Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một trong những nhiệm vụ hàng đầu ở nước ta là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [27, tr.9].
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, t
114 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng trưởng kinh tế nhanh, tạo tiềm lực kinh tế đủ mạnh từng bước hội nhập kinh tế quốc tế để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, con đường mà chúng ta đã lựa chọn. Trên cơ sở đó từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền núi Tây Bắc, có nhiều dân tộc anh em, tỉnh Yên Bái có nhiều tiềm năng về kinh tế, có vị trí quan trọng về chính trị, quốc phòng và an ninh. Do vậy, việc tổng kết thực tiễn, vận dụng lý luận vào cuộc sống rút ra những bài học, kinh nghiệm để phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với cả lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn vấn đề: "Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua xoay quanh vấn đề "Phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập. Những kết quả nghiên cứu này có giá trị lịch sử nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động biến đổi và phát triển nên mọi kết luận tổng kết vẫn cần được bổ sung, phát triển.
Những công trình, bài viết tiêu biểu xoay quanh vấn đề này là: Nghiên cứu về biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Luận án phó tiến sĩ, Nguyễn Tĩnh Gia, 1987); Nghiên cứu về quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng (Luận án phó tiến sĩ, Bùi Chí Kiên, 1996); Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn (Luận án tiến sĩ, Nông Thị Mồng, 2000); Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta (Luận án tiến sĩ, Vi Thái Lang, 2002); Nghiên cứu nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Luận án tiến sĩ, Đoàn Văn Khái, 2000); … Lê Xuân Đình, Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, Tạp chí Cộng sản, số 5 (03/1999); Lê Huy Ngọ, Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới, Tạp chí Cộng sản số 3 (02-1999), Nguyễn Cảnh Hồ, có phải khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, Tạp chí Triết học, số 2 (02/2002); Lê Văn Dương, vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Tạp chí Triết học, số 1 (01/2002)…. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Lương Xuân Quỳ, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng, xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002...
Song, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên bàn về việc phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới dạng một luận văn khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích đề tài: Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, luận văn phát hiện vấn đề nảy sinh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Yên Bái.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của lực lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội.
+ Phân tích, đánh giá sự phát triển lực lượng sản xuất của Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chỉ ra những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái.
+ Phân tích triển vọng, phương hướng và giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay (tất nhiên đặt nó trong quan hệ với quan hệ sản xuất).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển lực lượng sản xuất. Đề tài còn kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các bài viết đã được công bố có liên quan đến đề tài.
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử để phân tích, đánh giá sự phát triển của lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái. Ngoài ra luận văn còn sử dụng những phương pháp khác như thống kê, khảo sát, tổng hợp so sánh.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái, xu hướng vận động và phát triển của lực lượng sản xuất thời kỳ CNH, HĐH ở tỉnh Yên Bái.
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp đặc thù sự phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về lực lượng sản xuất và vai trò của lực lượng sản xuất đối với CNH, HĐH.
- Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các ban ngành của tỉnh tham khảo trong việc hoạch định các chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng thời luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Mác - Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Vai trò của lực lượng sản xuất đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1. Vị trí của lực lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất
Quan niệm duy vật lịch sử chỉ ra rằng: "Cái sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc..." [56, tr.166]. Điều đó có nghĩa là để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất là hành vi đầu tiên của con người cũng như lịch sử loài người. Trong quá trình sản xuất con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi đời sống xã hội, đồng thời biến đổi chính bản thân mình.
Sự sản xuất ra đời sống bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái biểu hiện ra là một quan hệ "kép"; quan hệ với tự nhiên và quan hệ với xã hội, quan hệ với xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều người, kể cả là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì ? Trong đó quan hệ của con người với tự nhiên trong sản xuất được biểu hiện là lực lượng sản xuất, còn quan hệ giữa người với người trong sản xuất được biểu hiện là quan hệ sản xuất. Trong quan hệ "kép" này, vai trò quyết định cuối cùng thuộc về lực lượng sản xuất của xã hội bởi lẽ "Tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được quyết định trạng thái xã hội" [52, tr.42]. Vậy lực lượng sản xuất là gì ? Quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề này như thế nào?
Khi nói tới hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.ănghen và Lênin không bàn nhiều về định nghĩa và các khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà các ông trình bày thông qua quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với việc vận dụng phép biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề của lịch sử đã làm cho C.Mác và Ph.ănghen tiến một bước vượt bậc so với những nhà tư tưởng trước.
Thuật ngữ "lực lượng sản xuất" lần đầu tiên được C.Mác nêu lên trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức và được phát triển làm rõ thêm ở trong các tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học", "Lao động làm thuê và tư bản", "Tiền công, giá cả và lợi nhuận" và nhất là trong "Bộ tư bản". Thông qua việc phân tích, làm rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất mà C.Mác đã chỉ ra bản chất của lực lượng sản xuất. Nhưng khái niệm lực lượng sản xuất chưa được C.Mác phát biểu một cách hoàn chỉnh dưới dạng định nghĩa do vậy còn nhiều quan điểm khác nhau về lực lượng sản xuất. Trong lịch sử phát triển của triết học các nhà triết học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về lực lượng sản xuất. Về các định nghĩa khác nhau của lực lượng sản xuất nhiều luận văn, luận án trước đã trình bày. ở đây theo chúng tôi hiểu, lực lượng sản xuất là hệ thống phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội nhất định.
Nó là hệ thống những phương thức kết hợp chứ không phải chỉ một kiểu kết hợp. Hình thức biểu hiện của lực lượng sản xuất đó là quan hệ giữa con người và tự nhiên, C.Mác viết: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người ta và giới tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [58, tr.266]. Nghĩa là con người phải dựa vào tự nhiên, có mối quan hệ gắn bó với giới tự nhiên, trao đổi chất với tự nhiên. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong đó con người tác động vào tự nhiên biến đổi tự nhiên phục vụ chính bản thân mình hay còn là quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra thiên nhiên thứ hai (tạo ra của cải vật chất mới được gọi là lực lượng sản xuất).
Lực lượng sản xuất bao gồm lao động sống (người lao động với kỹ năng và kinh nghiệm lao động của họ) và tư liệu sản xuất (công cụ lao động, đối tượng lao động, phương tiện sản xuất). Ngày nay khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Nhân tố đầu tiên của lực lượng sản xuất chính là người lao động - yếu tố giữ vị trí hàng đầu, chủ yếu của lực lượng sản xuất. V.I. Lênin nói: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" [50, tr.430]. Vì chỉ có con người và xã hội loài người mới có sản xuất, "Điều khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi con người sản xuất" [60, tr.241].
Trong quá trình tác động vào tự nhiên sản xuất ra của cải vật chất, con người không chỉ với cơ bắp sức lực mà còn dùng cả những tri thức, kinh nghiệm kỹ năng, kỹ xảo để tác động vào tự nhiên, tạo ra những sản phẩm vật chất có hiệu quả nhất. Chính con người tạo ra tất cả những phương tiện máy móc, tạo ra công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động, tạo ra phương tiện sản xuất để cho hoạt động sản xuất của con người ngày một nâng cao. C.Mác viết: "Một vật do bản thân tự nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự hoạt động của con người, khí quan mà con người đem chắp vào những khí quan của cơ thể mình, và do đó kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ thể đó…" [58, tr.268].
Những tư liệu sản xuất dù quan trọng đến đâu thì riêng bản thân chúng cũng không tạo ra được của cải vật chất, nó chỉ có tác dụng khi con người sử dụng.
Cùng với việc tạo ra công cụ sản xuất, con người còn sử dụng những công cụ đó để làm ra của cải vật chất cho xã hội. Từ những công cụ thủ công bằng đá, bằng đồng, bằng sắt, con người tiến tới chế tạo máy móc với kỹ thuật mới, công nghệ mới. Trên cơ sở vận dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, ngày nay con người bước những bước kỳ diệu trong việc chinh phục tự nhiên. Cũng chính sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật sản xuất đòi hỏi lao động của con người trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Mà trí tuệ con người không phải là cái gì siêu nhiên, nó là sản phẩm của tự nhiên của lao động, trí tuệ hình thành và phát triển cùng với lao động làm cho sản phẩm của lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao. Do đó người lao động cần phải được tăng cường tri thức trên mọi lĩnh vực.
