Lời nói đầu
Con đường chính trị của bất cứ một quốc gia nào cũng dẫn tới mục tiêu cuối cùng là làm cho đất nước mình giầu mạnh về kinh tế, xã hội thực sự công bằng và con người sống văn minh. F.Anghen đã nói “Trước khi con người ta nghĩ tới làm chính trị, văn hoá … thì trước hết họ phải ăn, phải mặc, ở”. Tục ngữ Việt Nam có câu “Có thực mới vực được đạo”. Một quốc gia cũng vậy muốn đạt được các mục tiêu đặt ra, trước hết nhà cầm quyền phải tìm phương sách làm cho nhân dân no đủ, tức là xây dựng
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phát triển làng nghề truyền thống ở huyện Chương Mỹ - Hà Tây - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một nền kinh tế vững mạnh.
Thức tế cho thấy không ít quốc gia có nền kinh tế phát triển song đó chỉ là tạm thời, một ví dụ là Thái Lan: Trước đây nến kinh tế của Thái Lan khá phát triển nhưng sự phát triển này là do những tác nhân bên ngoài, cụ thể nguồn vốn chủ yếu để thúc đẩy sự phát triển đó là vốn đầu tư nước ngoài, mà không phải là chính sức lực của nhân dân của quốc gia đó. Những nước này cũng chỉ chú trọng phát triển những ngành sản xuất mũi nhón, những sản phẩm có khả năng xuất khẩu mạnh nhằm mục đích thu tiền ngoại tệ mà quên đi hay ít quan tâm tới những ngành tuy thu được ít ngoại tệ hay không trực tiếp xuất khẩu song đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững, xã hội hưng thịnh lâu dài của nền kinh tế quốc dân.
Vậy để đạt được mục tiêu phát triển bền vững thì cần làm gì là như thế nào? Mỗi quốc gia đều cón chiến lược, chính sách vĩ mô, vi mô của riêng mình theo điều kiện cụ thể của đất nước đó nhằm đạt được những mục tiêu trong giai đoạn trước mắt cũng như trong giai đoạn lâu dài. Dù áp dụng chiến lược nào đi nữa cũng cần phải phát triển đa dạng cân đối các ngành kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ...
Việt Nam là nước đang phát triển, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, trình độ khoa học kỹ thuật, quản lý còn nhiều lạc hậu. Do vậy, đất nước rất cần sự hỗ trợ, đầu tư từ bên ngoài, song chúng ta không được lạm dụng chúng và coi đầu tư nước ngoài là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế nước ta phải dựa chủ yếu vào chính nguồn lực của đất nước, của nhân dân ta, có như vậy chúng ta mới làm chủ, không bị lệ thuộc vào quốc gia khác do yêu tố kinh tế chi phối. Chúng ta cần phát triển một cách hợp lý của công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong một thời gian dài chúng ta đã quá chú trọng đến công nghiệp nặng, đó là một sai lầm bời nó không phù hợp với một nền kinh tế mà tỷ trọng ngành nông nghiệp quá lớn trong GDP, trong khi cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí còn thấp.
Hiện nay nước ta có khoảng 80% dân số sống trong khu vực nông thôn, 70% nguồn lao động nằm trong khu vực này, hàng năm lại bổ sung thêm hàng triệu lao động. Trong những năm gần đây làn sóng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị đã làm đau đầu các nhà quản lý, nhiều chính sách được đưa ra nhằm hạn chế làn sóng di chuyển này song hiệu quả không cao, không những sự di chuyển lao động thông thường mà nguồn lao động được đào tạo qua các trường lớp cũng không muốn quay trở về quê hương, họ muốn tìm một công việc ổn định có thu nhập cao ở thành phố. Phải chăng chúng ta chưa đưa ra được những chính sách knh tế xã hội phù hợp để phát triển kinh tế nông thôn, rút ngắn khoảng cách giầu nghèo giữa thành thị và nông thôn? Một hướng đi được đặt ra là phát triển kinh tế nông thôn không thể chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp mà cần phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt kích thích hình thành các làng nghề, làm cho dân cư nông thôn “ly nông bất ly hương”.
Các làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống nói riêng sau thời gian thăng trầm, đang từng bước phục hồi, phát triển và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung. Điều đó được thể hiện quan tỷ trọng giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp: Năm 1990 chiếm 26,43% trong giá trị xuất khẩu, năm 1995 chiếm 28,24%, năm 1996 chiếm 28,55%. Đó là điều đáng mừng cho ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp vốn bị coi nhẹ bấy lâu nay.
Cùng với công cuộc đổi mới, tư duy kinh tế của người dân được tự do phát triển đã kích thích các làng nghề hình thành và phát triển. Cùng với kinh nghiệm sản xuất lâu đời và những điều kiện kinh doanh thuận lợi, nhiều mặt hàng của các làng nghề nước ta đã có chỗ đướng trên thị trường quốc tế như dệt, thổ cẩm, mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ chất lượng cao ...
Với lợi thế nhiều mặt từ vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử, đồng bằng sông Hồng được mang danh là đất trăm nghề. Có những nghề, những làng nghề có tới hàng ngàn năm nay, có làng nghề xuất hiện mới đây do nhu cầu của cuộc sống con người.
Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, giáp thành phố Hà Nội, Hà tây là nới có nhiều các làng nghề đang hoạt động, đặc biệt là làng nghề truyền thống. Trong đó huyện Chương Mỹ cũng là một trong những nới cần thiết và có điều kiện phát triển làng nghề truyền thống. Cho tới nay Chương Mỹ đã được UBND tỉnh Hà tây công nhận 15 làng nghề đạt tiêu chuẩn là làng nghề truyền thống. Mục tiêu đến năm 1005 sẽ tăng thêm 5 làng nghề nữa. Sản phẩm ở đây chủ yếu là mây tre đan (có từ lâu đời ví như làng nghề mây tre giang đan ở Phú Vinh - xã Phú Nghĩa), nghề làm nón (ở Văn La - xã Văn Võ), nghề mộc (ở Phù Yên - xã Trường Yên).
Trong sự phát triển phức tạp của nền kinh tế thị trường để cho các làng nghề tồn tại và vận động có hiệu quả không chỉ là vấn đề chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn là các vấn đề cụ thể về nguyên liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm ... Đánh giá chung thì các làng nghề trong nông thôn Việt Nam đang khởi sắc và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Trong kinh doanh mục tiêu về lợi nhuận luôn chiếm ưu thế hàng đầu của các doanh nghiệp, của các cơ sở sản xuât, song mục tiêu đó khi không đạt được, không ít những cơ sở sản xuất, hộ gia đình bị phá sản. Nguyên nhân của sự phá sản, làm ăn không hiệu quả có nhiều, bao gồm những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Với hy vọng góp phần nhỏ bé và sự phát triển của làng nghề truyền thống nói chung và các làng nghề truyền thống nói riêng ở huyện Chương Mỹ em tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Phát triển làng nghề truyền thống ở huyện Chương Mỹ – Hà Tây
Thực trạng và giải pháp”.
Đây là vấn đề quan trọng trong phát triển làng nghề. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa thực tiễn lớn không chỉ cho việc phát triển làng nghề ở huyện Chương Mỹ mà còn góp phần giải quyết một số vấn đề về phát triển làng nghề nói chung ở đất nước ta hiện nay.
Chương I
Nghiên cứu chung về làng nghề truyền thống
Khái niệm và đặc điểm làng nghề truyền thống.
Một số khái niệm.
* Tổ chức: Là việc làm cho một vấn đề kinh tế xã hội nào đó trở thành một chỉnh thể có một cầu tạo, một cấu trúc và có những chức năng nhất định, là việc làm cho vấn đề quan tâm trở nên có nề nếp để tiến hành các hoạt động nào đó có hiệu quả nhất.
* Sản xuất, kinh doanh: Là quá trình sử dụng các nguồn lực đầu tư vào lao động, vốn, trang thiết bị kỹ thuật… để tạo ra các sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu của con người nhằm mục tiêu sinh lời và mục tiêu khác .
* Làng nghề: Khi một làng nào đó ở nông thôn có một hay một số nghề thủ công được tách khỏi nông nghiệp và sản xuất kinh doanh độc lập thì đó là làng nghề. Làng nghề truyền thống là đơn vị dân cư cùng làm sản xuất những mặt hàng có từ lâu đời, những sản phẩm này có những nét đặc thù riêng đặc trưng cho vùng và con người ở đó.
C B
A
A: Làng nghề nông thôn.
B: nghề tiểu thủ công cổ truyền.
C: (Giao giữa A và B) Làng nghề truyền thống.
* Nghệ nhân: Là những người có tay nghề cao trội, được lao động lành nghề tín nhiệm, suy tôn và được Nhà nước công nhận
* Lao động lành nghề: Là những lao động đã thông thạo công việc, có kinh nghiệm trong san xuất, có thể đang làm thợ cả, hướng dẫn kỹ thuật cho mọi người. Lao động lành nghề đối lập với lao động chưa lành nghề.
Đặc điểm của làng nghề truyền thống.
Tuy có nhiều loại làng nghề truyền thống khác nhau, nhưng chúng đều có một số đặc diểm chung sau đây:
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống luôn gắn liền với làng nghề Nông thôn.
- Các làng nghề truyền thống ra đời cách đây nhiều thế hệ và nghề mang tính chất “gia truyền”.
- Thường gắn liền với nông nghiệp, trình độ dân trí còn thấp nên hầu hết các làng nghề có vốn đầu tư thấp.
Một số loại sản phẩm của các làng nghề truyền thống mang tính chất nghệ thuật cao, đó là sự kết tinh của văn hoá lâu đời của cha ông ta.
Sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống.
Sẽ có nhiều làng nghề cùng tồn tại ở nhiều vùng khác nhau và cho ra đời cùng loại sản phẩm song chưa chắc chúng đã xuất hiện đồng thời. Sự hình thành các làng nghề thường qua những cách thức sau:
- Các làng nghề được hình thành do một hay một nhóm nghệ nhân từ nơi khác tới truyền dạy.
- Các làng nghề được hình thành do sự sáng tạo của cá nhân hay nhóm người nào đó ở trong làng, cùng với thời gian những kỹ thuật đó không ngừng được hoàn thiện và lan truyền. Không ít làng nghề hình thành chủ yếu do một số cá nhân có cơ hội tiếp xúc, giao du nhiều nơi có ý học hỏi để truyền lại cho làng quê của họ.
- Một số làng nghề xuất hiện do chủ trương chính sách của nhà cầm quyền hoặc địa phương
Để các làng nghề này tồn tại và phát triển lâu dài thì những điều kiện sau đây được thoả mãn:
- Gần những mạch máu giao thông thuỷ bộ quan trọng. ở những vị trí này hàng hoá trao đổi dễ dàng, đó là điều rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
- Gần nơi tiêu thụ hay những thị trường chính. Qua nghiên cứu khảo sát cho thấy các làng nghề thường tập trung ở những vùng phụ cận của các thành phố lớn hoặc vùng tập trung đông đúc dân cư.
- Một điều kiện khác là các làng nghề tồn tại phát triển được là do sức ép về kinh tề ở vùng đó, có thể là ruộng đất ít nếu chỉ sản xuất nông nghiệp thì thu nhập không bảo đảm cho cuộc sống buộc họ phải tìm cách làm gì đó để tăng thu nhập.
Phân loại và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề.
Phân loại.
Trên những góc độ khác nhau chúng ta sẽ có nhiều cách phân loại khác nhau về làng nghề.
Xét theo ngành nghề: Làng nghề được chia thành các loại làng với các nghề cụ thể như làng rèn, làng đúc, làn dệt, làng gốm sứ.....
Xét theo quá trình hình thành và hoạt động: Làng nghề được chia thành 2 loại là làng nghề truyền thống và làng nghề mới hình thành.
Những nhân tố ảnh hưởng.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới làng nghề bao gồm nhóm nhân tố về xã hội, nhóm nhân tố kinh tề và nhóm nhân tố môi trường, làng nghề chịu tác động tổng hoà của các nhóm nhân tố này. Nừu một trong các nhóm này có tác động tiêu cực qua một giới hạn nào đó thì sẽ làm cho làng nghề không tồn tại và phát triẻn được. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể những nhân tố chính.
Nhóm nhân tố xã hội.
* Chính sách của nhà nước.
Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại phát triển của làng nghề. Trong một thời gian dài trước đây (mà chúng ta thường gọi trước đổi mới), chúng ta phủ nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh trong làng nghề đều là hợp tác, tập thể với chế độ ăn chia quân bình cho các lao động khoẻ, yếu già trẻ, làm nhiều, ít, tích cức hay không tích cực đều ngang nhau. Trên thực tế chính sách này không kích thích được sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng. Nhận thấy những hạn chế trong đường lối chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới mà quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong sự đổi mới này Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế (như kinh tế hộ, kinh tế tư nhân... ). Chính sách kinh tế mới đã phù hợp với mong muốn của nhân dân và thời kỳ mới nên đã húc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các làng nghề có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển.
* Nhân tố truyền thống.
