Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay ở Việt Nam

Tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay ở Việt Nam: ... Ebook Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay ở Việt Nam

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Kinh tế tư nhân được xác định là một giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.Trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản là phương thức sản xuất đầu tiên biết tổ chức nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường và đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận. Ngày nay, nền kinh tế thị trường được xác định là thành tựu chung của nhân loại. Thực tế cho thấy chưa có nước nào thành công trong nền kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại, nền kinh tế thị trường chính là môi trường hoạt động và phát triển của các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân. Nhìn lại lịch sử kinh tế Việt Nam sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân nước ta (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân) – bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách Nhà nước,góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như quy mô nhỏ, vốn ít,công nghệ lạc hậu, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu và nhiều khó khăn vướng mắc về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội… Do vậy, để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển đúng hướng XHCN và có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế đất nước theo tinh thần Đại hội IX của Đảng cần nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề ra giải pháp đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. ph¸t triÓn kinh tÕ t­ nh©n trong thêi kú qu¸ ®é lªn chñ nghÜa x· héi hiÖn nay ë ViÖt Nam Chương I. Nhận dạng về kinh tế tư nhân. 1.1. Cơ sở kinh tế nhiều thành phần phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế- xã hội. 1.1.1. Cơ sở lý luận đổi mới quan hệ sản xuất Theo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã đánh giá: do nhận thức chưa đầy đủ về thời kỳ quá độ lên CNXH, do tư tưởng chủ quan nóng vội xoá bỏ ngay các thành phần phi kinh tế, từ đó đã đề ra chủ trương: củng cố thành phần kinh tế XHCN bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện.Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Tình hình kinh tế nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn…”Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ “. 1.1.2.Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh trạnh.Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau trong nền kinh tế thị trường. Gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 1.2.Về khu vực kinh tế tư nhân. 1.2.1.Kinh tế cá thể, tiểu chủ. - Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. - Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động.Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có số lượng động đảo, sử dụng nhiều lao động xã hội, huy động nhiều vốn đầu tư, đóng góp tỷ trọng lớn và GDP. Hộ kinh doanh cá thể là tiền đề, là bước tập dượt và tích luỹ cho bước phát triển cao hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh la hình thức doanh nghiệp tư nhân. 1.2.2.Kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội.Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động nhạy bén, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu quy mô vừa, nhỏ. Các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần sản xuất hàng hoá có chất lượng cao, tham gia tích cực vào xuất khẩu hàng hoá, nhất là hàng nông sản,giúp nông dân tiêu thụ một khối lưọng hàng nông sản. Sự hoạt động sôi nổi của doanh nghiệp tư nhân đã thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh doanh. Chương II_Tình hình kinh tế tư nhân trong thời kì đổi mới hiện nay ở Việt Nam 2.1. Thực trạng của kinh tế tư nhân hiện nay ở Việt Nam Sau thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư doanh, cho đến đầu những năm 1980, khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế chỉ có kinh tế cá thể , tiểu chủ , kinh tế gia đình, chủ yếu phụ thuộc vào kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, kinh tế tư nhân mới được khuyến khích phát triển, đặc biệt phát triển mạnh từ khi nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân , Luật công ty, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và gần đây là Luật doanh nghiệp. Tất cả điều đó thể hiên mối quan tâm nhất định của Đảng và Nhà nước về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng , vốn kinh doanh,lao động cũng như là mở rộng các loại hình kinh doanh; phát triển rộng khắp trong tất cả các ngành nghề, các vùng , các khu vực , đặc biệt là tập trung cao ở các đô thị có điều kiện thuận lợi và chính quyền có sự quan tâm đúng mức. 2.1.1. Tình hình tăng trưởng doanh nghiệp Trong giai đoạn 1996-2000, số lượng đơn vị sản xuất, kinh doanh hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng lên đáng kể, số hộ kinh doanh cá thể tăng 6,02%, số doanh nghiệp tăng 45,61%, nhưng không đồng đều qua các năm.