quát về sự ra đời và phát triển của ngành dịch vụ trên thế giới, kinh nghiệm Trung Quốc và thực tiễn ở Việt Nam.
3.Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra được vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong phát triển kinh tế trên thế giới, phân tích đánh giá tiến trình phát triển ngành dịch vụ của Nhật Bản và Trung Quốc và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát triển lĩnh vực dịch vụ nhằm gia nhập WTO. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp góp phần mở cửa và phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tổng quan về ngành dịch vụ cũng như phát triển ngành dịch vụ nhằm đáp ứng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tiến bộ của Trung Quốc và Nhật Bản trên cơ sở đó rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam.
5.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng quát được sử dụng trong đề tài là phương pháp duy vật biện chứng kết hợp duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể là phương pháp thống kê so sánh, dự báo, logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp…
6. Đóng góp của đề tài:
-Hệ thống hoá một cách toàn diện các quan điểm và các lí luận về ngành dịch vụ và vai trò, tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ.
-Đưa ra thực trạng ngành dịch vụ ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát triển lĩnh vực dịch vụ.
-Đưa ra cách đánh giá sát thực về thời cơ và những thách thức khi phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam đồng thời đề xuất những kiến nghị có tính chất định hướng nhằm cải thiện môi trường pháp lý, phát triển ngành công nghệ dịch vụ ở Việt Nam
7.Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Khoá luận tốt nghiệp có 4 chương:
Chương1: Tổng quan về ngành dịch vụ và sự phát triển của ngành dịch vụ
Chương 2: Phát triển dịch vụ ở Trung Quốc – bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng ngành dịch vụ ở Việt Nam
Chương 4: Một số giải pháp phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam
Chương 1
Tổng quan về ngành dịch vụ và
sự phát triển của ngành dịch vụ
1.1.Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ
Theo Các Mác, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nên dịch vụ với tư cách là sản phẩm cũng là một loại hàng hoá và có thể hiểu dịch vụ là giá trị và giá trị sử dụng.
Vào những thập niên 1930 của thế kỷ XX, Allan Fisher và Collin Clark là những người đầu tiên đề xuất chia nền kinh tế thành 3 lĩnh vực: lĩnh vực một bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, lĩnh vực hai bao gồm công nghiệp, và lĩnh vực ba là những hoạt động kinh tế đặc biệt không được liệt kê vào lĩnh vực một và lĩnh vực hai. Như vậy ngay cả đến tên gọi của lĩnh vực dịch vụ cũng còn chưa xuất hiện và người ta chỉ hiểu nó như là một phần dôi ra của nền kinh tế khi mà lĩnh vực sản xuất chế tạo được hiểu như nền tảng của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Năm 1977, khi vai trò của ngành dịch vụ ngày càng tăng và nhu cầu dịch vụ trở nên nhiều hơn, T.P. Hill đã cố gắng đưa ra định nghĩa về dịch vụ như sau “Dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng hoá thuộc về sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”. Song định nghĩa này còn nhiều thiếu sót và chưa đáp ứng được tính chất trừu tượng và sự vận động không ngừng của lĩnh vực dịch vụ.
Cho đến nay chưa có một định nghĩa về dịch vụ được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch vụ làm cho việc định nghĩa dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa, các quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Trong việc đưa ra khái niệm dịch vụ, có một số quan điểm sau:
-Theo Pocket Oxford Dictionary “công nghệ dịch vụ” được định nghĩa là ngành cung cấp thứ gì đó vô hình dạng” để phân biệt “ngành công nghệ sản xuất” là “ngành cung cấp các loại hàng hoá cụ thể sờ thấy được”
-Theo nghĩa rộng: dịch vụ bao gồm tất cả các hoạt động mà kết quả của nó thể hiện dưới dạng vật chất. Các hoạt động dịch vụ bao gồm tất cả các lĩnh vực ở mức độ cao, có tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ hoặc một quốc gia hoặc vùng. Các hoạt động này không chỉ hạn chế trong một lĩnh vực cụ thể như giao thông, du lịch, thương mại, ngân hàng bưu chính viễn thông, bảo hiểm mà còn bao gồm cả môi trường, văn hoá, hành chính, tư vấn pháp lý và tư vấn tình cảm.
-Theo nghĩa hẹp: dịch vụ bao gồm việc làm việc cho một người khác hoặc một cộng đồng nhằm làm thoả mãn một số nhu cầu của con ngưòi như đi lại, cung cấp nước, sửa chữa và bảo dưỡng máy móc, thiết bị hoặc các công trình.
-GATS đưa ra khái niệm Dịch vụ bằng cách liệt kê dịch vụ thành 12 ngành lớn và 155 phân ngành khác nhau.
Nhưng chúng ta có thể hiểu dịch vụ bằng cách tìm ra các đặc điểm nổi bật và khác biệt của dịch vụ so với hàng hoá. Có bốn đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, dịch vụ mang tính vô hình. Tính vô hình của dịch vụ thể hiện ở chỗ dịch vụ “là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn” Liberalizing international Transactions in Services, tr.1
. Quá trình sản xuất hàng hóa tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hoá học,... nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Khác với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật phẩm cụ thể, không nhìn thấy được và do đó không thể xác định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa.
Thứ hai, quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng hóa tách khỏi lưu thông và tiêu dùng. Do đó hàng hóa có thể được lưu kho để dự trữ, có thể vận chuyển đi nơi khác theo nhu cầu của thị trường. Khác với hàng hóa, quá trình cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ. Thí dụ với dịch vụ tư vấn đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư tư vấn khách hàng cũng là lúc khách hàng tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn do người chuyên gia này cung ứng.
Thứ ba, không thể lưu trữ được dịch vụ. Sự khác biệt này là do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng.
Thứ tư, dịch vụ có tính đa chủng: tính đa chủng của dịch vụ có nghĩa là mỗi sản phẩm dịch vụ đều khác với những sản phẩm dịch vụ được tạo ra trước đó. Điều này xảy ra khi quy trình sản xuất cho mỗi khách hàng đều khác nhau vì mỗi khách hàng phản ứng hay hoạt động theo một cách riêng, mỗi tương tác giữa khách hàng và người cung cấp dịch vụ trong một chừng mực nào đó là độc nhất. Đây là kết quả của tính giao tiếp cao với khách hàng của sản phẩm dịch vụ.
Hộp 1. Ví dụ về sự tương phản của ngành hoạt động dịch vụ và hoạt động sản xuất
Các hoạt động sản xuất
Tiền sảnh
Hậu đường
Khách hàng
Hàng hoá gởi đến khách hàng
Bán hàng và tiếp thị
Sản xuất
Các hoạt động điều hành
Các hoạt động dịch vụ
Khách hàng đến doanh nghiệp
Tiền sảnh
Hậu đường
Khách hàng
Dịch vụ đến khách hàng
Tiếp thị
Hoạt động điều hành
Hoạt động điều hành
Vậy ta có thể đi đến kết luận về khái niệm dịch vụ như sau:
“Dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, nhằm thoả mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn các nhu cầu trong sản xuất và đời sống con người.”
1.2. Các loại hình dịch vụ
Có nhiều cách phân loại dịch vụ đã được đưa ra. Những cách này có những góc nhìn khác nhau về loại dịch vụ được cung cấp và xác định những tương đồng hay khác biệt được sử dụng trong việc phân loại các dịch vụ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả của ngành dịch vụ theo những tiêu chí cụ thể.
*GATT chia dịch vụ làm 12 phân ngành lớn là: dịch vụ kinh doanh, dịch vụ liên lạc, dịch vụ xây dựng và thi công, dịch vụ phân phối, dịch vụ giáo dục, dịch vụ môi trường, dịch vụ tài chính, dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và dịch vụ xã hội, các dịch vụ giải trí và thể thao, dịch vụ vận tải, dịch vụ khác.
*Văn phòng đánh giá kỹ thuật ở Washington D.C đưa ra một trong những cách phân loại đơn giản nhất như sau:
Hộp 2. Phân loại các dịch vụ của Văn phòng Đánh giá Kỹ thuật ở Washington
Dịch vụ cho người sản xuất
Dịch vụ tài chính: Ngân hàng, bảo hiểm, cho thuê tài chính…
Vận chuyển và phân phối: Biển, đường sắt, xe tải, hàng không, buôn sỉ, kho vận, phân phối…
Công nghiệp và kỹ thuật: Hợp đồng đặc quyền và bán buôn, dịch vụ thiết kế máy, thiết kế kiến trúc, đấu thầu xây dựng, những dịch vụ quản lý khác, kế toán
Những dịch vụ trung gian khác: vi tính, xử lý dữ liệu, truyền thông, quảng cáo, địa ốc, du lịch, an ninh, bưu phẩm…
Dịch vụ cho khách hàng
Buôn lẻ
Chăm sóc y tế
Du lịch, giải trí
Giáo dục
Những dịch vụ xã hội khác (bao gồm cả dịch vụ công)
Những dịch vụ cá nhân khác (nhà hàng, tiệm giặt,…)
*Cán cân thanh toán của Việt Nam hiện có 6 loại dịch vụ là: vận tải đường biển và đường hàng không, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, ngân hàng, du lịch, và dịch vụ khác.
*Theo tiêu chí phân loại của Riddle ghi nhận những ngành dịch vụ với vai trò là yếu tố đầu vào quan trọng cho xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh thì ngành dịch vụ bao gồm:
-Những ngành dịch vụ truyền thống (dịch vụ hạ tầng cơ sở) như giao thông vận tải, tài chính, bảo hiểm… đóng vai trò làm những nhân tố đầu vào hỗ trợ chính thức cho kinh doanh.
-Những ngành dịch vụ gắn liền với công nghệ hiện đại có tác động mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế hiện nay là : dịch vụ viễn thông, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ vi tính, dịch vụ giáo dục đào tạo.
1.3.Tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển ngành dịch vụ
Các xã hội sơ khai sống nhờ canh tác sinh tồn và đổi hàng lấy hàng đều không có nhu cầu, hoặc rất ít cho dịch vụ. Trong nền kinh tế tự cung tự cấp hoạt động dịch vụ thường mang tính tự phát, các hoạt động dịch vụ chỉ là hoạt động tự phục vụ. Dịch vụ hỗ trợ sản xuất còn ở mức sơ khai, dịch vụ cho nhu cầu cá nhân được thực hiện chủ yếu trong phạm vi gia đình. Khi nền kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của con người thì dịch vụ phát triển. Và đặc biệt từ khi có cuộc cách mạng công nghiệp thì nhu cầu dịch vụ phát triển và mở rộng rất nhanh. Ví dụ, quá trình công nghiệp hoá và chuyên môn hoá xã hội làm nảy sinh nhu cầu cho dịch vụ vận chuyển. Tiếp theo đó là các nhu cầu về dịch vụ tài chính và bảo hiểm ,... ra đời.
Thông thường các quốc gia trên thế giới trải qua các giai đoạn thăng tiến phát triển sau:
-Giai đoạn l: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ
-Giai đoạn 2: Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ
-Giai đoạn 3: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp
-Giai đoạn 4: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp
Xu thế chung của cơ cấu kinh tế của các quốc gia trên thế giới là tỷ trọng ngành nông nghiệp không ngừng thu nhỏ lại, tỷ trọng ngành công nghiệp từ mở rộng đi đến thu nhỏ, tỷ trọng ngành dịch vụ thì không ngừng mở rộng. Như vậy, tỷ trọng những ngành kinh tế sản xuất vật chất như công nghiệp, nông nghiệp ngày càng thấp trong khi tỷ trọng của những ngành kinh tế dịch vụ ngày càng cao. Nhưng xu thế đó không phải là tuyệt đối và vô hạn mà là tương đối và có điều kiện:
-Việc giảm tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp phải có tiền đề là năng suất lao động những ngành kinh tế sản xuất vật chất được nâng cao mạnh mẽ nhằm phục vụ xã hội công nghiệp phát triển, có thể đảm bảo những nhu cầu sống cơ bản của con người với chất lượng cao.