Thực tế cho thấy các làng nghề tồn tại, phát triển được do có sự kế tục của đời con, đời cháu, nghề được bậc tiền bối truyền lại cho lớp hậu sinh bằng miệng. Những bí quyết nghề nghiệp trong làng nghề được giữ bí mật khắt khe. Điều này không tránh khỏi sự thất truyền vì một nguyên nhân nào đó. Tóm lại rằng nhân tố truyền thống có ảnh hưởng quyết định tới sự hưng vong của làng nghề.
* Phong tục tập quán.
Nhiều vùng, nhiều địa phương có những phong tục tập quán của riêng mình. Trong những ngày lễ, tết họ làm ra những sản phẩm cho chính họ, những sản phẩm này được nhiều người biết đến và tiêu dùng chúng. Những người có khả năng kinh doanh đã sản xuất ra để bán và hình thành làng nghề ví dụ: sản phẩm dệt thổ cẩm của đồng bào dân tộc Chăm.
Nhóm nhân tố kinh tế.
Những nhân tố chính trong nhóm nhân tố này bao gồm:
* Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm: giao thông, điện, thuỷ lợi, bưu chính viễn thông, y tế giáo dục, các công trình văn hoá công cộng...Một điều hển nhiên rằng khi cơ sở hạ tầng yếu kém thì quy mô làng nghề chậm được mở rộng. Cơ sở hạ tầng phải được xây dựng một cách đồng bộ, cân đối nếu không sẽ tạo ra sự khập khiễng trong đó và không những không thuận lợi cho sự phát triẻn ngành nghề mà còn kìm hãm sự phát triển của nó.
Giao thông: Được ví như là mạch máu trong cơ thể con người, sự hoàn thiện, thuận lợi của giao thông tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá dễ dàng, nhanh chóng. Vì thế các làng nghề thường được hình thành ở những đầu mối giao thông thuỷ bộ. Trong thờ kỳ kinh ts thị trường, thời gian là àng bạc, sự phát trỉn củ thông tin đã tiết kiệm được rất nhiều thời gian góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của các làng nghề.
Y tế giáo dục: Tuy không trực tiếp tạo ra của cải cho làng nghề song không thể thiếu trong sự phát triển chung của làng nghề.
* Vốn cho sản xuất.
Vốn một yếu tố đóng vai trò quan trọng, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh của các cơ sở trong làng nghề. Những năm trước đây nguồn vốn cho làng nghề chủ yếu là tự có và vay mượn của nhau với số lượng nhỏ không đấp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Những năm gần đây cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng cấp bách hơn, lượng lớn hơn trong khi vốn tự có nhỏ, vay mượn anh em bạn bè cũng trở nên khó khăn hơn và không mang tính thể chế. Do vậy Nhà nước đã có nhữn chính sách vốn phù hợp cho nông thôn. Nhiều hình thức tín dụng đã hình thành nhằm cung cấp vốn cho sản xuất kinh doanh.
Có 2 hệ thống tín dụng: Hệ thống tín chính thống và hệ thống tính dụng phi chính thống. Hoạt động của các tổ chức tín dụng chính thống còn nhiều phiền hà về thủ tục giấy tờ, trong khi hoạt động của các tổ chức phi chính thống lại khá đơn giản về mặt thủ tục. Nói chung thị trường tín dụng tuy không đáp ứng đầy đủ nhưng phần nào đã đảm bảo được nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống.
* Yếu tố nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu luôn gắn liền với sản phẩm và chất lượng sản phẩm. chất lượng của nguyên liệu có tốt thì sản phẩn mới có chất lượng cao. Tuy vậy giá cả của nguyên vật liệu phải hợp lý bảo đảm cho sản phẩm và kinh doanh có lãi thì mới được chấp nhận Để đáp ứng đa dạng nhu cầu tiêu dùng cần đa dạng nguyên liệu sử dụng có như vậy sản xuất kinh doanh mới đạt hiệu quả cao
Vai trò của làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở Nông thôn.
Các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn.
Các làng nghề góp phần tạo việc làm, phân công lao động thu hút lao động dư thừa cũng như lo động nông nhàn ở nông thôn, Việt Nam là quốc gia chủ yếu sản xuất nông nghiệp có gần 80% dân số nông thôn, tốc độ tăng dân số hàng năm khá cao, tốc độ đô thị hoá cao làm cho đất đai sản xuất nông nghiệp bình quân ngày càng giảm. Nguyên nhân này làm cho thu nhập từ nông nghiệp thấp, lực lượng lao động nhàn rỗi tăng nhanh. Nghành nghề phi nông nghiệp thu hút nguồn lao động nhàn rỗi rất mạnh. Ngành nghề phi nông nghiệp thu hút nguồn lao động nhàn rỗi này làm giảm tình trạng không có việc làm lúc nông nhàn và lực lượng lao động ít ruộng trong thời vụ nông nghiệp. Chúng ta không coi một số ngành nghề là phụ nữa mà hãy coi chúng như nghề thực thụ bởi nhiều nơi, nhiều ngành nghề mang lại cho người lao động thu nhập cao hơn từ sản xuất nông nghiệp.
Các làng nghề hoạt động sẽ thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài, uan trong hơn sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Từng gia đình, từng hộ thì số vốn tự có là không lớn nhưng với ưu thế số đông nguồn vốn được sử dụng là rất lớn. Nguồn vốn tự có trong dân đó không chỉ là vốn bằng tiền, mà đó còn là vốn cố định trong xây dựng cơ bản. Hầu hết các ngành nghề sản xuất đều tiết kiệm sử dụng diện tích nhà ở ( như nghề mộc, nghề làm bún, nghề dệt...) tiết kiệm được lượng vốn rát lớn cho xây dựng nhà xưởng.
Một vấn đề quan trọng của phát triển làng nghề là góp phần và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, làm giảm tỷ xuất trọng của ngành nông nghiệp trong thu nhập của vùng Nông thôn, tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa nông thôn và thành thị.
Làng nghề không chỉ có vai trò quan trọng trong bản sắc văn hoá dân tộc. Một số hàng hoá thủ công truỳen thống đã vượt lên khỏi hàng hoá tiêu dùng thông thường mà nó mang tính nghệ thuật cao, đặc trưng cho văn hoá làng xã Việt Nam. Bạn bè quốc tế biết tới Việt Nam qua những sản phẩm này. Chúng ta cần gìn giữ và không ngừng phát triển những văn hoá tốt đẹp ẩn chứa trong các sản phẩm này.
Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số nước và ở Việt Nam.
Tổng quan làng nghề trên thế giới.
Lịch Sử kinh tế của xã hội loài người bắt đầu từ sự sử dụng những sản phẩm sẵn có của tự nhiên, chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp ( cây, trái cây, động vật tự nhiên.. ) để bảo đảm cuộc sống củ họ. Theo thời gian trí óc của loài người không ngừng phát triển, họ đã tự sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu để đảm bảo sự tồn tại. Xã hội với những thể chế nhát định hình thành. Khi nền sản xuất chưa phát triển quốc gia nào cũng chỉ có nền kinh tế nông nghiệp là chính. Sự phát triên như vũ bão của khoa học, kỹ thuật đã đưa một số nước phát triển thành những nước sản xuất công nghiệp. Đó là về sau còn trước đó quốc gia nào cũng có nông thôn, cũng có những sản phẩm truyền thống đặc trưng cho quốc gia đó và được bảo lưu tới ngày nay.
Để hiểu sâu hơn về làng nghề truyền thống của Việt Nam, sự xem xét tìm hiểu làng nghề ở các quốc gia trên thế giới là việc làm có ý nghĩa và thực sự cần thiết. Chúng ta xem rằng sự phát triển làng nghề ở các quốc gia đó có gì khác với Việt Nam, những hạn chế, những tích cực của họ.
* Cộng hoà liên bang Đức: Cũng như các nước công nghiệp châu Âu khác quá trình công nghiệp hoá đất nước bắt đầu từ sự phát triển của ngành công nghiệp nặng. Tất nhiên rằng khi đó ngành thủ công nghiệp bị coi nhẹ và không được chú trọng đầu tư phát triển. Nừu trước đây tỷ trọng của ngành này không nhỏ trong GDP với trình độ kỹ thuạt, tay nghề lao động cao thì hiện nay nó chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé và trình độ tay nghề lao động thấp kém. Nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng đó? Do công nghiệp phát triển sẽ thu hút nhiều lao động vào làm việc, kéo theo nhiều lao động làm dịch vụ hơn là làm nghề truyền thống. Tuy vậy các làng nghề thủ công mỹ nghệ vẫn tồn tại với quy mô sản xuất trung bình. Hình thức này xuyên suốt từ cơ sở đến liên bang. Hình thức tổ chức quy mô như hộ, doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ được hưởng sự ưu đãi về thuế, vốn... Của Nhà nước, kết quả này có được do sự nhận thức vì một nền kinh tế bền vững của các nhà lãnh đạo Đức.
* Nhật Bản: Nhật bản là tên một quốc gia mà hầu hết dân số thế gới đều biết đến và thán phục vì sự thông minh của con người Nhật Bản vì một sự phát triển kinh tế thần kỳ mà nhiều quốc gia trên thế giới hằng mơ ước, một quốc gia mà người ta biết có nguồn tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn lạc hậu nhưng vẫn là một nước công nghiệp phát triển vào hàng đầu thế giới. Tuy thế nước Nhật luôn luôn còn tồn tại nông thôn, ngành nông nghiệp luôn được chú trọng phát triển. Đặc biệt các làng nghề truyền thống trong nông thôn Nhật Bản được duy trì và không ngừng phát triển, hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu vẫn là hộ. Hiện nay ở Nhật có 867 nghề tiểu thủ công nghiệp khác nhau. Nghề cổ truyền nổi tiếng là nghề sơn mài và nghề rèn ( có khoảng 800 năm nay ). Những năm của thập niên 70 ở Nhật Bản xuất hiện phong trào “mỗi thôn làng một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền ở nông thôn. Kết quả phong trào này là 143 loại sản phẩm được sản xuất thu được 358 triệu USD ngay trong năm đầu tiên, tới năm 1992 tăng lên tới 1,2 tỉ USD. Phong trào này được mở rộng ra toàn quốc vào năm 1993 riêng ngnhf tiểu thủ công nghiệp đạt doanh số 8,1 tỷ USD. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh được cải tiến so với trước đây, các hộ làm ra sản phẩm được các công ty lơn bao tiêu, như thế việc tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng và đơn giản.
* Hàn Quốc: Những năm 70 dân số nông thôn Hàn Quốc chiếm tỷ lệ khá cao, sự phát triển kinh tế của khu vực này thấp kém, một chương trình khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống được thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và nâng cao thu nhập cho khu vực này. Tới những năm 80 trên 23.000 lao động trong hơn 1000 cơ sở sản xuất chủ yếu là hộ gia đình đã làm cho bộ mặt kinh tế nông thôn Hàn Quốc có sự thay đổi. Để hỗ trợ cho hình thức kinh tế hộ phát triển trong cả nước đã có hơn 100 công ty được thành lập làm dịch vụ thương mại đảm nhiệm cung câp đầu vào và dịch vụ đầu ra. Hoạt động của ngành nghề truyền thống có bước phát triển lớn do có chính sách lợp lý và thị trường tiêu thụ có xu hướng được mở rộng hơn trước.
* Đài Loan: Làng nghề truyền thống ở Đài Loan được duy trì và phát triển trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các làng nghề thông qua hợp đồng giữa các hộ và các công ty, các công ty chỉ thuê gia công một số công đoạn của sản phẩm.
Các nước đang phát triển có tỷ lệ cư dân nông thôn cao hơn các nước công nghiệp, tình trạng nông thôn dồi dào hơn, các quốc gia này phát triển làng nghề, ngành nghề truyền thống như thế nào, hãy xem xét một vài quốc gia sau:
* Trung Quốc: Một quốc gia đông dân số nhất thế giới, là cái nôi của văn hoá Châu á. Cũng như nhiều quốc gia khác dân số Trung Quốc sinh sống chủ yếu ở những vùng nông thôn, sự gia tăng dân số làm chp bình quân đất nông nghiệp ngày càng giảm đi. Con người ở đây phải nghĩ cách sinh nhai, nhiều ngành nghề lúc đầu mang tính chất nghề phụ xuất hiện, theo thời gian nó phát triển tồn tại tới ngày nay. Những năm của thập kỹ 50 Trung Quốc có khoảng 10 triệu thợ thủ công làm ngành nghề trong các làng nghề truyền thống, thời kỳ này hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu là hộ gia đình quy mô nhỏ, khi nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời hoạt động ngành nghề được hợp tác hoá mọi khâu. Đây là quá trình làm chậm, kìm hãm sự phát triển ngành nghề ở Trung Quốc mặc dù được sự quan tâm của Nhà Nước. Tới thời kỳ mở cửa, cải cách, mô hình kinh tế hộ được thừa nhận, các làng nghề được sống lại với vẻ nhôn nhịp tự nhiên của nó. Với chủ trương “Ly nông bất ly hương” ngành nghề được phát triển mạnh hơn trong nông thôn Trung Quốc, bên cạnh mô hình kinh tế hộ, những người có tiền vốn, đầu óc kinh doanh đã thành lập xí nghiệp Hưng Tấn. Những xí nghiệp này thu hút lượng lớn trong việc tăng GDP của đất nước. Nhiều sản phẩm của làng truyền thống ở Trung Quốc đã xuất khẩu đi nhiều nước đặc biệt là hàng thảm, hàng thảm của Trung Quốc chiếm tới 75% trên thị trường Nhật Bản.