Điều đặc biệt là sự biến thiên số doanh nghiệp thể hiện dấu mốc quan trọng dó là số doanh nghiệp tuy giàm vào năm 1997, 1998 nhưng lại tăng mạnh từ năm 2000 kể từ khi có Luật doanh nghiệp. Chứng tỏ hệ thống hành lang pháp lý có ảnh hưởng to lớn như thế nào đến sự phát triển của các thành phần kinh tế và nền kinh tế nói chung. Nếu tính 2 năm sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đến ngày 31/12/2001 cả nước có 35.440 doanh nghiệp mới đăng ký hoạt động., năm 2000 có 14.400 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 250% so với năm 1999, năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 140% so với năm 2000. Đến cuối năm 2000 số hộ kinh doanh cá thể lớn hơn doanh nghiệp tư nhân 72,35 lần: 2.137.731 hộ kinh doanh cá thể và 29.548 doanh nghiệp tư nhân. 2.1.2. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân Tổng vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể là 63.668 tỷ đồng, chiếm 36,61% trong tổng số vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân.(tính đến ngày 31-12-2000). Tổng vốn thực tế sử dùng của doanh nghiệp tư nhân cũng tăng nhanh, năm 2000 là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,46% so với năm 1999. Số vốn huy động qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô kinh doanh tiếp tục tăng. Chỉ trong 3 năm 2000_2002 số vốn đăng ký huy động được gần 100.000 tỷ đồng (cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài trong cùng thời kỳ): trong đó năm 2000 là 1.33 tỷ USD đến năm 2002 là gần 3 tỷ USD (cao gần gấp 3 lần vốn đăng ký giai đoạn 1991_1999 theo giá hiện hành). Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 28.8% năm 2002. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu trong phát triển kinh tế địa phương. Mức vốn đăng ký trung bình trên một doanh nghiệp đang có xu hướng tăng lên; từ mức bình quân 0,57 tỷ đồng thời kỳ 1991_1999, đến năm 2000 đã là 0,96 tỷ đồng và là 1,8 tỷ đồng vào năm 2002. 2.1.3. Vấn đề lao động ở khu vực kinh tế tư nhân Trong mấy năm qua , các hộ kinh doanh cá thể , các doanh nghiệp mới thành lập và mở rộng quy mô, địa bàn kinh doanh theo Luật doanh nghiệp thực sự đã là nơi thu hút chủ yếu chỗ làm việc mới cho xã hội. Chỉ sau 3 năm thực hiện , ước tính có khoảng 1,3_1,5 triệu chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp mới thành lập hoặc mở rộng quy mô kinh doanh, đưa tổng số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể tăng lên khoảng 6 triệu người , chiếm hơn 16% lưc lượng lao động xã hội. Có không ít doanh nghiệp tạo công ăn việc làm trực tiếp cho hàng nghìn lao động và hàng nghìn lao động gián tiếp. So với tổng lao động trong toàn xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 12%.Năm 2000, lao động trong khu vực kinh tế tư nhân kể cả khu vực nông nghiệp là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. - Trong lĩnh vực nông nghiệp có 16.373.482 người. - Trong lĩnh vực phi nông nghiệp, số lao động trong khu vực kinh tế tư nhân năm là 4.643.844, tăng 20,12% so với1996. Tính từ 1996 đến 2000 lao động trong công nghiệp tăng nhiều hơn ngành thương mại dịch vụ: công nghiệp tăng 363.442 người; thương mại, dịch vụ 271.476 người. 2.1.4. Tăng trưởng sản xuất kinh doanh (GDP) của khu vực kinh tế tư nhân Tống sản phẩm trong nước của khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục kể từ khi đổi mới. Năm 1996 GDP khu vực kinh tế tư nhân đạt 68.518 tỷ đồng, đến năm 2000 đã lên tới 86.929 tỷ đồng, tăng bình quân 7% / năm. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách của thành phần kinh tế tư nhân tăng lên từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. 