-Tỷ trọng ngành dịch vụ nâng cao phải được xây dựng trên cơ sở một nền kinh tế sản xuất vật chất phát triển mạnh
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nền kinh tế, năng lực sáng tạo cái mới của khoa học kỹ thuật là có hạn và sự đóng góp của kỹ thuật trong quá trình sản xuất xã hội ở vào thời kỳ đó chỉ giữ vai trò thứ yếu. Sự đóng góp của các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, vốn, sức lao động, ... là nguồn gốc tăng trưởng kinh tế. Những yếu tố này trở thành những yếu tố đầu vào quan trọng cho ngành công nghiệp và nông nghiệp là những ngành lấy sản phẩm trực tiếp từ tự nhiên và chế biến sản phẩm tự nhiên. Do vậy, trong những giai đoạn đầu ngành chủ đạo hay trụ cột của sự phát triển kinh tế là nông nghiệp và công nghiệp. Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, việc tăng cường đầu tư vào nghiên cứu phát triển khoa học, tổ chức quản lý, vận hành,... ngày càng được chú trọng và nâng cao chưa từng thấy trong quá trình sản xuất, công cụ lao động và đối tượng lao động đã thay đổi nội dung truyền thống của nó, hàm lượng khoa học kỹ thuật, công nghệ và thông tin tăng lên rất nhiều, tính di chuyển của sức sản xuất mạnh. Thích ứng với xức sản xuất có hàm lượng thông tin cao và có tính di chuyển mạnh, phương thức tổ chức và cơ cấu của nền kinh tế cũng nảy sinh những thay đổi tương ứng, đầu vào của các yếu tố sản xuất và sự phân bổ các ngành nghề này càng nghiêng về các ngành công nghệ mới và ngành dịch vụ, khiến cho tỷ trọng của các ngành nghề đó trong cơ cấu kinh tế tăng lên vô cùng mạnh mẽ.
Như vậy, sự mở rộng ngành dịch vụ phải được xây dựng trên cơ sở nâng cao năng suất lao động của lĩnh vực sản xuất vật chất. Năng suất lao động tương đối cao của công nghiệp và nông nghiệp, dùng một số lượng lao động hạn chế nào đó để làm ra nhiều sản phẩm đã tạo cho sự phát triển của ngành dịch vụ có một cơ sở vững chắc, thu hút mạnh mẽ sức lao động từ lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp di chuyển đến, tăng nhanh tốc độ phát triển của nó cũng như tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy, những biến động về cơ cấu kinh tế hình thành do các ngành trực tiếp sản xuất vật chất giải phóng vốn và sức lao động, còn ngành dịch vụ thì không ngừng thu hút người và vốn mới khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng lên. Nhờ khả năng cung cấp và phục vụ nên nó có tác động ngược trở lại lĩnh vực sản xuất vật chất, thúc đẩy các ngành công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao về chất, tăng mạnh về lượng, làm cho lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng hiện đại hoá.
Trước chiến tranh thế giới thứ II, các nước phát triển trên thế giới về cơ bản đã hoàn thành quá trình “phi nông nghiệp hoá” và “công nghiệp hoá” cơ cấu ngành khiến tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm và tỷ trọng của ngành công nghiệp tăng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do sự phát triển của cuộc Cách mạng Khoa học - Công nghệ, cơ cấu ngành ở các nước công nghiệp phát triển lại xuất hiện xu thế biến động mới. Tỷ trọng lao động trực tiếp sản xuất trong nội bộ các ngành giảm, tỷ trọng lao động trí óc, phục vụ điều tra tỷ trọng, triển khai kỹ thuật, phỏng vấn, quảng cáo,... tăng khiến tỷ trọng giữa các ngành nghiêng về dịch vụ và ngành dịch vụ được trang bị kỹ thuật cao và lượng thông tin lớn có vai trò ngày càng tăng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, ngành dịch vụ đã trở thành lĩnh vực vô cùng quan trọng có giá trị sản phẩm cao nhất và tạo nhiều công ăn việc làm nhất.
Hoạt động của dịch vụ không chỉ được coi như là “ chất kết dính và xúc tác” mà còn được xem như là “đòn bẩy” tạo bước đột phá cho nền kinh tế, đặc biệt là trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. ở một số nước đang phát triển, các ngành dịch vụ hiện đại rất kém phát triển, không những thế, họ còn xem trọng sản xuất hơn dịch vụ và có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất, kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất là quan trọng và không ai phủ nhận vai trò của nó nhưng tầm quan trọng của nó không thể lấn át dịch vụ. Nếu ta tập trung đầu tư vào sản xuất thép, xi măng… nhưng không đầu tư thích đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn… thì sản xuất thép, xi măng sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu thị trường… Một nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào sản xuất thì khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vay vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt… Do vậy, nhà đầu tư nước ngoài sẽ nản lòng và từ bỏ ý định đầu tư vào nước đó. Môi trường dịch vụ hoạt động kém là một trở ngại lớn đối với nhà đầu tư từ các nước phát triển vì họ đang quen với môi trường đầu tư có hoạt động dịch vụ rất tốt.
Nhằm đáp ứng sự phát triển nhảy vọt của sức sản xuất cũng như sức tiêu dùng của xã hội, hệ thống dịch vụ không còn thụ động như trước đây mà phát triển một cách chủ động và tích cực. Tính linh hoạt và năng động của cơ chế thị trường đã làm thay đổi các hoạt động dịch vụ truyền thống, đồng thời làm nảy sinh nhiều loại hình dịch vụ mới. Cơ chế thị trường cũng đặt tất cả các hoạt động dịch vụ vào môi trường cạnh tranh sôi động, khiến các ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng cả bề rộng lẫn chiều sâu, trên cơ sở cải tiến kỹ thuật và phong cách phục vụ văn minh.
Nếu như trước đây, sự phân biệt rạch ròi giữa ba ngành là tương đối rõ ràng thì ngày nay ranh giới giữa chúng ngày càng mờ nhạt. Đó là vì nền sản xuất hiện đại với hiệu quả kinh tế cao, đã chú ý nhiều đến việc sáng tạo ra cái mới, chất lượng và mạo hiểm, những hoạt động dịch vụ thích ứng với điều đó như nghiên cứu khoa học, đào tạo, điều tra, nghiên cứu,… tăng lên, một số hoạt động hình thành nên những ngành nghề mới độc lập, một số nằm trong nội bộ ngành hay xí nghiệp, những mạng lưới dịch vụ thông tin nhiều tầng nấc đó không đơn thuần là đối tượng dịch vụ, phương thức và nội dung dịch vụ nữa thường rất khó phân biệt chúng thuộc ngành nào. Lại thêm cách kinh doanh kiểu nhà máy của nông nghiệp và dịch vụ cùng phương châm đa dạng hoá kinh doanh của các công ty khiến ranh giới giữa các ngành ngày càng lu mờ. Ví dụ, trong phân loại tiêu chuẩn ngành nghề ở Mỹ, các ngành cấp nước, điện, khí đốt ban đầu thuộc công nghiệp, sau chuyển thành dịch vụ, …
Tầm quan trọng của khu vực dịch vụ tại bất cứ quốc gia nào đều một phần tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển kinh tế đương thời. Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, trình tự về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không nhất thiết phải lần lượt trải qua từng giai đoạn nêu trên. Thực tế cho thấy nhiều nước đã bỏ qua hoặc đi xuyên qua một hay hai giai đoạn và họ đã thành công. Đó là các nước Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan. Ngày nay, nhiều nước đã đặt ngành dịch vụ vào vị trí hàng đầu, là mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình.
1.4. Vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại
Phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư. Khi mức thu nhập, mức sống càng cao, nhu cầu về các loại dịch vụ của dân cư càng lớn. Phát triển dịch vụ còn nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
Quá trình toàn cầu hóa các thị trường thế giới hiện nay chủ yếu xuất phát từ quá trình quốc tế hóa ngành dịch vụ. Mặc dù đối với các nhà hoạch định chính sách, dịch vụ mang tính “vô hình” nhưng nó lại đóng vai trò hết sức quan trọng để thúc đẩy mọi mặt của hoạt động của nền kinh tế.
-Tăng trưởng của ngành dịch vụ vẫn tiếp tục dẫn đầu trong nền kinh tế.
Một phần là do công nghệ thông tin và viễn thông phát triển nhanh chóng hỗ trợ cho cung ứng dịch vụ. Xét từ khía cạnh môi trường, dịch vụ được coi là ngành công nghiệp “sạch”. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ không cần lượng vốn ban đầu quá lớn và vì vậy kể cả cá nhân với số vốn không nhiều cũng có thể thành lập doanh nghiệp cung ứng dịch vụ. Đi đôi với việc đảm bảo đáp ứng kịp nhu cầu dịch vụ ngày càng lớn, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cũng góp phần chính yếu tạo công ăn việc làm mới - hơn 90% việc làm mới trên toàn cầu, kể từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX là từ khu vực dịch vụ. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ so với toàn bộ lực lượng lao động chiếm khoảng 60 - 70%. Chẳng hạn tính đến cuối năm 2002, ngành du lịch tạo và việc làm cho khoảng 204 triệu lao động trên toàn thế giới, chiếm 10,6% lực lượng lao động thế giới. Đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các nền kinh tế đang phát triển, các công ty dịch vụ đã tạo ra việc làm phù hợp cho những sinh viên tốt nghiệp đại học (nhờ đó ngăn chặn tình trạng “chảy máu” chất xám ở những nước kém phát triển) đồng thời cho cả những người chỉ mới tốt nghiệp phổ thông vốn rất khó tìm được việc làm, nhất là phụ nữ.
Ngay cả ở những nước kém phát triển nhất, các ngành dịch vụ cũng đóng góp không dưới 35% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trung bình trên 50% ở hầu hết các nước. Nhiều nền kinh tế xem qua tưởng là sản xuất nhưng thực ra dịch vụ mới là ngành chủ đạo, bởi giá trị mà nó tạo ra chiếm tới hơn một nửa GDP, như ở các nước phát triển bình quân ngành dịch vụ chiếm 72% GDP: Đức (72%), Hồng Kông (89%), Singapore (72%) và Mỹ (76%). Hơn nữa, kể cả trong sản xuất hàng hóa, các đầu vào dịch vụ cũng chiếm phần lớn trong trị giá gia tăng (tới 70%).
-Tổng tỷ trọng và giá trị thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng tăng
Đến năm 1996, thương mại dịch vụ thế giới đã vượt qua con số 1,3 nghìn tỷ USD với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm bằng hoặc cao hơn tốc độ tăng của thương mại hàng hóa. Tổng giá trị thương mại dịch vụ những năm đầu thế kỷ 21 đã tăng gấp 4 lần so với tổng giá trị thương mại dịch vụ năm 1980. Giá trị thương mại dịch vụ năm 2002 đạt 2.900 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị thương mại thế giới. Tính chung cả giai đoạn 1980 – 2002, hàng năm thương mại dịch vụ trên thế giới tăng trung bình 9%, cao hơn tốc độ 6% của thương mại hàng hoá. Về đầu tư, FDI vào khu vực dịch vụ chiếm khoảng 24% trong tổng FDI năm 1970, đến năm 1990 chiếm 50%, đến năm 2002 tỷ lệ này tăng lên hơn 60% giá trị đầu tư trực tiếp nước ngoài và đạt bình quân 500 tỷ USD/năm trong giai đoạn từ năm 2000 – 2004. Trong khi đó FDI toàn cầu giảm liên tục từ năm 2000 đạt 1400 tỷ, giảm 41% năm 2001, 20,5% năm 2002 và 25% năm 2003 và chỉ phục hồi vào năm 2004 với mức 755 tỷ. Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản là những nước có sức mạnh cạnh tranh lớn trong các lĩnh vực như tài chính, viễn thông, vận tải… và các nước này đang tăng cường vị trí của mình trong thương mại dịch vụ nhiều hơn là thương mại hàng hoá.
Thị phần trong thương mại dịch vụ thế giới của các nước đang phát triển và đang chuyển đổi ngày càng tăng, trong đó tăng nhanh nhất là xuất khẩu “những dịch vụ khác”, như dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ nghề nghiệp, viễn thông, xây dựng, dịch vụ tài chính, dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế …
*Về những lĩnh vực dịch vụ cụ thể:
Dịch vụ cơ sở hạ tầng: Những dịch vụ hạ tầng cơ sở (như dịch vụ công ích, xây dựng, vận tải, viễn thông, dịch vụ tài chính,...) có tác dụng hỗ trợ cho tất cả các loại hình kinh doanh. Trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ thì dịch vụ hạ tầng là dịch vụ đầu vào quan trọng nhất cho toàn bộ lĩnh vực dịch vụ và tổng thể nền kinh tế quốc dân. Phát triển được các dịch vụ hạ tầng sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh cho các ngành dịch vụ khác và nền kinh tế.