* Indônexia: Với những kế hoạch 5 năm chính phủ Inđônêxia đã kính thích thúc đẩy mạnh mẽ và sự phát triển của các ngành tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề. Nhiều chủ rương chính sách được ban hành, bên cạnh đó chính phủ còn tổ chức ra : “Hội đồng thủ công nghiệp quốc gia” nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của ngành này. Nhiều việc làm thiết thực đã được thực hiện: tổ chức các cuộc thi thiết kế mẫu mã, thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm hàng tiểu thủ công nghiệp, các “Trung tâm phát triển tiểu thủ công nghiệp” cũng được lập ra nhằm quản lý, hỗ trợ ngành này. Kế hoạch phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp được lồng ghép với các chương trình phát triển nông thôn khác. Trong năm 1994 chính phủ đã cung cấp vốn cho việc khôi phục một số làng nghề truyền thống tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho khu vực nông thôn. Chương trình này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội, gìn giữ, bảo vệ văn hoá truyền thống của dân tộc, của nhân dân Indônêxia.
* Philippin: Sự năng động của các chinh sách kinh tế là cần thiếu cho mọi quốc gia, điều này thể hiện rõ ràng trong chính sách phát ttiển ngành tiểu thủ công nghiệp triền thống của Philippin. Trong giai đoạn 1988 – 1992., chính phủ dã đề ra các chính sách hướng ngành tiểu thủ công nghiệp vào sản xuất các mặt hàng tiêu dùng đơn giản phục vụ cho nhu cầu trong nước, chế biến lượng thực, thực phẩm, chế tạo công cụ…Sang giai đoạn tiếp theo chính sách của chính phủ là hướng những ngành nghề nông thôn vào những mặt hàng có khả năng xuất khẩu. Nhũng chính sách cụ thể: cho vay vốn lãi xuất thấp, miễn thuế cho những ngành sản xuất này… Một ví dụ điển hình là chế biến Nata (nước dừa kết tinh), đây là món ăn cổ truyền của nhân dân Philippin, hiện nay có được xuất đi nhiều nước. Nât được sản xuất chủ yếu ở các hộ gia đình sau đó cung cấp cho công ty Interfood, chủ yếu đê công ty này xuất khẩu.
* Thái Lan: Với định hướng chuyển dịnh cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng của các ngành phi nông nghiệp, chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách phát triển ngành nghề, tạo điều hiện cho làng nghề phát triển phục vụ nông nghiệp. Khi đó các ngành nghề và nông nghiệp cùng phát triển và cơ cấu kinh tế có sự thay đổi. Trong số ngành nghề truyền thống của TháiLan thì ngành chế tác vàng bạc, đá quý phát triển mạnh, năm 1990 kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt tới tới 2 tỷ USD. Sau ngành này phải kể đến ngành gôm sứ Thái Lan nổi tiếng ở nhiều Chính phủ Thái Lan không chỉ chú trọng tới những ngành nghề xuất khẩu mà luôn quan tâm phát triển ngành nghề truyền thống khác như ngành gỗ mỹ nghệ, chế biến nông sản thự phẩn chế biến cây ăn quả. Nhờ có sự phát triển hợp lý của các ngành kinh tế thành thị nông thôn mà nhiều năm nền kinh tế Thái Lan đã trở nên phồn thịnh.
* Ân Độ: ấn độ là quốc gia có nhiều ngành nghề triền thống, với mục tiêu không ngừng làm cho kinh tế nông thôn phát triển chính phủ đã lập ra các trung tâm dạy nghề, động viên họ bằng cả vật chất và tinh thần. Trong số các làng nghề thì làng nghề chế tác kim cương hàng năm thu về cho đất nước lượng lớn lại tệ.
* Một só kinh nghiệm rút ra từ sự phát triẻn ngành nghề. Làng nghề của các nước:
- Ra đời từ nông thôn, kinh tế làng nghề gắn chặt với kinh tế nông thôn, sự phát triẻn của nó tuỳ thuộc vào điều kiện của tong nước. Tuy vậy mọi chính phủ đều xác định phát triển làng nghề là một quá trình lâu dài không phải trong chốc lát mà đạu được mục tiêu định ra.
- Mong muốn sự phát triển của lang nghề nhưng lại để nó tự do phát triển thì nhiều khi không đạt được mục tiêu định ra.
- Mong muốn sự phát triển của làng nghề nhưng lại để nó tự do phát riển thì nhiều hình thức khá nhau: chất xám, vốn, kỹ thuật, thông tin… hầu hết các làng nghề tư các quốc gia trên có hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là hộ gia đình, sản phẩm được các công ty bao tiêu. Có lẽ rằng hình thức hộ là mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao nhất, một mô hình đáng để cho chúng ta học tập là xí nghiệp Hưng Trấn trong phong trào “ly nông bất ly hương” ở Trung Quốc, tuy nhiên học tập không có nghĩa là mang mô hình của họ dập khuôn y nguyên ở nước ta. Tóm lại, hầt hết các quốc gia đều có sự tác động của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề ở nhưng mức độ khác nhau và những giai đoạn khác nhau.
Khái quát làng nghề ở Việt Nam.
Cũng như nhiều quốc gia khác Việt Nam có nhiều ngành nghề truyền thống: gốm sứ, mộc nề, mây tre đan, dệt… những ngành nghề này được phat triển thành làng nghề, xã nghề ở nhiều vùng nông thôn trên toàn quốc. Trong những giai đoạn lịnh sử khác nhau làng nghề có sự phát triển không giống nhau, lúc thăng, lúc trầm do tác động tổng hợp của các nhân tố kinh tế xã hội, tự nhiên. Sau nhiều năm không ổn định hiện nay các làng nghề truyền thống đang được phục hồi phát triển làng nghề ở Việtt Nam là các tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây…Làng mộc mỹ nghệ Đồng kỵ, đúc đồng Đại Bái,rệt lụa Hà Tây… là những làng nghề nổi tiếng không chỉ là sản phẩm độc đáo mà cả lợi ích kinh tế và xã hội. ở Gia lâm (Hà Nội) có làng nghề gốm sứ Bát Tràng hàng năm cung cấp sản lượng lớn các sản phẩm gốm sứ cho thị trường, thu hút lượng rất lớn lao động ở các vùng lân cận tới làm việc tại đó. ở tỉnh Hải Dương sản phẩm đậu xanh là đặc trưng của tỉnh mang lại thu nhập cao cho người lao động. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh từ đơn giản tới phức tạp, từ hộ tới các công ty. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong những thập niên gần đây.
Trước thời kì Pháp thuộc: Hầu như dân số nước ta sống trong nông thôn, làm nông nghiệp là chủ yếu, các làng nghề ổn định sản xuất, đáp ứng nhu cầu tại chỗ là chính. Thời kỳ này hình thức chủ yếu trong giai đoạn này là phường nghề do nhiều hộ gia đình hình thành.
Giai đoạn 1939 – 1945: Giai đoạn này làng nghề phát triển hơn trước đó, do chính sách vơ vét kinh tế nhằm bù đắp cho chiến tranh của thực dân Pháp.
Giai đoạn 1945 – 1954: Thời kỳ mà cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt diễn ra, một số làng nghề ở miền Bắc nằm trong vùng chiến sự không phát triển được, một số làng nghề khác phát triển mạnh để cung cấp cho chiến trường. Hình thức hộ là chủ yếu trong giai đoạn này.
Giai đoạn 1954 – 1975: Giai đoạn này miền Bắc là miền tự do, chúng ta tiến hành công cuộc hợp tác hoá, cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh, chúng ta không thừa nhận thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Chịu ảnh hưởng của kinh tế này ở miền Bắc nhiều hợp tác xã ngành nghề ở các làng nghề được thành lập đi vào hoạt động. Mong muốn một xã hội không có áp bức bóc lột, xã hội công bằng mô hình kinh tế chỉ huy được thực hiện một cách hệ thống từ trên xuống, ý nghĩa sản xuất kinh doanh đọc lập, tự chủ không còn nữa, tất cả là một khuôn mẫu định sẵn.
Trong hợp tác, người tay nghề cao với người chưa lành nghề được đối sử như nhau cả về kinh tế, về chính trị. Sự bình quân chủ nghĩa đã không kích thích được óc sáng tạo, lòng say mê làm việc của người lao động, có chăng đó là trong khẩu hiệu.
Đường lối chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước trong giai đoạn này đã kìm hãm sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp của các làng nghề. Những năm về sau những hợp tác xã ngành nghề chỉ còn là cái xác với s._.ự làm ăn thua lỗ liên tục. Tuy nhiên trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ mô hình tập thể hoá, hợp tác hoá là yếu tố quan trọng để dân tộc ta giành thắng loại.
Trong giai đoạn này thì làng nghề truyền thống, ngành thủ công nghiệp ỏ miền nam lại khá phát triển với nhiều hình thức tổ chức, hộ sản xuất, kinh doanh kinh tế tư bản phát triển mạnh.
Từ năm 1975 – 1986: Sau năm 1975 cả nước được thống nhất, Đảng và Nhà nước chủ trương áp dụng chính sách kinh tế tập trung trong cả nước. Xoá bỏ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể. Trong giai đoạn nay làng nghề không pháp triển lên được, nền kinh tế dựa qua nhiều vào viện trợ nước ngoài.
Những năm cuối thập niên 70, viện trợ bị cắt giảm đột ngột làm cho nền kinh tế vốn khó khăn nay càng khó khăn hơn. Trước bối cảnh kinh tế đất nước như vậy tư tưởng cải tổ nền kinh tế đã hình thành nhen nhóm, song vì còn mới lạ nên không được thừa nhận thậm chí được coi là những tư tưởng phản động. Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng nhận thấy những sai lầm thiếu sót trong đường lối phát triển của mình. Đường lối chính sách đổi mới nền kinh tế được khẳng định qua Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986. Đây là một yếu tố quan trọng trong đường lối chiến lược kinh tế của chúng ta, mà vấn đề quan trọng nhất là công nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Giai đoạn 1986 đến nay: Sau Đại hội VI hộ gia đình được công nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ. Đại hội VI mở ra hướng phát triển mới của nền kinh tế quốc gia nhưng đó mới là lý luận, chủ trương, đường lối, chưa đi vào thực tiễn. Phải tới những năm cuối của thập kỷ 80, do sự thay đổi của bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế và tình hình kinh tế trong nước thì quá trình “đổi mới” mới thực sự là hiện thực. Sự cải biến diễn ra mạnh mẽ trong nông nghiệp và nông thôn. Sự khẳng định sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế với hình thức tổ chức mở cửa cho nền kinh tế nước ta khởi sắc. Trong bối cảnh đó làng nghề truyền thống nói riêng, ngành tiểu thủ công nghiệp nói chung được khôi phục và không ngừng phát triển khẳng định vai trò to lớn trong khu vực kinh tế Nông thôn.
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp sản xuất, xí nghiệp, công ty... Hình thức không còn gò bó tuỳ theo khả năng của các chủ thể mà chọn hình thức nào đó phù hợp cho sự phát triển của mình.
Luật công ty, luật HTX, luật Doanh nghiệp tư nhân ra đời là hành lang pháp lý cho các hình thức này tồn tại, đóng góp vào nền kinh tế, khẳng định vị trí của mình.
Chương II
Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Huyện chương mỹ-hà tây.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề truyền thống ở huyện Chương Mỹ.
Chương Mỹ là huyện liền kề với thủ đô Hà Nội, cách thị xã Hà Đông 10km, Hà Nội 20km về phía Tây. Huyện có diện tích tự nhiên 23.294ha, đất nông nghiệp 14.282ha, toàn huyện có 31 xã và 02 thị trấn (Xuân Mai và Chúc Sơn), dân số có 27,3 vạn, có 57 nghìn hộ, 136.260 lao động. Đất nông nghiệp bình quân 533m2/người. Là huyện có nghề mây tre giang đan truyền thống. Là vùng đất có cảnh quan đẹp, có truyền thống lịch sử lâu đời, có nhiều di tích lịch sử danh lam thắng cảnh: Chùa Trầm, Chùa Chăm Gian, núi Hoả Tinh, là quê hương của Nhà sử học Ngô sỹ Liên, đô đốc Đặng Tiến Đông... Nhiều di tích đã được Nhà nước xếp hạng. Chương Mỹ có 02 khu vực Miếu Môn, Xuân Mai đã được chính phủ phê duyệt quy hoạch trong chuỗi đô thị Miếu Môn-Xuân Mai, Hoà Lạc. Tuy nhiên Chương Mỹ cũng là huyện nằm trong vùng phân lũ của Trung Ương.
Điều kiện tự nhiên.