2.1.5. Xuất xứ lao động trong kinh tế tư nhân - Đối với hộ kinh doanh cá thể, lao động ở khu vực này là các xã viên hợp tác xã trước đây, các hộ cá thể hoạt động từ lâu theo kiểu truyền nghề từ đời trước, các hộ sản xuất nông nghiệp chuyển sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, lực lượng lao động trẻ được bổ sung hàng năm, cán bộ công nhân từ các cơ quan Nhà nước chuyển sang … - Đối với doanh nghiệp: một phần lớn phát triển từ kinh tế hộ đi lên, một số được chuyển từ hình thức hợp tác xã, một số khác được thành lập mới. Như vậy kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, đội ngũ doanh nghiệp dân doanh đã phát triển chưa từng có cả về số lượng, quy mô lẫn chất lượng, và đã tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư trực tiếp phát triển kinh doanh; là nguồn chủ yếu tạo nên việc làm cho người lao động ; góp phần đáng kể vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả nền kinh tế. Vì vậy quy mô , vai trò và vị trí của doanh nghiệp kinh tế tư nhân đang tăng lên với tốc độ nhanh trong nền kinh tế quốc dân. Thực tế từ những nhân tố trên đã làm cho mức cạnh tranh trên thị trường tăng lên, đặt ra yêu càu khách quan đối với việc phát triển thị trường vốn, thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ , v.v… góp phần làm tăng phạm vi, quy mô và mức độ thị trường hóa nền kinh tế nước ta.Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế , tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế,là động lực để phát triển , huy đông tiềm năng về nhân lực, tài lực , vật lực…Từ thực trạng kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam hơn 20 năm qua, chúng ta sẽ phân tích để thấy được những thành tựu, vai trò và vị trí , cũng như cả những tồn tại yếu kém của thành phần kinh tế này. Đồng thời phân tích để tìm được những nguyên nhân đã đưa đến những thành tựu và hạn chế đó của kinh tế tư nhân nhằm làm cơ sở cho việc xem xét vấn đề phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ được tiếp tục như thế nào trong tương lai không xa trước mắt. 2.2. Những thành tựu đã đạt được trong việc phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thực tế phát triển kinh tế đã cho thấy kinh tế tư nhân có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Sự phát triển của kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy những tiềm năng của đất nước. Nguồn tiềm năng này bao gồm trí tuệ , kinh nghiệm năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động, tài nguyên…Dưới sự quản lý của Nhà nước kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, góp phần thúc đậy kinh tế_ xã hội phát triển. Kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy động nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh; tạo được nhiều việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tham gia sản xuất nhiều hàng xuất khẩu, tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới kinh tế _ xã hội. 2.2.1.Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. 2.2.1.1.Huy động mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển. Trong những năm đổi mới, vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân đã không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của toàn xã hội. Thời gian từ 2000 đến nay( tức là sau khi Luật doanh nghiệp được thi hành) khu vực ngoài quốc doanh liên tục tăng trưởng về đầu tư.Đây chính là kết quả của chính sách khuyến khích đầu tư và huy động nội lực của Đảng và Nhà nước. 2.2.1.2.Tạo việc làm, toàn dụng lao động trong toàn xã hội. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho toàn xã hội.Năm 2000, trên lĩnh vực nông nghiệp có hơn 4,6 triệu người làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân. So với tổng lao động toàn xã hội thì khu vực này chiếm 12% và chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Trong giai đoạn 19996-2000, nếu tốc độ tăng lao động bình quân trong các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ la 2,01% thì trong doanh nghiệp và công ty tư nhân là 24,15%/năm.Năm 2002, phần đóng góp của khu vực ngoài quốc doanh về tạo việc làm cho lực lượng lao động xã hội là 88,67%. Đến 2004 lực lượng lao động hàng năm được bổ sung hàng năm khoảng 1,4 triệu người. 2.2.1.3.Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Từ năm 1996 trở lại đây tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân giữ ở mức 32%- khoảng 1/3 GDP toàn quốc.Khu vực này có ưu thế là suất đầu tư thấp, dễ chuyển hướng sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường…Vì vậy tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân khá ổn định.Giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của khu vực kinh tế tư nhân là 7,2%.Năm 2002, tốc độ tăng trưởng chung cả nước là 7% thi khu vực kinh tế tư nhân trong nước tăng 19%. 