Trong lực lượng sản xuất, con người và tư liệu sản xuất có mối liên hệ hữu cơ. Nó chính là hệ thống những phương thức kết hợp trong quá trình sản xuất của cải vật chất của xã hội. Trong lực lượng sản xuất, cụ thể trong tư liệu sản xuất công cụ lao động là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, nó chính là tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người.
Công cụ lao động là cái vật hóa trí tuệ và tài năng sáng tạo của con người. Với mục đích tăng năng suất lao động và giảm cường độ lao động, con người đã sáng tạo ra công cụ lao động. Nhờ đó công cụ lao động ngày càng được cải tiến hiện đại. Trình độ của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào" [58, tr.269].
Công cụ lao động là cầu nối giữa người lao động với đối tượng lao động. Để tác động vào đối tượng lao động bắt buộc con người phải sử dụng công cụ lao động, để cải biến những vật liệu sẵn có trong tự nhiên thành những vật phẩm theo yêu cầu mục đích sử dụng của con người. Công cụ lao động hiện thực hóa cái trừu tượng của tư duy con người. Sức mạnh vật chất bao giờ cũng là sức mạnh hiện thực. Khi công cụ sản xuất thay đổi hoàn thiện và phát triển thì kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động cũng thay đổi, phát triển hoàn thiện và được nâng cao. Công cụ lao động (công cụ sản xuất) có thể là một vật thể hay là một phức hợp những vật thể (tùy theo tính chất của việc sản xuất sản phẩm). Nó có nhiệm vụ dẫn truyền sự tác động của con người với đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.
Lịch sử phát triển loài người được đánh dấu bằng những mốc quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động. Thời trung cổ, công cụ lao động giản đơn thô sơ lạc hậu như vật liệu bằng đá, bằng đồng, bắng sắt. Thời cận, hiện đại công cụ bằng máy móc, hơi nước, máy dệt… Ngày nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhiều công cụ lao động phát triển thành hệ thống thiết bị tự động và ngày càng phát triển. Người lao động dần tách khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, đóng vai trò kiểm tra và điều hành sự vận động của hệ thống tự động.
Trong tư liệu sản xuất nếu yếu tố công cụ lao động là cầu nối giữa người lao động với đối tượng lao động thì đối tượng lao động cũng thể hiện rõ rệt vai trò của nó. C.Mác nói: "Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta được thực hiện, trong đó lao động của anh ta được triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm" [62, tr.130]. Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người. Đối tượng của lao động tồn tại dưới hai dạng, trước hết là dạng có sẵn trong tự nhiên, con người tách nó ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên và biến thành sản phẩm như gỗ trong rừng nguyên thủy, quặng dưới lòng đất, tôm cá dưới sông biển… Thứ đến là dạng đã trải qua lao động chế biến như than trong nhà máy nhiệt điện, sắt, thép, để chế tạo máy móc. Đối tượng lao động thuộc dạng này còn gọi là nguyên liệu. Chúng thuộc đối tượng của các ngành công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, không phải mọi dạng vật chất có sẵn trong tự nhiên đều là đối tượng lao động mà chỉ có những dạng vật chất có khả năng tạo ra những vật phẩm theo những mục đích, yêu cầu đáp ứng những nhu cầu nào đó của con người, và được con người tác động, khai thác, cải tạo thì chúng mới trở thành đối tượng của lao động. Khi khoa học công nghệ càng cao, sản xuất xã hội càng phát triển, khả năng cải tạo tự nhiên của con người ngày càng lớn thì khi đó ngày càng nhiều dạng vật chất trở thành đối tượng lao động.
Cũng cần lưu ý rằng mọi nguyên liệu đều là đối tượng của lao động nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. C.Mác nói: "Mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. Đối tượng của lao động chỉ trở thành nguyên liệu khi đã trải qua một sự biến đổi nào đó do lao động gây ra". Trong tương lai nguyên liệu tự nhiên cạn kiệt và được thay bằng những vật liệu không có trong tự nhiên, tương lai sử dụng những nguyên liệu "nhân tạo" thay thế cho dạng nguyên liệu truyền thống, tuy nhiên những nguyên liệu "nhân tạo" đó cũng đều bắt nguồn từ tự nhiên.
Trong tư liệu sản xuất, ngoài công cụ lao động và đối tượng lao động còn có phương tiện sản xuất, kết cấu hạ tầng bao gồm: hệ thống dịch vụ, đường xá, cầu cống, bến bãi, nhà kho, thông tin… những yếu tố này không trực tiếp tạo ra sản phẩm. Trước đây nó chỉ mang nghĩa dịch chuyển giá trị bên ngoài, không được coi trọng thì nay được nhận thức lại và thấy rằng nó có ảnh hưởng lớn tới giá trị sản phẩm, đến sản xuất, nó là yếu tố nội sinh của quá trình sản xuất, góp phần tạo ra giá trị mới. Sản phẩm hàng hóa làm ra chính nhờ kết cấu hạ tầng này mà có thể tăng giảm giá trị sản phẩm, dịch chuyển… Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay, lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm đối tượng lao động, phương tiện và công cụ lao động, con người lao động với những tập quán, thói quen, kỹ năng kinh nghiệm và tri thức lao động của mình mà còn có cả yếu tố khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. C.Mác đã dự đoán khoa học sẽ trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác và ăngghen viết: "Những lực lượng sản xuất, nhất là những phát minh, đã đạt được một địa phương có mất đi hay không đối với sự phát triển sau này điều đó chỉ phụ thuộc vào sự mở rộng của giao tiếp thôi" [52, tr.79]. C.Mác đã chỉ rõ điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất:
Những lực lượng tự nhiên như hơi nước, nước,… được áp dụng vào quá trình sản xuất cũng không tốn kém gì cả. Nhưng con người cần có phổi để thở, thì tư bản cũng cần có "một sản phẩm của bàn tay con người", để có thể tiêu dùng một cách sản xuất những lực lượng của tự nhiên. Cần phải có một cái xe nước để có thể lợi dụng được sức đẩy của nước, cần phải có một máy hơi nước để có thể lợi dụng được tính đàn hồi của hơi nước. Đối với khoa học thì cũng giống như đối với các lực lượng tự nhiên [58, tr.557].
Rồi Mác đưa ra dẫn chứng cụ thể: "Nhưng việc lợi dụng những quy luật đó vào điện báo,... đòi hỏi phải có những máy móc rất nhiều tiền và cồng kềnh" [58, tr.557].
Ngày nay những dự đoán thiên tài của C.Mác đã trở thành hiện thực. Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến lượt nó lại có tác động mạnh mẽ đối với hoạt động sản xuất. Khoa học trong thời đại ngày nay đã rút ngắn khoảng cách đến tối thiểu từ sáng chế, phát minh đến ứng dụng vào sản xuất, đem lại hiệu quả nhanh. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học nó đã tác động to lớn đến mọi lĩnh vực sản xuất, tạo điều kiện cho những nước chậm phát triển có thể đi tắt đón đầu, "bứt phá" trong ứng dụng những thành quả của khoa học công nghệ vào sản xuất.
Khoa học chỉ thể hiện được vai trò to lớn của mình khi nó thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, thẩm thấu vào cả những yếu tố quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nâng trình độ người lao động, cải tiến công cụ lao động, cải tạo đối tượng lao động, phương tiện sản xuất… Nó thâm nhập vào tư duy lãnh đạo quản lý, điều hành sản xuất và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội để tạo ra sự thay đổi to lớn về kinh tế xã hội từ đó tìm ra những xu hướng vận động của nền kinh tế để đưa ra những chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp.