Địa hình của huyện Chương Mỹ: Được chia là 2 vùng:
Vùng Trung Du: Gồm các xã nằm ở phía Tây huyện: Trần phú, Hữu Văn, Mỹ Lương, Tân Tiến, Nam Phương Tiến, Thuỷ Xuân Tiên, Thị trấn Xuân Mai, Đông Sơn, Thanh Bình, Tiên Phương (gồm 09 xã và 01 thị trấn).
Vùng Đồng Bằng: Gồm 22 xã và 01 thị trấn.
Khí hậu: Huyện Chương Mỹ nằm ở trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân-Hạ-Thu-Đông.
Số giờ nắng trung bình là 1460-1560 giờ nắng/1 năm, cao nhất vào tháng 6, đạt 180 giờ/tháng, thấp nhất vào tháng 01, đạt 90 giờ/tháng.
Nhiệt độ trung bình năm là 200C, nhiệt độ cao nhất là 380C, nhiệt độ thấp nhất là 90C (vào tháng 1 và tháng 2), lượng mưa bình quân 1.700mm/năm.
Huyện Chương Mỹ có sông Đáy chảy qua địa phận huyện dài 28km từ xã Phụng Châu đến xã Hoà Chính.
Tài nguyên đất đai:
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Chương Mỹ là: 23.294,15ha
Trong đó:
- Đất nông nghiệp : 14.282,1ha, chiếm 61,3%
- Đất lâm nghiệp : 585,6ha, chiếm 2,51%
- Đất chuyên dùng : 5.034,18ha, chiếm 21,61%
- Đất thổ cư : 1.206,07ha, chiếm 5,18%
- Đất chưa sử dụng và sông ngòi-núi đá vôi: 2.186,21ha, chiếm 9,39%
- Vùng sản xuất lương thực, rau mầu tập trung ở các xã nằm ven sông Đáy ở phía Đông huyện (gồm 22 xã và 01 thị trấn).
- Vùng sản xuất cây công nghiệp hàng năm và cây ăn quả lâu năm tập trung ở các xã phía Tây huyện (gồm 9 xã và 01 thị trấn).
Tài nguyên khoáng sản của Chương Mỹ khá phong phú và đa dạng.
Trữ lượng đá các loại khoảng 5 triệu m3 nằm ở các xã: Trần phú, Tân Tiến, Mỹ Lương, Nam Phương Tiến, Thuỷ Xuân Tiên.
Đá vôi tập trung ở các xã: Trần Phú, Nam Phương Tiến.
Tài nguyên nước: huyện Chương Mỹ có 03 hồ lớn: Hồ Đồng Sương, Văn Sơn, Miễu, trữ lượng nước: 15 triệu m3, phục vụ tưới cho các xã: Trần Phú, Hữu Văn, Mỹ Lương, Tân Tiến, Thuỷ Xuân Tiên, Thị trấn Xuân Mai.
Điều kiện kinh tế xã hội.
Về điều kiện kinh tế.
Vị trí địa lý: Vị trí của huyện rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội, huyện có hệ thống giao thông đường bộ gồm có: Quốc lộ số 6 đi qua huyện với tổng chiều dài là: 19km, Quốc lộ 21 với tổng chiều dài 18km, tỉnh lộ 80 với tổng chiều dài là 20km.
Hiện nay tất cả các hệ thống đường trục huyện đã được nâng cấp đổ bê tông hoặc thâm nhập nhựa theo chương trình vốn phân, chậm lũ và chương trình WB2.
Hệ thống điện thoại: Số máy điện thoại hiện có trong huyện Chương Mỹ có 8.031 máy, bình quân đạt 2,97 máy/100 dân. Toàn huyện có 25 điểm bưu điện văn hoá xã, và 08 bưu cục phục vụ, như vậy huyện có 33/33 điểm phục vụ, đã phủ sóng di động tại Thị trấn Xuân Mai và Thị trấn Chúc Sơn (diện tích phủ sóng đạt 80%)
Huyện Chương Mỹ hiện có 150 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 03, doanh nghiệp của Trung Ương, của Tỉnh 14, còn lại là các Công ty TNHH và doanh nghiệp của địa phương. Hàng năm tạo ra giá trị hàng hoá là: 1.600 tỷ, tạo việc làm cho 7.484 lao động, trong đó lao động của Huyện là: 6.297 chiếm 84%.
Huyện có tiềm năng về du lịch với các di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia: Chùa Trăm gian, chùa Trầm, bước đầu đã hình thành du lịch làng nghề: Làng nghề mây tre giang Phú Vinh, du lịch sinh thái: Làng nghề Tiên Lữ. Hàng năm thu hút khoảng 10 vạn khách thăm quan du lịch, trong đó có hàng trăm đoàn khách nước ngoài.
Về điều kiện xã hội.
Về mặt hành chính huyện Chương Mỹ có 33 xã và thị trấn với 229 thôn, làng.
Hiện nay Đảng bộ huyện Chương Mỹ có 79 Đảng bộ trực thuộc, trong đó có 47 Đảng bộ cơ sở, Chi bộ có 32. Tổng số đảng viên toàn Đảng bộ đến 31/12/2003 là 6954 đồng chí, sinh hoạt ở 302 Chi bộ trong đó 33 Đảng uỷ trực thuộc Huyện uỷ, còn lại là Chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở.
Tổng dân số toàn huyện đến ngày 31/12/2003 là: 273.000 người, gồm Dân tộc Kinh chiếm 99,6%, dân tộc Mường chiếm 0,4%.
Trong đó nam 131.600; nữ 142.014
Mật độ dân số bình quân 1.159người/km2.
Dân số sống ở thị trấn: 26.195 người chiếm 9,8%
Dân số sống ở nông thôn: 247.419 người chiếm 90,2%
Tổng số lao động 136.260 lao động, chiếm 49,9%. Trong đo:
Lao động sản xuất Nông nghiệp 78.000 lao động, chiếm 57,2%
Lao động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 45.000 lao động chiếm 33%.
Lao động trong thương mại và dịch vụ 13.260 lao động, chiếm 9,8%.
Về giáo dục, toàn huyện có 39 trường tiểu học; phổ thông trung học cơ sở: 36 trường, trường phổ thông trung học và trung tâm hướng nghiệp dạy nghề: 06; Năm học 2002-2003 toàn huyện có 66.223 học sinh đi học. Hiện nay 100% số trường học đã được cao tầng hoá và kiên cố hoá, không còn tình trạng học sinh học ca 3; 100% số xã trong huyện đã đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học và trung học cơ sở. Hàng năm có trên 300 cháu đỗ và các trường Cao đẳng, Đại học.
Công tác y tế được quan tâm với một bệnh viện cấp huyện và 03 phòng khám khu vực, 33 trạm xá xã đều có bác sỹ. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ dân số phát triển tự nhiên năm 2003 là 1,47%, tỷ lệ sinh con thứ 3 là: 14,8%.
Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Huyện.
Các điều kiện để một làng được công nhận là làng nghề truyền thống ở Chương Mỹ.
Mục đích.
Nhằm vận động nhân dân các địa phương trong huyện, tỉnh xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống, cổ truyền, làng nghề mới sản xuất công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn quản lý, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn.
Xây dựng nông thôn mới, phát triển ngành nghề, làng nghề phải gắn với công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp, bảo vệ môi trường của từng vùng, từng xã theo đinh hướng XHCN
Tạo thuận lợi để làng nghề công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ gắn bó với các hoạt động văn hoá du lịch, giao lưu kinh tế.
Làm cơ sở để xây dựng, phát triển, xét công nhận làng nghề.
Tiêu chuẩn làng nghề Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp.
Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và mọi quy định hợp pháp của chính quyền địa phương.
Số hộ hoặc lao động làm nghề công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp ở làng đạt từ 50% trở lên so với tổng số hộ hoặc lao động của từng làng.
Giá trị sản xuất và thu nhập từ công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp ở làng chiểm tỷ trọng trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. Đảm bảo vệ sinh môi trường theo các quy định hiện hành.
Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương, gắn với các mục tiêu kinh tế xã hội và làng văn hoá của địa phương.
Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: Nừu là làng nghề truyền thống, cổ truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng. Nừu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì nên lấy nghề đó đặt tên nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề không phải làng nghề truyền thống hay chưa có sản phẩm nghề nào nổi tiếng thì tên nghề của làng nên dựa vào nghề nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt tên nghề gắn với tên làng. Việc đặt tên nghề của làng do nhân dân bàn bạc thống nhất và chính quyền địa phương xem xét đề nghị.
Các tiêu chuẩn trên của làng nghề được ổn định và đạt từ 3 năm trở lên, hàng năm có tổ chức theo dõi và cứ 3 năm UBND tỉnh xét công nhận một lần.
Yêu cầu tổ chức xét duyệt, công nhận làng nghề.
Các địa phương có nghề sản xuất công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp phát triển, kể cả làng nghề truyền thống, cổ truyền, làng nghề mới do nhân dân tự suy tôn đều phải đăng ký xây dựng làng nghề, nếu đạt được các tiêu chuẩn quy định thì có thể đề nghị xét công nhận là làng nghề.
UBND xã, phường, thị trấn có văn bản đề nghị, được UBND huyện, thị xã đồng ý, gửi hồ sơ trực tiếp về Sở Công nghiệp Tỉnh để Sở Công nghiệp chủ trì thống nhất với các sở, ban, ngành liên quan ở tỉnh và trình UBND tỉnh xét công nhận.
Nếu 3 năm liền không đạt các tiêu chuẩn làng nghề, UBND xã, phường, thị trấn báo cáo UBND huyện, thị xã và Sở Công nghiệp để báo cáo UBND tỉnh dừng công nhận làng nghề.
Trách nhiệm, quyền lợi của làng nghề.
Về trách nhiệm của làng nghề.
Tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân hăng hái tham gia xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề.
Xây dựng làng nghề tiếp tục phát triển, động viên các nghệ nhân, thợ giỏi tham gia đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh phát triển các mặt hàng mà pháp luật cho phép, góp phần xây dựng kinh tế địa phương ngày một phát triển, hoàn thành tốt các nghĩa vụ với Nhà nước.
Xây dựng, phát triển làng nghề từng bước gắn với xây dựng làng văn hoá và các phong trào xã hội khác.
Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã ban hành và hàng năm gửi báo cáo tình hình hoạt động của làng nghề về Sở Công nghiệp tỉnh.
Thường xuyên đi sâu nghiên cứu cải tiến thiết bị công nghệ sản xuất đa dạng hoá mẫu mã sảm phẩm chất lượng cao, du nhập nghề mới, sảm phẩm mới để chiếm lĩnh thị trường, đồng thời đảm bảo vệ sinh, môi trường để duy trì sự tồn tại của làng nghề.
Về quyền lợi.
Được thực hiện các chế độ ưu đãi theo quy định của Nhà nước và được hưởng chính sách khuyến công, vay vốn, giải quyết đất đai, xây dựng cơ sở hạng tầng... theo dự án được duyệt.
Được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu bản quyền công nghiệp.
Được đào tạo, bồi dưỡng tham gia các lớp học nghề cán bộ quản lý, nghệ nhân, công nhân lành nghề theo quy định của Nhà nước.
Tổ chức thực hiện.
UBND xã, phường, thị trấn phân công cán bộ theo dõi, quản lý làng nghề, tập hợp các thông tin kiến nghị của cán bộ, người làm nghề, giải thích cho mọi người biết, nếu vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp trên xem xét, giải quyết theo quy định.
Các Sở, ban, ngành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, phối hợp với UBND các huyện, thị xã tổ chức hướng dẫn các địa phương (làng) phấn đấu xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề đến năm 2005, toàn huyện có 20 làng (phấn đấu 2010 toàn tỉnh có 150 làng) công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp đạt tiêu chuẩn theo quy định.
Hàng năm, Giám đốc Sở Công nghiệp phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan, UBND các huyện, thị xã tiến hành tổng kết việc khôi phục, nhân cấy nghề và xây dựng phát triển làng nghề, gắn với công tác tổng kết công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp của địa phương.
Quá trình thực hiện cần tổ chức rút kinh nghiệm, bổ xung hoàn thiện quy định về làng nghề.
Thực trạng phát triển của làng nghề truyền thống.
Số lượng, quy mô và tình hình phát triển của các làng nghề truyền thống.
Tính cho đến ngày 09/07/2003 thì Huyện Chương Mỹ đã được công nhận 15 làng nghề truyền thống đạt yêu cầu mà Tỉnh Hà Tây đề ra. Mục tiêu của Huyện uỷ, UBND đến 2005 sẽ tiếp tục công nhân 5 làng nghề nữa đạt tiêu chuẩn đề ra.
15 làng nghề này được công nhận theo 3 đợt:
Đợt 1: Ngày 17/03/2001 Quyết định số 315 (27/03/2001) của UBND tỉnh Hà Tây công nhận 2 làng nghề đạt tiêu chuẩn.
Làng nghề Mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa):
Tổng số hộ là 541 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 500 hộ, chiếm tỷ lệ 92%.
Tổng số lao động là 1078 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1002 người, chiếm tỷ lệ 93%.
Tổng giá trị sản xuất là 5,7 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3,6 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 63%.
Thu nhập bình quân 1,72 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1,75 triệu đồng/người/năm.