Dịch vụ tài chính bao gồm hệ thống ngân hàng thương mại, hệ thống ngân hàng đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, các thị trường chứng khoán xuyên quốc gia, các sàn giao dịch mua bán hàng hoá và các “sản phẩm tài chính” đủ loại…
Dịch vụ tài chính là huyết mạch nuôi sống và phát triển nền kinh tế, từ sản xuất đến phân phối và tiêu thụ. Dịch vụ tài chính huy động nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, chuyển dòng vốn từ nơi hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao, tạo ra điều kiện vật chất cho mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế, giải quyết mọi nhu cầu về vốn, điều tiết các hoạt động kinh tế. Sự phát triển của dịch vụ tài chính thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. áp suất của huyết mạch tài chính báo hiệu cho “sức khoẻ" của nền kinh tế. ở Mỹ và một số nước phát triển trên thế giới, hệ thống tín dụng cho các cơ quan quản lý nhà nước (qua việc cung ứng cho quốc phòng, an ninh, tư pháp, giáo dục, y tế…), các xí nghiệp (qua việc mua bán nguyên liệu sản xuất, trang thiết bị, dự trữ tồn kho) và tư nhân (qua việc mua sắm hàng tiêu dùng hàng ngày, xe ôtô, nhà ở, thiết bị nội thất..) đặc biệt phát triển. Nhờ chính hệ thống tín dụng rất tốt mà nền kinh tế Mỹ mới có thể phát triển như hiện nay. Qua những chương trình lợi ích công cộng nước Mỹ đã phát triển mạnh nhờ sức “tiêu thụ” lớn của nhà nước. Và nhà nước đã được cung cấp phương tiện để “tiêu thụ” qua các hệ thống tài chính phát hành trái phiếu và huy động tín dụng trong nhân dân. Có thể nói là đại đa số người Mỹ đều vay tiền với thời hạn từ 10 năm đến 30 năm để mua nhà ở. Đa số người Mỹ mua xe ôtô, tivi, tủ lạnh, máy giặt v.v… đều vay tín dụng từ 2 năm đến 5 năm. Thậm chí có nhiều người Mỹ mua quần áo, thời trang với tiền vay từ 3 tháng đến 6 tháng. Các cửa hàng còn quảng cáo rao bán hàng tiêu dùng với khẩu hiệu: “Giao hàng ngay, chỉ trả tiền sau 3 tháng”.
Các thị trường tài chính khác trên thế giới, ít nhiều đều mô phỏng theo thị trường tài chính Mỹ. Thêm vào đó thị trường tài chính thế giới hoạt động không ngừng suốt 24/24 giờ. Theo chiều quay của mặt trời, mỗi ngày thị trường Tokyo mở cửa hoạt động trước tiên, rồi đến Sydney, Hong Kong, Seoul, Shanghai, Singapore, Thái Lan, Malaysia … Bombay, Moscow, Berlin, Paris, London … vượt qua Đại Tây Dương đến Mỹ, Canada … không lúc nào ngừng hoạt động.
-Dịch vụ viễn thông. Đây là một dịch vụ công cộng cơ bản cho mọi nền kinh tế, và là “xa lộ” để qua đó thực hiện phần lớn những trao đổi dịch vụ. Khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế quốc gia phụ thuộc nhiều vào khả năng có thể truy nhập vào các mạng viễn thông một cách nhanh chóng, dễ dàng và không quá tốn kém. Tốc độ và hiệu quả trao đổi thông tin không chỉ ảnh hưởng tới tất cả những giao dịch kinh doanh, mà mạng lưới viễn thông hiện đại cũng thúc đẩy cho ba nội dung chuyển dịch quan trọng trong cơ cấu ngành:
a) Những dịch vụ cơ bản như y tế và giáo dục có thể được cung cấp dưới hình thức “y tế từ xa” và “giáo dục từ xa”, nhờ đó có thể cung cấp các dịch vụ chuyên môn có chất lượng cao tới những vùng dân cư xa xôi hẻo lánh nhất nhằm thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa các nền kinh tế phát triển với các nền kinh tế đang phát triển, đồng thời tạo điều kiện để dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa cũng được sử dụng các dịch vụ.
b) Khả năng có những cơ cấu lao động phân tán (“làm việc từ xa”), cho phép con người có thể làm việc cho những tổ chức lớn từ những cộng đồng nhỏ. Xu hướng này rất quan trọng để duy trì và bảo vệ các cộng đồng ở vùng xa (và nhờ vậy giảm áp lực về dân số ở những vùng đô thị lớn) thông qua tăng thêm khả năng lựa chọn việc làm.
c) Sự hình thành những hoạt động “hậu văn phòng” gắn với việc làm kỹ năng cao là một giải pháp góp phần hạn chế di dân.
Hiện nay, sự liên kết giữa viễn thông với dịch vụ vi tính đã cho phép các công ty sử dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả để hợp tác với các đối tác chiến lược của mình tại một nước khác và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia một cách nhanh chóng. Do quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định Chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS) và các hiệp định tự do thương mại khu vực, các công ty kinh doanh dịch vụ ở tất cả các nền kinh tế đang phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng. Để tồn tại và thành công trong một nền kinh tế toàn cầu, nhu cầu thiết yếu của mọi cộng đồng kinh doanh nào là có thể truy nhập mạng Internet với giá rẻ, tốc độ cao. Lần đầu tiên Internet đã tạo ra một “sân chơi thực sự bình đẳng” cho cuộc cạnh tranh giữa các công ty cung ứng dịch vụ vừa và nhỏ thuộc những nước đang phát triển và các công ty cung cấp dịch vụ lớn xuyên quốc gia. Ngược lại, vì ngày càng có nhiều người tiêu dùng dịch vụ đến với Internet hơn để tìm kiếm thông tin về những dịch vụ sẵn có trên thế giới và mua những dịch vụ ấy cho nên những công ty không có điều kiện truy nhập hiệu quả vào mạng Internet sẽ có nguy cơ bị đào thải.
Một trong những khác biệt có tính cạnh tranh trực tiếp nhất là cước viễn thông quốc tế, nó rất quan trọng và thường là đầu vào tốn kém đối với các công ty cung cấp dịch vụ. Điện thoại Internet cho phép cung cấp những dịch vụ fax và điện thoại quốc tế với cước phí rẻ ngang bằng gọi nội hạt (do sử dụng tốt hơn độ rộng băng tần). Một khác biệt nữa là khả năng môi giới dịch vụ, với khả năng này mạng Internet đang xoá bỏ nhiều chức năng trung gian (các nhà phân phối, bán buôn, và trong một số trường hợp thậm chí cả bán lẻ) và hỗ trợ khách hàng tự phục vụ trên mạng. Đồng thời một loạt những hoạt động kinh doanh mới đang nổi lên (thiết kế và trang trí trang web, cung cấp dịch vụ truy nhập Int._.ernet, thúc đẩy thương mại điện tử, v.v..) và đây chính là những cơ hội cạnh tranh cho các công ty của các nước đang phát triển.
Các công ty kinh doanh dịch vụ đang tích cực sử dụng Internet để có thể dễ dàng trao đổi với khách hàng và các đối tác chiến lược của mình; để tìm kiếm và tham gia đấu thầu các hợp đồng quốc tế; để nghiên cứu những thị trường xuất khẩu mới và những thông lệ, tập quán quốc tế phù hợp nhất; và để nâng cao năng lực của mình đối với các khách hàng tiềm năng. Internet còn tạo động lực làm bùng nổ thương mại điện tử trong cả các nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển. Những nghiên cứu còn cho thấy hiện tại, giá trị trao đổi về dịch vụ qua mạng đã cao hơn 10 lần giá trị mua hàng tiêu dùng. Việc phát triển những dịch vụ chuyên môn hóa cao đòi hỏi lượng khách hàng phải đủ lớn để đảm bảo cho mức độ chuyên môn đó. Khả năng tiếp cận với những khách hàng tiềm năng rộng khắp trên thế giới thông qua thương mại điện tử với sự hỗ trợ của Internet đang giúp tạo nên lượng khách hàng quan trọng đó.
-Dịch vụ giáo dục và đào tạo cần phải sẵn có để đảm bảo đào tạo một lực lượng lao động đủ chuyên môn. Cạnh tranh quốc tế đã chuyển từ cạnh tranh về giá cả sang chất lượng và tính linh hoạt. Điều đó có nghĩa là nhân công trình độ thấp và giá rẻ không còn là một lợi thế cạnh tranh nữa. Nhiều nền kinh tế phát triển đang bị hạn chế lớn do không có một đội ngũ lao động tay nghề cao, do hệ thống giáo dục phần lớn chỉ cung cấp những kiến thức cũ của chương trình đào tạo trong nước vốn rất hạn chế. Kết quả là làm giảm hiệu quả kinh doanh bởi các nhà quản lý không tìm được người lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề đủ để đáp ứng. Ví dụ nhân viên trong lĩnh vực dịch vụ không những phải có kỹ thuật (gồm cả khả năng về công nghệ thông tin) mà còn phải có trình độ giao tiếp và năng lực giải quyết vấn đề. Điều này cho phép nhân viên phục vụ khách hàng một cách hiệu quả để cung cấp dịch vụ có chất lượng. Ngân hàng Thế giới đang thử nghiệm một cách đánh giá mới về của cải của một quốc gia thông qua việc đo “Vốn con người”. Ngân hàng đã xác định ở những nước thu nhập cao như Nhật Bản, vốn con người chiếm hơn 80% của tổng tài sản quốc gia.
-Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chuyên môn và dịch vụ nghề nghiệp hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh khác. Các dịch vụ này chiếm một vị trí quan trọng trong hạ tầng cơ sở dịch vụ của bất kỳ một nền kinh tế nào và là dịch vụ đầu vào cho tất cả các ngành công nghiệp, sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Giá trị sản lượng DVHTPTKD và dịch vụ nghề nghiệp chuyên môn ước tính chiếm 3.000 tỷ USD trong năm 2001 hay xấp xỉ 10% tổng GDP toàn cầu. Xuất khẩu DVHTPTKD và dịch vụ chuyên môn trong năm 2001 ước đạt 733,6 tỷ USD (IMF - BOP data), chiếm 24% tổng sản phẩm toàn thế giới. Những nước đang phát triển chiếm xấp xỉ 1/4 giá trị kim ngạch xuất khẩu DVHTPTKD và dịch vụ chuyên môn. Từ năm 1990, tăng trưởng trong xuất khẩu DVHTPTKD từ những nước đang phát triển đạt tốc độ tăng nhanh hơn 50% so với mức tăng của những nền kinh tế thị trường phát triển (khoảng 10.5% trung bình 1 năm so với 6.5%/năm).
Trong các nền kinh tế đang phát triển, trung bình có ít nhất một phần ba của giá trị đầu vào mà các doanh nghiệp mua là những dịch vụ như hạch toán kế toán, luật pháp, bảo hiểm, nghiên cứu, thiết kế, marketing, vận tải, bưu điện và điện nước. Chất lượng và mức độ sẵn có của chúng tác động tới khả năng tăng trưởng và cạnh tranh trong xuất khẩu của các ngành công nghiệp trong nước có sử dụng đến những dịch vụ này, và ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư vào nước đó. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh giúp các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng trưởng nhờ tạo cơ hội cho họ ký hợp đồng nhận hỗ trợ chuyên môn. Nếu thiếu các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tăng chi phí hành chính để tuyển thêm nhân viên mới (mà những người này thường chỉ biết chung chung chứ không có chuyên môn) hoặc nếu không sẽ tiến hành kinh doanh và bỏ qua những khâu này.
Chương 2.