Khoa học không chỉ tạo ra những hàng hóa thông thường mà còn tạo ra một loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa chất xám phi vật thể. Với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu được của lao động sản xuất, lao động trí tuệ đang dần trở thành lao động chủ yếu. Lao động cơ bắp mặc dù không bị mất đi nhưng dần dần được thay thế bằng lao động trí tuệ của nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đang và sẽ là một nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên nhưng vẫn tạo ra một khối lượng của cải đồ sộ. Điều này khẳng định trí tuệ của con người đang là nguồn lực to lớn của sản xuất vật chất và hoạt động xã hội. Cho nên con người chính là yếu tố hàng đầu, chủ yếu của lực lượng sản xuất. Có thể thấy khoa học công nghệ hiện đại đã quyết định đến sự phát triển sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhưng nó không phải là yếu tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Công nghệ tiên tiến và hiện đại chỉ làm tăng thêm khả năng chinh phục tự nhiên của con người, giúp con người ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất, khám phá những hiện tượng, khả năng mới của con người chứ không thay thế được hoàn toàn hoạt động sản xuất của con người. Khoa học kỹ thuật hiện đại chỉ thay thế cho con người những hoạt động nặng nhọc, phức tạp giúp con người có điều kiện để phát triển trí tuệ, học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, các yếu tố của lực lượng sản xuất không tách rời nhau mà chúng có quan hệ qua lại tác động hỗ trợ nhau để cùng tồn tại và phát triển. Với ý nghĩa đó, lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
1.1.2. Phát triển lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định cuối cùng sự phát triển xã hội
Sản xuất vật chất không ngừng biến đổi. Sự biến đổi đó, xét cho cùng luôn phải bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định cuối cùng của phát triển xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mình. Khi phân tích khái niệm lực lượng sản xuất, Ph.Ăngghen đã sử dụng khái niệm tính chất và trình độ. Khi sản xuất công cụ ở trình độ thủ công thì lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt trình độ cơ khí hóa thì lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa. Ngày ngay lực lượng sản xuất đạt tính quốc tế hóa. Trình độ của lực lượng sản xuất và tính chất của lực lượng sản xuất không tách rời nhau nó phụ thuộc lẫn nhau.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi và phát triển đó trước hết bằng những sự thay đổi và phát triển của công cụ lao động. Cho nên lực lượng sản xuất là yếu tố động hơn và cách mạng hơn cả của sản xuất vật chất. Trong khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định, sự ổn định được duy trì trong khi lực lượng sản xuất luôn vận động biến đổi phát triển đã hình thành mâu thuẫn cơ bản của một phương thức sản xuất (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Mâu thuẫn càng phát triển thì quan hệ sản xuất càng trở thành xiềng xích, trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sản xuất đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời (là xiềng xích trói buộc) bằng một quan hệ sản xuất mới thích ứng với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Quá trình đó chính là sự thay thế một phương thức sản xuất cũ lỗi thời bằng một phương thức sản xuất mới cao hơn. C.Mác viết:
Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội [55, tr.15].
Lực lượng sản xuất phát triển làm thay đổi quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất thay đổi cho phù hợp lực lượng sản xuất làm thay đổi cả phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất thay đổi làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng thay đổi phù hợp với cơ sở hạ tầng làm thay đổi cả hình thái kinh tế xã hội -làm thay đổi toàn bộ xã hội cả vật chất lẫn tinh thần.
Ngày nay sự phát triển lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa của toàn cầu hóa. Song, toàn cầu hóa lại tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất. Nó thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng ngày càng cao cho nền kinh tế thế giới. Đầu thế kỷ XX, GDP thế giới tăng 2,7 lần nhưng đến những năm cuối thế kỷ XX thì GDP đã đạt 5,2 lần, gấp 2 lần so với những năm đầu thế kỷ. Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất , nhất là trong xu thế toàn cầu hóa những nước đang phát triển có thể tiếp nhận các nguồn lực về vốn, công nghệ, về con người để tạo đà phát triển cho mình. Những năm 70 của thế kỷ XX tốc độ tăng trưởng kinh tế của những nước đang phát triển từ 2,9%/năm thì đến những năm 90 đã lên đến 5%/năm.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển góp phần từng bước củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất. Hiện nay dưới tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa, lực lượng sản xuất phát triển càng nhanh chóng, thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo và phát triển xã hội.
Thực tế đã chứng minh từ khi nhìn nhận lại một cách đúng đắn mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất, chúng ta phát triển lực lượng sản xuất nhưng đồng thời tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp thì nền kinh tế Việt Nam có những bước tăng trưởng vượt bậc.
1.1.3. Yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất trong điều kiện cụ thể nước ta vô cùng cần thiết. Ngay từ khi miền Bắc bắt đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta coi công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. “Để đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” [16, tr.65]. Với chúng ta, mục tiêu công nghiệp hoá là xây dựng một nền sản xuất lớn XHCN trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Để công nghiệp hoá thuận lợi thì phải xác định các bước đi và hình thức đi thích hợp.
Đối với các nước có nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, sau khi cách mạng XHCN nổ ra, việc thay thế các quan hệ sản xuất TBCN bằng quan hệ sản xuất XHCN là có thể tạo ra được sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất đã xã hội hoá và quan hệ sản xuất mới. Nhưng ở các nước từ sản xuất nhỏ lên CNXH như Việt Nam không qua giai đoạn phát triển TBCN thì không chỉ xây dựng các quan hệ sản xuất mới mà còn phải xây dựng, phát triển cả lực lượng sản xuất vì lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công manh mún, công nghiệp chưa phát triển.
Sau khi cả nước thống nhất, Đại hội IV cũng nhấn mạnh “phải xây dựng từ đầu cả lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới” nhưng không phải tất cả đều được nhận thức và làm như vậy.
Do nhận thức không đầy đủ sản xuất trì trệ, tăng trưởng kinh tế thấp, thiếu lương thực đến mức phải nhập khẩu với số lượng lớn. Hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu nghiêm trọng, vốn đầu tư cho công nghiệp không đủ. Nhiều công trình không được hoàn thành mà phải dừng giữa chừng, kéo dài vì thiếu vốn. Ngân sách thiếu hụt, lạm phát gia tăng. Đất nước đang đứng trước những khó khăn lớn về mặt kinh tế. Chúng ta phải mau chóng phá bỏ trì trệ, bảo thủ, đề ra đường lối đúng đắn, phát động quần chúng nhân dân bắt tay vào hành động cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra, muốn chuyển biến được một thực trạng kinh tế hiện nay phải “tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, một năng suất lao động xã hội cao hơn, ngay trong khi chưa có nền đại công nghiệp” [18, tr. 55].
Đảng ta đưa ra chủ trương phát triển lực lượng sản xuất trong Đại hội Đảng lần thứ V là Đảng ta đã nhận thức được vai trò của lực lượng sản xuất mới là tạo ra được một năng suất lao động cao hơn, nhưng khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ sản xuất nhỏ manh mún thì phải nhận thức mối quan hệ giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất, từ đó Đảng đưa ra chủ trương đường lối phát triển lực lượng sản xuất:
Điều quan trọng nhất, việc có thể là cần phải làm trước tiên là làm chủ tập thể để sử dụng hợp lý và có hiệu quả lao động và đất đai, mở rộng ngành nghề, tại từng cơ sở, trên từng địa phương và trong cả nước; để mọi người lao động đều có việc làm, mọi đất đai đều được khai thác, mọi ngành nghề đều được phát triển cả chiều rộng, lẫn chiều sâu, tạo năng suất lao động xã hội cao hơn, giá trị tổng sản lượng lớn hơn, cơ cấu sản phẩm phong phú hơn. Như vậy, cần phải tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong một cơ cấu kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng [18, tr.55-56].
Từ Đại hội VI đến nay, đường lối phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng đã khắc phục những thiếu sót khuyết điểm, từng bước đổi mới phương thức thực hiện phù hợp với thực tiễn đất nước và tình hình thế giới đã và đang có nhiều biến đổi. Thực hiện phát triển lực lượng sản xuất đồng thời tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
Với đặc điểm chủ yếu của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay là sản xuất nhỏ, thủ công phân tán, phân bổ không đều. Mà theo quan điểm chủ nghĩa ._.Mác - Lê nin, lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định cuối cùng đối với sự phát triển xã hội. Một nền sản xuất phát triển cao trước hết phải dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Cho nên phát triển xã hội trước hết phải ưu tiên tập trung cho phát triển lực lượng sản xuất, xác lập quan hệ sản xuất cũng nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất.
Đặc trưng của CNXH là có nền sản xuất cao, dựa trên lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại. Với đặc điểm của lực lượng sản xuất nước ta, việc tập trung phát triển lực lượng sản xuất là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI nhấn mạnh: Trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo, xây dựng phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, tạo lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát triển. Tiếp văn kiện Đại hội VII, VIII đều nhấn mạnh phải phát triển lực lượng sản xuất. Đến Đại hội IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [27, tr.24]. Điều này có nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất từ đó xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chống chủ quan duy ý chí nóng vội trong cải tạo quan hệ sản xuất.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất là trong thời kỳ hiện nay, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất là vô cùng quan trọng, nó là một tất yếu khách quan, đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?