Nghề mây tre giang đan Phú Vinh đã có trên 100 năm nay, từ thời thực dân Pháp còn đang đô hộ nước ta. Lúc đầu chỉ có một số hộ làm đem bán tại thị trường Hà Nội. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã đưa các hàng mây tre giang đan về nước. Đất nước hoà bình, nghề mây tre giang đan Phú Vinh phát triển mạnh vì được đem bán ở nhiều nước. Đến năm 1986 thì 100% số hộ ở Phú Vinh đã làm nghề này. Từ khâu khai thác vật liệu, chế biến sản phẩm, ký kết hợp đồng xuất khẩu, đóng Côngtennơ hàng để đưa đi đều được người làng Phú Vinh làm thành thạo. Mẫu mã hàng ở đây vừa phong phú, vừa đẹp vì Phú Vinh gần như được coi là đất tổ nghề này.
Làng nghề Mây tre đan + Mộc Phù Yên (xã Trường Yên):
Tổng số hộ là 568 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 510 hộ, chiếm tỷ lệ 88%.
Tổng số lao động là 1447 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1261 người, chiếm tỷ lệ 87%.
Tổng giá trị sản xuất là 12,5 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 8,3 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 66%.
Thu nhập bình quân 2,77 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 2,8 triệu đồng/người/năm.
Những năm 1970, nghề mây tre giang đan xuất khẩu bắt đầu có ở Phù Yên. Lúc ấy, bà con ở đây làm để bán cho các ông chủ, bà chủ của các xã bạn. Nghề phát triển dần va đến nay đã trở thành nghề chính của thôn. 95% số hộ trong làng tham gia làm nghề. Nghề đã giải quyết được việc làm cho cả số lao động phụ. Sản phẩm ở đây đều thông qua tổ hợp tác mây tre giang đan xuất khẩu thu mua gom và xuất đi nước ngoài, không bán qua địa phương khác. Nhiều hộ đã được giải quyết đất để mở rộng sản xuất và làm ăn lớn.
Song song với nó thì nghề Mộc mặc dù không nhiều về quy mô nhưng nó cũng có những đóng góp không nhỏ về kinh tế cũng như những giá trị về văn hoá, nhân văn cho làng. Tạo công ăn việc làm 303 lao động trong lĩnh vực nghề mộc, đem lại thu nhập bình quân/người/năm từ 3,6 triệu-3,9 triệu (khoảng 202.076đ/người/tháng).
Đợt 2: Ngày 01/11/2001) UBND Tỉnh công nhận 7 làng nghề theo quyết định số 1769.
Làng nghề mây giang đan Quan Châm (xã Phú Nghĩa):
Tổng số hộ là 147 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 129 hộ, chiếm tỷ lệ 88%.
Tổng số lao động là 285 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 247 người, chiếm tỷ lệ 86%.
Tổng giá trị sản xuất là 1,18 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1,07 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 58%.
Thu nhập bình quân 2,0 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 2,0 tỷ đồng/người/năm.
Quan Châm có nghề đan may giang xuất khẩu từ lâu đời. Trước đây, hàng mây đan chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt trong nước. Sau này, khi những sản phẩm may đan được người Đông Âu mến mộ thì hàng ở đây đã được xuất đi thông qua các hiệp định thương mại. Hiện nay, nghề mây đan càng phát triển mạnh vì ngoài thị trường Đông Âu, hàng còn được đưa sang các nước: Hồng Kông, Hà Quốc, Nhật Bản... hầu hết các nước kinh tế phát triển mạnh đều rất thích dùng hàng mây tre đan vì ngoài yếu tố thẩm mỹ, mặt hàng này lại rẻ tiền và khi hỏng thì không gây ô nhiễm môi trường.
Làng nghề mây tre giang đan Khê Than (xã Phú Nghĩa):
Tổng số hộ là 108 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 88 hộ, chiếm tỷ lệ 81%.
Tổng số lao động là 197 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 158 người, chiếm tỷ lệ 80%.
Tổng giá trị sản xuất là 1,07 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 0,55 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 51%.
Thu nhập bình quân 1,8 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1,9 triệu đồng/người/năm.
Đây cũng là làng nghề nổi tiếng, có từ hơn 100 năm nay. Từ năm 1986 thì 99% số hộ trong làng nghề này tuỳ theo mức độ từng nhà. Ngoài số lao động chính làm nghề thì hơn 200 lao động phụ trong làng cũng tham gia làm suốt ngày. Nhờ đó, thu nhập của bà con ngày một tăng, đời sống được cải thiện. Trước đây, hàng của Khê Than xuất khẩu đi các nước nhờ Công ty xuất nhập khẩu tỉnh. Hiện nay, hầu hết các nước ưa chuộng hàng mây tre đan thì đều đã có mặt hàng của Khê Than nhưng đều do các ông chủ, bà chủ Khê Than đảm nhận từ đầu đến cuối.
Làng nghề mây tre giang đan Lam Điền (xã Lam Điền):
Tổng số hộ là 486 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 448 hộ, chiếm tỷ lệ 92%.
Tổng số lao động là 1622 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1314 người, chiếm tỷ lệ 81%.
Tổng giá trị sản xuất là 5,173 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3,5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 68%.
Thu nhập bình quân 1,43 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1,3 tỷ đồng/người/năm.
Những năm 1960, thôn Lam Điền có một vài gia đình nên Phú Vinh học nghề mây tre đan. Thấy nghề cũng có thêm thu nhập và giải quyết được việc làm lúc nông nhàn nên anh em, họ hàng đã dạy cho nhau. Càng về những năm gần đây, nghề mây tre đan càng phát triển mạnh vì có nơi tiêu thụ tốt. Sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú. Người lao động của địa phương cũng dồi dào nên giá trị sản lượng tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 1996, giá trị hàng Thủ công nghiệp của Lam Điền mới được 2,3 tỷ đồng, thì đến năm 2000 đã nên 3,5 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 68% là nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây.
Làng nghề mây tre đan Yên Kiện (xã Đông Phương Yên):
Tổng số hộ là 282 hộ, trong đó hộ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 167, chiếm tỷ lệ 59%.
Tổng số lao động là 568 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 358 người chiếm tỷ lệ 63%.
Tổng giá trị sản xuất là 4,06 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 2,5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 61%.
Thu nhập bình quân 3,21 triệu đồng/người/năm, trong đo thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3,1 triệu đồng/người/năm.
Yên Kiện nằm trong vùng bán sơn địa của xã Đông Phương Yên. Nghề mây tre giang đan xâm nhập vào thôn từ những năm 1960. Đến nay, có 59,2% số hộ làm nghề này tuỳ theo mức độ nhiều ít khác nhau. Nừu tính cả lao động phụ thì có tới 550 người tham gia làm nghề. Năm 2000, tỷ trong hàng Thủ công nghiệp ở đây đã chiếm tới gần 62%. Trong làng đã có vài ba doanh nghiệp lớn chuyên tổ chức mua gom hàng hoá. Mặc dù nghề chưa thuộc diện lâu đời nhưng đã xuất hiện nhiều người giỏi có tiếng. Hàng ở đây chủ yếu được đưa đi các nước: Nhật Bản, Liên xô(cũ), Tây Ban Nha.
Làng nghề mây tre đan Đông Cựu (xã Đông Phương Yên):
Tổng số hộ là 285 hộ, trong đó hộ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 250, chiếm tỷ lệ 87%.
Tổng số lao động là 500 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 465 người, chiếm tỷ lệ 93%.
Tổng giá trị sản xuất là 4,3 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 2,7 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 63%.
Thu nhập bình quân 3,87 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3,85 tỷ đồng/người/năm.
Thôn Đông Cựu nằm ven quốc lộ 6 (Hà Nội – Hoà Bình) nên giao thông thuận lợi. Xã có nghề mây tre đan từ năm 1960. Hiện 87% số hộ trong xã tham gia làm nghề. Nừu tính cả lao động phụ thì nghề mây tre đan đang thu hút cỡ gần 600 người. Giá trị thu từ nghề này chiếm 63% vào năm 2000, đến nay đã tăng hơn. Trong xã có doanh nghiệp lớn, tự làm luôn việc ký hợp đồng, đóng Côngtennơ xuất khẩu. Nhiều người có tay nghề giỏi. Hiện hàng ở đây được các nước: Liên xô(cũ), Nhật Bản, Tây Ban Nha rất ưa chuộng.
Làng nghề mây tre đan thôn Đồi 3 (xã Đông Phương Yên):
Tổng số hộ là 238 hộ, trong đó hộ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 184, chiếm tỷ lệ 77%.
Tổng số lao động là 594 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 494 người, chiếm tỷ lệ 83%.
Tổng giá trị sản xuất là 7,63 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 5,2 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 70%.
Thu nhập bình quân 5,2 triệu đồng/người/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 5,4 tỷ đồng/người/năm.
Thôn Đồi ba năm trong vùng bán sơn địa giáp trục đường giao thông quốc lộ 6 đi Hà Nội, Hoà Bình nên rất thuận tiện trong chuyên chở hàng hoá. Nghề mây tre giang đan sớm hình thành từ đầu những năm 1960, lúc đầu chỉ có số ít gia đình tham gia với hình thức sản xuất nhỏ bé. Đến nay, ngành nghề trong thôn đã phát triển mạnh, thu hút gần 500 lao động chính và khoảng 800 lao động phụ, đóng góp tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của địa phương. Với tính chất sản xuất phân tán trong từng hộ gia đình, vật liệu được dân khai thác đem về ban, do đó không tốn nhiều diện tích, đầu tư vốn ban đầu ít, hiệu quả kinh tế cao. Làng nghề đã tạo nên những nhà doanh nghiệp tài ba, những đôi bàn tay vàng... Sản phẩm được tiêu thụ ở nhiều nước như Nhật Bản, Liên Xô(cũ)... với chất lượng cao nên đã được tin tín với khách hàng.
Làng nghề nón lá + mũ lá Văn La (xã Văn Võ):
Tổng số hộ: 685 hộ, trong đó hộ sản xuất Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp là 607 hộ chiếm tỷ lệ 89%.
Tổng lao động: 1622 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1521, chiếm tỷ lệ 94%.
Tổng giá trị sản xuất 5,1 tỷ đồng, trong đó Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3 tỷ, chiếm 59%.
Thu nhập bình quân 1,41 triệu đồng/người/năm.
Thu nhập bình quân từ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 0,95 triệu đông/người/năm.
Nghề nón lá, mũ lá được người dân Văn la bước vào sản xuất từ khoảng trước năm 1945. Thời gian đầu, do thị trường tiêu thụ còn hạn chế, chỉ có vài hộ tham gia thu nhập khá, lại tạo việc làm cho lao động quanh năm, nên chính quyền xã quan tâm cho thành lập các đơn vị theo đội sản xuất, tổ chức duy trì nghề nón lá, mũ lá. Nghề này ngày càng phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo cho nông dân nên thu hút tới 89% số hộ trong thôn. sản phẩm nón lá, mũ lá Văn La được làm cẩn thận, đẹp nên có thị trường tiêu thụ rộng rãi ở nhiều tỉnh, thành phố.
Đợt 3: Ngày 09/07/2003 theo Quyết định số 938 QĐ/UB của UBND tỉnh Hà Tây công nhận tiếp 6 làng nghề đạt tiêu chuẩn trong địa bàn huyện Chương Mỹ.
Làng nghề mây tre giang đan thôn Lũng Vị (xã Đông Phương Yên).
Tổng số hộ: 319 hộ, trong đó hộ sản xuất Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp là 244 hộ chiếm tỷ lệ 76,48%.
Tổng lao động: 1000 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 840, chiếm tỷ lệ 84%.
Tổng giá trị sản xuất 4,28 tỷ đồng, trong đó Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3,16 tỷ, chiếm 73,83%.
Thu nhập bình quân 4,2 triệu đồng/người/năm.
Thu nhập bình quân từ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 4,5 triệu đông/người/năm.
Thôn Lũng Vị có nghề mây tre giang đan xuất khẩu truyền thống lâu đời. Năm 1957, khi mới có nghề chỉ có một số hộ tự tìm tòi học hỏi ở các xã bạn dần dần số hộ tham gia tăng lên, nghề được mở mang ra toàn thôn. Đến những năm 1970, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nghề mây tre đan trong thôn đã được khởi sắc. Từ đó đến nay ngành nghề đã phát triển rộng rãi với số lượng hộ tham gia ngày càng nhiều, năng suất lao động cao hơn do được tích luỹ kinh nghiệm về sản xuất cũng như việc đầu tư kinh phí cho sáng tác mẫu mã, xây dựng cơ sở vật chất, khuyến khích cho người có công...
Qua thực tế sản xuất đã khẳng định được vị trí, vai trò của nghề mây tre đan xuất khẩu là mũi nhọn để phát triển kinh tế ở địa phương. Ngành nghề phát triển đã góp phần đáng kể vào chương trình tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng thu cho ngân sách...
Làng nghề mây tre giang đan thôn Đồi Hai (xã Đông Phương Yên).
Tổng số hộ: 335 hộ, trong đó hộ sản xuất Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp là 288 hộ chiếm tỷ lệ 86%.
Tổng lao động: 935 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 711, chiếm tỷ lệ 76%.