Phát triển dịch vụ ở Trung Quốc
- bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Trung Quốc mặc dù chưa thực sự trở thành một nước phát triển và còn đang tiến hành quá trình CNH,HĐH, nhưng với những tiềm năng kinh tế to lớn cùng với những thành tựu kinh tế vượt trội từ sau cải cách kinh tế ở Trung Quốc thì việc học tập kinh nghiệm phát triển dịch vụ của Trung Quốc,một quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, chính trị, xã hội với Việt Nam, là điều hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
2.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH - tiền đề phát triển ngành dịch vụ hiện đại ở Trung Quốc
Qua mô hình phát triển kinh tế của nhiều nước, có một nhận định chung được đưa ra là : sự thay đổi cơ cấu ngành tuỳ thuộc vào diễn biến thay đổi của hai loại yếu tố là mức thu nhập bình quân đầu người và cơ cấu của các yếu tố đầu vào (như tiền vốn, lao động, tài nguyên). Thu nhập tăng làm cho cơ cấu nhu cầu thay đổi tương đối thống nhất, điều này đưa đến sự thay đổi của cung cấp dẫn đến sự thay đổi trong thương mại và kỹ thuật.
Từ sau khi cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc bước vào giai đoạn CNH toàn diện, cơ cấu ngành đã có sự thay đổi rõ rệt. Những thay đổi này vừa tuân theo các quy luật chung của CNH lại vừa có những đặc điểm riêng của Trung Quốc.
Trong thời kỳ 1978-1992, khu vực II (các ngành chế tạo, chế biến,…) với công nghiệp làm chủ thể có tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 10,7% tăng gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng bình quân năm của khu vực I (nông nghiệp và khai mỏ). Theo giá so sánh, tỷ lệ khu vực II trong GDP tăng từ 48,6% năm 1978 lên 60,9% năm 1992. Trong thời gian này, tỷ lệ của công nghiệp trong GDP tăng từ 44,8% lên 56,2%. Chính sự thay đổi này làm cho mức độ CNH được nâng cao rõ rệt. Trong khi tỷ trọng của khu vực II trong GDP tăng nhanh thì tỷ trọng khu vực I trong GDP lại giảm rõ rệt, mức giảm là từ 28,4% xuống còn 17,3% trong vòng 14 năm. Sự thay đổi mạnh trong cơ cấu được xem là nguồn gốc chủ yếu làm cho kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao.
Thay đổi trong phân bố lao động giữa các ngành cũng phần nào nói lên sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Trong 14 năm (1978-1992), tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực I trong tổng lao động xã hội giảm 12% (từ 70% giảm xuống 58,5%). Trong khi đó, mức tương ứng ở khu vực III (các ngành dịch vụ) tăng 8% (từ 12,1% lên 19,8%). Những biến đổi cơ cấu trên đây được xem là những xu thế có biểu hiện thống nhất với quy luật chung về CNH ở nhiều nước trên thế giới.
Các lý thuyết về CNH chỉ ra vấn đề mang tính quy luật là :
-Trong quá trình CNH, sự thay đổi cơ cấu nhu cầu biểu hiện là nhu cầu tiêu dùng về thực phẩm có xu hướng giảm tương đơi, nhu cầu về hàng công nghiệp, vui chơi, giải trí,… tăng lên mở đường cho những ngành dịch vụ hiện đại phát triển.
-Thu nhập càng tăng thì mức đầu tư cũng tăng.
Chi phí tiêu dùng của cư dân Trung Quốc từ thập kỷ 80 cho thấy, từ cuối kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1981-1985), đặc biệt là từ sau vụ thu hoạch kỷ lục năm 1984, đã bắt đầu xuất hiện hiện tượng tiêu dùng lương thực giảm tương đối trong khi nhu cầu đối với hàng công nghiệp tăng lên rất nhanh. Mặt khác, tỷ lệ tích luỹ và tỷ lệ đầu tư của Trung Quốc luôn cao hơn so với các nước có cùng mức thu nhập. Từ đầu thập kỷ 90, gia tăng đầu tư thể hiện rõ hơn là một đặc trưng nổi bật trong phát triển kinh tế của Trung Quốc. Tình trạng căng thẳng về năng lượng, nguyên vật liệu, cũng như về giao thông vận tải xảy ra ở Trung Quốc trong nửa cuối thập kỷ 80 (dẫn đến lạm phát cao trong thời kỳ 1988 – 1989) và đầu thập kỷ 90 đã phản ánh rõ ràng về tình trạng gia tăng nhu cầu hàng công nghiệp và tăng nhanh đầu tư.
Từ đầu thập kỷ 90, Trung Quốc một mặt chủ trương đẩy mạnh các chương trình xoá đói giảm nghèo, mặt khác khuyến khích đầu tư vào các khu vực miền Trung và miền Tây, khuyến khích đầu tư của các công ty đa quốc gia lớn, có kỹ thuật tiên tiến của Trung Quốc. Điều này càng thúc đẩy tăng tiêu dùng hàng công nghiệp, đặc biệt là các mặt hàng mới, có kỹ thuật cao, tiên tiến.
Tất cả các nhân tố trên đều làm cho nhu cầu về sản phẩm công nghiệp tăng nhanh, do đó thúc đẩy công nghiệp phát triển mạnh, nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời với sự phát triển các ngành công nghiệp, quá trình đô thị hoá diễn ra đồng thời với CNH sẽ thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển mạnh, do vậy tỷ trọng các khu vực II và III trong tổng sản phẩm xã hội tiếp tục tăng nhanh trong khi tỷ trọng của khu vực I tiếp tục giảm mạnh.
Nếu như ngành nông nghiệp của Trung Quốc có vai trò thay đổi nhanh qua các giai đoạn khác nhau. Tỷ trọng của nông nghiệp giảm dần và sự phát triển của nông nghiệp dựa nhiều vào sự phát triển của công nghiệp để nhận được ngành càng nhiều hơn đầu tư trung gian, đặc biệt là về kỹ thuật và vốn. Công nghiệp một mặt cung cấp các yếu tố vật chất đầu vào cho phát triển nông nghiệp, mặt khác lại trực tiếp hay gián tiếp thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp. Những tác động từ phía công nghiệp như trên là con đường tăng thu nhập cho nông dân rất có hiệu quả và cũng là điều kiện để phát triển nông nghiệp lâu dài. Công nghiệp là một ngành lớn, do vậy, vừa phải có mối quan hệ hợp lý bên trong các ngành công nghiệp. Chỉ khi nào các ngành chế tạo, chế biến, xây dựng… phát triển thì các ngành dịch vụ mới tránh được sự phồn vinh giả tạo. Chỉ khi khu vực II cung cấp nhiều sản phẩm thì khu vực III mới có cơ sở vật chất để mở rộng.
Trong thập kỷ 80, công nghiệp nhẹ luôn phát triển nhanh hơn công nghiệp nặng. Từ năm 1992, nhịp độ tăng trưởng công nghiệp nặng mới bắt đầu vượt lên trên công nghiệp nhẹ. Trong thời kỳ 1995-2000, Trung Quốc bước vào giai đoạn phát triển công nghiệp nặng, hoá chất với trọng điểm là công nghiệp gia công chế tạo, công nghiệp lắp ráp, vật liệu xây dựng… đáp ứng các nhu cầu củng cố, phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng, đặc biệt là xây dựng nhà ở bán cho dân. kích cầu trong nước. đồng thời, các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu cũng vẫn duy trì nhịp độ phát triển cao.
Sự phát triển của các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng giúp hoàn thiện các hoạt động kinh tế xã hội, điều hoà thống nhất các mặt sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Theo đà phát triển của các khu vực I và II, khu vực thứ III trở nên ngày càng quan trọng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu ngành của nền kinh tế. Theo dự kiến, khu vực dịch vụ sẽ đóng góp 50% GDP của Trung Quốc trong một vài thập kỷ tới so với mức 33% hiện nay.
Với nhịp độ phát triển công nghiệp và nông nghiệp hiện nay ở Trung Quốc, khu vực III được hiểu rộng hơn, không chỉ bao gồm các ngành thương mại, dịch vụ đang đứng trước những thách thức bị hạn chế phát triển do các trang bị cơ cấu hạ tầng còn yếu kém, các ngành tài chính tiền tệ, ngân hàng kém phát triển và tiến trình đô thị hoá diễn ra chậm chạp.
Hiện nay, Trung Quốc chủ trương tăng đầu tư ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng và những nỗ lực gia nhập thành công WTO giúp Trung Quốc từng bước khắc phục những hạn chế trên, tạo điều kiện phát triển hơn nữa khu vực III.
2.2.Chính sách và biện pháp phát triển ngành dịch vụ ở Trung Quốc
Ngoài những tiền đề cần thiết tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá và phát triển lĩnh vực dịch vụ như đã nêu ở mục 2.1, Trung Quốc còn phải thực thi nhiều những biện pháp và những chính sách trong nội bộ lĩnh vực dịch vụ nhằm từng bước đưa ngành dịch vụ lên vị thế mới nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2.1.Những chính sách phát triển lĩnh vực dịch vụ.
Năm 1995 tỷ trọng của khu vực I, II, III trong tổng giá trị sản phẩm trong nước tương ứng là 20,6%, 48,4% và 37,1%. So với năm 1980, tỷ trọng của khu vực I trong tổng giá trị sản phẩm trong nước đã giảm 9,5%. Đến năm 2000, ngành dịch vụ vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn là 33,2% trong tổng GDP, không những thấp hơn nhiều so với các nước phát triển phương Tây mà còn thấp hơn so với một số nước đang phát triển. Về cơ cấu việc làm, tỷ trọng của khu vực I (so với năm 1980) giảm 15,8%, chiếm 52,9%, khu vực II chiếm 23%, tăng 5,3%, khu vực III chiếm 24,1%, tăng 11,1 %. Nếu so với các nước phát triển, tỷ trọng khu vực I của Trung Quốc là quá cao, tỷ trọng của khu vực III của Trung Quốc là quá thấp; còn so với các nước đang phát triển, tỷ trọng khu vực II của Trung Quốc là tương đối cao, tỷ trọng của khu vực III là quá thấp. Như vậy những thách thức trong quá trình phát triển kinh tế ở Trung Quốc chủ yếu là ở lĩnh vực dịch vụ do khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước phương Tây trong lĩnh vực này còn quá lớn.
Chính vì vậy, từ những năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách điều chỉnh cơ cấu ngành dịch vụ nhằm phát triển ngành này phát triển hiệu quả cao:
Thứ nhất, chính sách thúc đẩy cải cách và mở cửa ngành dịch vụ:
Do chính sách mở cửa đối với ngành dịch vụ chậm chạp nên từ đầu những năm 1990 đến nay, một số ngành dịch vụ như tiền tệ, bảo hiểm, giao thông vận tải, đường sắt, và hàng không, thông tin, giáo dục y tế…. vẫn bị Trung Quốc hạn chế hay cấm không cho thành phần phi quốc hữu tham gia. ở một số ngành, kinh tế quốc hữu còn nắm giữ vị trí độc quyền hoặc trực tiếp lũng đoạn kinh doanh. Trong các ngành liên quan đến quốc kế dân sinh, kinh tế quốc hữu đều chiếm ưu thế tuyệt đối: Ngành năng lượng, bưu điện, hầu như kinh tế quốc hữu nắm 100%. Trong lĩnh vực tài chính, nhà nước vẫn khống chế trên 90% tiền gửi, trên 90% nghiệp vụ bảo hiểm, công ty chứng khoán quốc hữu vẫn là chủ thể của ngành chứng khoán. Các ngành vận tải đường sắt, viễn dương về cơ bản đều do kinh tế quốc hữu quản, nó thực hiện trên 97% lượng chu chuyển hàng hoá của ngành giao thông vận tải, trong các nghiệp vụ thông tin, thành phần kinh tế phi quốc hữu cũng có một tỷ trọng nhất định, nhưng những nghiệp vụ thông tin cơ bản đều do kinh tế quốc hữu làm chủ. Điều này khiến ngành dịch vụ thiếu sức cạnh tranh, cơ chế thị trường không thể phát huy được vai trò điều tiết có hiệu quả. Để đẩy mạnh phát triển của ngành này, Trung Quốc đã tăng cường chính sách mở cửa, tích cực cải cách doanh nghiệp dịch vụ quốc hữu, thông qua việc điều chỉnh chính sách ngành nghề, cho phép và khuyến khích các thành phần kinh tế phi quốc hữu tham gia vào các ngành nghề này.
Thứ hai, chính sách đẩy mạnh tiến trình thị trường hoá và đô thị hoá.