Ngay từ thế kỷ XVIII một số nước đã tiến hành công nghiệp hoá, mở đầu là nước Anh bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Thực chất của công nghiệp hoá trong thời kỳ đó là quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp với kỹ thuật thủ công sang nền kinh tế cơ bản dựa trên công nghiệp với kỹ thuật máy móc.
ở Việt Nam ngay từ những năm 60, Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ...” [16, tr.182-183].
Đến đại hội IV tiếp tục khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp [17, tr.68].
Đại hội IV đường lối công nghiệp hoá XHCN đã có sự điều chỉnh sát hơn, hợp lý hơn.
Đại hội III và IV của Đảng đã khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhưng đến Đại hội V của Đảng, nội dung công nghiệp hoá XHCN mới được xác định một cách cụ thể rõ ràng hơn: “Trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80 cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là một mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý". Đó là những nội dung chính của công nghiệp hoá trong chặng đường trước mắt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng ta về CNXH. Tư tưởng chủ đạo của các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu qủa sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đại hội chỉ rõ: “... nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu khái quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” [19, tr.42].
Đến Đại hội VII của Đảng thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Các Nghị quyết Trung ương khoá VII đã tiếp tục khẳng định và làm rõ quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cương lĩnh chỉ rõ:
.... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân [21, tr.9].
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ hoá VII, Đảng ta đưa ra khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội nghị khẳng định: “Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục, những thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [22, tr.22].
Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đảng ta dùng khái niệm “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nhưng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” là gì thì chưa được xác định thật rõ tại Hội nghị này.
Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định rõ tại Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (tháng 7 năm 1994). Nghị quyết đã chỉ rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [22, tr.65].
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp - những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH. Nội dung cơ bản là cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao.
Nghị quyết cũng xác định:
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh [22, tr.70].
Từ khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xác định rõ tại Hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đến Đại hội VIII và Đại hội IX tiếp tục cụ thể hoá hơn về nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội VIII khẳng định nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [24, tr.67- 68]. Đại hội IX khẳng định “phát triển kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm” [25, tr.91].
Vậy công nghiệp hoá là gì? hiện đại hoá là gì ? Vì sao nhất thiết phải gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Đã có những thời kỳ chúng ta chỉ có công nghiệp hoá mà không tính đến hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Hiện đại hóa là làm cho các quá trình kinh tế - xã hội mang tính chất hiện đại. Hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân làm cho kỹ thuật và trình độ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế đạt được trình độ tiên tiến của thời đại. Ngoài mặt kinh tế, kỹ thuật, hiện đại hoá còn bao gồm cả phương diện kinh tế - xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất, đã có thời kỳ chúng ta chỉ nói tới công nghiệp hoá với kỹ thuật cơ bản, với cơ chế quản lý theo lối hành chính, mệnh lệnh, quan liêu bao cấp thì nay chúng ta nói công nghiệp hoá luôn gắn với hiện đại hoá. C.Mác đã chỉ ra rằng:
Những thời đại kinh tế khác nhau, không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao động không những là thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành [58, tr.269-270].
Với Việt Nam hiện nay, công nghiệp hoá nhất thiết gắn với hiện đại hoá. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã chỉ ra:
Công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp những bước tiếp tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới [22, tr.27].
Có thể thấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình làm chuyển đổi căn bản toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt, có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ, giữ vững ổn định kinh tế - tài chính, môi trường... xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước [27, tr.91-92].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu để tiến tới xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đồng thời là quá trình giải quyết hàng loạt mối quan hệ nhà nước và thị trường, sở hữu và kinh doanh, giữa việc phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa phát triển kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội, phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, giữa truyền thống và hiện đại, đòi hỏi phải được giải quyết. Nhưng yếu tố quyết định tác động trực tiếp đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó chính là lực lượng sản xuất, nó đảm bảo thành công hay thất bại của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng chính là nhân tố tạo bước nhảy về chất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.2.2. Sự tác động của lực lượng sản xuất (xét trong quan hệ với quan hệ sản xuất) đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất để làm chuyển đổi mọi mặt đời sống xã hội.
Để tiến hành sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với giới tự nhiên mà còn có quan hệ với nhau tức là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm lao động làm thuê và tư bản, C.Mác viết:
Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất [54, tr.552].
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã chỉ ra: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ, những quan hệ sản xuất” [54, tr.553].
Có thể thấy quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất vật chất, quan hệ tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ này được biểu hiện trên ba mặt, đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu tố cơ bản nhất, đặc trưng cho một quan hệ sản xuất nhất định. Quan hệ này quyết định vị trí của các tập đoàn người khác nhau trong sản xuất, trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động, trong phân phối sản phẩm xã hội. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất biểu hiện thành chế độ sở hữu, là đặc trưng của một phương thức sản xuất. Chính quan hệ sở hữu - quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội và trong xã hội nói chung.
Từ trước tới nay, lịch sử đã có hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó mọi tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên trong cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, sở hữu tư nhân thì tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó, vì thế các quan hệ xã hội trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Tạo ra các đối kháng xã hội, trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu, tiềm tàng, trở thành đối địch gay gắt. Đây là nguồn gốc sinh ra đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, trong các chế độ sở hữu tư nhân điển hình trong lịch sử; sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân của chế độ phong kiến; sở hữu tư nhân trong CNTB, thì trong đó sở hữu tư nhân trong CNTB là đỉnh cao của loại sở hữu này. CNXH dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, song, quan hệ tổ chức và phân phối sản phẩm cũng tác động trở lại chế độ tư hữu. Vì:
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt quản lý sản xuất, tổ chức là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quan hệ quản lý sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan hệ về mặt phân phối sản phẩm cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu, vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất song, do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của các quá trình kinh tế - xã hội.
Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, hoặc trong trường hợp ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mặc dù giữ vai trò quyết định đối với quan hệ trong tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm nhưng nếu quan hệ tổ chức và phân phối sản phẩm không giải quyết đúng đắn sẽ tác động tiêu cực đến quan hệ sở hữu, làm cho quan hệ sở hữu biến dạng. Động lực thúc đẩy hoạt động con người là hoạt động “lợi ích” mà cơ sở là “lợi ích kinh tế”. Do đó, sở hữu tư liệu sản xuất luôn là cơ sở, phương tiện, điều kiện của mọi quan hệ lợi ích. Nhưng quan hệ sở hữu không tự thực hiện được lợi ích của mình mà phải thông qua quan hệ tổ chức quản lý và phân phối. Quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối không đúng, vi phạm lợi ích người lao động thì sở hữu công cộng, tập thể dù có ý nghĩa to lớn đến đâu cũng đều vô nghĩa.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, lực lượng sản xuất tác động mạnh mẽ đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng bao giờ cũng xét trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Vì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất.
Trong quan hệ với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất luôn quyết định sự vận động - biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất, quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy, lực lượng sản xuất biến đổi thì sớm muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo.
Thực tiễn loài người đã chứng minh rằng khuynh hướng sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển, sự biến đổi và phát triển luôn bắt đầu từ lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất biến đổi đến một trình độ nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp đến không phù hợp tạo ra những xiềng xích trói buộc lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất để cởi trói cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Điều đó có nghĩa phải phát triển lực lượng sản xuất rồi mới xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với nó chứ không chủ quan nóng vội xây dựng một kiểu quan hệ sản xuất mới, áp đặt cho nó, sẽ tạo ra những sai lầm như trước những năm đổi mới. Nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay phải phát triển lực lượng sản xuất nhưng đồng thời tạo sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. C. Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất cách kiếm sống của mình loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình” [53, tr.187].