Tổng giá trị sản xuất 5,7 tỷ đồng, trong đó Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 4,3 tỷ, chiếm 75,4%.
Thu nhập bình quân 3,12 triệu đồng/người/năm.
Thu nhập bình quân từ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 3,0 triệu đông/người/năm.
Nghề mây tre giang đan du nhập vào thôn từ năm 1955, ban đầu cũng hạn chế về số hộ tham gia làm nghề, nhưng sau một thời gian việc sản xuất sản phẩm mang lại những hiệu quả cao khiến việc nhân cấy nghề trong địa phương diễn biến nhanh chóng và cũng nhờ đó đời sống về vật chất cũng như tinh thần của người dân nơi đây đã có sự thay đổi đáng kể, giúp xoá đói, giảm nghèo, tận dụng lao động nhàn dỗi. Doanh số bán hàng ngày càng tăng với tốc độ bình quân từ 8-12%. Các sản phẩm được làm ra tuy chưa mang nhiều nghệ thuật nhưng nó cũng có những thị trường ổn định từ các tỉnh, thành phố và có một số xuất khẩu đảm bảo chất lượng, tính nghệ thuật trong sản phẩm.
Làng nghề mây tre đan Hạ Dục (xã Đồng Phú).
Tổng số hộ: 413 hộ, trong đó hộ sản xuất Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp là 370 hộ chiếm tỷ lệ 89,6%.3
Tổng lao động: 1307 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1020, chiếm tỷ lệ 78%.
Tổng giá trị sản xuất 5,9 tỷ đồng, trong đó Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 2,5 tỷ, chiếm 62%.
Thu nhập bình quân 2,41 triệu đồng/người/năm.
Thu nhập bình quân từ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 2,5 triệu đông/người/năm.
Ngành mây tre giang của làng có từ những năm 1978. Những năm đầu xã đã tổ chức các lớp học nghề dưới sự hướng dẫn giảng dậy của các nghệ nhân và giáo viên của nghành thủ công nghiệp. Khi đào tạo xong, nghề mây tre giang của cả xã nói chung và làng Hạ Dục nói riêng phát triển còn chậm, lẻ tẻ chưa có chỗ đứng vững vàng trên thị trường. Năm 1995, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, UBND xã Đồng Phú đã quyết tâm vực dậy nghề mây tre giang đan. Điều kiện thuận lợi của làng Hạ Dục là có các hộ tổ chức thu gom hàng tìm nguồn tiêu thụ mở rộng đa dạng hoá mặt hàng. Từ đó nghề mây tre giang đan đã phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân có sự thay đổi đang kể. Sản phẩm hàng hoá của làng làm ra đạt chất lượng cao, có uy tín với khách hàng: Hồng Kông, Nhật Bản, hàng hoá sản xuất ra và tiêu thụ luôn được ổn định.
Làng nghề mây tre giang đan thôn Tiên Lữ (xã Tiên Phương).
Tổng số hộ: 861 hộ, trong đó hộ sản xuất Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp là 466 hộ chiếm tỷ lệ 54%.
Tổng lao động: 2136 người, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 1367, chiếm tỷ lệ 64%.
Tổng giá trị sản xuất 30,38 tỷ đồng, trong đó Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 20,49 tỷ, chiếm 67,44%.
Thu nhập bình quân 4,3 triệu đồng/người/năm.
Thu nhập bình quân từ sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là 4,25 triệu đông/người/năm.
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có từ lâu đời, lúc đầu chỉ có một vài hộ làm với hình thức vừa làm vừa học, doanh thu không đáng kể. Đại đa số dân đều sống bằng nghề cấy lúa và chăn nuôi gia súc, gia cầm nên đời sống kinh tế gặp rất nhiều khó khăn. Đến n._.iều khó khăn do hàng không thành toán được, dẫn đến công nợ chồng chất.
Trước tình hình đó, năm 1990, đồng chí Chủ tịch xã đã bàn bạc xin ý kiến của Tỉnh giải thể HTX, cho thành lập các tổ sản xuất nhỏ. Thực hiện vận động, tuyển chọn những người có tay nghề giỏi, nhanh nhẹn, linh hoạt và có đầu óc kinh doanh vào làm trong các tổ hợp. 22 tổ hợp sản xuất do phòng Công nghiệp trực tiếp xét duyệt chính thức được thành lập. Sảm phẩm làm ra khá nhiều, nhưng việc tìm kiếm thị trường vẫn còn là vấn đề khó khăn. Song, tấm lòng yêu nghề, kiên trì và phát huy nội lực nghề truyền thống đã giúp người dân Phú Nghĩa thành công. Hoạt động ngành nghề thực sự trở nên sôi động: 22 tổ hợp được sát nhập vào 8 tổ hợp, tổ thấp nhất có khoảng 250 người.
Các tổ hợp được thành lập theo xóm, làng càng giúp họ có điều kiện về thời gian và cách quản lý. Thuận lợi này lại tiếp thuận lợi khác. Lúc này, nguyên liệu chủ yếu được nhập từ bên ngoài, chỉ việc mua ở các chợ trong xã. Cũng có thời điểm, xã phải cử người đi khai thác nguyên liệu nơi khác như cây Giao ở Hoà Bình, hay cây song ở tận Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Bằng óc sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo, người dân Phú Nghĩa đã không ngừng cải tiến mẫu mã để phù hợp với tâm lý người tiêu dùng. Từ hình dạng, kiểu dang đến chất liệu được thay đổi liên tục, đan xen nhau. Riêng mặt hàng chính mây tre giang của xã cũng có khoảng 400-500 mẫu mã khác nhau. Từ những sản phẩm thông dụng như: đĩa, khay đựng hoa quả, bánh kẹo, là (túi xách), cơi đựng trầu... đến các sản phẩm cao cấp như lọ hoa, ủ nước... đều có các kiểu dáng khác nhau như: vuông, dài, cao, thấp, dẹt, to, nhỏ... Thị trường tiêu thụ cũng không chỉ dừng lại ở các nước châu Âu như Pháp, Đức, Liên Xô (cũ), Bỉ... nữa mà đã chuyển sang các nước châu á như Hồng Kông, Đài Loan, thậm chí mở rộng ra cả một số nước ở Nam Mỹ. Phú Nghĩa đang trở thành xã điển hình về phát triển kinh tế nhờ vào làm nghề. Hiện xã có một Công ty TNHH thủ công mỹ nghệ của anh Nguyễn Đức Thịnh đang hoạt động rất mạnh. Cơ sở của anh thu hút hơn 300 lao động. Đặc biệt, Công ty anh đã giao hợp đồng và ứng tạo vốn cho dân cùng làm. Bình quân mỗi năm thu nhập đầu người từ nông nghiệp đạt 700-800 ngàn đồng. Nhờ có làm nghề, thu nhập của người dân tăng lên gấp 3,4 lần so với làm nghề nông đơn thuần. Năm 1995, tổng thu nhập của Phú Nghĩa đạt 5 tỷ đồng, đến năm 2000 tăng lên 7,5 tỷ đồng. Đời sống nhân dân ngày một được nâng cao, hầu hết các hộ khá và giầu đều đi lên từ làm nghề.
Bên cạnh việc nghề của xã phát triển, kinh tế hộ đi lên, làng nghề Phú Nghĩa vẫn còn những bất cập. Do mặt bằng sản xuất không có, chỉ dựa chủ yếu vào các hộ gia đình có sẵn, vì vậy khó có thể làm hàng với quy mô rộng. Hơn nữa, việc vay vốn đầu tư cho sản xuất còn đang rất khó khăn (mỗi hộ chỉ được vay từ 1 đến 2 chục triệu). Để bảo quản hàng khỏi mốc, mọt phải sấy qua diêm sinh. Vì vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Hạn chế được những khó khăn đó, hy vọng làng nghề mây tre giang Phú Nghĩa ngày một phát triển mạnh hơn. Sản phẩm làm ra sẽ là người bạn hàng tin cậy của nhiều nước trên thế giới.
Làng nghề nón lá, mũ lá thôn Văn La (xã Văn Võ).
Văn La thuộc vùng sâu vùng xa của huyện và xa các tuyến giao thông của tỉnh, của quốc gia. Nên chủ yếu số nhân dân sống nghề làm ruộng và nghề làm nón lá. Đặc điểm phía đông bắc là dòng sông đáy giáp xã Kim Thư, xã Phương Trung thuộc huyện Thanh Oai, phía Nam giáp xã Phú Nam An và phía Tây giáp thôn Võ Lao xã Văn Võ. Làng Văn La có Đình Thượng, chùa Đại Quang được Bộ văn hoá thông tin công nhận Di tích văn hoá. Đời sống nhân dân ổn định , văn hoá xã hội từng bước phát triển, tệ nạn xã hội không có đó là nhờ một phần vào việc phát triển nghề nón lá phụ ở làng để tận dụng nguồn lao động vốn thường dư thừa theo mùa vụ ở nông thôn.
Xã Văn Võ có hai thôn, riêng thôn Văn La có 745 hộ với 3.049 khẩu. Nghề làm nón lá + mũ du nhập vào địa phương từ xa xưa (trước năm 1945). Lúc đầu chỉ có vài người tham gia, các hộ tự làm, tự tìm nguồn tiêu thụ và nguyên vật liệu, do đó doanh thu còn hạn chế. Đến năm 1975 nghề nón lá + mũ lá được xã, thôn quan tâm nên đã thành lập được các đơn vị sản xuất nón theo đội sản xuất, nghề nón lá + mũ lá phát triển, làm cho thu nhập của người dân nơi đây ngày một cải thiện. Đó là sức hút của nghề đối với người dân nơi đây, thậm chí có nhiều gia đình có nguồn thu chủ yếu là nghề nón lá + mũ lá. Đến nay trong làng số hộ làm nghề chiếm trên 98%. Làng Văn La có nghề làm nón cùng với làng Chuông (xã Phương Trung) từ xa xưa. Chính vì vậy những ngày nông nhàn đã tận dụng được thời gian dư thừa, mọi đối tượng trong dân từ cháu nhỏ 5-6 tuổi đến các cụ 60 tuổi đều có thể tham gia làm nón kể cả buổi tối. Nên góp phần quan trong trong thu nhập chính của mỗi gia đình và tổng thu nhập của toàn xã. Hiện nay 100% các hộ trong làng tham gia làm nón và doanh thu từ 350.000 - 500.000 đồng (đã trừ chi phí), tạo việc làm cho trên 3000 lao động phụ và lao động chính trong lúc nông nhàn. Sản phẩm nón lá + mũ lá của địa phương đã được tiêu thụ ở nhiều nơi. Theo chủ trương chung của Đảng bộ nghề nón được phát triển trong toàn xã, thông qua nghề nón lá + mũ lá đã góp phần xoá đói, giảm hộ nghề trong xã, trong làng. Đến nay địa phương không còn hộ đói, hộ nghèo chỉ còn 1,5%.
Về tiêu thụ sản phẩm: Thời kỳ bao cấp nhập bán nón + mũ lá cho Sở thương nghiệp tỉnh, thời kỳ xoá bao cấp nón + mũ được bán tại chợ Chuông hoặc một số hộ có điều kiện mua gom chở đi bán ở một số tỉnh trên miền bắc kể cả xuất sang Trung Quốc. Như vậy nón + mũ lá sản xuất bán gọn trong tháng hoặc theo phiên chợ, và số tiền thu được phục vụ ngay cho đời sống sinh hoạt hàng ngày ở mỗi gia đình cũng như đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của thôn, xã.
Để nón + mũ lá phát triển ổn định, nhất là tiêu thụ sản phẩm, đề nghị cấp trên nên đặt điểm thu mua tại xã hoặc cho vay vốn ban đầu những hộ có khả năng kinh doanh thì người sản xuất nón không bị ép giá. Đấy cũng là biện pháp hỗ trợ xoá đói giảm nghèo các xã vùng sâu vùng xa, kinh tế chậm phát triển. Đồng thời huyện tạo điều kiện giao lưu các làng nghề trong tỉnh để học tập kinh nghiệm và cấy thêm nghề mới có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Làng nghề mây tre đan _ nghề mộc Phù Yên (xã Trường Yên).
Phù Yên là một làng của xã Trường Yên, làng nhỏ nằm cạnh quốc lộ 6A về giao thông rất thuận lợi.
Trước cách mạng tháng Tám là một làng nhỏ, số hộ có khoảng 200 hộ, gồm 1.020 khẩu. Theo điều tra dân số năm 2000 số khẩu có 570 hộ, gồm 2.888 nhân khẩu, diện tích canh tác có 273 mẫu, năm 2995 giao ruộng cho mỗi khẩu chỉ được 14 thước rưỡi. Đời sống của nhân dân chủ yếu là làm nghề và làm ruộng.
Từ xa xưa khi lập làng đã có nghề thợ mộc và nghề làm bún, nhân dân làm ăn sinh sống chủ yếu bằng những nghề trên. Vào những năm 1960 đến 1974 một số hộ trong làng đã tìm tòi học nghề may tre đan xuất khẩu cộng với một số con gái xã Phú Nghĩa về làm dâu của làng, đồng thời cũng mang nghề về quê chồng. Như vậy, những năm ấy đã hình thành tự phát một nhóm gồm 18 hộ làm nghề may tre giang xuất khẩu.