2.2.1.4.Đóng góp vào ngân sách Nhà nước, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế- xã hội. Mặc dù phần đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân còn khiêm tốn, nhưng đã có chiều hướng tăng lên, đó là một biến đổi đáng trân trọng đối với một khu vực kinh tế vốn được coi là nhỏ bé. Năm 1990, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nộp ngân sách là 969 tỷ đồng, chiếm 2,3% GDP thì đến năm 1998 đã tăng lên 11.086 tỷ đồng, chiếm 3,5%GDP , trung bình hàng năm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách trên dưới 3% GDP. Quyết toán nguồn thu từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2000 là 5802 tỷ đồng, 2001 là 6723 tỷ đồng. 2.2.2.Thúc đẩy hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế các ngành sản xuất kinh doanh đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia.Trong đó có nhiều ngành nghề, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh cá, dệt may, sành sứ, thủ công mỹ nghệ…Thực tế đó đã đặt ra vấn đề cần xem xét vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong những ngành nghề nào là thích hợp khi mà khu vực kinh tế tư nhân đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn trong không ít ngành nghề. Chính sự phát triển phong phú, đa dạng các cơ sở, ngành nghề sản xuất kinh doanh, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh…đã tác động buộc khu vực kinh tế nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư thay đổi công nghệ…để có thể tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế thị trường. 2.2.3.Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm đầu tàu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa hợp tác với bên ngoài. Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày càng lớn: khoảng trên 40.000 chủ doanh nghiệp trên 120.000 chủ trang trại. Mặc dù hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường. Họ vươn lên tham gia vào hầu hết các lĩnh vực gồm cả những ngành kỹ thuật cao và làm chủ nhiều lĩnh vực, nhiều ngành hàng.Tuy nhiên, đa số doanh nghiệp của nước ta có quy mô vừa và nhỏ mà nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế thị trường ngày càng mạnh mẽ và gay gắt như hiện nay thì đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng rất lớn vào đội ngũ chủ doanh nghiệp. 2.2.4.Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội. Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác nhau đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nứơc ta: Sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu: trước đây chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, hiện nay có cả sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Sự chuyển biến trong quan hệ quản lý: quan hệ giữa chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân và giám đốc doanh nghiệp nhà nước, quan hệ giữa người lao động làm thuê và những người làm công ăn lương trong doanh nghiệp nhà nước, quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động… Sự chuyển biến trong quan hệ phân phối: ngày càng trở nên linh hoạt, đa dạng: ngoài phân phối theo lao động còn sử dụng các hình thức phân phối theo vốn góp, theo tài sản, theo cổ phần … Những sự chuyển biến trong quan hệ sản xuất nói trên đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của mọi thành viên trong xã hội. Tóm lại, từ những số liệu thực tế , từ những thành tựu mà kinh tế tư nhân thời kỳ này đem lại chúng ta có thể thấy được nguyên nhân chính của những thay đổi to lớn đó là do sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý , hỗ trợ của Nhà nước Việt Nam. Đảng không ngừng đổi mới chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, đã thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Đường lối chủ trương của Đảng xuất phát từ mục tiêu: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh…”Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp hài hòa với lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế - của toàn xã hội. Ngay từ Đại hội VI Đảng đã xác định: “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ”. Qua ba nhiệm kỳ đại hội ( VI, VII, VIII ), thực tiễn đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta. Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Thực hiên nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng khuôn khổ pháp lý, hoàn chỉnh dần tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khich kinh tế tư nhân phát triển mạnh và có hiệu quả hơn theo những quy định của phàp luật; đảm bảo sự hợp tác và cạnh tranh bình đẳng , cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử, bảo đảm thực hiện thuận lợi quyền kinh doanh theo pháp luật của công dân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ trong kinh doanh; phát huy nội lực và thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Việc xây dựng hệ thống các luật và các văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đã có tác dụng tích cực. Luật doanh nghiệp thay cho luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty đã đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế tư nhân. Luật doanh nghiệp cùng với các luật và bộ luật đã tạo nên một khung pháp lý thông thoáng, thuận lợi hơn, tiếp tục tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. 2.3. Những hạn chế, thiếu sót trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta Thực tế cho chúng ta thấy rõ vai trò tích cực của khu vực kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế xã hội. Song chúng ta cũng không được mơ hồ trước những tiêu cực và khiếm khuyết của khu vực kinh tế tư nhân gây ra. Cụ thể đó là: 2.3.1.Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực và sức cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có số vốn hoạt động bình quân thấp. Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng là hiện tượng phổ biến và được coi là một trong những cản trở lớn nhất của khu vực kinh tế này.Hiện nay có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Hầu hết các doanh nghiệp khởi sự hoàn toàn bằng số vốn ít ỏi, hệ thống ngân hàng, hệ thống trung gian yếu kém với những thủ tục thế chấp phức tạp và nạn quan liêu đồng thời việc tiếp cận nguồn vốn, tiếp cận thông tin còn có những hạn chế nhất định. 2.3.2.Máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Mặc dù nhận thức được đổi mới công nghệ là nhu cầu cấp bách nhưng do thiếu vốn đầu tư nên đa số vẫn sử dụng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, rất ít doanh nghiệp sử dụng máy móc, công nghệ mới cũng như thuê máy móc thiết bị.Đa số các cơ sở sản xuất tư nhân cũng như hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ đều sử dụng máy móc, thiết bị 2-3 thế hệ, sử dụng công nghệ thủ công và truyền thống là chủ yếu.Do đó, hạn chế về năng suất và chất lượng sản phẩm. Lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa của kinh tế tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp: chỉ có 5,13% lao động có trình độ đại học, khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn. 2.3.3.Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định Đâylà tình trạng phổ biến đã tác động bất lợi tới chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Luật đất đai đưa ra không chặt chẽ là nguyên nhân dẫn tới việc quyền sử dụng đất không được chuyển nhượng công khai, giá đất thiếu ổn định, dẫn tới đất bị đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả, thêm vào đó là sự phân biệt đối xử trong việc giao đất của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và cho thuê đối với cơ sở kinh tế tư nhân cũng gây bất lợi. Mặt khác, những vấn đề về chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất lại chưa rõ ràng càng làm cho vấn đề mặt bằng sản xuất căng thẳng hơn. 2.3.4..Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là vấn đề cản trở lớn đến phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Đa số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân.Hiện nay một số sản phẩm hàng hoá cũng đã có mặt trên thị trường thế giới, tuy vậy sản phẩm đủ chất lượng xuất khẩu còn ít và chịu sức ép cạnh tranh gay gắt. Vài năm gần đây do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nền kinh tế tăng trưởng giảm, sức mua trong nước giảm. Thêm vào đó, hàng hoá trong nước còn tồn đọng với khối lượng lớn, cùng với hàng nhập lậu tràn lan không kiểm soát được làm cho việc tiêu thụ hàng hoá cực kỳ bất lợi, làm nhiều cơ sở phá sản. 2.3.5.Chính sách đối với kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, còn chưa thông thoáng. Hệ thống ngân hàng thường đặt ra những điều kiện đối với doanh nghiệp tư nhân khi vay tiền ngân hàng,chưa có chính sách về mặt bằng sản xuất. Quan niệm xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa có sự đổi mới kịp thời; vẫn còn định kiến, mặc cảm coi kinh tế tư nhân ở nước ta gắn lion với những tiêu cực như bóc lột, tự phát.. Khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta mới ở trình độ thấp của sự phát triển. Tính riêng rẽ, cá nhân của mỗi doanh nghiệp là rất lỏng lẻo, còn tính liên kết chưa tạo nên sức mạnh chung và phát huy sức mạnh từng cơ sở.Hơn nữa tính tự phát và mặt tiêu cực khu vực kinh tế này gây không ít khó khăn với công tác quản lý Nhà nước. Tình trạng chấp hành không nghiêm chỉnh luật pháp trong lĩnh vực kinh doanh còn phổ biến.Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế: dùng nhiều sổ sách kết toán, ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế chưa cao,sử dụng nhiều thủ đoạn chốn lậu thuế, thậm chí có doanh nghiệp còn lập hồ sơ xin hoàn thuế khống để chiếm đoạt tiền của Nhà nước.Đa số doanh nghiệp kinh doanh không đúng mặt hàng đã đăng ký. Tình trạng làm hàng giả, vi phạm bản quyền sở hữu công nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại còn khá phổ biến. Quyền lợi của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân chưa được các chủ doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Mặc dù chính phủ đã đưa ra những quy định về mức lương tối thiểu nhưng năm 2001 vẫn còn 0,2% trả mức lương tối thiểu. Chính phủ cũng quy định nộp 15% vào quỹ bảo hiểm xã hội cho người lao động, tuy nhiên việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội còn không ít những thiếu xót. Nguyên nhân của những hạn chế trên : Trong khi Đảng và Nhà nước nỗ lực xây dưng một môi trường pháp lý đổi mới, hoàn thiện dần theo hướng thông thoáng, thuận lợi, nhất quán tạo sự hợp tác, và cạnh tranh bình đẳng không phân biệt giữa các thành phần kinh tế; thì điều kiện thực tế và những vướng mắc trong công cuộc thực hiện đã làm giảm hiệu quả của nỗ lực đó. _Thực tế vẫn còn những hạn chế về tâm lý xã hội cả trong cấp ủy Đảng, cơ quan Nhà nước và trong nhân dân, còn có sự mặc cảm phân biệt đối xử và không có lòng tin vào kinh tế tư nhân, thể hiện qua môt số quy định và thái độ của người thừa hành công vụ. _Chưa xây dựng được chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế tư nhân nói chung cũng như trong tưng` ngành, từng địa bàn, làm căn cứ cho sự dẫn dắt của Nhà nước. _Các cơ chế chính sách tuy cơ bản được ban hành nhưng còn chưa đồng bộ , nhất quán. Nhiều quy định còn chưa phù hợp với đăc điểm trình độ phát triển của nền kinh tế, nhất là đối với kinh tế tư nhân ( mới phát triển , quy mô nhỏ cần được khuyến khích , hưởng các ưu đãi hỗ trợ sản xuất kinh doanh) _ Bản thân các cơ sở sản xuất, kinh doanh kinh tế tư nhân chưa phát huy được hết tiềm lực , còn nhiều hạn chế về cơ sỏ vật chất kỹ thuât, trình độ quản lý và hiểu biết pháp luật. Trong xu thế hội nhập cần xác định được thế đứng riêng cho mình nếu không khó có thể đứng vững trước sự xâm chiếm tràn lan của hàng ngoại. Bên cạnh đó cần loại bỏ thành phần làm ăn kiểu chụp giật , gian dối lừa đảo, không những vi phạm pháp luật sẽ bị trừng phạt mà còn làm xấu đi môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chương III_ Phương hướng và giải pháp cho vấn đè phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Những thành tựu mà nền kinh tế quốc dân đã đạt được sau hơn 20 năm đổi mới đã khẳng định sự đúng đắn về chủ trương và phương hướng của Đảng và Nhà nước ta.Kinh tế tư nhân đã xác định được một vị trí quan trọng trong nền kinh tế chung, phát triển theo đường lối chung, phù hợp với nhu cầu tất yếu khách quan và nguyện vọng của nhân dân vì mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ, văn minh”.Tuy vậy ,nhìn chung quy mô của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và của doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân nói riêng vẫn còn nhỏ , hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp.Vấn đề đặt ra là từ những mặt được và chưa được của khu vực kinh tế này , cần có sự tiếp tục đổi mới về nhận thức và có những chính sách hữu hiệu hơn để phát huy mạnh mẽ vai trò của kinh tế tư nhân, làm cho nó thực sự là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng , nhưng vẫn còn ít ( bình quân 802 người mới có 1 doanh nghiệp); mục tiêu phấn đấu lên 500 nghìn doanh nghiệp sẽ không dễ dàng thực hiện được nếu không có chính sách và giải pháp thích hợp tạo lực đẩy cho các chủ thể kinh tế tư nhân, làm cho người có vốn yên tâm bỏ vốn đầu tư, thành lập doanh nghiệp, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước một cách chính đáng.Hơn nữa trong xu thế hội nhập hiện nay, họ rất cần được sự bảo hộ của Nhà nước và Pháp luật để có được sự cạnh tranh bình đẳng ở cả thị trường trong nước ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35759.doc
Tài liệu liên quan