Trong quá trình chuyển đổi thể chế, kinh tế thị trường chưa phát triển một cách đầy đủ, đặc biệt là mức độ thị trường hoá đối với ngành dịch vụ còn thấp làm nảy sinh những trở ngại cho việc phát triển ngành dịch vụ, Trung Quốc chủ trương thông qua thúc đẩy cải cách thể chế để đẩy nhanh tiến trình thị trường hoá kinh tế, từ đó thúc đẩy việc phát triển cơ cấu ngành dịch vụ.
Ngoài ra, để phát triển hiệu quả ngành dịch vụ, Trung Quốc còn dựa vào việc thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Bởi mức độ phát triển ngành dịch vụ thống nhất với mức độ đô thị hoá. Việc đô thị hoá ở Trung Quốc muộn mằn chính là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển và chuyển đổi cho cấu chậm của ngành dịch vụ. Trước tình hình này, để thúc đẩy mở rộng nhiều ngành dịch vụ mới và phát triển nhiều tầng bậc ngành dịch vụ, Trung Quốc đã ra sức thúc đẩy tiến trình thành thị hoá trên cơ sở đẩy nhanh cải cách thể chế thành thị và nông thôn, tăng cường vai trò của chính sách vĩ mô đối với thành thị hoá. Hiện nay, tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh mỗi năm có thêm khoảng 15 triệu người Trung Quốc nhập hộ khẩu ở thành phố.
Thứ ba, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ.
Từ khi cải cách mở cửa đến nay, đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Trung Quốc nghiêng về ngành công nghiệp, tỉ lệ đầu tư vào ngành dịch vụ tương đối thấp, chủ yếu tập trung ở số ít ngành truyền thống. Do vậy, để thúc đẩy ngành này tăng trưởng, Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển ngành dịch vụ.
Những ngành mới cho phép thương gia nước ngoài đến đầu tư bao gồm: bảo hiểm, bán lẻ thương mại, hướng dẫn du lịch, vận tải hàng không, đại lý vận chuyển hàng hoá quốc tế, vận tải đường thuỷ, vận tải đường bộ, thuyền bè, bảo hiểm y tế, kế toán, tư vấn thông tin,… Tuy nhiên cũng có một số lĩnh vực, Trung Quốc vẫn phải có điều kiện với các thương gia nước ngoài đến đầu tư, ví dụ như một số ngành mở cửa mang tính chất thí điểm, một số dự án đầu tư của thương gia nước ngoài bị hạn chế ở một số khu vực, thương gia nước ngoài không được nắm 100% cổ phần…
2.2.2.Biện pháp phát triển dịch vụ ở Trung Quốc
Do ngành dịch vụ Trung Quốc do phát triển sau nên vẫn còn khá mới mẻ, yếu ớt, cộng thêm sự “nuông chiều” của nhà nước qua chính sách ưu đãi và cho hưởng sự độc quyền trong nhiều lĩnh vực khiến cho nó tương đối kém sức đề kháng trước những đòi hỏi của thị trường thế giới thông qua các định chế của WTO. Nhằm thực hiện các chính sách phát triển dịch vụ trên, Trung Quốc đã thực hiện những biện pháp sau chủ yếu sau:
-Thanh lý và chỉnh đốn những lĩnh vực mở cửa hiện có. Tiến hành điều tra những ngành đã mở cửa và số lượng mở cửa, xử phạt nghiêm khắc đối với những trường hợp tự động mở cửa đối ngoại, vi phạm chính sách hiện hành của nhà nước.
-Quy hoạch mục tiêu phát triển ngành dịch vụ trong thời gian ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn, kiên trì chủ động mở cửa thị trường. Theo “Hiệp định chung về mậu dịch dịch vụ” của WTO quy định từng bước thực hiện tự do hoá, cho phép các quốc gia đang phát triển mở cửa thị trường trên phạm vi tương đối hẹp và hạn chế các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường của các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, việc mở cửa thị trường dịch vụ của Trung Quốc phải phù hợp nhu cầu quốc tế và sức chịu đựng ở trong nước, những lĩnh vực mở cửa phải có tính ổn định tương ứng.
-Phân loại mở cửa thị trường, mở cửa phải phù hợp với phát triển. Trọng điểm phát triển là ngành giao thông vận tải, thông tin bưu điện, ngành dịch vụ thương mại, du lịch, tư vấn thông tin, bảo hiểm tiền tệ.
Đối với những ngành dịch vụ đe doạ đến an ninh quốc gia và sự ổn định xã hội như dịch vụ xây dựng cơ bản, nghe nhìn cũng như những ngành dịch vụ gây tổn hại đến sức khoẻ của người dân mà nhà nước cấm kinh doanh thì không được mở cửa.
Đối với những ngành dịch vụ như vận tải, thương mại và du lịch quốc tế có sức cạnh tranh tương đối mạnh thì từng bước mở rộng cửa, đối với những lĩnh vực cần đầu tư xây dựng lớn mà Trung Quốc không có vốn thì nới lỏng mức hạn chế một cách thích hợp đối với các thương gia nước ngoài, cho phép các thương gia nước ngoài dùng hình thức BOT tham gia vào thị trường ngành dịch vụ Trung Quốc.
Những ngành như tiền tệ, thông tin, tư vấn thông tin và bảo hiểm là những ngành cần thiết trong phát triển kinh tế quốc dân, mức độ dịch vụ thương mại hoá trong nước thấp, năng lực tự cấp trong nước không đủ… Tuy nhiên việc mở cửa đối với những ngành này, ở mức độ nhất định sẽ xung đột với sự phát triển của các doanh nghiệp dịch vụ trong nước, thậm chí còn ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tiền tệ nhà nước, vì vậy Trung Quốc chủ trương hạn chế mức độ và những bước mở cửa.
Đối với một số ngành không liên quan nhiều đến phát triển kinh tế quốc dân đặc biệt những ngành lầy khoa học kỹ thuật cao làm hạt nhân, Trung Quốc lại chủ trưong khuyến khích mở cửa, cho phép các nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp nước ngoài vào để thu hút kỹ thuật tiên tiến, thu hút vốn, thúc đẩy phát triển ngành này.
2.3.Những thành tựu và những tồn tại trong phát triển lĩnh vực dịch vụ ở Trung Quốc
Từ khi cải cách, mở cửa đến nay, Trung Quốc liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thời kỳ 1981 - 1990 GDP bình quân hàng năm đạt 9,3% ; thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ tám đạt 12%, năm 2004 đạt tăng trưởng 9,25% dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Tính ổn định trong tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc từng bước được tăng cường.
Sau nhiều năm cải cách mở cửa, thực lực kinh tế Trung Quốc được tăng cường rõ rệt, sức mạnh tổng thế của nền kinh tế Trung Quốc trên trường quốc tế được nâng lên nhanh chóng, quy mô kinh tế Trung Quốc đã vượt lên dẫn đầu các nước đang phát triển, khoảng cách với các nước phát triển chủ yếu cũng thu hẹp dần dần. Nhưng vì dân số Trung Quốc khá đông, cho nên tính bình quân theo đầu người, Trung Quốc vẫn thuộc loại nước có thu nhập thấp.
Trong lĩnh vực dịch vụ, với những phát triển vượt trội trong lĩnh vực công nghệ thông tin- ngành trụ cột của nền kinh tế, thì quan điểm về nền kinh tế Trung Quốc đang dần thay đổi. Trước kia Trung Quốc thường được xem như một nhà cung cấp những dịch vụ chất lượng kém, giá rẻ thì này Trung Quốc dần được các nền kinh tế Châu Âu công nhận đang có một bước nhảy vọt về thị phần dịch vụ công nghệ cao và có sức cạnh tranh lớn với họ.Với những cố gắng của mình, Trung Quốc đã đạt được một số thành tựu to lớn như:
Thứ nhất, dịch vụ tài chính - ngân hàng
Sự phát triển không ngừng của dịch vụ tài chính ngân hàng ở Trung Quốc là một kênh quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài, huy động một cơ số lớn tiền vốn dư thừa của dân chúng, cung cấp vốn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp - bộ phận sử dụng nhiều vốn nhất và cũng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nhiều nhất…
Tính đến cuối tháng 11/2000, tiền gửi ngân hàng của cư dân trong cả nước đạt 7230 tỷ NDT tăng 801,9 tỷ so với đầu năm. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên tới 212 tỷ USD (đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Nhật Bản).
Hiện nay, tất cả các tổ chức tài chính Trung Quốc đang nâng cấp dịch vụ, việc quản lí nội bộ và cơ sở hạ tầng của mình. Hệ thống quản lí hoạt động đang được thay đổi nhiều hơn theo mô hình thương mại và khả năng thu lợi nhuận cũng đang tăng dần đạt đến tiêu chuẩn quốc tế. Đến cuối năm 1999, số dư nợ cho vay của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc là 21,8 tỷ USD, trong đó 87% là vốn vay trong nước, 70% số tiền cho vay này được cung cấp từ nguồn vốn của ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Như vậy, ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một kênh thu hút đầu tư nước ngoài quan trọng giúp Trung Quốc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đến cuối năm 1999, các tổ chức ngân hàng Trung Quốc đã đặt 472 chi nhánh kinh doanh tại nước ngoài, tài sản của các chi nhánh này là 144,3 tỷ USD. Khi gia nhập WTO, quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung Quốc sẽ tiếp tục được mở rộng tăng cường tiến trình quốc tế hoá dịch vụ tài chính của Trung Quốc và sự phát triển lớn mạnh của ngành này trên thế giới.
Nhằm hiện đại hoá việc thanh toán trong ngành tài chính Trung Quốc đang từng bước nâng cao hơn hệ thống mạng thanh toán điện tử, như mạng liên lạc điện tử được truyền qua vệ tinh ở các thành phố với một khối lượng lớn các giao dịch nhằm cung cấp dịch vụ thuận tiện nhất cho ngành tài chính, vượt qua những vấn đề khó khăn trong thanh toán.
Kì phiếu, hối phiếu, séc, trái phiếu thương mại và thẻ ngân hàng được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc. Hệ thống thanh toán việc chuyển nhượng vốn và trái phiếu thương mại sẽ được cải thiện hơn. Tên thực phải được sử dụng cho các tài sản tài chính cá nhân và séc cá nhân sẽ đưa vào sử dụng thí điểm. Hệ thống chính sách nắm chứng khoán sẽ được thành lập và việc thanh toán sẽ được thống nhất thông qua việc thúc đẩy quá trình làm thủ tục và nâng cao thêm dịch vụ thanh toán nhằm thanh toán các giao dịch chứng khoán.
Thứ hai, dịch vụ thông tin liên lạc
Trong số các thị trường thông tin liên lạc dẫn đầu ở khu vực châu á – Thái Bình Dương, Trung Quốc là một trong các thị trường có triển vọng nhất. Theo thống kê, Trung Quốc có 295,488 triệu thuê bao điện thoại cố định và 305,283 triệu thuê bao điện thoại di động năm 2004. Số người sử dụng Internet đã xấp xỉ 70 triệu người. Sở dĩ có sự phát triển nhanh chóng này là do đặc điểm thị trường dịch vụ thông tin di động của Trung Quốc phát triển đặc biệt nhanh: cứ mỗi tháng có thêm 2 triệu người sử dụng điện thoại di động trong năm 1999 - 2000. Thậm chí theo dự báo triển vọng phát triển ngành dịch vụ thông tin di động, Trung Quốc có thể chuyển từ vị trí thứ hai lên thứ nhất (hiện Mỹ đứng vị trí thứ nhất) về số thuê bao điện thoại di động. Và công ty China Mobile của Trung Quốc sẽ vượt Vodafone (hiện dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực dịch vụ liên lạc di động) về doanh thu. Về tổng số vốn thị trường, China Mobile hiện là công ty lớn nhất khu vực châu á - Thái Bình Dương. Các hãng sản xuất thiết bị liên lạc hàng đầu thế giới hiện đang nắm giữ những vị trí trọng yếu tại thị trường thiết bị viễn thông Trung Quốc, đặc biệt là điện thoại di động. Trong khi các nhà sản xuất thiết bị viễn thông hàng đầu thế giới nắm giữ vị trí vững chắc trên thị trường thiết bị thông tin Trung Quốc, các nhà cung cấp dịch vụ thông tin nước ngoài có ít khả năng hoạt động ở nước này hơn. Tỉ trọng của các hãng nước ngoài trong vốn cổ phần tại các liên doanh trên thị trường Trung Quốc hiện không vượt quá 49%.