Khác với lực lượng sản xuất luôn luôn vận động biến đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất có tính ổn định tương đối. Nó tác động trở lại với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích, như mục đích sản xuất của đất nước ta hiện nay là để làm sao thúc đẩy hoàn thành nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra một lực lượng sản xuất phát triển cao để xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với nó. Ngoài ra quan hệ sản xuất còn tạo ra một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất nó sẽ thúc đẩy cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Và khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là biểu hiện tính năng động của lực lượng sản xuất - chính sự biến đổi, phát triển lực lượng sản xuất là cơ sở, động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển cả chế độ xã hội và cũng là cơ sở kinh tế bảo đảm thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự tác động của lực lượng sản xuất đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện ở chính các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, các yếu tố con người, công cụ lao động, đối tượng lao động, khoa học công nghệ đều có vai trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng là những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa công cụ lao động phải nhờ có khoa học công nghệ hiện đại tác động vào mới làm cho chúng thay đổi về chất. Và người lao động - cũng như thế phải có khoa học hiện đại tác động vào, nâng hiểu biết của họ lên tầm cao thì chính họ mới tạo ra và sử dụng những công cụ do họ tạo ra trong thực tiễn sản xuất, đáp ứng đòi hỏi mới, cao hơn của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa. Thật vậy, đây là sự tác động biện chứng. Đối tượng lao động (tư liệu sản xuất và phương tiện sản xuất) cũng phải nhờ đến con người với khoa học công nghệ mới phát huy được tiềm năng to lớn của mình phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách hiệu quả nhất. Nên ở đây luận văn chỉ đề cập sự tác động của lực lượng sản xuất đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ yếu là vai trò của người lao động và khoa học công nghệ.
Con người là chủ thể, là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, nên con người chính là động lực cơ bản nhất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với các nguồn lực khác như: đất, nước… khai thác đến một lúc nào đó sẽ cạn kiệt, chỉ có người lao động với trí tuệ, chất xám là có thể tự tái tạo đến vô hạn. Các nguồn lực khác không tự mình trở thành động lực của sự phát triển được mà phải nhờ đến người lao động. Người lao động là lực lượng cơ bản, quyết định nhất với những tri thức, trí tuệ, kinh nghiệm và bản lĩnh của mình xác định mục tiêu nội dung và những cách thức tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa (cụ thể là đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ).
Điều này thể hiện:
- Bồi dưỡng, đào tạo lại lực lượng lao động hiện có và quy hoạch đào tạo mới nguồn nhân lực.
- Góp phần soạn thảo chiến lược, các chính sách của công nghiệp hóa hiện đại hóa; đồng thời cụ thể hóa chúng bằng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể.
- Sáng tạo và tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, ứng dụng chúng vào trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Đưa ra các phương án, biện pháp để điều chính và định hướng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời góp phần giải quyết các mẫu thuẫn nảy sinh trong quá trình này.
- Dự báo những thuận lợi và khó khăn; khả năng, triển vọng phát triển của đất nước và cả nguy cơ nếu có [71, tr.326].
Chính vì vậy, không phát huy nguồn lực con người, không đảm bảo quá trình "Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường" [24, tr.85] thì không thể có thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa sự yếu kém về công nghệ kỹ thuật thì các nước có thể khắc phục được bằng con đường chuyển giao, nhập khẩu... Nhưng còn người lao động với những khả năng sáng tạo của họ thì không thể dễ dàng nhập khẩu hoặc vay mượn được mà phải thuê chuyên gia và đào tạo chuyên gia cho mình. Do đó, người lao động là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội. Là yếu tố quyết định sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không thể không dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học công nghệ hiện đại. Tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã xác định rõ: "Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ" [25, tr.59]. " Khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [25, tr.48]. Khoa học công nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trò then chốt trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nó là phương tiện không thể thiếu được của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hình thái kinh tế - xã hội mới. Khoa học công nghệ chỉ trở thành động lực và có hiệu quả khi nó được áp dụng một cách thích hợp. Đó là quá trình đổi mới công nghệ truyền thống kết hợp với công nghệ hiện đại; đồng thời tranh thủ những cơ hội tốt để "đi tắt đón đầu", tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn, nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu.
Trong điều kiện nước ta và Yên Bái nói riêng còn nghèo, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn yếu kém, trình độ văn hóa - khoa học cũng như đời sống của người lao động còn thấp thì việc lựa chọn phương án phát triển, hướng đầu tư và công nghệ cần được cân nhắc một cách kỹ lưỡng. Cùng với việc phát triển khoa học công nghệ thì phải tạo ra một đội ngũ cán bộ khoa học có đủ trình độ để quản lý nhà nước, tổ chức quản lý nền sản xuất và áp dụng được những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất là một công việc hết sức quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [27, tr.112].
Do vậy lực lượng sản xuất có vai trò to lớn đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất chính là để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Chương 2
Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - thực trạng và vấn đề
2.1. Thực trạng việc phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội
Nằm ở vị trí địa lý 21018' - 22017' vĩ Bắc và 103o56' - 105006' kinh Đông. Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa Tây Bắc và Trung du Bắc bộ. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Lao Cai, phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang; Phía Đông Nam giáp tỉnh Phú Thọ và phía Tây Nam giáp tỉnh Sơn La với tổng chiều dài địa giới giáp các tỉnh nói trên là 710 km (trong đó giáp Lao Cai 252Km, giáp Sơn La 205 km)
Diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh là 6882,922 km2, xếp thứ 4 trong số 11 tỉnh vùng Đông Bắc (sau Lạng Sơn, Lao Cai, Hà Giang). So với các tỉnh và thành phố trong cả nước thì Yên Bái xếp thứ 15. Địa bàn rộng từ trung tâm thành phố đi huyện Mù Cang Chải hơn 200 km, xa hơn đi Hà Nội.
Yên Bái có 9 đơn vị hành chính cấp huyện thị (01 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã phường, thị trấn, 85 xã vùng cao trong đó có 70 xã vùng cao đặc biệt khó khăn, chiếm 74,2% về diện tích và 39,95% về dân số so với toàn tỉnh, bình quân 53người/km2. Toàn tỉnh có 723.480 người với 30 dân tộc anh em cùng chung sống, dân tộc thiểu số chiếm 50,4% dân số toàn tỉnh.
Nằm sâu trong trong nội địa nhưng Yên Bái tương đối thuận lợi về giao thông, là đầu mối và trung độ của các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt đường thủy từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa khẩu Lao Cai, tạo cho Yên Bái có một lợi thế lớn trong việc giao lưu với tỉnh bạn, với các thị trường lớn trong cả nước và quốc tế.
Yên Bái nằm ở vùng núi phía bắc có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được tạo bởi 03 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây có dãy Hoàng Liên Sơn - Pú Luông là dãy núi cao nhất của tỉnh, đỉnh Pú Luông cao 2985m (so với mặt nước biển) nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ con voi nằm kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành hai vùng lớn: Vùng cao và vùng thấp.
- Vùng cao: Là vùng có độ cao trung bình 600m trở lên (so với mặt nước biển) bao gồm 70 xã vùng cao có diện tích tự nhiên chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, đại bộ phận là đồng bào dân tộc thiểu số: Mông, Dao, Khơ Mú... tập quán canh tác lạc hậu, còn du canh du cư, đời sống gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, kết cấu hạ tầng kém phát triển... nhưng ở đây có tiềm năng đất đai, lâm khoáng sản tương đối nhiều và thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
- Vùng thấp: Là vùng có độ cao đưới 600m chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn địa chiếm 32,44% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Dân cư trong vùng này đông đúc, đại bộ phận bộ phận là người Kinh, Thái, Tày, Nùng có tập quán canh tác tiến bộ hơn, đời sống dân cư khá hơn, trình độ dân trí cao hơn, kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng đặc biệt là ở thị trấn, thị xã. Đây là vùng tạo ra tỷ trọng tăng trưởng nền kinh tế của tỉnh.
Ngoài ra, Yên Bái còn nằm trongvùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 22oC- 23oC, Tổng nhiệt độ cả năm từ 7500oC- 8000oC, lượng mưa trung bình 1500mm- 2200mm/năm, độ ẩm trung bình 83% - 87% rất thuận lợi cho việc phát triển nông lâm nghịêp.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là sau khi tái lập tỉnh năm 1991 tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Yên Bái đã thay đổi trên nhiều mặt, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP năm sau cao hơn so với năm trước (tham khảo bảng dưới đây):
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP
Đơn vị tính: %
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005 (ước)
BQ 1 năm (2004- 2005)
Tốc độ tăng trưởng GDP chung
9,15
9,42
9,52
9,71
10,00
9,55
Nhóm nông lâm nghiệp thuỷ sản
5,01
5,51
6,02
5,50
5,50
5,55
Nhóm công nghiệp xây dựng
13,81
15,13
11,32
14,30
14,65
13,85
Dịch vụ
11,17
9,43
12,81
10,6
10,77
10,95
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái, 2004.