Năm 1974 chi bộ và Ban quản trị HTX nông nghiệp thôn Phù Yên đã lắm bắt được nhu cầu của nhân dân và tổ chức mở lớp đón thầy về làng dạy truyền nghề hàng nan. Từ đó hàng năm hộ làm nghề được tăng lên gấp bội. Đặc biệt từ năm 1993 tới nay cùng đi lên trong cơ chế đổi mới của Đảng và Nhà nước các doanh nghiệp được hình thành, các hộ trong làng tự học nghề lẫn nhau, đã có bước phát triển vượt bậc. Hiện nay có 3 doanh nghiệp, có 541 hộ làm nghề mây tre đan xuất khẩu, chiếm 95% số hộ trong thôn. Song song với nghề mây tre giang xuất khẩu làng còn có nghề mộc cổ truyền từng bước phát triển. Năm 1995 được sự quan tâm của UBND xã, chi uỷ và Ban đại diện thôn đã tổ chức lớp điêu khắc tại làng, tạo cho nghề mộc được phát triển tinh xảo hơn, đáp ứng với khách hàng trong cơ chế thị trường. Đặc biệt đã xuất hiện thợ mộc là nữ giới, các ngành nghề dịch vụ khác như: xay sát, vận tải, thương nghiệp nhỏ cũng từng bước phát triển.
Ước tính giá trị thu nhập của các ngành nghề trong làng như sau:
Tổng giá trị chung toàn thôn là: 1,12 tỷ đồng trong đó:
Thủ công, dịch vụ chiếm hơn 95% tổng giá trị chung.
+ Thủ công_dịch vụ: 1,057 tỷ đồng
+ Nông nghiệp : 0,063 tỷ đồng
Nghề may tre đan xuất khẩu:
- Có 3 doanh nghiệp
Có 541 hộ làm nghề, chiếm 95%
Có 1.261 lao động làm nghề (1.261 lao động * 3.600.000/năm = 4.539 triệu đồng, chiếm 64,8% thu nhập)
Thợ mộc:
Có 10 xưởng sản xuất.
Lao động làm mộc 303 lao động (303 lao động * 3.960.000/năm = 1.199,88 triệu đồng chiếm 17,1% thu nhập)
Dịch vụ khác 409 triệu đồng chiếm 5,8%
Nông nghiệp chiếm 20%
Chăn nuôi chiếm 12,2%
Tổng thu nhập: 7.003.180.000 đồng
Bình quân đầu người: 202.076(đồng/tháng)
Từ khi phát triển làng nghề đến nay đời sống của nhân dân trong làng tăng lên rõ rệt. Để cho làng nghề phát triển hơn nữa, các cấp đảng Uỷ và các ban ngành liên quan cần có sự quan tâm, tạo điều kiện cho đầu vào, đầu ra của sản phẩm từ làng, nhất là nghề mộc vốn rất non yêu và chất lượng thấp.
chương III
một số giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của các làng nghề truyền thống ở Chương mỹ-Hà tây.
I. Những chủ chương, biện pháp thúc đẩy Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển tại địa bàn của Huyện.
Những năm qua Huyện uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đã có nhiều nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động nhằm thúc đẩy công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển.
UBND huyện đã có kế hoạch triển khai cụ thể từng chủ trương của Huyện uỷ, thường xuyên kiểm tra sơ tổng kết rút ra kinh nghiệm.
Lập quỹ khuyến công để mở lớp học nghề (huyện Chương Mỹ có từ năm 1996, tỉnh Hà Tây có từ năm 1999). Hàng năm huyện trích từ 30-50 triệu đồng kết hợp với nguồn kinh phí khuyến công của Tỉnh hỗ trợ các lớp học nghề cho các xã.
Động viên các chủ doanh nghiệp đỡ đầu các lớp học nghề, trực tiếp tuyển chọn giáo viên dạy nghề, đồng thời tiêu thụ sản phẩm do các lớp sản xuất ra.
Mục tiêu của Huyện năm 2004 và những năm tiếp theo:
(theo báo cáo tóm tắt tình hình phát triển CN-TTCN trên địa bàn Huyện)
Căn cứ vào các chỉ tiêu do đại hội Đảng bộ huyện Chương Mỹ lần XX, các chương trình hành động của Huyện uỷ – UBND huyện về việc thực hiện nghị quyết của Đảng, Nghị quyết củ HĐND huyện khoá 16 kỳ họp thứ 10.
Ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp Huyện Chương Mỹ phấn đấu:
Mục tiêu năm 2004:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 10% trở lên. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp – XDCB đạt: 788 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ.
Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: 182 tỷ tăng 20% so với cùng kỳ.
Giá trị xuất khẩu đạt 96 tỷ tăng 27% so với cùng kỳ.
Cơ cấu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp xây dựng cơ bản đạt 214 tỷ chiếm 28%, tăng 17% so với năm 2003.
Tiếp tục khảo sát đề nghị trên công ngận 5 làng nghề.
Mục tiêu năm 2005:
Tôc độ tăng trưởng là 13% trở lên. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp –XDCB đạt 945 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ.
Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 215 tỷ tăng 18% so với cùng kỳ.
Giá trị xuất khẩu 120 tỷ tăng 25% so với cùng kỳ.
Cơ cấu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp xây dựng cơ bản đạt 257 tỷ chiếm 30%, tăng 20% so với năm 2004.
Phát triển nhân rộng ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, năm 2005 có 70% số làng trong Huyện có nghề, 20 làng được UBND tỉnh công nhận, 12.000 hộ sản xuất Tiểu thủ công nghiệp.
II. Các giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của các làng nghề trên địa bàn huyện Chương Mỹ-Hà tây.
Quy hoặch và giải quyết mặt bằng sản xuất cho các làng nghề cần được làm sớm.
Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh nói chung và làng nghề nói riêng là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Do vậy, phát triển làng nghề phải gắn với quy hoạch kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của Tỉnh, huyện, xã, thậm chí của từng vùng. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể làng nghề, cần xây dựng quy hoạch chi tiết cho từng làng nghề về khu dân cư, khu sản xuất, giao thông, điện nước … phòng Công nghiệp phố hợp với Sở công nghiệp phố hợp với các ngành xây dựng, Địa Chính, Giao thông, Thương mại, Du lịch … và các xã, vùng trong huyện để xây dựng công nghiệp theo hướng phát triển ngành nghề, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo định hướng phát triển kinh tế của huyện, mục tiêu của tỉnh, phòng công nghiệp phối hợp với các ban ngành có liên quan hướng dẫn các làng nghề xây dựng quy hoạch, xây dựng nông thôn mới, UBND Huyện kết hợp với Sở văn hoá-thông tín giúp các làng nghề xây dựng làng văn hoá, kết hợp với Sở Khoa học công nghệ môi trường giúp các làng nghề xây dựng phương án xử lý chất thải và bảo vệ môi trường.
Từ năm 1999, các dự án phát triển làng nghề từ UBND tỉnh được đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm của địa phương và được các cấp, các ngành chỉ đạo, tạo điều kiện cho vay vốn, giúp tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Mặt bằng cho các làng nghề đang trở thành vấn đề bức xúc. Do tính chất quan trọng của làng nghề hiện tại và những năm tới, cần có nhận thức đúng và đầy đủ vấn đề này. Nghĩa là giải quyết mặt bằng cho các làng nghề phải bình đẳng như giải quyết mặt bằng đối với doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH …
Về thị trường thiêu thụ sản phẩm.
Uỷ ban nhân dân huyện, tỉnh hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng tiếp cận, tìm kiếm, khai thác, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, tạo cơ hội giao lưu thương mại thông thoáng, thành lập tổ chức xúc tiến thương mại, thành lập Hiệp hội ngành nghề từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Sở công nghiệp phối hợp với Sở thương mại, Hội đồng liên minh HTX, Ban dân vận Huyện, Tỉnh và các ngành có liên quan để nhằm hướng dẫn tổ chức các làng nghề, ngành nghề thành lập Hiệp hội ngành nghề góp phần làm tăng sức mạnh, tăng sức cạnh trang trên thị trường trong sản xuất kinh doanh cũng như ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Nhất là ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, cũng có thể thành lập công ty cổ phần ở cấp tỉnh với sự tham gia của nhà nước (Công ty xuất nhập khẩu) và các tư nhân có tư cách pháp nhân, có vốn đang hoạt động trong việc bán hàng ra nước ngoài. Tổ chức này có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và là tổ chức đại diện cho lĩnh vực xuất khẩu trong toàn Huyện. Có như vậy mới tập hợp được sức mạnh về vốn, trí tuệ và kinh nghiệm.
Tổ chức hội chợ (trong nước và nước ngoài) hàng năm dành một khoản ngân sách của cấp tỉnh, huyện, xã cho lĩnh vực này. Các thị trấn dành vị trí thuận tiện để tổ chức các trung tâm, cửa hàng để giới thiệu sản phẩm.
Tổ chức tiếp thị, thông tin dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm, chống ép cấp, ép giá đối với sản phẩm làng nghề. Sở tài chính-Vật giá phối hợp với Sở thương mại, Sở công nghiệp để có bản tin hàng tháng về vấn đề này. Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động tiêu thụ sản phẩm làng nghề được tạo mọi điều kiện thuận lợi như đối với cơ sở sản xuất làng nghề.
Để thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất của làng nghề và lành mạnh hóa thị trường trong tỉnh, các ngành: Công An, Quản lý thị trường, Hải quan và các ngành khác có liên quan cần kiên quyết chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận trong thương mại.
Sở thương mại chỉ đạo Công ty xuất nhập khẩu tỉnh tìm thị trường và tập trung cho việc xuất khẩu hàng địa phương, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ và nông sản thực phẩm.
Về nguyên liệu cho quá trình sản xuất.
Xúc tiến quy hoạch và hình thành sớm các vùng nguyên liệu tập trung. Thực hiện có hiệu quả chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trước mắt chú ý chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đảm bảo số lượng và chất lượng tốt nhất cho phát triển công nghiệp chế biến nói chung và công nghiệp chế biến trong làng nghề nói riêng.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, cần hình thành các tổ chức dịch vụ khai thác, cung cấp vật tư, nguyên liệu, đảm bảo ổn định cho sản xuất. Chi cục kiểm lâm nhân dân có kế hoạch xin chỉ tiêu gỗ hàng năm của Trung Ương và ưu tiên bán gỗ thu hồi từ vận chuyển trái phép cho các cơ sở sản xuất hàng mộc xuất khẩu.
Uỷ ban nhân dân tỉnh sớm có chủ trương bảo hiểm, trợ giá đối với một số loại cây trồng, nguyên liệu, khuyến khích phát triển, cung cấp nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến xuất khẩu.
Về nguồn vốn đầu tư.
Các nguồn vốn tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ quốc gia xúc tiến việc làm, ngân hàng phục vụ người nghèo, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các tổ chức xã hội có vốn cho vay cần ưu tiên cho các làng nghề vay vốn với lãi suất thấp và thời hạn vay hợp lý.
Tổ chức cơ quan tư vấn giúp đỡ cơ sở sản xuất làng nghề xây dựng các dự án đầu tư chiều sâu, đầu tư phát triển sản xuất khả thi, hiệu quả và tạo điều kiện để cơ sở được vay vốn thuận lợi. Trước mắt, Cục Đầu tư và phát triển tỉnh phối hợp với Sở Kế hoạch-Đầu tư cần xem xét một số hộ ở các làng nghề lập dự án cho vay vốn quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn tín dụng ưu đãi.
Thành lập công ty cổ phần, HTX cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ở các làng nghề; đây là điều kiện để thu hút vốn của nội bộ và đầu tư từ bên ngoài.
Các cơ sở sản xuất trong làng nghề đầu tư phát triển ngành nghề mà Nhà nước và địa phương khuyến khích do Uỷ ban nhân dân quy định, thì được dùng tài sản hình thành từ vốn vay (nếu tài sản hiện có không đủ để thế chấp) để thế chấp vay vốn ngân hàng và được Uỷ ban nhân dân huyện tái bảo lãnh vốn, với mức bảo lãnh tối đa 120 triệu đồng trên một dự án. Nừu vốn vay thế chấp (nếu tài sản hiện có không đủ để thế chấp). Các ngành hàng thương mại và các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng nâng cao trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho sản xuất trong các làng nghề vay trên cơ sở thẩm định các dự án khả thi và hiệu quả.
ở các cấp, nhất là cơ sở cần hình thành các quỹ khuyến khích phát triển nghề, nguồn vốn này ưu tiên cho vay với lãi suất thấp để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ.
Trên cơ sở tăng cường kiểm tra may móc thiết bị của các doanh nghiệp nhà nước, nếu xét thấy không cần dùng thì ưu tiên bán với giá hạ cho các làng nghề nếu có yêu cầu với phương thức trả chậm.
Đối mới công nghệ thiết bị và bảo vệ môi trường.