Thứ ba, thương mại quốc tế
Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ với tốc độ hết sức mạnh mẽ trong lĩnh vực này. Tổng kim ngạch buôn bán của Trung Quốc năm 2004 đạt 1100 tỷ USD. Như vậy, sau 55 năm kể từ ngày nước CHND Trung Hoa ra đời, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng gấp 750 lần. Với những nỗ lực của chính phủ Trung Quốc tiến hành kiểm soát kinh tế vĩ mô nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng kinh tế là yếu tố quan trọng hàng đầu làm cho ngoại thương Trung Quốc tăng trưởng vững chắc. Bên cạnh đó là chính sách mở cửa nền kinh tế khiến cho tỷ trọng xuất nhập khẩu tăng nhanh và dần trở thành một nền kinh tế hướng theo xuất khẩu. Tính riêng về hàng hoá xuất nhập khẩu, Trung Quốc là quốc gia đứng thứ 6 trong số 30 quốc gia trao đổi buôn bán hàng đầu thế giới.
Theo các chuyên gia kinh tế tính toán, với tốc độ phát triển như hiện nay, Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia thương mại đứng thứ hai trên thế giới chiếm 10% tỷ phần xuất khẩu của thế giới, chỉ sau Mỹ (12%), vượt xa Nhật Bản (5%). Trung Quốc chiếm 40% mức tăng nhập khẩu dự kiến của các nước đang phát triển… Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vào năm 2020, chiếm 8% sản lượng toàn thế giới, chỉ đứng sau Mỹ, chiếm 19% nền kinh tế toàn cầu.
Thứ tư, khoa học kỹ thuật, văn hoá giáo dục
Khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất, hiện nay, đóng góp của nó vào tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển là trên 60%, còn ở Trung Quốc chỉ vào khoảng 30%. Tuy nhiên, qua cố gắng nhiều năm cải cách, Trung Quốc đã có 11% thành quả kỹ thuật cao đạt hoặc giữ được trình độ đi đầu thế giới như những thành công trong kỹ thuật then chốt máy tính với kỹ năng cao, kỹ thuật mạng viễn thông, kỹ thuật tổng đài điện tử số,… Trong vòng hơn 10 năm qua, giá trị sản lượng ngành kỹ thuật cao của Trung Quốc tăng bình quân mỗi năm trên 20% tỷ lệ trong tổng cơ cấu kinh tế quốc dân tăng từ 1% lên 15%. Năm 2001, kim ngạch xuất nhập khẩu các loại sản phẩm kỹ thuật cao đạt 46,5 tỷ USD, chiếm 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong 10 năm qua, tại một số thành phố lớn và vừa, Trung Quốc đã xây dựng được 53 khu phát triển kỹ thuật cao. Với những thành công vượt bậc của ngành hàng không vũ trụ Trung Quốc, Trung Quốc phóng tàu “Thần Châu 5”, lần đầu tiên Trung Quốc đưa người vào vũ trụ, mở ra khả năng cho Trung Quốc chiếm lĩnh một phần thị trường dịch vụ phóng tàu vũ trụ của thế giới và đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích về kinh tế, quân sự, chính trị, làm cho các cường quốc quân sự khác phải kiêng nể.
Giáo dục là nền tảng khoa học kỹ thuật, sự cao thấp về trình độ phát triển giáo dục sẽ ảnh hưởng đến tố chất con người, đặc biệt là nhân tố chủ yếu để nâng cao năng suất, do đó sẽ tác động đến sự phát triển của sức sản xuất. Năm 1992, tỷ lệ người biết chữ ở Trung Quốc đạt 73%, cao hơn mức bình quân của thế giới. Trình độ phát triển giáo dục bậc trung học và tiểu học ở Trung Quốc tương đối cáo, bậc đại học vẫn còn lạc hậu, điều này về cơ bản phù hợp với yêu cầu của trình độ phát triển sức sản xuất giai đoạn hiện nay. Nhưng để đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, phát triển theo chiều sâu thì nhiệm vụ phát triển giáo dục bậc đại học vẫn còn rất nặng nề. Hiện nay, tại các thành phố của Trung Quốc, hơn 80% số người tìm được được việc làm đã tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên hoặc đã qua đào tạo dạy nghề, 45 triệu người được cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn nghề nghiệp. Mục tiêu của Trung Quốc trong 3 năm tới đào tạo được 500.000 kỹ sư và kỹ sư cao cấp trong các ngành chế tạo, dịch vụ và các ngành có hàm lượng kỹ năng nghiệp vụ cao…
*Mặc dù đạt được rất nhiều thành tựu trong phát triển lĩnh vực dịch vụ nhưng Trung Quốc vẫn còn không ít những tồn tại đối với các ngành nghề dịch vụ:
-Những thách thức về thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh
Ngành dịch vụ của Trung Quốc, chủ yếu là tài chính, bảo hiểm, viễn thông, ngoại thương, văn hoá, giáo dục và y tế trong một thời gian dài trước đây do chính phủ độc quyền cung cấp, không có cơ chế và thể chế thị trường. Hơn 20 năm thực hiện cải cách, cho đến nay, cải cách trong những ngành này diễn ra chậm chạm, gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hạn chế. Vì vậy, hiện nay vẫn không có thể chế và cơ chế thị trường theo đúng nghĩa. Trong khi đó, WTO lại yêu cầu thể chế thị trường và cơ chế thị trường, các nước phát triển phương Tây đều có cơ chế và thể chế thị trường hoàn thiện. Tình hình này tạo nên sự chênh lệch lớn đối với hiện thực Trung Quốc.
-Những thách thức đối với hệ thống và năng lực giám sát quản lý vĩ mô của nhà nước. Trật tự thị trường hiện nay tương đối hỗn loạn, còn nhiều hàng nhái, hàng kém chất lượng trên thị trường, trật tự tài chính cũng có vô vàn vấn đề, tỷ lệ tài sản xấu tương đối cao, độ tin cậy giảm, con số thua lỗ và tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp quốc doanh đã một thời gian giảm xuống, nhưng gần đây lại tăng lên; những vấn đề như sản xuất, xây dựng chồng chéo mặc dù đã giải quyết nhiều lần nhưng vẫn đang phát triển và lan tràn. Điều này làm tăng những khó khăn cho Trung Quốc trong điều tiết vĩ mô, cũng là thách thức mới đối với năng lực điều tiết vĩ mô.
-Thách thức trong việc giành lấy nhân tài quản lý cao cấp. Cạnh tranh con người là cạnh tranh cơ bản nhất trong các cuộc cạnh tranh. Trung Quốc vốn thiếu những chuyên gia tổng hợp cao nhất, nhất là những chuyên gia tài năng trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, viễn thông. Sau khi gia nhập WTO, hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc đều thực hiện chiến lược nhân tài tại chỗ, tuyển dụng những chuyên gia ca._.hệ năm 1995 chiếm 0,61% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 0,56%, đến năm 2004 mới đạt 0,61% - bằng mức cách đây 10 năm. Các tổ chức tài chính tín dụng Việt Nam nắm giữ 90% thị phần tiền gửi và 85% ngoại tệ, thị phần nhỏ bé còn lại là ngân hàng nước ngoài. Thị trường chứng khoán mới được hình thành trong khoảng 5 năm nay, với hơn 20 công ty đăng ký bán cổ phiếu. Đây là một sàn “thử nghiệm” cho giao dịch trao đổi tài chính giữa các ngân hàng. Nhưng những ngân hàng lớn đều là quốc doanh hoạt động theo chỉ thị chưa thật sự có quyền chủ động. Nhận tài trợ nước ngoài, không phân biệt số lượng kể cả những con số nhỏ, đều phải được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt sau khi được các Bộ ngành liên quan xem xét và đệ trình. Hiện nay nền kinh tế tuy còn non yếu về thể chế và lĩnh vực tài chính nhưng với tiềm năng to lớn cần thay đổi để đương đầu với những cam go thử thách của một thế giới thị trường canh tranh khốc liệt.
-Tỷ trọng dịch vụ của các trung tâm lớn như Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh bị giảm sút nhiều. ở Hà Nội, tỷ trọng dịch vụ trong GDP sút giảm từ 66% năm 1985 xuốn còn 62% năm 1990, 1995, và 58% năm 2003. Tỷ trọng GDP của Tp Hồ Chí Minh cũng giảm xuốngđến năm 2003 chỉ còn 50,5%, của Đà Nẵng còn 48,3%, Hải Phòng 45,3%, Cần Thơ còn 42,2%…
-Nhiều dịch vụ vẫn do các cơ quan, đơn vị “ôm” nên hiệu quả hoạt động thấp. Các loại dịch vụ như nhà khách, bảo vệ, vệ sinh tạp vụ, kế toán, y tế, hội trường, đội xe,… hiện còn đang được các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm chưa được tách ra để các đơn vị chuyên nghiệp khác kinh doanh tập trung nên một mặt đã hạn chế đến việc tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chính, mặt khác hiệu quả hoạt động của các dịch vụ kiêm nhiệm này vẫn còn thấp.
Tóm lại, nhìn về tương lai, cả hai mục tiêu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới sẽ đạt nhanh, hiệu quả hơn nếu ta có một hệ thống các ngành dịch vụ chất lượng cao và hiệu quả, có hàm lượng trí tuệ cao, tăng cường tính cạnh tranh trong nền kinh tế dịch vụ thời đạt kinh tế tri thức. Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta.
Chương 4
Một số giải pháp phát triển dịch vụ ở Việt Nam
Những thay đổi trong nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ thể hiện trước hết ở Chiến lược phát triển kinh tế do Đại hội đảng các cấp đề ra. Những biến động và thay đổi trong chiến lược là nội dung quan trọng định hướng sự phát triển và chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực dịch vụ.
*Trong nội dung Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng IX đề ra cho giai đoạn 2001 - 2010, khái niệm và phân loại dịch vụ vẫn chưa chuẩn xác, ví dụ “dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ phục vụ đời sống”. Tuy nhiên, Chiến lược đã nhấn mạnh tới dịch vụ thương mại (thương nghiệp), vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính. Dịch vụ du lịch được xây dựng phải phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội 2001 - 2010 đã đề ra chỉ tiêu về lĩnh vực dịch vụ như sau:
-Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm khoảng 7%, của lĩnh vực dịch vụ là 7 - 8%
-Tỷ trọng dịch vụ vào năm 2010 là 42 - 43%
-Lao động trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 26 - 27%
*Trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 -2005, khái niệm và phân loại dịch vụ chưa được chuẩn xác, ví dụ như “ dịch vụ trí tuệ”. Nhưng nhìn chung nội dung có cụ thể hơn so với năm 2001 - 2010.
Chỉ tiêu như sau:
-GDP tăng 7,5%, dịch vụ tăng 7,5%
-Tỷ trọng dịch vụ trong GDP khoảng 41 – 42%
*Ngày 24/12/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010. Trong đó nêu rõ: “Trong kế hoạch năm 2005 và các năm 2006-2010, cần đặt cao vị trí và vai trò của khu vực dịch vụ; xem ngành dịch vụ là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước.”
Mục tiêu đặt ra là:
-Tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, kho bãi, chuyển tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bưu chính viễn thông, xây dựng, xuất khẩu lao động... khuyến khích phát triển dịch vụ mới có sức cạnh tranh cao; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn 2006-2010 cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành và nội ngành dịch vụ, tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP của cả nước, tiến tới đạt khoảng 45% vào năm 2010.
-Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh tranh và phát triển. Thực hiện việc khảo sát, đánh giá sức cạnh tranh của từng lĩnh vực dịch vụ hiện tại và trong tương lai, phân loại các dịch vụ cần được bảo hộ, các lĩnh vực loại trừ tạm thời, loại trừ hoàn toàn cho việc mở cửa các ngành dịch vụ và dành đãi ngộ quốc gia, tối huệ quốc cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Như vậy cùng với quá trình nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ, chiến lược phát triển dịch vụ cũng đã được định hướng chiến lược phát triển cụ thể, rõ ràng hơn.
Phát triển lĩnh vực dịch vụ là một nhiệm vụ lớn và khó khăn không chỉ của các Bộ, ngành, các cấp mà đó còn là trọng trách của cả dân tộc trong xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới và hội nhập. Để đẩy nhanh quá trình phát triển dịch vụ cần chủ động xây dựng chiến lược, quy hoạch và Chương trình hành động phát triển, cũng như các giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện trên cơ sở các định hướng chung và chiến lược phát triển các ngành dịch vụ.