Nhìn vào bảng trên có thể thấy kinh tế Yên Bái tăng trưởng qua các năm với tốc độ khá nhanh. Có được thành quả đó là do sự phát huy củ._.ránh tự phát trong đào tạo.
ă Quản lý chặt chẽ hình thức học này, giám sát chặt chẽ các hình thức thi, kiểm tra đồng thời có thể kéo dài thời gian học tập của sinh viên để đạt tới mặt bằng chung về chất lượng.
ă Liên kết với các trường đại học, các trung tâm khoa học của quốc gia để đào tạo, bồi dưỡng nhân lực và áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc chuyển đổi phát triển kinh tế, nhất là vùng cao.
Như vậy, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Yên Bái phải phát triển nguồn nhân lực đạt tới trình độ cao, có đức, có tài, yêu tổ quốc là yêu CNXH. Đó là cơ sở để việc chuyển giao phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào tỉnh được thuận lợi, phát huy tác dụng tốt.
3.2.4. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng vào nông thôn - vùng sâu, vùng xa khơi nguồn nội lực phát triển lực lượng sản xuất của Yên Bái nhằm rút ngắn khoảng cách vùng
Hơn 80% dân số sống ở khu vực nông thôn miền núi thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng vào khu vực này là việc làm vô cùng cần thiết để giảm tối thiểu khoảng cách phát triển giữa các vùng. Từ thực trạng công cụ sản xuất nghèo nàn, lạc hậu chưa phù hợp với điều kiện địa phương, đối tượng lao động phong phú nhưng sự khai thác sử dụng chưa hợp lý, các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng không phát triển kịp, đồng bộ với đô thị hóa... Điều đó làm cho lực lượng sản xuất của Yên Bái chậm phát triển. Thực tế đó đòi hỏi những giải pháp khơi nguồn nội lực phát triển lực lượng sản xuất của tỉnh.
- Phải có hướng nghiên cứu để cải tiến, đưa công cụ lao động vào phục vụ sản xuất kinh doanh. Đi tắt đón đầu ở một số lĩnh vực chế biến khai thác nông lâm nghiệp, công nghiệp.
- Trong quá trình khai thác đối tượng lao động cần lưu ý:
+Khai thác phải tạo điều kiện cho đối tượng lao động vận động theo quy luật khách quan, hoạt động bình thường, tránh tình trạng chỉ theo đuôi để giải quyết hậu quả.
+ Trong quá trình phát hiện ra tiềm năng mới phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các nhà khoa học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước, với tỉnh để tránh sự phản ánh sai lạc tình hình và thực trạng.
+ Tăng cường các biện pháp nhằm tạo điều kiện cho các yếu tố của đối tượng lao động tồn tại, tác động lẫn nhau, đảm bảo khai thác lâu dài phục vụ cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
+ Phải có chiến lược đầu tư một cách hợp lý. Đầu tư đúng trọng tâm theo hướng nông lâm nghiệp, lấy kinh tế đồi rừng làm mục tiêu phát triển (phát triển kinh tế trang trại, chăn nuôi đại gia súc, trồng rừng và bảo vệ rừng, phát triển hàng thủ công mỹ nghệ). Những mặt này là thế mạnh của tỉnh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu của tỉnh. Từ đó, thông qua thị trường trao đổi hàng hóa phục vụ nhu cầu của bà con.
+ Tăng cường các dự án đầu tư hỗ trợ cho vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện chính sách trợ cước, trợ giá, chính sách hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn. Mở rộng và phát triển các cơ sở mua, chế biến nông lâm sản với quy mô thích hợp tại các xã và cụm xã như chế biến chè vùng cao, chế biến lâm sản, hàng thủ công truyền thống. Gắn chế biến với phát triển vùng nguyên liệu, gắn chế biến với sản xuất.
+ Để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển phải chú trọng đầu tư xây dựng các yếu tố nền tảng như giao thông, thủy lợi, điện sinh hoạt, kênh mương. Là những yếu tố làm tăng giá trị hàng hóa, kích thích quá trình tích lũy và lưu thông hàng hóa được thuận lợi.
Với sự thực hiện đồng bộ những giải pháp trên sẽ góp phần làm cho lực lượng sản xuất của tỉnh Yên Bái phát triển, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.5. Phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng kỹ thuật mới vào phát triển sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên và con người ở Yên Bái
Ngày nay, xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế các trang thiết bị, các quy trình, hệ thống công nghệ với năng suất thấp, tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, các chất gây ô nhiễm môi trường bằng những trang thiết bị, hệ thống công nghệ cao, sạch, chứa đựng nhiều hàm lượng tri thức. Cho nên phải phát triển khoa học công nghệ để thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại góp phần hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Thực hiện giải pháp khoa học và công nghệ trong phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn và tỉnh Yên Bái, cần tập trung giải quyết theo những hướng sau:
- Khoa học xã hội và nhân văn phải đi sâu vào nghiên cứu những đặc điểm về phong tục tập quán, ngôn ngữ, văn hóa và những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của từng vùng, để có kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cho phù hợp, khắc phục và bài trừ những hủ tục lạc hậu, những hạn chế về tâm lý, các tệ nạn xã hội tồn tại trong nhân dân. Ngoài ra còn phải tiến hành tổng kết đánh giá quá trình thực hiện đường lối của tỉnh Đảng bộ để đóng góp ý kiến trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh đúng, đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường chưa thâm nhập sâu rộng trong nhân dân, đòi hỏi khoa họ xã hội và nhân văn phải nghiên cứu, phát triển các hình thức quản lý, tổ chức sản xuất, khoa học về thị trường tiếp thị để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Cùng với việc hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất cần có phương hướng đào tạo con người có đức có tài để góp phần phát triển lực lượng sản xuất của tỉnh, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Khoa học tự nhiên và công nghệ hướng vào giải quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu, ứng dụng vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với điều kiện của một tỉnh miền núi, khí hậu khắc nghiệt, các hiện tượng sạt lở, ách tắc giao thông, lượng nước phân bố không đồng đều trong năm. Khoa học tự nhiên và công nghệ phải tìm đến các nguồn nguyên liệu mới, kết cấu mới để khắc phục những hiện tượng trên.
Hệ thống thông tin liên lạc phát triển chậm thì sự ứng dụng của khoa học công nghệ hiện đại sẽ góp phần giảm thiểu nguồn vốn đầu tư, đảm bảo cho các công trình có độ bền vững lâu dài và hiện đại, thúc đẩy thông tin liên lạc phát triển. Do đó, cần phải cải tạo, xây dựng hệ thống giao thông của tỉnh, phát triển hệ thống thông tin liên lạc, sử dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào xây dựng hệ thống thủy lợi và thủy điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Tận dụng những lợi thế vốn có của địa phương như nguồn nguyên vật liệu, năng lượng tự nhiên... vào phát triển kết cấu hạ tầng.
Sự ứng dụng những thành tựu khoa - công nghệ vào xây dựng kết cấu hạ tầng của tỉnh không những tạo điều kiện lực lượng sản xuất của tỉnh phát triển mà còn là sự tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho an ninh quốc phòng.
Do mũi nhọn kinh tế Yên Bái là nông lâm nghiệp nên đòi hỏi khoa học tự nhiên và công nghệ ở đây phải chú trọng phát triển đầu tư vào giống cây trồng, vật nuôi. Sử dụng thành tựu của sinh học hiện đại để lai tạo giống có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - sinh thái và môi trường, tạo ra những hàng hóa có ưu thế trên thị trường. Tránh sự rủi ro trong đầu tư do sự nghiên cứu không chính xác. Đồng thời, tăng cường cải tiến, áp dụng kỹ thuật tiên tiến đối với các công nghệ truyền thống.