Uỷ ban nhân dân Tỉnh sớm ban hành quy định khuyến khích các cơ sở sản xuất trong các làng nghề đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị theo phương châm: Kết hợp hợp lý công nghệ tiên tiến và công nghệ cổ truyền, lựa chọn công nghệ phù hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, vốn vay đối với các làng nghề sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệu vay vốn đổi mới thiết bị công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Uỷ ban nhân dân Tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ về tư vấn pháp lý dịch vụ, tư vấn quản lý kinh doanh, cung cấp thông tin chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Hàng năm có kế hoạch đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các chương trình đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ vốn để trang bị kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng, thiết kế chế tạo, cải tiến mẫu mã sản xuất truyền thống; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các cơ sở sản xuất. Huyện phối hợp với Sở công nghiệp, phối hợp với Sở khoa học-công nghệ môi trường và các ngành có liên quan để hướng dẫn các làng nghề thực hiện có hiệu quả vấn đề trên.
Thường xuyên tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hỗ trợ về thông tin kỹ thuật để các cơ sở sản xuất có điều kiện xử lý, giảm gây ô nhiễm môi trường từ sản xuất. Mặt khác Nhà nước cần có sự hỗ trợ thông qua quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở huyện thị trấn, với hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh dễ dàng cho việc kiểm tra soát ô nhiễm, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Sở Khoa học-công nghệ-môi trường cần có cuộc điều tra mức ô nhiễm ở các làng nghề để có giải pháp xử lý kịp thời.
Về thuế.
Về nguyên tắc các làng nghề cũng như các đối tượng khác phải thực hiện các luật thuế và quy định của Chính phủ. Nhưng để khuyến khích các làng nghề khôi phục và phát triển, cần thực hiện một số chính sách ưu đãi sau đây:
Không thu thuế từ 2-3 năm đối với những cơ sở sản xuất mới thành lập, làng nghề mới được khôi phục, nghề mới, được phát triển còn gặp nhiều khó khăn, chưa ổn định. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc diện được áp dụng chế độ khoán thuế, thì được ổn đinh mức thuế trong thời gian dài áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với các sản phẩm trong các làng nghề để tráng đống thuế trùng lặp trong sản xuất kinh doanh.
Các làng nghề sản xuất khó khăn được xét giảm, miến thuế.
Chăm lo đến đời sống tinh thần của người làm nghề.
Xác định làng nghề là một sản phẩm văn hoá của dân tộc do vậy cần chỉ đạo các làng nghề xây dựng các điểm sinh hoạt văn hoá liên quan đến nghề. Có chính sách cấp đất xây dựng nhà thờ tổ, câu lạc bộ làng nghề, nhà xưởng sản xuất, nhà văn phòng giao dịch …
Khuyến khích các hoạt động văn hoá bồi dưỡng lòng yêu nghề giữ gìn bản sắc văn hoá nghề nghiệp.
Tổ chức các cuộc thi tài nghệ, để nghị UBND Huyện có hình thức khen thưởng động viên các cơ sở sản xuất hiệu quả, các nghệ nhân tài ba.
Tổ chức hoạt động giao lưu văn hoá giữa các làng nghề, trao đổi kinh nghiệm phát triển nghề.
Trên cơ sở tiêu chí làng nghề, tổ chức phát động thi đua, và gửi đơn đến UBND Huyện đề nghị UBND Tỉnh xét công nhận làng nghề. Tổ chức đón nhận danh hiệu hình thành những thuần phong mỹ tục ở các làng nghề.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghệ nhân, công nhân lành nghề.\
Lao động làm việc trong các làng nghề hiện nay chủ yếu là cách truyền nghề trực tiếp của bố mẹ, anh chị em và người lớn tuổi, do đó khả năng sáng tạo và đảm bảo chất lượng sản phẩm chưa cao. Vởy để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lao động trong các làng nghề cần phải được đào tạo về kỹ thuật, tiếp thị phù hợp với nghề và sản phẩm sản xuất. ở mỗi huyện, thị xã hoặc khu vực, cần có trung tâm hay trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, thủ công lành nghề để đáp ứng yêu cầu phát triển các làng nghề.
Ngành giáo dục đào tạo hàng năm cần dành kinh phí hỗ trợ ở lớp đào tạo nghề. Hình thức đào tạo đa dạng; đào tạo tập trung hoặc kèm cặp truyền nghề tại cơ sở sản xuất theo một chương trình thống nhất.
Thực hiện miễn phí đào tạo hoặc giảm 50% đối với những người học nghề ở các trường, trung tâm đào tạo của Nhà nước, khi học xong sẽ trực tiếp làm việc cho các cơ sở sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề.
Người lao động tại các làng nghề được thực hiện đầy đủ các chế độ về BHXH, bảo hiểm y tế, các chế độ khác theo quy định hiện hành.
Thực hiện tuyển chọn và công nhận các nghệ nhân và các thợ tài hoa để có chính sách bồi dưỡng, sử dụng phù hợp với điều kiện của địa phương.
Tổ chức mời các chuyên gia, nghệ nhân giỏi về địa phương dạy nghề mới.
Tổ chực cho đi tham quan nước ngoài, tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm đối với cán bộ và người lao động có nhiều công lao xây dựng và phát triển làng nghề.
Tổ chức sản xuất ở các làng nghề
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ, cơ sở sản xuất trong các làng nghề tham gia các hình thức hợp tác sản xuất, đa dạng hoá các hình thức (hộ, liên hộ, công ty TNHH, DNTN, HTX…) nhằm tăng sức cạnh trang và củng cố quan hệ sản xuất.
Khuyến khích tạo điều kiện cho các làng nghề thành lập trung tâm (hoặc một doanh nghiệp, công ty TNHH…) đảm nhiệm giới thiệu đầu ra, đầu vào của sản phẩm; Hoặc đảm nhận các việc đầu tư các khâu sản xuất mang tính chuyên môn hoá tập trung, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn, mặt bằng, cơ sở pháp lý…
Tăng cường hợp tác, kinh doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế trong Huyện, ngoài Huyện, trong tỉnh và ngoài nước.
Thành lập các hiệp hội ngành nghề có nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Tăng cường quản lý Nhà nước đối với làng nghề.
Phải coi việc hướng dẫn, giúp đỡ phát triển làng nghề, coi đây là trách nhiệm của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất của Nhà nước, của tỉnh để mọi người yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất làm giầu cho mình và góp phần làm giầu cho xã hội.
Các cơ sở, ban, ngành của tỉnh cần phối hợp với các huyện, thị xã để tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành Trung Ương trong việc định hướng quy hoạch, kế hoạch đầu tư các nguồn hỗ trợ cho việc xử lý ôi trường, nước sạch nông thôn, cải tạo lưới điện, đào tạo nhân lực, thị trường, xây dựng các dự án …
Nâng cao vai trò, chức năng, thẩm định quản lý Nhà nước của cấp xã, phường, thị trấn theo tinh thần Nghị định 02-1997 của Chính phủ và các văn bản có liên quan khác.
Chính quyền từ tỉnh đế xã cần tạo điều kiện để người lao động được làm chủ hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, vay vốn thủ tục hành chính, thông tin kinh tế kỹ thuật, đào tạo, chính sách xã hội. Quy định rõ chế độ thành tra, kiểm tra của các cơ quan Nhà nước đối với các cơ sở sản xuất làng nghề ngăn chặn tình trạng tuỳ tiện gây phiền hà, sách nhiễu.
Hàng năm, các cơ quan chức năng tổ chức đánh giá, bình chọn các làng nghề thành đạt nhất để động viên, khen thưởng.
Kết luận
Làng nghề tồn tại, phát triển và mở rộng đã góp phần không nhỏ vào đời sống kinh tế – xã hội của huyện. Đặc biệt đã góp phần làm tăng thu nhập cho từng hộ gia đình và từng người lao động, cũng như từng doanh nghiệp hiện có trong địa bàn.
Các sản phẩm của làng nghề rất đa dạng, phong phú hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự có mặt các sản phẩm từ làng nghề truyền thống đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện Chương Mỹ nói chung và ở nông thôn nói riêng theo hướng tích cực. Các làng nghề đã tự vận động rất linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường, trước hết là tiêu thụ sản phẩm, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp. Đối với nguyên liệu cho quá trình sản xuất dễ tìm kiếm, lao động tại chỗ rồi rào, kinh nghiệm sản xuất là những điều kiện tốt để các xã, làng nghề phát huy khả năng, nội lực của mình. Các làng nghề tạo ra các sản phẩm với giá hợp lý, phù hợp với khả năng người tiêu dùng. Làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển, làng nghề mới ra đời chính là do tìm được nghề phù hợp với địa phương, sản phẩm sản xuất ra phù hợp với thị trường và đủ sức cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại, ngoài những kỹ thuật độc đáo và truyền nghề sớm, rèn luyện tay nghề có kỹ năng kỹ xảo ở trình độ cao. Hiệu quả kinh tế rất rõ ràng như: tăng thu nhập, đóng góp cho ngân sách tăng, đời sống nhân dân được ổn định. Về mặt xã hội, giải quyết được nhiều việc làm, giảm di dân từ nông thôn ra thành phố, thị xã. Rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Các làng nghề giữ được thuần phong mỹ tục, tập quán sinh hoạt văn hoá riêng của làng. Hiện tại, có nhiều làng lập đền thời ông tổ nghề hàng năm có ngày hội tụ, thông qua nét đẹp văn hoá làng nghề mà giáo dục cho mọi người yêu lao động, yêu nghề, sống vì nghề./
Tài liệu tham khảo
Nghề thủ công truyền thống – Bài báo cáo của Phòng KTHT nông thôn.
Phan Gia Bền : Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam-Nhà xuất bản Văn Sử Địa Hà Nội 1957.
Hồ sĩ Vịnh: Sức sống văn hoá làng nghề truyền thống – in trong tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 1/1996.
Điều tra các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Chương Mỹ – Phòng Thống kê Huyện Chương Mỹ.
Hà Tây làng nghề – làng văn, tập 1: Làng nghề – Sở văn hoá thông tin Hà Tây .
Các báo cáo thành tích từ các làng nghề của các UBND cá xã.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp – Phòng nông nghiệp Huyện Chương Mỹ.
Các quyết định của UBND Tỉnh Hà tây về việc công nhận làng nghề truyền thống.
Làng nghề Hà Tây và xu hướng phát triển – Bài viết của Khuất Hữu Sơn (Uỷ viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh uỷ Hà Tây)
Bài viết “Lâu đời nghề mây tre giang đan Phú Nghĩa”- Nguyễn Việt Hồng.
Và một số tài liệu khác....
Phụ lục
Lời nói đầu 1
Chương I. Nghiên cứu chung về làng nghề truyền thống
Khái niêm và đặc điểm làng nghề truyền thống 4
Một số khái niệm. 4
Đặc điểm của làng nghề truyền thống 4
Sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống 5
Phân loại làng nghề và các nhân tố ảnh hướng đến làng nghề 5
Phân loại 5
Những nhân tố ảnh hưởng 6
Nhóm nhân tố xã hội. 6
Nhóm nhân tố kinh tế. 7
Vai trò của làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. 8
Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số nước và ở Việt Nam. 9
Tổng quan về làng nghề trên thế giới. 9
Khái quát làng nghề ở Việt Nam. 13
Chương II. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Chương Mỹ-Hà Tây
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội. 16
Điều kiện tự nhiên. 16
Điều kiện kinh tế xã hội. 17
Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Chương Mỹ. 19
Các điều kiện công nhận là làng nghề truyền thống. 19
Thực trạng phát triển của làng nghề truyền thống. 21
Tình hình phát triển, số lượng, quy mô của làng nghề. 21
Cơ cấu kinh doanh của làng nghề. 30
Tình hình tổ chức của làng nghề 31
Hộ gia đình. 31
Doanh nghiệp, công ty. 32
Thực trạng về các điều kiện sản xuất của các làng nghề. 32
Về nguồn vốn. 32
Về lao động. 34
Về việc cung ứng và sử dụng nguyên liệu đầu vào. 36
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm. 37
Về tổ chức quản lý 38
Đánh giá thực trạng phát triển của làng nghề. 38
Kết quả về mặt kinh tế. 38
Kết quả về mặt xã hội môi trường. 39
Những khó khăn thách thức đối với sự phát triển của làng nghề. 40
Sơ lược một vài làng nghề tiêu biểu. 41
Chương III. Một số giải phát góp phần phát triển làng nghề truyền thống của huyện Chương Mỹ – Hà Tây.
Những chủ trương, biện pháp thúc đẩy công nghiệp – TTCN phát triển trên địa bàn huyện Chương Mỹ 47
Một số giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của làng nghề truyền thống. 48
Quy hoạch và giải pháp giải quyết mặt bằng sản xuất cho làng nghề cần được làm sớm. 48
Về thị trường tiêu thụ. 49
Về nguyên liệu cho sản xuất. 50
Về vốn đầu tư. 50
Đổi mới công nghệ thiết bị và bảo vệ môi trường. 51
Về thuế. 52
Chăm lo đến đời sống tinh thần của người làm nghề. 52
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nghệ nhân, công nhân lành nghề. 52
Tổ chức sản xuất ở các làng nghề. 53
Tăng cường quản lý Nhà nước đối với làng nghề. 53
Kết luận... 55
Tài liệu tham khảo... 56
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0048.doc