4.1.Xây dựng và phát triển ngành dịch vụ theo hướng thị trường
Đại hội Đảng IX chỉ ra “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không đơn giản chỉ là phương thức chuyển kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là chuyển sang nền kinh tế hiện đại văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên CNXH.
Một trong những điều kiện đóng vai trò quyết định sự phát triển của thị trường dịch vụ Việt Nam là việc hình thành một cơ chế thị trường có hiệu quả mà nhà nước đóng vai trò chủ đạo theo định hướng XHCN. Cụ thể hơn, ta có thể thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh thị trường trong nước, các trung tâm thương mại ở thành thị, mở rộng mạng lưới thương nghiệp trong tất cả mọi thành phần kinh tế ở cả vùng ven đô, vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo; tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước, tăng tỷ trọng thương mại trong nước, chú trọng kích cầu trong nước để bù đắp lại thị trường bên ngoài bị thu hẹp. Khuyến khích thực hiện các mô hình liên kết giữa nông dân - người sản xuất ra nguyên liệu - với các cơ sở chế biến và khâu lưu thông hàng hoá theo các hình thức hợp đồng kinh tế dài hạn cùng phân chia hợp lý lợi nhuận.
Thứ hai, tăng cường cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ.
Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, là một động lực vận động và thúc đẩy phát triển kinh tế, song phải là cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh một cách bình đẳng. Cần phải sớm ban hành luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền để làm công cụ bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, chống lại những trường hợp cạnh tranh không lành mạnh, không bình đẳng. Thực tiễn cạnh tranh trên trên thị trường hiện nay cũng như quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chỉ ra sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng và ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền để góp phần cùng các luật có liên quan khác đảm bảo môi trường cùng các luật liên quan khác đảm bảo môi trường kinh doanh, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động thương mại hàng hoá cũng như cho hoạt động thương mại dịch vụ. Đồng thời, luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền được ban hành không chỉ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất, người tiêu dùng mà còn phù hợp với yêu cầu của WTO về bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, rõ ràng trong những trường hợp duy trì độc quyền (đối với thương mại dịch vụ) và thúc đẩy tự do hoá thương mại.
Tham gia AFTA và WTO giúp Việt Nam phát triển thương mại dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và từng bước được tự do hoá. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh của các chủ thể thực hiện các dịch vụ quốc tế còn đang còn nhiều tranh cãi. Từ đó, khi những rào cản thương mại được dỡ bỏ thì một số doanh nghiệp nước ngoài có thể thực hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hạn chế cạnh tranh nhằm thao túng thị trường ở nước chưa có luật cạnh tranh. Vì thế, luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền cần thiết phải được ban hành ở Việt Nam để đảm bảo cho việc thực hiện các cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ theo quy định của GATS khi Việt Nam gia nhập WTO và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho thương mại dịch vụ phát triển.
4.2.Tiếp tục thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước tạo nên nền tảng vững chắc phát triển dịch vụ
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá là một tất yếu lịch sử mà Việt Nam phải trải qua. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, đi đôi với đổi mới công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, làm cơ sở cho sự tăng trưởng vững chắc và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Quá trình phát triển dịch vụ không đứng ngoài sự nghiệp CNH, HĐH đất nước mà nó lại là hai quá trình song song và bổ sung cho nhau. Do vẫn còn trong những bước đi đầu tiên của tiến trình CNH, HĐH, lĩnh vực đầu tiên cần phải được ưu tiên là hiện đại hoá kết cấu hạ tầng. Hệ thống năng lượng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc được xây dựng tốt thì ở đó các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh và có hiệu quả. Chính sự lạc hậu của cơ sở hạ tầng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. Sau ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng là cho các ngành tham gia xuất khẩu gồm cả sản xuất, chế biến, dịch vụ xuất khẩu. Trong đó cần luy ý tới các ngành dầu khí, khoáng sản, cây công nghiệp, gạo, hải sản, hiện đang chiếm tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Thứ nữa là các ngành gia công chế biến như may mặc, dệt, lắp ráp, và sản xuất hàng điện tử, thiết bị thông tin, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, lắp ráp động cơ xe máy, sản xuất máy động lực,… Việc lựa chọn giải pháp ưu tiên về cơ cấu “công nghiệp mềm”, “công nghiệp nhiều tầng” sẽ tận dụng được những lợi thế so sánh hiện có của Việt Nam, trong đó có lợi thế lớn nhất là nguồn lao động dồi dào, trẻ, có giáo dục và giá rẻ….
4.3.Giảm tối đa tình trạng tham nhũng
Đạo luật chống tham nhũng quốc tế (Foreign Corrupt Pratices Act – FDPA) ra đời từ năm 1977 nhưng vấn đề chống tham nhũng không chỉ còn là vấn đề của riêng Việt Nam mà là vấn đề tất cả các nền kinh tế phải đối mặt. Khi trở thành một thành viên chính thức của WTO, tham gia vào thị trường thế giới, Việt Nam buộc phải tuân thủ những hoạt động kinh tế - xã hội của cộng đồng quốc tế và một trong những vấn đề đó là phải đụng đến vấn đề chống tham nhũng. Cần phải có các chính sách cải cách để phát triển dịch vụ theo những quy định chung của tổ chức quốc tế, và tập dượt vận hành các thiết kế theo những quy chuẩn chung của cộng đồng quốc tế trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại dịch vụ.
Ngoài ra, một số biện pháp khác là:
-Cần tích cực thực hiện kiểm tra giám sát trong các lĩnh vực dịch vụ công ích còn được nhiều bao cấp và hỗ trợ từ phía nhà nước.
-Giảm tối thiểu những ưu đãi, xoá bỏ cơ chế xin - cho trong doanh nghiệp nhà nước kinh doanh dịch vụ.
-Tăng cường tính hiệu quả của hệ thống tư pháp và tính tự chủ của các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao đạo đức, chuẩn mực công chức, nâng cao trình độ ý thức chính trị của người dân đối với vấn đề tham nhũng.
-Hình thành một cơ quan chuyên trách chống tham nhũng hoạt động độc lập, có thẩm quyền tư pháp lớn nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong dân chúng…
4.4.Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dịch vụ
Trong đàm phán song phương và đa phương để gia nhập WTO, vấn đề hạ mặt bằng thuế quan không phải là vấn đề khó khăn đối với Việt Nam. Mức thuế quan trung bình Việt Nam đưa ra đối với thương mại hàng hoá trong vòng đàm phán thứ sáu là 28%, vòng đàm phán thứ bảy là 22%, và có thể được chấp nhận ở mức20%. Như vậy, mức thuế trung bình cũng không xa lắm so với mức biểu thuế quan trung bình của các nước trong WTO là 15% đối với hàng công nghiệp và 20% đối với hàng nông nghiệp.
Tuy vậy, trong thương mại dịch vụ, Việt Nam còn ở khoảng cách khá xa só với mục tiêu GATT đề ra theo hướng tự do hoá nhất là dịch vụ như phân phối, giao thông vận tải, xây dựng, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục,… Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã đạt được một bước tiến tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ nhưng so với yêu cầu của WTO thì vẫn chưa đáp ứng được.
Lĩnh vực dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao sẽ tạo tiền đề phát triển kinh tế. Năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam còn thấp. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực này cần có những điều chỉnh có tính chất chiến lược để tốc độ tăng của lĩnh vực dịch vụ lớn hơn tốc độ tăng GDP và tỷ trọng của dịch vụ trong GDP tăng.
Giữa các ngành và phân ngành dịch vụ có sự phụ thuộc nhau rất cao. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngành hoặc phân ngành dịch vụ cần có chính sách và giải pháp đồng bộ đối với chính ngành hoặc phân ngành đó cũng như ngành và phân ngành dịch vụ đầu vào hỗ trợ. Chính phủ phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho nhà cung cấp dịch vụ trong nước, đồng thời chủ động tiến hành tự do hoá các giao dịch dịch vụ quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh các dịch vụ hạ tầng bao gồm dịch vụ vận tải, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dịch vụ cũng như của nền kinh tế. Các dịch vụ hạ tầng này là dịch vụ đầu vào của mọi nhóm dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của mọi nhóm dịch vụ chỉ có thể được nâng lên nếu các nhóm đó có thể tiếp cận tới các dịch vụ đầu vào chất lượng cao và chi phí thấp.
Khi thực hiện mở cửa, đối mặt với các vấn đề cạnh tranh, giảm thu ngân sách, tự do hoá thương mại dịch vụ thì khá nhiều người trong đó có bộ phận lớn những cán bộ trong cơ quan Đảng và Nhà nước “chùn bước”. Ngoài ra, những lĩnh vực dịch vụ yếu và độc quyền, còn được bao cấp làm hạn chế sự mở cửa dịch vụ, biến lĩnh vực dịch vụ từ chỗ là công cụ thúc đẩy kiến tạo thành nhân tố cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Vì vâỵ, mở cửa thị trường dịch vụ, tích cực tham gia vào WTO là việc cần phải được gấp rút triển khai.
4.5.Hoàn chỉnh khung pháp lý trong lĩnh vực dịch vụ
Thứ nhất, xây dựng, ban hành văn bản luật điều chỉnh những hoạt động dịch vụ còn thiếu luật.
Một số dịch vụ quan trọng hiện nay chưa có luật do Quốc hội ban hành để điều chỉnh, mà mới có văn kiện dưới luật, cho nên cần phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng và ban hành luật về các dịch vụ này. Chẳng hạn, như dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kiểm toán, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ tư vấn, môi giới tài chính, thuế, v.v… Việc xây dựng và ban hành các luật về dịch vụ này nhằm đảm bảo tính ổn định và tính minh bạch của pháp luật về thương mại dịch vụ.
Các luật mới về dịch vụ phải được xây dựng một cách đồng bộ, hoàn chỉnh, mang tính nhất quán phù hợp với lộ trình cam kết để gia nhập WTO. Chẳng hạn, khi xây dựng Luật Bưu chính viễn thông cần đảm bảo tính hoàn chỉnh đầy đủ, không chồng chéo, mâu thuẫn với các luật có liên quan, phù hợp với lộ trình cam kết mở cửa cho dịch vụ này. Ví dụ, từ năm 2005 cho phép các nhà đầu tư nước ngoài khai thác dịch vụ viễn thông.
Song song với việc ban hành mới các luật về thương mại dịch vụ, cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành các luật này, tránh trường hợp luật đã có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên không thể triển khai thực hiện trong cuộc sống được, mà phải chờ đợi lâu dài.
Thứ hai, hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành về thương mại dịch vụ.
Thương mại dịch vụ trên thế giới ngày càng phát triển, nhiều loại dịch vụ mới phát sinh, cũng như nội dung của mỗi dịch vụ cũng đa dạng và mở rộng. Một số văn bản pháp luật về thương mại dịch vụ được ban hành trước năm 1995 (khi WTO chưa ra đời), hoặc ban hành sau năm 1995 nhưng chưa lường hết được những điểm mới phát sinh, do đó có những quy định của pháp luật tỏ ra cứng nhắc, còn mang tính thủ tục, chồng chéo, chưa đảm bảo mở cửa cho hoạt động thương mại dịch vụ. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật này theo hướng tương thích với quy định của WTO nhưng phù hợp với lộ trình cam kết của Việt Nam. Chẳng hạn, về dịch vụ ngân hàng cần sửa đổi, bổ sung Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng cùng với các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành hai luật này theo hướng đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể khai thác dịch vụ ngân hàng, tính minh bạch rõ ràng của pháp luật, thể hiện được các hình thức cung cấp dịch vụ ngân hàng (mở cửa thị trường) theo một lộ trình dự kiến sẽ cam kết khi gia nhập WTO. Ví dụ, đến năm 2010 thì ngân hàng 100% vốn nước ngoài được khai thác dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, đến năm 2015 thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được huy động tiến gửi bằng đồng Việt Nam cũng như ngoại tệ từ dân cư. Các điều kiện đặt ra cho việc cấp phép đặt chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, thành lập ngân hàng liên doanh, thành lập tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như mức vốn pháp định, thời hạn đã hoạt động kinh doanh cho đến thời điểm xin phép, yêu cầu phát triển kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam, v.v… cần phải được loại bỏ dần và đến năm 2015 thì loại bỏ hoàn toàn. Trước mắt, cần loại bỏ sự khác biệt về mức lệ phí cấp phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng liên doanh, của tổ chức tín dụng phi ngân hàng (theo Nghị định số 13/1999/NĐ-CP) để không còn phân biệt đối xử quốc gia về mức phí này.