Với các sản phẩm nông, lâm nghiệp được thu hoạch theo thời vụ và tươi sống, cho nên đòi hỏi phải bảo quản, chế biến một cách khoa học, đảm bảo đúng quy trình vệ sinh, tránh người dân phải bán rẻ, rồi vì lợi nhuận sử dụng các hóa chất độc hại để bảo quản ảnh hưởng tới sức khỏe người dân. Do đó, phải ứng dụng các thành tựu của khoa học tự nhiên và công nghệ vào việc xây dựng những nhà máy sơ chế hoặc tinh chế nông - lâm sản theo hướng: "ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tíên, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh" [24, tr.85].
Quá trình sản xuất nông - lâm nghiệp của tỉnh còn đòi hỏi khoa học công nghệ phải nghiên cứu, ứng dụng các công cụ phục vụ sản xuất phù hợp với địa phương để tăng năng suất lao động, giảm chi phí và tiêu hao công sức trong làm đất, thu hoạch, vận chuyển...
Ngoài những việc cần làm phải tiến hành sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu (trạm, trại) phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đủ khả năng giải quyết những vấn đề thực tiễn do sản xuất nông nghiệp, nông thôn đặt ra, đặc biệt là nghiên cứu về giống, cây, con.
Hiện nay khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất còn hạn chế về nguồn vốn nên phải tăng mức đầu tư cho lĩnh vực này. Ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước còn động viên khai thác sự đóng góp của các thành phần kinh tế, khuyến khích cá nhân và tập thể mở rộng trao đổi hợp tác khoa học và công nghệ với bên ngoài.
Quá trình đầu tư cho khoa học công nghệ luôn phải gắn với đầu tư cho con người. Con người có trình độ cao sẽ vận dụng, phát huy sáng tạo khoa học phục vụ sản xuất. Do đó, phải tổ chức đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp, bằng nhiều hình thức tại chức, bồi dưỡng ngắn hạn, tham quan, khảo sát thực tế trong và ngoài nước (nếu có điều kiện). Có chính sách sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực sáng tạo công nghệ mới, các cán bộ khoa học và công nghệ phục vụ tại vùng sâu, vùng xa và các địa bàn đặc bịêt khó khăn. Đẩy mạnh phong trào quần chúng thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống nhằm tăng năng suất lao động nâng cao chất lượng sản phẩm. Khuyến khích tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ trao đổi hợp tác khoa học kỹ thuật, khảo sát học tập những khoa học công nghệ mà địa phương ưu tiên phát triển.
Những giải pháp về khoa học và công nghệ trên là cơ hội tốt để chúng ta đi tắt, đón đầu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển lực lượng sản xuất của tỉnh.
3.2.6. Tạo môi trường "miền" và điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước, chuyên gia nước ngoài để phát triển lực lượng sản xuất khơi dậy tiềm năng vốn có của tỉnh Yên Bái
Tỉnh Yên Bái có nhiều tiềm năng về nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng hiện nay sự đầu tư ở bên ngoài vào môi trường này còn ít. Để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các chuyên gia nước ngoài vào đầu tư phát triển thì phải thực hiện được những giải pháp sau:
- Trước hết và chủ yếu phải tạo lập được môi trường pháp lý ổn định lâu dài về luật pháp, cơ chế, chính sách và nhất là ổn định chính trị - xã hội nói chung và khu vực vùng sâu vùng xa nói riêng để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, khai thác. Tỉnh cần tiếp tục có cơ chế, chính sách "rải thảm đỏ" mời các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế đầu tư, hỗ trợ phát triển trên mọi lĩnh vực của tỉnh. Ngoài ra phải tạo được tính "minh bạch" trong các kế hoạch, định hướng chiến lược phát triển của tỉnh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, quyền bảo hộ hợp pháp.
- Đầu tư kết cấu hạ tầng tốt nhất, đầu tư về trường học, bệnh viện, giao thông, hệ thống dịch vụ... để tạo điều kiện thuận lợi khi các đối tác vào đầu tư có thể yên tâm vấn đề học hành của con cái, chữa bệnh, đi lại thuận lợi… cho nên kết cấu hạ tầng phải được nâng cấp, hoàn thiện theo tiêu chuẩn quốc tế và yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Để giải quyết yêu cầu này, vai trò của Nhà nước có tính quyết định.
- Đào tạo đội ngũ lao động có trình độ, tay nghề phù hợp với yêu cầu triển khai các dự án, chương trình với nguồn vốn bên ngoài. Không chỉ đào tạo người lao động lành nghề mà còn bồi dưỡng kiến thức sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường cho họ. Đây là việc làm rất cần thiết đối với cán bộ miền núi, vùng sâu, vùng xa chưa có điều kiện tiếp cận với kinh tế thị trường.
- Cần phải làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch quảng bá, kêu gọi đầu tư vốn, vốn viện trợ, vốn vay nước ngoài. Việc này cần làm nhiều, làm mạnh cả trong nước và các diễn đàn quốc tế [1, tr.165]. Tỉnh tiếp tục quảng bá các chế độ ưu đãi khuyến khích đầu tư vào tỉnh, khu công nghiệp của tỉnh.
- Bố trí vốn đầu tư hợp lý theo quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực, những vùng, những loại hàng hóa có lợi thế so sánh. Xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh. Cho phép các nhà đầu tư lựa chọn ngành nghề, quy mô, đối tác, hình thức và địa bàn đầu tư.
- Xây dựng chương trình xuất khẩu từ sản xuất theo nhu cầu của thị trường, lựa chọn sản phẩm có ưu thế để tập trung tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ công nghệ chế biến để tạo ra khối lượng sản phẩm nhiều, có chất lượng và đạt giá trị cao. Thực hiện việc xúc tiến thị trường theo hướng phân loại, giữ vững phát triển và thích ứng với từng loại thị trường. Chú ý khai thác khoảng trống của thị trường để dần tiến tới chiếm lĩnh thị trường bằng những hàng hóa đạt tiêu chuẩn quốc tế như chè Shan, tranh đá quý, hàng thủ công mỹ nghệ...
- Cùng những giải pháp thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để phục vụ sản xuất phát triển thúc đẩy lực lượng sản xuất của tỉnh phát triển thì còn phải quan tâm đến việc xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với hoàn cảnh của một tỉnh miền núi để kích thích lực lượng sản xuất phát triển.
Người dân ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh Yên Bái còn khá thụ động, họ chưa thực sự từ bỏ phương thức sản xuất truyền thống, chưa mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tìm và đầu tư những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Trình độ của người lao động còn thấp nên khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa thì họ chưa nhanh nhạy nắm bắt thị trường. Vì nhiều lý do, họ không tham gia vào những công việc làm thuê mặc dù thu nhập cao hơn nhiều so với một ngày công lao động sản xuất nông nghiệp. Thêm nữa, do sống rải rác thành từng cụm nhỏ nên việc đầu tư vô cùng khó khăn, tốn kém mà khả năng thu hồi vốn chậm nên sản phẩm làm ra chủ yếu là phục vụ cho sinh hoạt, tự trao đổi hàng hóa chưa phát triển, vẫn mang đậm nét "tự cung tự cấp", cho nên kinh tế thị trường ở khu vực này chưa phát triển mạnh mẽ. Do đó, để phát triển lực lượng sản xuất của tỉnh đòi hỏi phải thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế đồi rừng đòi hỏi quá trình sản xuất phải được đổi mới theo hướng sản xuất hàng hóa của cây trồng, vật nuôi phải được tiến hành sản xuất tập trung và gắn liền với hoạt động trao đổi mua bán. Phải lựa chọn và đầu tư phát triển các cây công nghiệp dài ngày, các cây có xu hướng trở thành nguyên liệu khan hiếm trong nước và quốc tế trong tương lai, đó chính là sự đón đầu để chiếm lĩnh thị trường phát triển sản xuất.
Sự phát triển sản xuất hàng hóa yêu cầu phải mở rộng thị trường trao đổi sản phẩm - phát triển thương mại. Vì sản xuất và trao đổi luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, hoạt động dịch vụ thương mại đã và đang tạo điều kiện cho tỉnh Yên Bái phát triển nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, từng bước phát triển lực lượng sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để tạo môi trường miền và điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư để phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi đội ngũ những nhà lãnh đạo, quản lý phải tự hoàn thiện mình, nâng cao trình độ bản thân để đáp ứng ngày càng cao đòi hỏi của thời kỳ mới.
Tỉnh phải tiếp tục thực hiện các chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào tỉnh trên mọi lĩnh vực công nghiệp, nông lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp...