4.6. Cải cách DNNN đặc biệt là các DNNN kinh doanh dịch vụ
Việc đổi mới và sắp xếp các DNNN nhằm tăng cường và đẩy mạnh doanh nghiệp nhà nước bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Trong hơn 10 năm qua, cả nước đã cổ phần hóa được 2210 DNNN. Riêng năm 2004, cổ phần hoá được 715 DNNN. Sau khi cổ phần hoá, 90% DNNN hoạt động có hiệu quả với vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 40%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập người lao động tăng 11,84%, cổ tức bình quân tăng 17,11%, số lao động tăng 7%. Cổ phần hoá không những xoá được bao cấp ,bù lỗ của nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần hoá mà còn huy động vốn xã hội để mở rộng đầu tư gần 10.000 tỷ đồng.
Ngày 9/8/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 153 để thể chế hoá luật DNNN sửa đổi. Đã có 47 Tổng công ty và công ty được chính phủ cho phép xây dựng đề án nhưng đến ngày 31/12/2004 mới có 36 đề án được phê duyệt.
Hiện tại, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông đang trong lộ trình để trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông theo Quyết định 58 CP ban hành ngày 22/3/2005. Một số tổng công ty thuộc lĩnh vực kinh doanh dịch vụ khác nhiều tiềm năng như: Hàng không, Xây dựng, Thương mại, Văn hoá… liệu có thành Tập đoàn kinh tế hay không còn cần đến sự nỗ lực và phấn đấu rất nhiều của các Tổng công ty này chứ không phải ở ý chí chủ quan.
Nếu thực hiện thành công các dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì đến cuối năm nay, cả nước chỉ còn khoảng 1900 DNNN. (Chiếm phần lớn trong số đó vẫn là những DNNN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công ích và những lĩnh vực then chốt khác). Mặc dù số lượng giảm nhưng quy mô DNNN lớn hơn nhiều. Bình quân vốn một doanh nghiệp năm 2001 là 25 tỷ đồng thì đến năm 2004 là 60 tỷ đồng. Số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm 60% năm 2001 thì nay chỉ còn khoảng 40%. Hầu hết vốn nhà nước tập trung vào tay tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước nhằm tăng cường lực lượng kinh tế nòng cốt và công cụ vật chất để nhà nước thực hiện điều tiết thị trường, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo hiệu quả xã hội, sức cạnh tranh và hội nhập.
Lộ trình cải cách DNNN trong giai đoạn tới là hình thành khoảng 5 đến 6 Tập đoàn kinh tế mạnh như Bưu chính viễn thông, Xi măng, Hàng không, Điện lực, Dầu khí, Xây dựng, củng cố 40 đến 50 Tổng công ty nhà nước đúng tầm đủ lực, số còn lại thực hiện cổ phần hoá trong đó nhà nước giữ cổ phần chi phối bằng cơ chế chủ quản để đảm bảo sức cạnh tranh trong hội nhập.
Để hoàn thành lộ trình sắp xếp DNNN vào cuối năm 2005 như theo kế hoạch đã đề ra, cần thực hiện những giải pháp sau:
-Sắp xếp cổ phần hoá DNNN
-Việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế phải sử dụng biện pháp thị trường chứ không phải biện pháp hành chính. Việc hình thành các Tập đoàn kinh tế cần sự hỗ trợ của Chính phủ nhưng chính phủ phải áp dụng các quy tắc thị trường và hỗ trợ bằng các chính sách thuế và tài khoá. Việc quản lý các Tập đoàn kinh tế đi đôi với quá trình mở rộng quy mô của Tập đoàn kinh tế.
-DNNN thuộc các Tổng Công ty cần sự tập trung chỉ đạo của Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ liên quan đến Tổng công ty, chuyển những DNNN còn lại thuộc diện nhà nước cần nắm giữ 100% vốn sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên theo yêu cầu luật DNNN sửa đổi hiệu lực này 1/7/2004.
-Hoàn thành thí điểm Tổng Công ty, Công ty hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, đánh giá và mở rộng, tạo điều kiện Công ty khắc phục những nhược điểm và khó khăn. Tránh việc chuyển đổi tràn lan, hình thức, hoặc các Công ty con núp bóng trốn cổ phần hoá. Khắc phục cơ chế quản lý điều lệ không rõ ràng gây ách tắc sản xuất kinh doanh.
-Kiên quyết phá sản giải thể DNNN làm ăn thua lỗ, trốn trách nhiệm tài chính
4.7.Phát triển những lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng then chốt
Dịch vụ hạ tầng là dịch vụ đầu vào quan trọng nhất cho toàn bộ lĩnh vực dịch vụ và tổng thể nền kinh tế quốc dân, có tác dụng hỗ trợ cho tất cả các loại hình kinh doanh và phát triển được lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh cho các ngành dịch vụ khác và nền kinh tế. Có nhiều dịch vụ cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông,...
- Dịch vụ giao thông vận tải: Đầu tư để duy trì, củng cố, nâng cấp và phát triển có trọng điểm cơ sở vật chất hạ tầng giao thông vận tải. Hình thành một số cảng biển theo mô hình cảng mở, từng bước gia tăng dịch vụ chuyển tải. Từng bước mở cửa thị trường, thu hút sự tham gia của các hãng hàng không quốc tế.
- Dịch vụ xây dựng: Tạo lập khuôn khổ pháp lý và động lực thúc đẩy phát triển các hoạt động đầu tư xây dựng, hình thành thị trường xây dựng với quy mô ngày càng rộng lớn, đa dạng, phong phú; tiếp tục mở rộng phân cấp, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia xây dựng nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả xây dựng.
- Dịch vụ bưu chính, viễn thông: Xây dựng, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin rộng khắp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các dịch vụ nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển ứng dụng công nghệ thông tin theo những mục tiêu của Chiến lược phát triển Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Dịch vụ khoa học công nghệ: Tập trung phát triển mạnh các loại hình dịch vụ khoa học công nghệ nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như các hoạt động liên quan tới bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, trình diễn công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn khoa học công nghệ, môi giới, xúc tiến công nghệ; các loại hình tổ chức hỗ trợ ươm tạo công nghệ, khởi lập doanh nghiệp; từng bước xây dựng thị trường chuyển giao công nghệ. Các hoạt động đào tạo, huấn luyện cán bộ kỹ thuật, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức quản lý kinh doanh.
Trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng thì dịch vụ tài chính ngân hàng được coi là dịch vụ nền tảng tạo nên sức mạnh thực sự của nền kinh tế:
-Dịch vụ ngân hàng: Đẩy mạnh việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán qua ngân hàng, tăng cường các tiện ích ngân hàng nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả cá nhân người tiêu dùng, sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong quan hệ thương mại, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút kiều hối. Nâng cao khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn, đồng thời đơn giản hóa các quy trình, thủ tục nhằm tiếp tục mở rộng các hoạt động cấp tín dụng theo hướng an toàn, hiệu quả phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước, chuẩn bị cho quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, nhất là khi thực hiện các cam kết theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các cam kết sau khi gia nhập WTO.
- Dịch vụ tài chính: Tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; điều chỉnh cơ chế, chính sách để thị trường tài chính và thị trường dịch vụ tài chính hoạt động phù hợp với điều kiện của nền kinh tế và thực hiện các cam kết quốc tế về tài chính và dịch vụ tài chính. Vì vậy cầntập trung hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, đặc biệt là chính sách tài chính doanh nghiệp, phát triển thị trường dịch vụ tài chính, hỗ trợ kinh doanh sẽ được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư, bao gồm dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán - kế toán, tư vấn thuế. Thị trường vốn cũng sẽ được nghiên cứu phát triển để tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu, thực hiện chế độ công khai và minh bạch chính sách, tạo lòng tin với các nhà đầu tư.
Kết luận
Một trong những quy định khi trở thành thành viên chính thức của WTO là Việt Nam phải thực hiện mở cửa thị trường nội địa, khuyến khích cạnh tranh, chống độc quyền, hiện đại hoá trong nhiều lĩnh vực dịch vụ. Xây dựng được một thị trường dịch vụ hiện đại chất lượng cao là bước chuyển biến cơ bản tạo nên sự khác biệt giữa nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế phát triển.
Trong quá trình củng cố, tăng cường và phát triển thị trường dịch vụ, Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều thách thức về chính trị, tư tưởng do hạn chế về khả năng điều tiết, thiếu cọ xát với cạnh tranh quốc tế, nền kinh tế thị trường của Việt Nam ở trình độ thấp và đang trong quá trình hình thành… Thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước, phát huy nội lực của cả dân tộc cũng như tăng cường thể chế thị trường, giảm độc quyền, tăng cường tính cạnh tranh,... sẽ tạo ra những chuyển biến trong ngành dịch vụ đồng thời tăng cường sức sống, tạo đà cho kinh tế Việt Nam đạt được những thành tựu mới trong phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Tài liệu tham khảo chính
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện kinh tế thế giới, TS Phạm Thái Quốc: Trung Quốc- Quá trình CNH trong 20 năm cuối thế kỷ XX, NXB Khoa học xã hội, 2001
Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc, TS Nguyễn Kim Bảo: Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc giai đoạn năm 1992 - 2010, NXB KHXH, 2004
Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, PGS TS Nguyễn Văn Hồng: Trung Quốc - Cải cách mở cửa những bài học kinh nghiệm, NXB Thế giới 2003
Việt Nam trong thế kỷ XX - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ CNH, HĐH
Christine Hope, Alan Muhle: Doanh nghiệp dịch vụ - Nguyên lý điều hành, NXB thống kê, 2001.
Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS.TS Phạm Văn Dũng: Kinh tế Chính trị tập 1 và tập 2, NXB ĐHQGHN, 2002
Viện nghiên cứu hành chính, TS Lê Chi Mai: Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước. Vấn đề và giải pháp, NXB Lao Động - Xã hội, 2002
Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung Ương, TS Đinh Văn Ân: Việt Nam tích cực gia nhập WTO trong một số lĩnh vực dịch vụ: Bưu chính Viễn thông, Du lịch, Bảo hiểm, Y tế, NXB CIEM, 2003
Tư liệu thống kê Kinh tế - Xã hội 64 tỉnh và thành phố Việt Nam, NXB Thống kê, 2005
Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2004 -2005
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương 1. tổng Quan ngành dịch vụ và sự phát Triển của ngành dịch vụ 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ 4
1.2. Các loại hình dịch vụ 6
1.3.Tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
ngành dịch vụ 8
1.4.Vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại 11
Chương 2: phát triển ngành dịch vụ ở trung quốc – bài học kinh nghiệm đối vơi Việt Nam 18
2.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH - tiền đề phát triển
ngành dịch vụ hiện đại ở Trung Quốc 18
2.2.Chính sách và biện pháp phát triển ngành dịch vụ ở Trung Quốc 21
2.3.Những thành tựu và những tồn tại trong phát triển lĩnh vực dịch vụ
ở TrungQuốc 25
2.4.Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ ở Trung Quốc 31
Chương 3: phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam 35
3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ ở Việt Nam 35
3.2.Thời cơ và thách thức khi phát triển ngành dịch vụ trong nền kinh tế
hiện đại 39
3.3. Những nỗ lực của Việt Nam nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành và
mở cửa lĩnh vực dịch vụ 49
Chương 4.Một số giải pháp phát triển lĩnh vực dịch vụ
ở Việt Nam 57
4.1. Xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 58
4.2. Tiếp tục thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước 60
4.3. Giảm tối đa tình trạng tham nhũng 61
4.4. Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh
của lĩnh vực dịch vụ 61
4.5.Hoàn chỉnh khung pháp lý trong lĩnh vực dịch vụ 63
4.6. Cải cách DNNN đặc biệt là các DNNN kinh doanh dịch vụ 64
4.7. Phát triển những lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng then chốt 66
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24793.doc