Để đưa lực lượng sản xuất của tỉnh phát triển, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ những giải pháp trên.
Kết luận
Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái, song đây là một vấn đề vô cùng khó khăn đối với tỉnh.
Yên Bái là một khu vực chậm phát triển so với cả nước, do đó để xóa bỏ khoảng cách vùng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công thì cần có những giải pháp cụ thể để phát triển lực lượng sản xuất.
Như đã trình bày ở trên lực lượng sản xuất được cấu thành từ các yếu tố: Người lao động, tư liệu sản xuất và các điều kiện, phương tiện phục vụ sản xuất khác đi cùng. Ngày nay, khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do đó, để lực lượng sản xuất của tỉnh Yên Bái phát triển ngang bằng với các tỉnh, thành phố trong cả nước thì phải tạo ra được sự phát triển ngay chính trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Phải nhận thức rõ các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, thấy được vai trò, tầm quan trọng của lực lượng sản xuất đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển xã hội.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã vượt lên những khó khăn về điều kiện tự nhiên, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh và đã thu được những thành tựu đáng kể. Nhưng lực lượng sản xuất của tỉnh Yên Bái còn lạc hậu về nhiều mặt, phát triển không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh. Dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư nhưng lực lượng sản xuất ở đây vẫn trong tình trạng chậm phát triển. Các yếu tố của lực lượng sản xuất chưa thực sự là của một nền kinh tế thị trường, vẫn còn biểu hiện của một nền sản xuất tự cấp, tự túc. Các yếu tố của lực lượng sản xuất chưa đáp ứng được với yêu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối tượng lao động chưa được khai thác đúng tiềm năng và đảm bảo an toàn môi trường sinh thái, phương tiện phục vụ sản xuất còn thấp kém. Đây chính là trở ngại lớn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong điều kiện kinh tế, khoa học và công nghệ thế giới có sự phát triển nhanh chóng, quá trình toàn cầu hóa đã và đang tạo ra cơ hội cho lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái phát triển nhưng cũng đặt ra hàng loạt thách thức với tỉnh Yên Bái nơi mà lực lượng sản xuất phát triển còn thấp.
Do vậy, phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phải xác định phát triển lực lượng sản xuất phải tuân theo định hướng XHCN và đảm bảo việc khơi dậy tiềm lực vốn có của tỉnh. Cùng với phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa XHCN. Phải có sự đầu tư tương xứng vào khoa học công nghệ để đi tắt, đón đầu tạo sự phát triển ổn định và bền vững.
Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là việc làm vô cùng cần thiết. Từ đó, xây dựng và cải tạo các hình thức quan hệ sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển và phát huy vai trò của nó, kích thích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào tỉnh.
Để phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái nhanh chóng, đúng hướng, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương.
Từ thực trạng lực lượng sản xuất của tỉnh Yên Bái đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ những giải pháp trên để thúc đẩy lực lượng sản xuất của tỉnh phát triển đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu trong thời gian tới tỉnh Yên Bái trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu các tỉnh miền núi phía Bắc.
Danh mục Tài liệu tham khảo
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Tuấn Bạt (2002), "Con người là tiền đề của nền kinh tế năng động", Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.14-16.
Hoàng Bình - Nguyễn Kim Lai (1981), "Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp", Tạp chí Triết học, (2), tr.56-58.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Công tác chính trị (2002), Tài liệu tham khảo dùng cho giảng viên các trường đại học và cao đẳng môn học triết học Mác - Lênin, Hà Nội.
Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), "Góp vào vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (2), tr.12-19.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1991), "Để cho khoa học và công nghệ trở thành sức thúc đẩy sự phát triển của đất nước ta", Tạp chí Triết học, (2), tr.3-6.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, (3), tr.3-5.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), "Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, (1), tr.3-5.
Cục Thống kê tỉnh Yên Bái, Báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu (2001-2005).
Cục Thống kê tỉnh Yên Bái (2005), Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Cúc (2005), Hai mươi năm đổi mới và sự hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Vũ Đình Cự (2003), "Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức", Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.20-26.
Hồ Anh Dũng (1994), "Để cho khoa học nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta", Tạp chí Triết học, (2), tr.19-22.
Lê Văn Dương (2002), "Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn", Tạp chí Triết học, (1), tr.5-9.
Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Lao động Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị trung ương lần thứ VII (khóa VII), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XV.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, khoa triết học (2003), Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Thanh Đức (2000), "Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (10), tr.47-51.
Nguyễn Tĩnh Gia (1987), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Tĩnh Gia (1998), "Biện chứng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Triết học, (1).
Nguyễn Tĩnh Gia (chủ biên) (1998), Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Hảo - Võ Xuân Tiến (đồng chủ biên) (2004), Toàn cầu hóa kinh tế, những cơ hội và thách thức đối với miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đình Hòa (1993), "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất", Tạp chí Triết học, (1), tr.26-28.
Nguyễn Đình Hòa (1999), "Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn: Vấn đề nguồn nhân lực", Tạp chí Triết học, (5), tr.17-19.
Nguyễn Cảnh Hồ (2002), "Có phải khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp", Tạp chí Triết học, (2), tr.58-62.
Hội đồng trung ương biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hội đồng trung ương biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Văn Khái (2000), Nghiên cứu nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
Vũ Khoan (1999), "Về sản xuất vật chất trong thế kỷ 20", Tạp chí Cộng sản, (24), tr.13-19.
Bùi Chí Kiên (1996), Nghiên cứu về quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Đỗ Thị Ngọc Lan (1993), "Vai trò của lao động trong mối quan hệ giữa thích nghi và cải tạo môi trường tự nhiên của con người", Tạp chí Triết học, (1), tr.32-36.
Vi Thái Lang (2002), Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
Hà Quế Lâm (2002), Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Liên minh hợp tác xã Yên Bái (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể tỉnh Yên Bái 5 năm (2006-2010), Yên Bái.
V.I. Lênin (1974), Toàn tập, Tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác - Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1997), Toàn tập, Tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1998), Toàn tập, Tập 34, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1999), Toàn tập, Tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.ăngghen (1998), Toàn tập, Tập 46, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Khánh Mậu (2001), "Về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhận thức và vận dụng vào nước ta", Tạp chí Khoa học chính trị, (1), tr.46-49.
Nông Thị Mồng (2000), Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thế Nghĩa (1995), Triết học và vấn đề đổi mới xã hội, Nxb Trẻ.
Nguyễn Thế Nghĩa (1996), "Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, (1), tr.9-13.
Nguyễn Thế Nghĩa (1998), "Góp thêm vào vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (4), tr.12-14.
Nguyễn Thế Nghĩa (1998), Triết học với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Khoa học xã hội.
Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1998), Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Nguyên Phương (2000), "Y tế miền núi - những thách thức cần vượt qua", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.41-44.
Phạm Ngọc Quang (2003), "Kinh tế tri thức - xét từ giác độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất", Tạp chí Triết học, (3), tr.22-29.
Nguyễn Duy Quý (1998), "Phát triển con người tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (19), tr.10-13, 19.
Lương Xuân Quỳ (chủ biên) (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phương Kỳ Sơn (1997), "Con người - yếu tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất", Tạp chí Triết học, (3), tr.10-13.
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2006-2010) tỉnh Yên Bái.
Sở Nội vụ tỉnh Yên Bái (2004), Báo cáo chất lượng cán bộ công chức chia theo lĩnh vực.
Vũ Sửu (2002), Nông nghiệp nông thôn Yên Bái trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tỉnh ủy Yên Bái, Ban Vật giá Chính phủ (10/2002), Yên Bái những cơ hội đầu tư, Hà Nội.
Tỉnh ủy Yên Bái, Ban Tuyên giáo (2005), Đề cương giới thiệu dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội XVI của Đảng bộ tỉnh Yên Bái.
Trương Hữu Toàn (1994), "Vấn đề phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất xét từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất", Tạp chí Triết học, (1), tr.8-12.
ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2004), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội vùng cao và các xã vùng đặc biệt khó khăn tỉnh Yên Bái.
ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2004), Báo cáo tổng kết chỉ thị 45 - CT/TW về một số công tác vùng dân tộc Mông tỉnh Yên Bái.
ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Triết học (1984), Đại hội Đảng lần thứ V - mấy vấn đề lý luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu con người (2004), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trung Giang Vim (1998), Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2690.Doc